Thứ Hai, 31 tháng 8, 2015

ĐÃ TỪNG HIỆN THỰC 8 (tàu không số)

(ĐC sưu tầm trên NET)

Đường Hồ Chí Minh trên biển

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Về các con đường khác cùng tên "Đường Hồ Chí Minh", xem Đường Hồ Chí Minh (định hướng).
Đường Hồ Chí Minh trên biển là tên gọi của tuyến đường vận tải quân sự do Hải quân nhân dân Việt NamQuân giải phóng miền Nam Việt Nam thực hiện bí mật trên biển Đông được thành lập ngày 23 tháng 10 năm 1961, trong Chiến tranh Việt Nam, để vận chuyển vũ khí từ miền Bắc Việt Nam vào chi viện cho Quân Giải phóng miền Nam.
Trước sự phát triển của phong trào cách mạng miền Nam Việt Nam, năm 1959, Bộ Chính trị Việt NamQuân ủy Trung ương quyết định nghiên cứu mở tuyến đường vận tải trên biển chi viện trực tiếp cho Quân Giải phóng miền Nam. Võ Bẩm là người đầu tiên được truyền đạt chủ trương và giao nhiệm vụ này cũng chính là người đoàn trưởng đầu tiên của Đoàn 559 là người có kinh nghiệm mở đường vận tải xuyên Trường Sơn trong chiến tranh Đông Dương, ông đã từng chỉ huy tàu gỗ vượt biển chở vũ khí mua từ nước ngoài về chi viện cho chiến trường Khu 5...
Tháng 7-1959, tiểu đoàn vận tải biển 603 được thành lập, đóng tại cửa biển sông Gianh- Quảng Bình với tên gọi là "Tập đoàn đánh cá Sông Gianh". Thuyền được nguỵ trang giống thuyền đánh cá của ngư dân miền Nam. Sau một thời gian tập luyện, thăm dò và chuẩn bị mọi mặt, đêm ba mươi Tết Canh Tý (ngày 27 tháng 1 năm 1960), chuyến tàu đặc biệt đầu tiên xuất phát, gồm 6 người, do Nguyễn Bất chỉ huy đã đi chuyến đầu tiên vào Nam. Trong suốt quá trình tồn tại, đường Hồ Chí Minh trên biển có hai nghìn lần tàu thuyền vượt biển, vận chuyển gần 160 nghìn tấn vũ khí, cập 19 bến bãi thuộc địa bàn 9 tỉnh miền Nam, góp phần quan trọng vào thắng lợi cuối cùng của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Thành lập

Tiền thân đường Hồ Chí Minh trên biển là hải lộ ven bờ do những người trong hàng ngũ Việt Minh ở Nam Bộ thực hiện lần đầu tiên. Năm 1946, lực lượng Việt Minh ở Nam Bộ đã tổ chức chuyến đi của một thuyền đánh cá xuất phát từ Thạnh Phong, huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre ra Bắc xin tiếp tế vũ khí. Tàu cập bến trong vùng Việt Minh kiểm soát tại Tuy Hòa, Phú Yên. Những người trên tàu ra Bắc bằng tàu hỏa. Số vũ khí được Quân đội nhân dân Việt Nam cung cấp cũng được chuyển vào Phú Yên bằng tàu hỏa và chất lên thuyền chở vào Bến Tre.
Từ tháng 6 năm 1961 đến tháng 2 năm 1962, những người lãnh đạo của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ở các tỉnh Bến Tre, Cà Mau, Trà Vinh, Bà Rịa đã cử 5 con thuyền gỗ từ miền Nam ra miền Bắc để báo cáo tình hình, xin tiếp tế vũ khí và sau đó trực tiếp vận chuyển vũ khí cũng như dẫn đường cho các tàu tiếp tế giả dạng tàu đánh cá từ Bắc vào Nam. Những người chỉ huy chủ chốt gồm các ông Phan Văn Nhờ (tức Tư Mau), bà Nguyễn Thị Định, ông Bông Văn Dĩa... Trong số 5 chiếc thuyền gỗ, chiếc thuyền của Bà Rịa đã bị lực lượng tuần duyên của Hải quân Việt Nam Cộng hòa chặn bắt tại ngoài khơi Cam Ranh. Không phát hiện thấy nghi ngờ, con thuyền này được trả tự do. Sau đó nó bị bão đánh trôi dạt đến đảo Hải Nam. Đây là chiếc thuyền do ông Dương Quang Đông, nguyên Ủy viên thường vụ Xứ ủy Nam Kỳ của Đảng Cộng sản Đông Dương trước năm 1945, nguyên là cán bộ hậu cần của Việt Minh tại Khu VIII trong Kháng chiến chống Pháp được giao nhiệm vụ mua sắm. Tuy nhiên, khi di chuyển đến Bà Rịa, ba người cũng đi với ông Đông đã bị quân Việt Nam Cộng hòa bắn chết và tịch thu số tiền mà tổ công tác của ông được tổ chức giao cho để mua thuyền. Nhờ có bà Nguyễn Thị Mười ở Phước Hải, Long Đất đã dồn tiền của trong nhà tổng cộng 10 cây vàng để đóng góp, chiếc thuyền này được mua về và được sử dụng trong chuyến liên lạc, vận chuyển đầu tiên. Tham gia chuyến vượt biển trên con thuyền của Bà Rịa còn có ông Lê Hà, con trai bà Mười, sau này trở thành một trong các thuyền trưởng đầu tiên trên các con tàu không số.
Ngày 23 tháng 10 năm 1961, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương Việt Nam quyết định mở tuyến đường biển Bắc-Nam. Trung tướng Trần Văn Trà, Phó Tổng tham mưu trưởng được Quân ủy Trung ương giao nhiệm vụ thành lập tuyến đường này. Ngày 23-10-1961, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Hoàng Văn Thái ký Quyết định số 97/QP thành lập Đoàn 759, sau này trở thành Lữ đoàn 125 thuộc Hải quân nhân dân Việt Nam[1]. Đoàn 759 có trách nhiệm chi viện vũ khí cho miền Nam bằng đường biển. Trung tá Đoàn Hồng Phước được giao nhiệm vụ làm Đoàn trưởng.[2] Đây là đơn vị đầu tiên đảm nhận nhiệm vụ vận tải vũ khí, hàng hóa vào chiến trường miền Nam bằng các con tàu không số, mở ra sự phát triển mới của Đường Hồ Chí Minh trên biển. Tại Nam Bộ, Bộ Chỉ huy quân khu IX của Quân giải phóng miền Nam Việt Nam được giao nhiệm vụ thành lập Trung đoàn 962 chuyên trách nhiệm vụ chuẩn bị bến bãi tại bờ biển các tỉnh Trà Vinh, Bến Tre, Cà Mau. Bộ chỉ huy các Khu V, VI, VIII cũng được lệnh thiết lập các bến bãi bí mật để đón nhận vũ khí, đạn dược, phương tiện và các hàng hóa khác từ miền Bắc Việt Nam chuyển vào bằng đường biển.

Phát triển phương tiện và các tuyến vận tải quân sự trên biển

Các đơn vị

  • Đoàn 759
Ngày 23 tháng 10 năm 1961, Quân ủy Trung ương Việt Nam quyết định thành lập Đoàn hải quân 759, sau này trở thành Lữ đoàn 125 của Hải quân nhân dân Việt Nam. Đây là đơn vị đầu tiên đảm nhận nhiệm vụ vận tải vũ khí, hàng hóa vào chiến trường miền Nam bằng các con tàu không số, mở ra sự phát triển mới của Đường Hồ Chí Minh trên biển.
  • Đoàn 962
Tại Nam Bộ, Bộ Chỉ huy quân khu IX của Quân giải phóng miền Nam Việt Nam được giao nhiệm vụ thành lập Trung đoàn 962 chuyên trách nhiệm vụ chuẩn bị bến bãi tại bờ biển các tỉnh Trà Vinh, Bến Tre, Cà Mau. Bộ chỉ huy các Khu V, VI, VIII cũng được lệnh thiết lập các bến bãi bí mật để đón nhận vũ khí, đạn dược, phương tiện và các hàng hóa khác từ miền Bắc Việt Nam chuyển vào bằng đường biển.
  • Đoàn 950

Phương tiện

  • Tàu, thuyền gỗ
  • Tàu sắt
  • Tàu hai đáy

Các tuyến chính

  • Tuyến ven bờ
  • Tuyến tiếp giáp lãnh hải
  • Tuyến hàng hải quốc tế

Các căn cứ và bến bãi

  • K15
K15 là bí danh được đặt tên cho bến tàu xuất phát có quy mô lớn đầu tiên của các con tàu không số vận chuyển người và vũ khí từ Bắc vào Nam bằng đường biển trong Chiến tranh Việt Nam. Nó còn có tên khác là "Vạn Xép". Bến này được mở lần đầu tiên tại các thôn Vạn Hoa và Vạn Sơn (Đồ Sơn, Hải Phòng), do Trung đoàn công binh 83 xây dựng. Đây là một vịnh nhỏ ăn sâu vào đất liền ở bờ Đông bán đảo Đồ Sơn, Hải Phòng. Vịnh này có ba phía là núi, đường ra biển duy nhất nằm ở hướng Tây Nam, độ sâu khoảng 3 m khi thủy triều xuống và đến 4 m khi thủy triều lên. Cầu cảng được xây hình chữ T. Thân chính rộng 6 m, dài 60 m; thân ngang rộng 6 m, dài 12 m. Toàn bộ cầu tàu được làm bằng bê tông cốt thép dạng khung chịu lực kiểu dầm gác hai đầu. Ngày 15 tháng 5 năm 1964, cầu tàu K15 bắt đầu hoạt động. Tuy ra đời sau tuyến vận tải quân sự bí mật trên biển đầu tiên từ Quảng Bình vào miền Nam và các chuyến tàu từ miền Nam ra miền Bắc nhận vũ khí và trở lại miền Nam nhưng lịch sử Hải quân nhân dân Việt Nam vẫn coi đây như "Cột km số 0" của các tuyến đường mòn Hồ Chí Minh trên biển.
Cầu cảng K15 đánh dấu một bước chuyển biến lớn của Đường Hồ Chí Minh trên biển. Đó là việc các tàu sắt được đưa vào sử dụng, dần thay thế cho các con tàu gỗ kém an toàn. Trong quá trình hoạt động, cảng K15 đã tổ chức xếp hàng và xuất phát cho 88 chuyến vận tải quân sự trên biển, gồm 4.919 tấn vũ khí đạn dược và hàng nghìn tấn hàng hóa khác. Do được ngụy trang rất kín đáo nên trong suốt cuộc Chiến tranh Việt Nam, không quân và hải quân Hoa Kỳ vẫn không phát hiện được cầu cảng K15. Sau nửa thế kỷ, đặc biệt từ năm 1975 đến nay không còn được hoạt động, công trình đã hư hại nặng. Hiện nay, tại bãi biển Vạn Sơn (Đồ Sơn, Hải Phòng) chỉ còn lại di tích các cọc bê tông của cầu tàu trên bến cảng quân sự bí mật K15.
  • Cửa Hội
  • Cửa Sót
  • Cửa Gianh
  • Cửa Nhật Lệ
  • Hố Chuối
  • Sa Huỳnh
Sa Huỳnh là một làng chài cổ đồng thời là một bãi biển nổi tiếng ở miền Trung Trung Bộ với nghề đánh cá từ lâu đời. Trong quá trình hoạt động của "Đường Hồ Chí Minh trên biển"; Sa Huỳnh là một trong những bến bãi tiếp nhận vũ khí, đạn dược, hàng hóa do các chuyến tàu không số chuyên chở từ miền Bắc gửi vào cho Quân giải phóng miền Nam Việt Nam tại chiến trường Khu V.
  • Quy Thiện
Địa điểm Quy Thiện thuộc xã Phổ Hiệp, huyện Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi. Là một trong các bến đỗ dự bị của các chuyến tàu không số trong trường hợp tàu bị hỏng, là nơi tránh trú khi gặp bão lớn hoặc bị hải quân Việt Nam Cộng hòa vây ráp. Tháng 3 năm 1968, tại đây đã diễn ra cuộc hội ngộ không hẹn mà gặp giữa các cán bộ, nhân viên của Bệnh xá Đức Phổ nổi tiếng do bác sĩ Đặng Thùy Trâm lãnh đạo với các thủy thủ Tàu 43 khi tàu bị không quân và hải quân Việt Nam Cộng hòa bắn hỏng. Các thủy thủ phải đổ bộ lên bờ và được người dân trong vùng bí mật đưa đến trạm xá này để cứu chữa. Sau đó, họ được Bộ Chỉ huy Khu V của Quân giải phóng miền Nam tổ chức vượt Trường Sơn trở lại miền Bắc.[3]
  • Ba Làng An
  • Lộ Diêu
Bến này nằm trên địa bàn xã Hoài Diêu, huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định. Ở vào vị trí giữa đèo Lộ Diêu trong và đèo Lộ Diêu ngoài, phía Tây là núi, phía Đông là bãi biển, Lộ Diêu được chọn làm bến trung chuyển vũ khí, đạn dựoc và hàng hóa do các con tàu không số chở từ miền Bắc vào chiến trường khu V. Bến Lộ Diêu bắt đầu hoạt động từ ngày 1 tháng 1 năm 1964 khi đón con tàu đầu tiên chở hàng chục tấn vũ khí xuất phát từ Hòn Dấu, Hải Phòng đi vào.
  • Vũng Rô
  • Hòn Hèo
  • Phước Thiện
  • Lộc An
Địa điểm này nay thuộc huyện Long Đất, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Đây là bến xuất phát của một trong 5 con thuyền gỗ đầu tiên mở tuyến đường Hồ Chí Minh trên biển từ Nam ra Bắc và ngược lại. Trong quá trình hoạt động, bến này đã đón 3 tàu không số cập bến, vận chuyển 109 tấn vũ khí cho Quân giải phóng miền Nam Việt Nam tại Khu IX.
  • Rạch Cỏ
  • Cồn Tàu
Đây là bến chính trong hệ thống bến bãi Trà Vinh, nằm ở gần cửa Cung Hầu, một trong ba cửa chảy ra biển của sông Hậu, thuộc huyện Duyên Hải. Bến này bắt đầu hoạt động từ tháng 6 năm 1963 khi đón chuyến tàu sắt đầu tiên chở 44 tấn vũ khí từ Bắc vào Nam.
  • Khâu Lầu
  • Bến "Ông Hai Ghiền"
Đây là biệt danh được những người lính của Trung đoàn vận tải 962 đặt cho Bến Thạnh Phong. Địa điểm này nay thuộc xã Thạnh Phong, huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre. Đây là nơi xuất phát của con tàu đầu tiên của Việt Minh ở vùng Tây Nam Bộ ra Bắc xin vũ khí để tổ chức kháng chiến chống Pháp từ năm 1946. Từ năm 1961 đến năm 1962, 2 chuyến tàu của lực lượng Quân giải phóng miền Nam Việt Nam ở Tây Nam Bộ cũng xuất phát từ đây ra Bắc xin chi viện vũ khí và trở về an toàn. Bến này cũng với các bến Cồn Tra và Cồn Lợi hợp thành một hệ thống bến bãi đón nhận vũ khí, đạn dược, hàng hóa của Quân giải phóng miền Nam Việt Nam tại tỉnh Bến Tre. Mặc dù theo sự bố trí của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam, Thạnh Phong thuộc khu VIII nhưng lại đóng vai trò là bến trung chuyển lớn cho cả miền Đông và miền Tây Nam Bộ trong thời kỳ 1961-1963. Kho cất giữ vũ kí bí mật phục vụ cho bến Thạnh Phong được xây dựng dưới lòng đất tại xã Thạnh Thới A, gần bến phà Cầu Ván, thuộc huyện Mỏ Cày, tỉnh Bến Tra. Xã Thạnh Thới A cũng là nơi đóng sở chỉ huy Trung đoàn vận tải 962 của Quân giải phóng miền Nam Việt Nam tại Khu IX.
  • Vàm Lũng
Bến này do ông Bông Văn Dĩa (sau này là thượng tá hải quân) lựa chọn và xác định thay cho hai con lạch Bồ Đề và Rạch Gốc tuy sâu và rộng hơn nhưng dễ bị lộ hơn. Địa điểm này thuộc huyện Ngọc Hiển, tỉnh Cà Mau. Tại đây có một con rạch lớn sâu từ 2 đến 3 m. Hai bên có rừng đước rộng lớn che phủ. Các tàu pha sông biển cỡ nhỏ có trọng tải dưới 100 tấn có thể ra vào được và dễ dàng ẩn nấp dưới các rặng đước cao và rậm rạp. Tháng 10 năm 1962, bến này bắt đầu hoạt động khi đón con tàu gỗ mang mật danh "Phương Đông 1" chở 30 tấn vũ khí từ miền Bắc vào cho Quân giải phóng miền Nam Việt Nam tại Khu IX. Trong toàn bộ thời gia hoạt động, bến này đã dón 68 chuyến tàu tiếp tế từ miền Bắc vào.
  • Rạch Gốc
  • Bồ Đề
  • Rạch Tàu
  • Rạch Giá
Cảng cá Rạch Giá là căn cứ nửa công khai, nửa bí mật của đoàn tàu hai đáy do Trung đoàn vận tải 950 thuộc Khu IX, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam phụ trách. Bến này đi vào hoạt động từ nửa sau năm 1968. Gọi là nửa công khai vì bề ngoài, đây là một cảng cá, gọi là nửa bí mật vì đây là một bến tiếp nhận vũ khí vận chuyển bằng đường biển. Bến cảng này đánh dấu một phương pháp vận chuyển mới: "trên cá, dưới súng đạn". Do tàu gỗ có cấu tạo hai đáy nên bề ngoài, nó giống như một tàu đánh cá bình thường. Nhưng giữa hai lớp đáy có một khoảng trống để cất giấu vũ khí, đạn dược và các hàng hóa khác. Do sự kiểm soát gắt gao của Hải quân Việt Nam Cộng hòa khi phát hiện một tàu hai đáy bị hỏng máy và được kéo về bờ, bến này phải tạm ngừng hoạt động từ giữa năm 1973 đến đầu năm 1975, khi Chiến dịch Mùa Xuân 1975 bắt đầu được khởi động.

Một số trận đánh quan trọng

Sự kiện Vũng Rô

Sự kiện tàu 235 và thuyền trưởng Phan Vinh

Một số tàu hoạt động trên tuyến đường Hồ Chí Minh trên biển

Tàu 43

Cho đến nay, nguồn tư liệu viết về tàu 43 rất ít ỏi. Theo thông tin từ phóng sự "Huyền thoại tuyến "Đường mòn Hồ Chí Minh trên biển", được Nhà báo Nguyễn Thành Luân (Báo Đại Đoàn Kết) thuật lại, qua lời kể của ông Nguyễn Văn Đức, thuyền phó tàu 43.
Trong ký ức không thể quên, Thuyền phó Nguyễn Văn Đức kể lại một trong những trận chiến đấu ác liệt vào đêm 27-2-1968, khi tàu 43 bị truy đuổi quyết liệt, buộc phải rút về hướng Sa Huỳnh (Quảng Ngãi).
Khi tàu vào gần đến bờ thì bất ngờ bị cả tàu và trực thăng quần đảo nã đạn dữ dội, tàu bị hư hỏng nặng, dạt vào bờ, có 3 thủy thủ hi sinh ngay trên tàu, số còn lại từ bị thương đến trọng thương phải nhảy xuống biển. Thuyền phó Nguyễn Văn Đức cũng bị trọng thương. Trước tình thế nguy kịch, thuyền trưởng Nguyễn Đắc Thắng lệnh cho hủy tàu và đưa số anh em bị thương lội vào bờ nhờ nhân dân che chở.
Về trận càn ác liệt trên, sau này được thuyền trưởng Nguyễn Đức Thắng kể lại với nhà văn Nguyên Ngọc khi ông đi làm bộ phim Đường mòn trên biển Đông. Đến sáng 28-2-1968, khi một số ngư đi dân đánh cá ven biển thuộc thôn Quy Thiện, xã Phổ Hiệp đã phát hiện các thủy thủ và đưa đi trú ẩn. Sau đó, họ được du kích địa phương cáng lên băng bó và điều trị vết thương tại bệnh xá Đức Phổ (nay là bệnh xá Đặng Thùy Trâm).

Danh sách Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân của Đường Hồ Chí Minh trên biển

Cá nhân

Dưới đây là danh sách các cán bộ chiến sĩ của Hải quân Nhân dân Việt Nam được phong hoặc truy phong danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân vì thành tích đối với Đường Hồ Chí Minh trên biển.
STT Họ tên Năm sinh Năm phong Quê quán
1 Lê Văn Một (liệt sĩ) 1921 2011[4] Châu Thành, Tiền Giang
2 Hồ Đắc Thạnh 1934 2011[4] Tuy Hòa, Phú Yên
3 Đỗ Văn Sạn 1936 2011[4] Thiệu Hóa, Thanh Hóa
4 Đinh Đạt (liệt sĩ) 1915 2011[4] Thăng Bình, Quảng Ngãi
5 Huỳnh Văn Sao (liệt sĩ) 1912 2011[4] thành phố Trà Vinh, Trà Vinh
6 Dương Văn Lộc (liệt sĩ) 1915 2011[4] Tam Kỳ, Quảng Nam
7 Bông Văn Dĩa 1905 1967[5] Ngọc Hiển, Cà Mau
8 Đặng Văn Thanh 1928 1967[6] Thuận Nam, Ninh Thuận
9 Nguyễn Phan Vinh (liệt sĩ) 1933 1970[7] Điện Bàn, Quảng Nam
10 Nguyễn Văn Hiệu (liệt sĩ) 1932 1978[8] Thăng Bình, Quảng Nam
11 Nguyễn Văn Cứng 1927 2005[9] Ngọc Hiển, Cà Mau
12 Hồ Đức Thắng 1922 1967[10] Cầu Ngang, Trà Vinh
13 Nguyễn Chánh Tâm 1935 2005[11] Bình Thủy, Cần Thơ
14 Phan Văn Nhờ 1925 1985[12] Giá Rai, Bạc Liêu

Tập thể

Tưởng niệm

Ngày 16, 17 tháng 10 năm 2010, Phó Thủ tướng Trương Vĩnh Trọng đã đến xã Thạnh Hải, huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre để lập đàn cầu siêu cho vong linh các liệt sĩ trên biển đã chết do chìm tàu. Xây dựng bia tưởng niệm gần biển là một tảng đá nặng 2 tấn viết dòng chữ: "Đời đời nhớ ơn các anh hùng liệt sĩ đã hi sinh trên biển".

Chú thích

Những bức ảnh lịch sử về đoàn tàu không số

Cải trang thành tàu đánh cá, giả dạng tàu nước ngoài, đoàn tàu không số đã vận chuyển hàng nghìn tấn vũ khí kịp thời chi viện cho chiến trường miền Nam, mở ra con đường huyền thoại trên biển.
> Kỷ niệm 50 năm đường Hồ Chí Minh trên biển
Trên 200 bức ảnh tư liệu, tài liệu, hiện vật lịch sử đã được trưng bày, tái hiện những chiến công của huyền thoại "Đoàn tàu không số", đường Hồ Chí Minh trên biển tại cuộc triển lãm "Biển đảo và người chiến sĩ Hải quận - Truyền thống đường Hồ Chí Minh trên biển". Triển lãm do Cục Chính trị Quân khu 7 phối hợp với Cục Chính trị Hải quân nhằm kỷ niệm 50 năm ngày mở đường Hồ Chí Minh trên biển tại TP HCM.
ád
50 năm trước, 5 con thuyền gỗ của các tỉnh Bến Tre, Cà Mau, Trà Vinh, Bà Rịa - Vũng Tàu đã dò đường trên biển ra Bắc thành công tạo tiền đề mở đường Hồ Chí Minh trên biển. Trong ảnh là 6 thủy thủ đội thuyền tỉnh Bà Rịa xuất phát tại bến Lộc An dùng thuyền đánh cá vượt biển ra Bắc, thăm dò tình hình địch trên biển và nhận vũ khí chi viện cho miền Nam, tháng 2/1962.
ád
Sau thành công của 5 chiếc thuyền này, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương quyết định thành lập đoàn tàu không số và mở đường Hồ Chí Minh trên biển để vận chuyển vũ khí chi viện cho miền Nam đánh Mỹ cứu nước. Trong ảnh là tàu gỗ gắn máy Phương Đông 2 (do Xưởng đóng tàu I Hải Phòng đóng) xuất phát tại bến Đồ Sơn chở 14 tấn vũ khí vào Cà Mau thành công, tháng 10/1962.
ád
Tàu vận tải Đoàn 125 cải trang thành tàu đánh cá, trên đường vận chuyển vũ khí chi viện cho chiến trường miền Nam, tháng 4/1966.
ád
Không chỉ cải trang thành tàu đánh cá, tàu vận tải Đoàn 125 còn giả dạng thành tàu nước ngoài để chuyển vũ khí vào miền Nam.
ád
Bến Lộc An (xã Phước Bửu, huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu). Tại bến này, 3 chiếc tàu của Đoàn 125 Hải quân đã cập bến thành công, vận chuyển được 109 tấn vũ khí, trang bị cho quân dân các tỉnh miền Đông, Khu 6 tham gia các chiến dịch, góp phần làm nên những chiến thắng vang dội: Bình Giã, Đồng Xoài, Dầu Tiếng, Bầu Bàng (năm 1965).
ád
Đội tiếp nhận hàng của Đoàn 962 (Quân khu 9), tiếp nhận vũ khí do đoàn tàu "không số" chuyển vào tại bến Rạch Mốc (Cà Mau) năm 1963.
ád
Đảo Phan Vinh (Quần đảo Trường Sa) mang tên người anh hùng Nguyễn Phan Vinh - thuyền trưởng tàu "không số".
ád
Cán bộ, chiến sĩ Đoàn 125 Hải quân đón nhận lẵng hoa bác Tôn tặng, năm 1970.
d
Cán bộ, chiến sĩ tàu 621 (thuộc Đoàn 125 Hải quân) trong chuyến đi trinh sát mở đường, chụp ảnh lưu niệm tại đảo Song Tử Tây, năm 1972.
ád
Cựu chiến binh Đoàn tàu không số chụp ảnh lưu niệm tại bến Lộc An (Bà rịa - Vũng Tàu).
ád
Tay lái của tàu C41 - chiếc tàu đã chuyển 11 chuyến vũ khí cập bến an toàn.
ád
Đèn hành trình, ống nhòm và máy điện thoại P600 là những dụng cụ được dùng trên hành trình vượt biển chuyển vũ khí vào Nam.
Tá Lâm (Ảnh chụp từ triển lãm)

Huyền thoại tàu không số 235: Trận chiến sinh tử

(Kiến Thức) - Trận hải chiến kiên cường của cán bộ, thủy thủ tàu 235 đã đi vào huyền thoại, là dấu son chói lọi của Hải quân nhân dân VN anh hùng.

Năm này tròn 53 năm kỷ niệm ngày mở đường Hồ Chí Minh trên biển huyền thoại (23/10/1961 – 23/10/2014). Đây là dịp tưởng nhớ và tôn vinh hàng ngàn thủy thủ, những con người quả cảm, từng một thời “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” trên biển. Công lao của các anh hùng, liệt sĩ thật lớn lao và luôn được trân trọng, mãi là những bài học cho thế hệ trẻ về phẩm chất truyền thống cao đẹp “ Bộ đội Cụ Hồ”.
 Tưởng niệm tàu không số anh hùng.
Con tàu (không số) anh hùng mang bí số 235 đã anh dũng “cảm tử” tại vùng biển Hòn Hèo, thuộc xã Ninh Vân, thị xã Ninh Hòa (Khánh Hòa). Xuất phát từ một cảng biển hậu phương miền Bắc, con tàu được biên chế 20 thủy thủ, do Trung úy Nguyễn Phan Vinh, một người con quê hương đất Quảng chỉ huy. Đây là con tàu nhận lệnh đưa hàng trăm tấn vũ khí chi viện cho chiến trường miền Nam. Đêm 29/2/1968, sau khi tàu đã gần tới vùng biển Hòn Hèo thì bị địch phát hiện. Trời tối, tàu phải tắt hết các tín hiệu, thế nhưng Phan Vinh vẫn chỉ huy tàu vào gần đến bến.
Phía sau là 7 tàu chiến địch đuổi theo, trực thăng trên cao pha đèn, thả pháo sáng, bắn xối xả vào tàu… Các thủy thủ còn sống sót như Lâm Quang Tuyến, Nguyễn Văn Phong, Hà Minh Thật bùi ngùi kể lại: “Thuyền trưởng Vinh của chúng tôi rất giỏi, rất quyết đoán, tàu 235 là tàu cao tốc, có 4 máy nên khi bị bao vây, thuyền trưởng đã tính đến việc phá vòng vây địch. Tất cả đều đặt niềm tin vào anh. Nhưng do địch huy động lực lượng quá đông và liên tục nã đạn ác liệt làm máy hỏng, ý đồ của địch là bắt sống tàu. Nhưng thuyền trưởng đã thực hiện nhanh phương án tiếp theo, gói bọc kín hàng thả xuống biển. Đồng thời cho tàu chạy ra nơi khác để bảo toàn nơi thả hàng…
Lúc này đã có một số thủy thủ hy sinh ngay trên tàu. Sau khi đã thả hết hàng xuống đáy biển, Phan Vinh thét lên, tất cả bơi vào bờ, lên núi, còn anh và thợ máy ở lại chuẩn bị thuốc nổ để phá hủy tàu... Cả tấn thuốc nổ đã được kích hoạt, một tiếng nổ long trời, kèm cột lửa bốc cao, cắt đôi và văng mảnh lớn con tàu lên sườn núi. Suốt 13 ngày trong rừng, các thủy thủ ăn lá cây, ve sầu, kể cả ốc sên… mà sống… không còn đạn, không lương thực…
Kẻ địch lại bao vây, lùng sục, do đó anh em đã phải phân tán ra nhiều nơi. Do bị thương nặng, thuyền trưởng Phan Vinh đã hy sinh. Quá khát nước, nên Mai Xuân Khung xung phong đi tìm nước uống, đi được vài phút thì nghe có tiếng súng nổ, rồi không thấy Khung về, ai cũng nghĩ Khung đã hy sinh. Nhân kỷ niệm lần thứ 50 ngày mở đường Hồ Chí Minh trên biển (2011), bất ngờ chúng tôi mới có dịp gặp lại nhau, thế là cứ ôm chặt nhau đến không còn kẽ hở. Là những người may mắn còn sống, những thủy thủ sống sót như chúng tôi thật vui mừng, bởi đã kiên cường trước sự tấn công của kẻ địch, vẫn bảo vệ được số vũ khí, hủy gọn con tàu để giữ mãi bí mật con đường huyền thoại. Chúng tôi nhớ mãi cái đêm năm ấy (1/3/1968), 14 thủy thủ đã anh dũng hy sinh, trong đó có thuyền trưởng Phan Vinh. Máu xương các anh đã vĩnh viễn hòa vào vùng biển đại dương đất Mẹ”.
Các thủy thủ tàu không số 235 gồm thủy thủ Hà Minh Thật, Lâm Quang Tuyến, Nguyễn Văn Phong và phóng viên báo Dân Việt (từ trái sang).
Đã 53 năm trôi qua, giờ đây con tàu 235 và cùng nhiều con tàu không số khác được vinh danh Anh hùng. Những đồng đội năm xưa đã có dịp tìm gặp lại nhau, cùng về đây thắp cho nhau nén nhang và thầm gọi tên nhau, vẫn cứ xưng hô bằng “mày – tao” thật dung dị, nhưng ai cũng nghẹn trào cảm xúc. Trong khi trò chuyện với cựu thủy thủ Hà Minh Thật (hiện sống tại TP.HCM), bỗng dưng ông lặng người đi, khóe mắt đỏ hoe và ông chỉ cho chúng tôi xem nơi còn nguyên mảnh đạn nằm sát cột sống gần hông suốt 46 năm qua...
 Anh hùng Nguyễn Phan Vinh (1933-1968)
Nhắc tới con đường huyền thoại trên biển, là Tổ quốc và nhân dân nhắc tới các thủy thủ đã anh dũng hy sinh. Trong đó có trận hải chiến kiên cường của 20 cán bộ, thủy thủ tàu 235 đã đi vào huyền thoại, là dấu son chói lọi của Hải quân Nhân dân Việt Nam anh hùng. Với chiến công phi thường ấy, ngày 25/8/1970, liệt sỹ Nguyễn Phan Vinh được Đảng và Nhà nước truy tặng danh hiệu cao quý Anh hùng LLVTND. Nhân kỷ niệm 15 năm ngày giải phóng quần đảo Trường Sa (29/4/1990), tên người thuyền trưởng tàu 235 đã thành tên một hòn đảo trong quần đảo Trường Sa (Khánh Hòa) – đảo Phan Vinh, một trường trung học cơ sở ở Ninh Hòa, một đường phố ở Nha Trang cũng đã mang tên người anh hùng Phan Vinh...
Thắp hương tại Bia tưởng niệm các Anh hùng, liệt sĩ tàu 235 tại sườn núi Bà Nam, thuộc dãy núi Hòn Hèo. 
Miếu thờ và bia tưởng niệm các Anh hùng, liệt sĩ tàu 235 đã được người dân, chính quyền địa phương và Quân chủng Hải quân xây dựng tại sườn núi Bà Nam thuộc dãy núi Hòn Hèo, nơi có mảnh xác tàu 235 văng lên khi tàu “cảm tử”. Ngày 26/4/2014, Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch ra quyết định xếp hạng di tích quốc gia đối với di tích lịch sử Địa điểm lưu niệm tàu 235 - đường Hồ Chí Minh trên biển tại xã Ninh Vân, thị xã Ninh Hòa (tỉnh Khánh Hòa).
Hà Trang 

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét