Chủ Nhật, 16 tháng 8, 2015

CÂU CHUYỆN TÌNH BÁO 55

(ĐC sưu tầm trên NET)

Hoa hậu là nhà báo và điệp báo

VietnamDefence - Thoát ly gia đình từ Hà Nội vào Sài Gòn hoạt động trong phong trào học sinh sinh viên từ năm 1950-1951, Thu Trang được phân vào tổ công tác của Ban Tình báo Đặc khu Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định gồm có 4 người do đồng chí Năm Tú - Trần Thanh Vân làm tổ trưởng, đồng chí Hai Tắc - Trần Kim Lang; một liên lạc viên là chị Tư Nga...
Hoa hậu Thu Trang năm 1955
Nhà báo trở thành hoa hậu
Năm 1955, lần đầu tiên  tại Sài Gòn có tổ chức  cuộc thi Hoa hậu ở rạp chiếu bóng Lido trong khu vực Chợ Lớn. Có khoảng 30 thí sinh tham dự và ngôi vị hoa hậu thuộc về cô Thu Trang là nữ ký giả của làng báo miền Nam. Á hậu 1 là sinh viên Nguyễn Thị Ninh, người miền Bắc di cư và Á hậu thứ 2 tên là Ngô Yên Thi, người miền Nam. Cô Thu Trang, người gốc Hà Nội, sinh năm 1932, vào Sài Gòn năm 1950. Năm dự thi Hoa hậu, Thu Trang 23 tuổi, có chiều cao 1,61m, nặng 53kg, số đo vòng 1: 86; vòng 2: 62 và vòng 3: 88.
Thời đó không có thi mặc áo tắm. Bọn chúng tôi thời đó còn là học sinh Trường trung học Chu Văn An cũng náo nức mua vé đi xem những người đẹp đi thi. Cô Thu Trang chiếm ngôi Hoa hậu thật xứng đáng, cô có khuôn mặt rất xinh và hiền hậu, dáng người lại cao, thân hình đầy đặn, thon thả mà thời đó ít  người phụ nữ nào có được.
Vào năm 1954, ít ai biết Thu Trang viết báo với bút hiệu Thanh Tâm hay Nguyễn Huyền Thu... trên các báo Tân Văn, Cần học, Sài Gòn mới, Phụ nữ diễn đàn, Lẽ sống... với đủ thể loại từ thơ đến truyện ngắn, truyện dài... Sau cuộc thi Hoa hậu, hình ảnh Hoa hậu Thu Trang được nhiều báo miền Nam đăng ảnh và viết bài khen ngợi. Tuy nhiên, khi đó ít ai biết rõ lý lịch tên thật của Thu Trang là gì? Và người ta cũng không quan tâm tìm hiểu lý lịch đời tư của Thu Trang mà chỉ khen ngợi Thu Trang đẹp toàn vẹn.
Để tuyên truyền cho chính sách chống Cộng sản miền Bắc, người Mỹ đã đưa một nhóm cố vấn kỹ thuật điện ảnh Philippines sang Sài Gòn để cùng chính quyền Sài Gòn hoàn thành một cuốn phim lấy tên là "Chúng tôi muốn sống". Truyện phim do Vĩnh Noãn viết và dàn dựng, các tài tử chính gồm Lê Quỳnh, Mai Trâm và một vai nữ phụ - họ tuyển Hoa hậu vừa đăng quang Thu Trang. Phim do Cơ quan Viện trợ Mỹ đài thọ, thực chất là CIA chỉ đạo sau lưng. Phim "Chúng tôi muốn sống" cuối năm 1956 được hoàn thành và công chiếu. Chúng tôi thời đó còn là học sinh trung học, chưa ý thức chính trị gì nên chỉ thích cô Thu Trang đẹp hơn cô Mai Trâm đóng vai chính.
Những năm sau đó cô Thu Trang còn được mời đóng vai chính Kiều Nguyệt Nga trong phim "Lục Vân Tiên" sản xuất năm 1959. Đây là phim màu đầu tiên của miền Nam và đã được tham dự Đại hội Điện ảnh Á châu tại Tokyo, Nhật Bản. Nhưng rất tiếc phim "Lục Vân Tiên" sau đó không thấy chiếu tại miền Nam, không rõ vì lý do gì? Sau đó, Thu Trang còn được Hãng phim Mỹ Phương mời đóng phim "Lòng nhân đạo", nhưng Thu Trang đã từ chối.
Sở dĩ cô Thu Trang nhận đóng phim "Lục Vân Tiên" vì viết kịch bản và vai trò đạo diễn do Tống Ngọc Hạp đảm trách - người đang làm cho Cơ quan Viện trợ văn hóa Mỹ tại Sài Gòn. Vì vậy Thu Trang phải kết thân với Tống  Ngọc Hạp để có mục đích riêng mà chỉ có Thu Trang mới biết. Cũng vì chuyện "kết thân" với Tống Ngọc Hạp nên báo chí Sài Gòn thời đó đã thêu dệt nhiều giai thoại về những cuộc "hẹn hò" giữa Hoa hậu Thu Trang với Tống Ngọc Hạp mà các báo thi nhau viết bài để câu độc giả.
Người đẹp đi tây
Chuyện về Hoa hậu Thu Trang với đạo diễn Tống Ngọc Hạp rồi cũng qua đi, sau đó giữa Tống Ngọc Hạp và Thu Trang không còn liên hệ gì với nhau nữa. Đầu năm 1960, Thu Trang lại kết giao với ông Nguyễn Lương là Bộ trưởng Tài chính của chế độ Ngô Đình Diệm. Ông vừa góa vợ trước đó không lâu. Nhưng bất ngờ vào đầu tháng 11/1960, Thu Trang xuất ngoại  sang Pháp nói là đi đóng phim do Đài Truyền hình Pháp mời.
Mãi sau này, năm 1999 anh Hoàng Văn Phúc (là em ruột vợ Trần Kim Tuyến, trùm mật vụ chế độ nhà Ngô) đã kể cho tôi về sự ra đi bất ngờ của Thu Trang như sau: Vào một buổi chiều năm 1960, ông Nguyễn Lương có gọi điện thoại cho Tuyến và hỏi viên tài xế lái xe cho ông và Thu Trang tại sao bị mất tích mấy ngày nay? Có phải cơ quan an ninh đã bắt không?
Trần Kim Tuyến điện thoại sang Ty Công an do Dương Văn Hiếu điều hành hỏi thì Hiếu trả lời: Họ có bắt viên tài xế của Nguyễn Lương vì tên này là “Việt Cộng”. Khi Tuyến cho Nguyễn Lương biết sự việc như trên thì mấy tuần sau Thu Trang xuất ngoại “do cô ấy sợ liên lụy”, bởi viên tài xế là do Thu Trang đưa vào làm lái xe cho Nguyễn Lương.
Sang Pháp chờ mấy tháng trời mà cuốn phim Đài Truyền hình Pháp không thực hiện được, mặc dù đã có giấy giới thiệu của Bộ Thông tin chính quyền Sài Gòn gửi kèm. Việc đóng phim không thành, Thu Trang ghi tên vào học École pratique des Hautes Eátudes: Section des Sciences historiques et philologique, (Ban Cao học về lịch sử và ngữ văn). Trường này thuộc Đại học Sorbone, một trường đại học nổi tiếng của nước Pháp.
Để trang trải cho cuộc sống, Thu Trang phải làm thông dịch tiếng Anh cho một mỹ viện tại Paris, ngoài giờ còn dạy kèm tiếng Anh cho mấy học sinh nhỏ tuổi. Đến năm 1967, Thu Trang tốt nghiệp cao học. Sau đó Thu Trang tiếp tục bảo vệ luận án tiến sĩ với đề tài: Những hoạt động của Phan Châu Trinh tại Pháp, và đã thành đạt với văn bằng Tiến sĩ Đệ tam cấp của Đại học Paris VII.
Trong thời gian theo học, Thu Trang đã kết thân với nhóm sinh viên Việt và Pháp ủng hộ cuộc kháng chiến chống Mỹ tại Việt Nam. Sau đó, Thu Trang kết hôn với một người Pháp là bác sĩ nha khoa tại Paris.
Tự bạch những ngày hoạt động công tác điệp báo
Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng (30/4/1975), Tòa đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Paris được Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam tiếp quản. Đại sứ Phạm Văn Ba khi đọc hồ sơ của Tòa đại sứ thấy ghi: “Công Thị Nghĩa” - tức nữ minh tinh Thu Trang là Việt Cộng nằm vùng.
Còn phần cô Thu Trang thì trong hồi ký của cô đã thuật lại, tóm tắt như sau: Cô thoát ly gia đình từ Hà Nội vào Sài Gòn hoạt động trong phong trào học sinh sinh viên từ năm 1950-1951, trong tổ công tác của Ban Tình báo Đặc khu Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định gồm có 4 người do đồng chí Năm Tú - Trần Thanh Vân làm tổ trưởng, đồng chí Hai Tắc - Trần Kim Lang; một liên lạc viên là chị Tư Nga.
Trong bốn người, Thu Trang là người ít tuổi nhất, mang bí danh là Tư Nghĩa. Thời gian này, cô bí mật nhiều lần lên Bến Cát, Tân Uyên để dự lớp huấn luyện về công tác nội thành. Năm 1952 thì Thu Trang bị Phòng Nhì Pháp bắt và đem về giam tại khám Gia Định rồi về khám lớn Sài Gòn (cùng bị bắt giam chung lúc đó có các đồng chí Nguyễn Thị Bình và đồng chí Đỗ Duy Liên).
Về tới bót Catinat, tôi bị hỏi cung mấy câu về tên thật của anh Hai, về chị Tư liên lạc. Tất nhiên là tôi trả lời không biết. Thực sự là khi giải phóng tôi mới rõ chị đã lấy tên anh là bác sĩ Trần Văn Ngà.
Chúng dẫn anh Hai tới. Mặt mày anh Hai thâm tím, máu đọng ở mép và ngồi xệp trên đất. Nhìn thấy anh Hai làm tôi sững sờ. Ba bốn tên lực lưỡng áp lại đánh tôi túi bụi, và nói: Mày chối nữa đi. Chỉ huy của mày đó. Khai ra hết, không thì “cho đi máy bay” thấy mẹ! (“máy bay” là lối tra tấn dã man: nạn nhân bị trói hai tay có khi ngược lại là hai chân, treo lên quay vòng rồi cho rớt xuống đất, có khi bị gãy xương, hoặc vỡ đầu, xương sườn, xương sống v.v...).
Tên cảnh sát bước vào hỏi anh Hai:
- Phải con nhỏ này không?
- Không biết. Tôi không nhớ.
- Gì? Mày nói lại đi. Tụi bay, cho thằng này chút điện nữa đi.
Một thoáng anh Hai bị còng chân vào một thanh sắt to như cổ tay. Chúng bắt điện vào và người anh bị giật tung lên, ngã xuống. Anh quằn quại rên la, mặt anh tím ngắt và tôi tưởng anh sắp chết tới nơi.
Tôi nghẹn ngào quay mặt, không dám nhìn anh nữa. Đầu óc tôi bấn loạn vì hàng trăm câu hỏi dồn dập. Mình sẽ ăn nói sao đây? Có bị tra tấn như anh?... Tôi bỗng giật mình nghe tên cảnh sát la lớn:
- Nói đi, con nhỏ này là ai? Nó làm gì cho mày. Làm liên lạc hả?
Tên cò gật gù. Có lẽ hắn chỉ cần anh Hai nhận là biết tôi.
Tôi điếng người và ghi nhanh trong óc: làm liên lạc. Như vậy là hai chữ điệp viên chưa bị lộ. Anh Hai chắc chưa khai gì. Tôi nghĩ nhanh về điều này, nhìn anh gần ngất nằm co dưới sàn gạch, tôi vừa thương vừa lo sợ. Tên cò mặt hầm hầm đi qua đi lại và hất hàm ra lệnh mở còng chân anh Hai và đưa anh ra khỏi phòng. Thấy anh đi không vững, hai tên xốc nách anh, tôi muốn khóc.
Bọn nó đứa nào đứa nấy nhìn tôi như bầy thú rình mồi. Trong tôi chỉ còn nghĩ được ý duy nhất anh Hai khai tôi làm liên lạc. Tôi bám vào ba chữ ấy và chưa biết sẽ khai thế nào cho hợp lý. Tên cảnh sát hất hàm và tôi bị một cái tát đổ đom đóm:
- Làm gì cho Việt Minh? Nói đi.
- Làm liên lạc.
- Ở đây, đi đâu? Đưa ai vô khu? Ở đâu?
Những câu hỏi tới tấp giăng quanh tôi, bọn chúng ba bốn tên tra tấn tôi, mặt mày như quỷ dữ. Tôi lắp bắp trả lời:
- Dạ không đi khu.
- Vậy đi đâu?
- Ở Sài Gòn thôi.
- Đánh chết nó đi! Làm liên lạc mà ở Sài Gòn hả?
- Dạ, dạ, dạ... Liên lạc với ông tướng Nguyễn Văn Th.
Tên cảnh sát có vẻ ngạc nhiên, hắn nhìn tôi hỏi lại:
- Ổng quen mày?
- Dạ, quen nhiều.
- Ổng làm chi, nói bậy chết nghe - Dạ, ổng theo ông De Lattre đi đánh ngoài Bắc...
Tên cảnh sát hơi khựng lại. Hắn bắt đầu có vẻ bán tin bán nghi, vì tôi đã nói đúng như báo đã đăng tin cách đó ít lâu. Tôi quen với ông ta thật, và trong lúc hốt hoảng nói đại ra với tia hy vọng vu vơ, như người ngã xuống sông gần chết đuối, vớ lấy bất cứ gì trước mặt.
Bọn mấy tên tra tấn ra khỏi phòng lúc nào tôi không để ý. Tên cò ra hiệu cho tôi lại ngồi trước mặt hắn. Hắn ngồi sau bàn và mở gói thuốc ra hút.  Hắn nhìn tôi và nói giọng khác đi:
- Con nhỏ ngộ quá chớ. Ê! Mày là “mèo” của ổng?  (thời ấy trong giới bình dân hay dùng chữ mèo chuột để chỉ những tình nhân).
- Dạ, quen thân vậy thôi.
- Đừng có giấu, nếu thiệt thì tao nhắn ổng vô, dám không?
 Tôi ngập ngừng, trả lời nước đôi:
- Dạ tùy ông, nếu ổng không có ở Sài Gòn thì sao. Ổng đi đánh hoài ở ngoài Bắc. Mấy tháng nay tôi không gặp.
- Vậy mày gặp ổng bao nhiêu lần? Làm chi, nói nghe coi!
- Dạ, đi ăn cơm Tây, đi nhảy đầm với bạn của ổng. Có lần có ông Trịnh Minh Th.
- Mấy ổng nói chuyện chi?
- Đủ thứ hết, tôi không hiểu.
- Mày làm liên lạc cho thằng Hai đó quen ổng hả?
Tự nhiên hắn nghĩ ra điều này. Tôi nhận hay không? Nếu nó hỏi anh Hai thì sao? Có lợi hại gì? Tôi không trả lời và nói lảng:
- Dạ ổng khó tính lắm. Tôi chưa hỏi vụ đó.
Tôi giật mình khi hắn gọi to:
- Tụi bay, cho con nhỏ này “đi tàu ngầm”. Nó nói loanh quanh không hà.
Tức khắc tôi bị lôi sang phòng kế bên. Chúng ra lệnh cho tôi cởi hết quần áo, rồi trói tôi lên một tấm ván dài, buộc một miếng giẻ trên miệng rồi lấy nước đổ từ từ vào hai lỗ mũi. Tên cò đứng cạnh đó. Hắn nhấn mạnh:
- Nói thiệt đi, nếu không thì còn được đi máy bay nữa.
Tôi cảm thấy từng giọt nước chạy xuống mũi, xuống cổ ngột ngạt  kinh khủng, cảm giác tê dại nghẹt thở. Tôi vẫy vùng, ú ớ. Một lúc sau bụng tôi trương lên, óc ách đầy nước. Chúng nhìn tôi ra dấu gì tôi không rõ, mắt tôi mờ đi và thình lình tôi cảm thấy nước trào lên đau đớn cùng cực vì những cú đấm trên bụng. Tôi ngất đi và không rõ bao lâu tôi tỉnh lại thấy mình nằm trên sàn gạch, trần truồng và run lên vì lạnh, vì đau ê ẩm khắp người. Tôi khóc thành tiếng nức nở. Có một tên bước vào:
- À, ngủ dậy rồi. Bận quần áo đi, xuống khám (phòng giam phụ nữ phía sau bót Catinat).
Qua mấy lần bị tra khảo Thu Trang chỉ nhận là làm liên lạc viên nội thành, còn hai chữ điệp viên không khai ra. Đến đầu năm 1953, chúng đưa Thu Trang và một số người cùng bị bắt lúc đó ra tòa án để xử. Rất may, có luật sư Nguyễn Hữu Thọ tận tình bào chữa nên Thu Trang được trả tự do. Ra khỏi tù, Thu Trang tiếp tục đi học thêm sinh ngữ Pháp, Anh chờ dịp móc nối liên lạc với tổ chức.
Nhân năm 1955 có cuộc thi hoa hậu, Thu Trang nảy ý định tìm một vỏ bọc để che mắt an ninh mật vụ nên Thu Trang đã tham gia cuộc thi. Tiếp sau đó, Thu Trang còn luồn sâu vào cơ quan văn hóa của Mỹ nên Thu Trang nhận đóng một vai nữ cán bộ Việt Minh trong phim "Chúng tôi muốn sống".
Rồi tiếp theo, Thu Trang kết thân với Tống Ngọc Hạp, Nguyễn Lương... cũng vì mục đích để tiếp cận những nhân vật này để Thu Trang hoàn thành những công việc mà tổ chức do đồng chí Lý Hải Châu lãnh đạo giao phó cho cô. Đến khi công tác bị hé lộ vì viên tài xế làm liên lạc của cô bị bắt nên Thu Trang phải cấp tốc rời Sài Gòn để bảo toàn công tác. Khi tới Pháp, tuy mang danh là sinh viên nhưng Thu Trang vẫn tiếp tục nhiệm vụ cách mạng giao phó.
Năm 1975, sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, việc học hành đã hoàn tất, gia đình hạnh phúc, Thu Trang đã làm Tổng thư ký Hội Khoa học xã hội ba khóa liên tiếp tại Pháp, và hiện nay là Ủy viên Đoàn Chủ tịch Hội người Việt Nam tại Pháp. Ngoài ra, Thu Trang còn viết tác phẩm "Những hoạt động của Nguyễn Ái Quốc tại Paris 1917-1923”), do NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội ấn hành năm 2000 (bản chữ Pháp do NXB Harmattan, Paris ấn hành năm 1992).
(Trích dẫn và tham khảo thêm của Hồi ký Thu Trang và tư liệu của Q.Dao - Mai Thế Phú - Hoàng Hà)
  • Nguồn: ANTG, 28.06.2009 

Markus Wolf: Nhà tình báo cộng sản huyền thoại

VietnamDefence - Đêm 8, rạng sáng ngày 9/11/2006, Markus Wolf, nhà tình báo huyền thoại với biệt hiệu “Con sói trong bóng tối”, “Người không mặt”, đã qua đời ở Berlin ở tuổi 83. Ông là một trong những nhà lãnh đạo cơ quan tình báo thành công nhất trong lịch sử thế giới, người đã xây dựng và lãnh đạo cơ quan tình báo CHDC Đức trong suốt 34 năm. Bậc thầy tình báo này đã tổ chức xâm nhập điệp báo thành công vào quân đội, các cơ quan tình báo và các đảng phái CHLB Đức.
Markus Johannes Wolf (1923-2006), Thượng tướng an ninh quốc gia CHDC Đức, sinh ngày 19/1/1923 ở Hehingen, Wutemberg. Cha ông, Friedrich Wolf, đảng viên Đảng Cộng sản Đức, là một người đa tài: nhà soạn kịch nổi tiếng người Do Thái, nhà thơ và nhà văn, bác sĩ và người biện giải cho lối sống lành mạnh, nhà cách mạng và chiến sĩ cộng sản. Ông có ảnh hưởng mạnh mẽ nhất đến các con và là tấm gương để các con noi theo. Friedrich Wolf đã dùng nghệ thuật, những vở kịch của mình để đấu tranh chống nhà nước chuyên chế vì quyền lợi ích của người dân bình thường. Chính vì thế, không lâu sau khi Hitler lên nắm quyền, ông cùng với gia đình đã buộc phải chạy khỏi nước Đức. Konrad Wolf, em trai ông, sau này là một đạo diễn của hãng phim DEFA và Chủ tịch Viện Hàn lâm Nghệ thuật CHDC Đức, còn ông - Markus Wolf chưa đầy 30 tuổi đã trở thành chỉ huy tình báo và cuối đời lại là một nhà văn.
Từ năm 1934-1945, Markus Wolf sống cùng cha mẹ ở Liên Xô. Sau khi Đức tấn công Liên Xô, Markus Wolf cùng với một số bạn đồng lứa trong số các nhà hoạt động chống phát xít đã vào học tại trường tình báo của Quốc tế Cộng sản (QTCS), nơi đào tạo điệp viên để hoạt động trong hậu phương địch. Sau một số nỗ lực bất thành nhằm đánh điệp viên vào lãnh thổ nước Đức phát xít, số học viên tình báo còn lại, trong đó có Wolf, được giữ lại và đào tạo để hoạt động ở nước Đức hậu chiến. Sau khi tốt nghiệp trường tình báo của QTCS, Markus Wolf đã vào học Đại học Hàng không Moskva (MAI) với hy vọng trở thành một kỹ sư hàng không vì ông cũng không thật máu me làm tình báo. Nhưng theo yêu cầu của Đảng Cộng sản Đức, tháng 5/1945, Wolf trở về Đức và làm việc một thời gian ở đài phát thanh. Với tư cách phóng viên thường trú của Đài phát thanh Berlin và tờ báo Berliner Zeitung, ông làm việc tại phiên toà Nuremberg xét xử tội phạm chiến tranh Đức quốc xã.
Sau khi nước CHDC Đức ra đời, năm 1949, ông đổi nghề và ở tuổi 26, Markus Wolf được bổ nhiệm làm Phó Đại sứ CHDC Đức tại Moskva. Nhà tình báo-phóng viên làm nhà ngoại giao không được bao lâu. Mùa hè năm 1951, Wolf được triệu hồi về Đức và trở thành nhân viên của “Viện Nghiên cứu Khoa học kinh tế”. Đây là bình phong dân sự  bí mật cho cơ quan tình báo Đông Đức mới được thành lập. Wolf bắt đầu sự nghiệp trong cơ quan tình báo CHDC Đức từ cương vị Phó Trưởng Phòng Thông tin, sau đó, được bổ nhiệm làm Phó Trưởng Phòng Phản gián.
Tháng 12/1952, theo đề cử của Anton Ackermann, thứ trưởng ngoại giao, nguyên thủ trưởng của Wolf thời ông làm việc ở Đài phát thanh Berlin và cũng là người chỉ huy đầu tiên của tình báo đối ngoại CHDC Đức, lúc này đã nghỉ công tác do sức khoẻ, cũng như được sự đồng tình của các chuyên gia tình báo Liên Xô, ở tuổi 29 Wolf được cử làm chỉ huy cơ quan tình báo đối ngoại đang được thành lập trong cơ cấu của Bộ An ninh Quốc gia CHDC Đức Stasi.
Tháng 3/1953, trong cơ quan ông xuất hiện tên đào ngũ đầu tiên chạy sang phương Tây nên ông đã buộc phải khởi đầu từ con số 0, buộc phải xây dựng lại  từ đầu cơ quan tình báo CHDC Đức còn rất nhỏ bé. Ngay từ đầu, HVA đã phải dựa chủ yếu vào các hình thức hoạt động bất hợp pháp vì trong một thời gian dài CHDC Đức không được phương Tây thừa nhận nên không có các sứ quán ở nước ngoài để làm bình phong cho các tình báo viên bình phong hợp pháp hoạt động.
Cuối năm 1953, Wolf có 12 điệp viên hoạt động ở nước ngoài và 30-40 người nữa đang được chuẩn bị đánh sang phương Tây, chủ yếu là dưới dạng dân di cư. Năm 1986, khi Wolf về hưu, số lượng điệp viên ở nước ngoài của Tổng cục Tình báo HVA (Hauptverwaltung Aufklärung) thuộc Stasi đã là 1.500 người, chưa tính số nhân viên tình báo hoạt động dưới bình phong hợp pháp và nhiều điệp viên bảo đảm khác.
Giống như các cơ quan tình báo khác của khối Hiệp ước Varsava và trước hết là của Liên Xô, HVA đã tích cực sử dụng yếu tố “ý thức hệ” nên đã tuyển được nhiều công dân CHLB Đức và các nước phương Tây đã làm việc cho tình báo Đông Đức với động cơ hợp tác với “những người cộng sản” trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện. Nhiều người trong số họ đã không từ bỏ lập trường, quan điểm của mình kể cả sau khi CHDC Đức không còn tồn tại. Trong số những cán bộ tình báo tự nguyện cộng tác của Stasi hiện đã được biết đến có các nhà hoạt động chính trị nổi tiếng CHLB Đức Adolf Kantor và Wilhelm Borm, nhà triệu phú Heinz Porst và những người khác.
Các tình báo viên bất hợp pháp CHDC Đức đã khéo léo cài được điệp viên vào giới thân cận của các thủ lĩnh chính trị Tây Đức, điển hình là cán bộ tình báo Stasi Günter Guillaume đã trở thành trợ lý Thủ tướng CHLB Đức Willy Brandt. Hậu quả của điệp vụ này là vị Thủ tướng nổi tiếng của nước Đức phải từ chức. Dưới sự lãnh đạo của Markus Wolf, cơ quan tình báo đối ngoại CHDC Đức đã trở thành một trong những cơ quan tình báo hiệu quả nhất thời chiến tranh lạnh.
Tình báo phương Tây đã nhanh chóng biết đến ông, nhưng trong suốt hơn 20 năm, họ không thể có được ảnh của ông. Chính vì vậy, ông có biệt hiệu “Con sói trong bóng tối” và “Người không mặt”. Mãi đến năm 1978, trong một phiên liên lạc tại Thuỵ Điển, tình báo Tây Đức phối hợp với phản gián Thuỵ Điển mới lần đầu tiên chụp được ảnh Markus Wolf và nhờ một nhân viên HVA đào ngũ họ mới biết được đó là ông. Đây là một một sự kiện chấn động trên báo chí phương Tây thời bấy giờ.
Năm 1986, Wolf rời khỏi cương vị chỉ huy cơ quan tình báo. Những năm sau đó là một trong những giai đoạn khó khăn nhất trong đời ông. Bức tường Berlin sụp đổ, một bộ phận đáng kế kho lưu trữ của Stasi bị chiếm giữ và sự thống nhất của nước Đức đã đặt dấu chấm hết cho cơ quan mà ông đã thành lập và lãnh đạo trong suốt 34 năm. Hàng ngàn nhân viên Stasi ở CHDC Đức và ở nước ngoài đã bị truy tố hình sự. Bản thân Wolf cũng không tránh khỏi nhà tù. Ông đã rời đi Liên Xô trước khi nước Đức thống nhất, nhưng sau đó vẫn quyết định quay về vì không muốn kết thúc cuộc đời trong cảnh lưu vong.
Wolf đã cố gắng hết sức để cứu các đồng chí, đồng nghiệp của mình, thậm chí đã viết thư cho Mikhail Gorbachev đề nghị tác động với lãnh đạo Tây Đức nhằm giải thoát các cán bộ các cơ quan tình báo CHDC Đức khỏi bị truy tố nhưng vô hiệu. Cay cú bởi những đòn đau mà tình báo và an ninh Đông Đức gây ra cho họ, giới lãnh đạo CHLB Đức đã trả thù - tất cả các điệp viên lừng danh của Stasi đều nhận án tù dài ngắn khác nhau.
Ngày 24/9/1991, khi đi qua biên giới CHLB Đức, Markus Wolf đã bị bắt vì tội phản bội tổ quốc và hoạt động gián điệp chống nước Đức. Tháng 12/1993, ông bị kết án 6,5 năm tù giam. Tuy nhiên, “con sói trong bóng tối” đã không phải ngồi tù lâu. Năm 1997, bản án tù được đổi thành án treo. Wolfа cũng bị toà quyết định phải thanh toán 50.000 Mark cho một nhà trẻ và án phí.
Markus Johannes Wolf (1923-2006)
Sau khi ra tù, Tướng Wolf sống ở Berlin với vợ và con gái nuôi. Sau “cuộc maratông toà án” (Năm 1998, Toà án Tối cao Đức đã bác bỏ hẳn khả năng bắt giữ ông), ông đã muốn cống hiến hết mình cho hoạt động sáng tác, viết sách. Ông khởi đầu sự nghiệp văn chương muộn màng của mình từ cuốn sách “Bộ ba” - một dự án mà Konrad, em trai ông qua đời vào năm 1982, đã không kịp hoàn thành. Cuốn sách ra đời vào tháng 3/1989 và làm tất cả kinh ngạc vì tính phê bình thẳng thắn của nó. Bằng cách đó, Markus Wolf “đã trả nợ” cho người em, người đã rất trân trọng câu chuyện tình bạn nhiều năm của những đứa con trai của 3 gia đình lưu vong.
Sau khi nước Đức thống nhất, ông đã xuất bản 5 cuốn sách như “Bạn bè không chết”, “Bộ ba”, “Theo nhiệm vụ của chính mình”,... trong đó có hồi ký gây tranh cãi “Người không lộ diện” (hồi ký được dịch sang tiếng Nga có tên là “Trận đấu trên sân khách”) đã được Nhà xuất bản Công an Nhân dân xuất bản và cả cuốn “Bí mật nghệ thuật nấu ăn Nga”. Markus Wolf rất tự hào với sự nghiệp văn chương muộn màng của mình và đã một số lần đến Nga để giới thiệu những cuốn sách của ông - Wolf vẫn duy trì những mối quan hệ trong các cơ quan tình báo, an ninh Nga và luôn được họ chào đón như một người bạn thân gần gũi.
Nhà tình báo huyền thoại thời chiến tranh lạnh đã rời khỏi cuộc đời chứa đựng cả một kỷ nguyên ở tuổi 83. Cuộc đời Markus Wolf là cuộc đời một con người đã cống hiến trọn đời cho niềm tin cộng sản, cho Nhà nước XHCN CHDC Đức. Ông đã chứng kiến và trải qua những vinh quang và cay đắng khi lý tưởng của ông bị phản bội và Nhà nước của ông bị tan vỡ. Tuy lo lắng cho tiền đồ của lý tưởng và đau lòng về những sai lầm, đổ vỡ của mô hình CNXH hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu, trên hết ông vẫn trung thành với con đường mà ông đã chọn, vẫn thuỷ chung, che chở cho những đồng chí, những cán bộ điệp báo đã từng làm việc dưới quyền ông, những điệp viên đã cộng tác với ông bất chấp những khoản đô la kếch xù, hăm doạ, dụ dỗ mà CIA của Mỹ, BfV của Đức hay Mossad của Israel đưa ra để ông tiết lộ danh tính của họ, bất kể kẻ khác chỉ trích, phê phán ông là mù quáng và xa rời thực tế. Nhớ tới Markus Wolf, chúng ta nhớ tới một nhà tình báo có đạo đức nghề nghiệp chân chính, một chiến sĩ cộng sản đã biết sống cho lý tưởng.
Markus Wolf và điệp viên lỗi lạc George Blake
Để hiểu thêm về tâm tư, trăn trở và con người Markus Wolf, xin trích vài dòng từ hồi ký “Người không lộ diện” của ông: “Vậy điều gì còn lại từ những lý tưởng của chúng tôi, từ những nỗ lực của chúng tôi nhằm biến CNXH thành hiện thực? Chúng tôi tin là mình đang đi theo những ý tưởng mà Marx và Engels đã nêu trong Tuyên ngôn Đảng Cộng sản... Chúng tôi đã thất bại, nhưng không phải vì chúng tôi đã áp dụng vào thực tiễn quá nhiều CNXH, mà bởi vì quá ít. Đó là niềm tin sắt đá của tôi... Chiến tranh lạnh đã kết thúc, một mô hình CNXH mà sự bắt đầu của nó gắn với những hy vọng lớn lao đã sụp đổ, nhưng tôi không đánh mất những lý tưởng của mình”.
Bia mộ anh em Konrad và Markus Wolf

Lawrence of Arabia. Đại tá T.E. Lawrence

VietnamDefence - Thomas Edward Lawrence (1888-1935), sĩ quan tình báo quân sự Anh, kiêm nhà khảo cổ và nhà văn Anh, có biệt danh "Lawrence of Arabia", tức "Lawrence của xứ Arabia".
T.E. Lawrence - Lawrence of Arabia
Buổi chiều đó ở Cairô rất ngột ngạt và các vị khách đến dự buổi chiêu đãi ngoại giao tiếp theo do tướng Clayton, trưởng phái bộ quân sự Anh - Phòng  Arập, tổ chức, đang nóng ruột chờ đợi được biến khỏi khách sạn mà không làm mếch lòng vị chủ nhân tinh mắt.
Những người Anh và Pháp có mặt tại buổi chiêu đãi - những đồng minh trong cuộc chiến tranh thế giới vừa bùng nổ là những đồng minh khá chân thành trong các vấn đề liên quan đến chiến trường châu Âu. Nhưng ở đây, tại thế giới Arập ở phương Đông này, ngai vàng Anh chẳng cần có đồng minh. Đế chế Anh cần các thuộc địa. Và nó chẳng muốn chia xẻ chúng với ai. Bởi vậy, những người phụ nữ có vẻ là nhàn tản nhất trong bữa tiệc ngột ngạt này. Mặc dù, cũng chẳng phải là tất cả...Vào buổi chiều ấy, nữ hầu tước Margarit d'Anduren, người luôn khiến những "chàng hiệp sĩ" thuộc đủ lứa tuổi tôn sùng không chỉ bởi nét kiều diễm của mình mà cả vì bà ta coi thường tính thiêng liêng của hôn nhân, hình như đang rất lo nghĩ về điều gì đó. Bà ta tới dự tiệc mà không có chồng đi theo. Hơn nữa, hầu tước Pierre d'Anduren, người đã đem đến cho vợ mình không chỉ tước vị quý tộc mà cả một tài sản khá lớn, đã từ lâu chả thèm quan tâm đến những trò nghịch ngợm của bà ta. Chiến tranh đã buộc họ phải ở lại Ai Cập trong kỳ nghỉ tuần trăng mật và hầu tước thì chẳng hề vội vã trở về quê hương mình. Margarit cũng chẳng vội về Paris bởi vì bộ sưu tập những kẻ ái mộ của bà đã bổ sung thêm một người nữa, lần này là một sĩ quan Anh trẻ trung.
Anh ta đứng trong góc phòng, tay cầm chiếc ly đại chân cao đầy nước khoáng trong đó bập bềnh mấy cục đá. Mái tóc vàng bồng bềnh trên vầng trán cao, đôi mắt xanh, khô khan, gương mặt cạo nhẵn nhụi. Nhưng Margarit có lẽ đã hiểu rằng, chẳng thể cưỡng nổi vẻ quyến rũ kỳ lạ đầy mê hoặc trong giọng nói của con người này. Chờ cho đến khi đám đông những dại gái tản đi khỏi nữ hầu tước, anh ta lại gần bà với gương mặt rầu rĩ, kiểu cách nghiêng mình và khẽ lẩm nhẩm: "Tôi đợi bà trong phòng ở tầng hai".
... Đây là cuộc hò hẹn kỳ lạ nhất trong cuộc đời đầy những chuyến phiêu lưu tình ái của Margarit. Viên sĩ quan nói rất đơn giản cứ như họ đã quen nhau từ nhiều năm nay và đã nhiều lần đề cập đến việc này: "Thưa bà hầu tước thân mến, bà hãy giúp nước Anh. Chúng tôi rất cần bà làm quen với Pasa (tổng trấn) Said. Ngày mai, tướng Clayton sẽ tiếp bà. Chúng ta sẽ không trả miếng nhau. Bà đồng ý chứ?"
T.E. Lawrence - Lawrence of Arabia
Không, quả thực bà đã không thể cưỡng nổi vẻ quyến rũ kỳ lạ đầy mê hoặc trong giọng nói của con người này và đã đồng ý. Vài tháng sau, nữ hầu tước Margarit d'Anduren đã trở thành tình nhân của một trong các thủ lĩnh các bộ lạc Arập và bắt đầu cung cấp tin tức cần thiết. Nhân viên tình báo quân sự Anh Lawrence đã nhận được lời cảm ơn từ London vì lần tuyển mộ thành công mới này. Đây là vụ tuyển mộ có lẽ thuộc loại khó nhất đối với ông ta. Lawrence rất không ưa phụ nữ. Ông ta không yêu họ trong suốt đời mình...
Về ông, người ta đã viết những cuốn sách, dựng những bộ phim, đưa ra những nhận xét trái ngược nhau, trong đó "thiên tài" đối nghịch với người đối lập với tính "quỷ quyệt" hèn hạ đặc trưng. Hơn nữa, đến Jago của Shaekspeare cũng bị người ta gọi là "thiên tài của cái ác". Tất cả phụ thuộc vào việc tài năng con người nhằm phục vụ cái gì, việc gì và mục đích nào, cái thiện hay cái ác, sự thật hay giả dối.
Lawrence là một nhà tình báo quân sự xuất chúng vào thời của mình. Ông rất giỏi tiếng Arập và các thổ ngữ của nhiều bộ lạc Beduin, nghiên cứu không chỉ phong tục, tập quán mà cả tín ngưỡng của họ. Ngay từ trước Thế chiến I, ông đã đi khắp thế giới Arập, thiết lập những mối liên hệ chặt chẽ với những thủ lĩnh của các bộ lạc Arập lớn nhất, hiểu rõ như lòng bàn tay những điểm yếu của họ nhờ đó ông đã đứng trong hàng ngũ tiên phong của những người tổ chức nổi dậy của người Arập. Đế quốc Anh chính là cần có một diễn viên như vậy trên sân khấu của chiến trường Arập.
Điều gì đã gắn bó quân lính Anh với một đầu cầu bất tiện như vậy, nơi họ phải không chỉ đánh nhau mà còn phải chi nhiều tiền để xây dựng đường sá và căn cứ? Trước hết, đó là vì ý nghĩa chiến lược của khu vực này. Vùng này có các đường sắt Hejas và Damas chạy qua - đó là những tuyến đường hậu cần huyết mạch cho quân đội Thổ Nhĩ Kỳ ở vùng kênh đào Suez. Sử dụng lính chính quy, bị phụ thuộc vào các căn cứ, để đánh nhau với người Thổ là một điều rất bất tiện. Cần phải có các đơn vị cơ động nhỏ thạo di chuyển đường dài trong sa mạc không bóng người và có khả năng xuất hiện bất ngờ trong hậu phương quân Thổ, phá hoại các tuyến đường sắt. Do đó, bộ tổng tham mưu Anh mới nảy ra ý định lợi dụng tâm trạng chống Thổ của người Arập, thậm chí tập hợp họ vào những đơn vị khởi nghĩa chiến đấu lưu động. Điều đó phải trông chờ vào người nào có thể giành được sự tín nhiệm của các thủ lĩnh bộ lạc Arập hám tiền và bất lương và lái hành động của họ vào một hướng thống nhất mà đế quốc Anh đang cần để đánh Thổ Nhĩ Kỳ bằng tay người khác mà không không phải rút bớt lực lượng từ mặt trận phía Tây.
***
Chúng ta sẽ tìm kiếm kỹ càng trong tiểu sử của Lawrence những nét tính cách siêu nhân nào đó, những điều được các nhà nghiên cứu phương Tây nghiên cứu sự nghiệp của "siêu điệp viên" Anh này thích tô vẽ. Chúng ta sẽ chỉ ra tính hám danh quá đáng đến cùng cực, sự giả nhân giả nghĩa, khuynh hướng thích mạo hiểm và sự gàn bướng hiếm có ở con người này. Chúng ta vạch ra chỉ để hiểu rõ hơn cái kính vạn hoa của những cảnh ngộ éo le của cuộc đời mà Lawrence đã trải qua. Khác với nhiều đồng nghiệp của mình, ông ta thờ ơ không chỉ đối với phụ nữ mà cả với tiền bạc.
Thomas Edward Lawrence sinh ngày 15 tháng 8 năm 1888 ở Tremadoc, Northen Wales trong một gia đình khá nghèo, sau thời gian phiêu bạt tha phương ở Scotland và Anh, ông ta dừng chân lại ở Oxford. Tại đây, Edward bắt đầu đi học. Sau này, ông ta viết: "Trường học là một việc làm vô bổ và mất thì giờ mà tôi cực kỳ căm ghét". Đúng là ông ta không có đủ thời gian. Không có đủ thời gian để đọc những cuốn sách về những cuộc thập tự chinh và khảo cổ học. Sự ham mê thơ dại đối với lịch sử đã lớn lên, trở thành một sự say mê nghiêm túc đối với khảo cổ học. Khi còn ngồi trên ghế ở trường đại học, Lawrence đã viết luận văn với đề tài "ảnh hưởng của các cuộc thập tự chinh đối với kiến trúc quân sự châu Âu thời Trung Cổ"; công trình nghiên cứu này đã giành được giải nhất. Trước khi trình luận văn cho các thầy giám khảo, Lawrence đã tới Syria và nghiên cứu tất cả những phế tích được biết đến của các pháo đài của thập tự quân.
"Sự nghèo khó của tôi - Lawrence viết trong hồi kỳ - đã cho phép tôi nghiên cứu những tầng lớp người vốn xa cách với một du khách giàu có bởi tiền bạc và những kẻ đồng hành của anh ta. Tôi đắm mình vào tầm lớp quần chúng cặn bã nhất, lợi dụng những cảm tình của họ giành cho tôi... Trong người Arập không có sự khác biệt về truyền thống, sắc tộc; toàn bộ quyền lực vô thượng thuộc về Shah (quốc vương) vĩ đại. Người Arập nói với tôi rằng, không ai, bất kể anh ta có những đức tính gì, cũng không thể trở thành thủ lĩnh của họ nếu như không ăn thức ăn mà họ ăn, không mặc thứ mà họ mặc và không sống cuộc sống mà họ sống". Lawrence không đơn độc khi nghiên cứu văn hoá của những người Arập cổ và cuộc sống của người Arập hiện đại. Hướng dẫn ông là nhà khảo cổ nổi tiếng, giáo sư Hoggarth, người đã đóng vai trò rất quan trọng trong bước ngoặt đột ngột của số phận của một sử gia đầy triển vọng. Vấn đề là ở chỗ, Hoggarth là một chuyên gia xuất chúng không chỉ về khảo cổ học, mà cả về nghề gián điệp mà ông ta đã làm trong nhiều năm để phục vụ tình báo Anh. Khi chuẩn bị cho chiến tranh thế giới, nước Anh liên tục phái tới biên giới Thổ Nhĩ Kỳ-Ai Cập các đoàn "thám hiểm" này nọ và đều do giáo sư Hoggarth đứng đầu. Nhà văn Anh nổi tiếng R. Aldington không giấu vẻ châm biếm khi nhận xét: "Do trung thực là cách làm tốt nhất, nên người ta quyết định làm những bức bản đồ địa hình dưới vỏ bọc một đoàn thám hiểm khảo cổ học có sự tham gia của Lawrence, người được cử tới Sinai theo yêu cầu của Bộ Chiến tranh".
Lawrence đã kề vai sát cánh làm việc với giáo sư Hoggarth từ năm 1910 đến năm 1914, nhiều lần tới Syria và Palestin làm nhiệm vụ thu thập những tin tức cần cho tình báo Anh và thiết lập những mối quan hệ có triển vọng tương lai. Bắt đầu con đường binh nghiệp tại Phòng địa lý của Bộ Chiến tranh, Lawrence, sau đó, đã chuyển sang chi nhánh dưới cái tên "Phòng Arập". Khi chiến tranh thế giới thứ nhất bắt đầu, Phòng Arập biến thành trung tâm điều phối của cơ quan tình báo Anh ở thế giới Arập phương Đông. Chỉ huy phòng này là tướng Clayton.
Các sử gia Anh và các nước khác đã viết hàng trăm trang sách về việc Lawrence, "bạn" của người Arập, đã trở thành con người không thể thay thế trong đám cận thần của vua Arập Xêut Hussein như thế nào,và sau đó trở thành cái "tôi" thứ hai của một người con trai vị vua đó là Faisal, dưới quyền ông này có rất nhiều bộ lạc. Khẩu hiệu được tung ra thành công nhằm đoàn kết người Arập đấu tranh chống lại Thổ Nhĩ Kỳ, nước đang đứng cùng phe với nước Đức chiến đấu chống lại phe Đồng Minh, đã cho phép Faisal-Lawrence tổ chức cuộc nổi dậy của dân chúng, kiểm soát ông ta và lập ra một quân đội khá mạnh gồm các đội phá hoại, những đội đã gây ra nhiều khó khăn cho quân đội chính quy Thổ Nhĩ Kỳ. Cho tận những ngày cuối cùng của cuộc chiến, đại tá Lawrence vẫn phục vụ trong quân đội của Faisal với tư cách chính thức là cố vấn quân sự và sĩ quan liên lạc của mặt trận Arập với đại bản doanh bộ chỉ huy Anh ở Trung Đông.
"Bạn" của người Arập ư? Chúng tôi đặt từ này trong ngoặc kép và đó không phải là ngẫu nhiên.  Chỉ thị mật của Lawrence cho các sĩ quan Anh khi quan hệ với người Arập một lần nữa lại đến thì chứng tỏ điều ngược lại. "27 điều" của chỉ thị là bằng chứng khá rõ ràng về cách thức mà Lawrence cư xử với những "người bạn" Arập. Chúng tôi xin trích một số trong 27 điều trên.
"Cố chiếm lòng tin của thủ lĩnh và giữ được sự tín nhiệm ấy. Tìm cách nâng cao uy tín của thủ lĩnh trước những người khác bằng tiền của mình. Không bao giờ từ chối và không làm đổ vỡ những kế hoạch mà ông ta có thể đề xuất. Luôn tán thành những kế hoạch ấy, vừa tán thưởng, khen ngợi vừa thay đổi từng tí và buộc chính thủ lĩnh phải nêu thêm những đề nghị cho đến chừng nào chúng trùng khớp với ý kiến riêng của anh...
Mặc dù, ta khó mà ép buộc người Beduin làm một việc gì đó, song họ lại dễ sai khiến miễn là anh có đủ kiên nhẫn. Sự can thiệp của anh càng khó thấy bao nhiêu thì ảnh hưởng của anh càng lớn bấy nhiêu. Người Beduin sẵn sàng làm theo lời khuyên của anh, thậm chí cũng chẳng nghĩ rằng anh hay người nào khác biết về điều đó.
Không nên nguỵ trang che giấu... Đồng thời, khi đang ở giữa những người Arập, nếu anh biết ăn mặc như họ, anh sẽ giành được lòng tin và sự thân thiện, những cái mà khi mặc quân phục, anh không bao giờ có thể giành được. Tuy vậy, điều này vừa khó, vừa nguy hiểm. Do anh ăn mặc như người Arập, họ sẽ không làm một điều gì ngoại lệ riêng cho anh. Anh phải tự thấy mình như một diễn viên trong một nhà hát xa lạ, diễn vai của mình hết ngày đến đêm không ngưng nghỉ trong suốt nhiều tháng và với độ mạo hiểm cao...
Nhiều khi anh phải tham gia vào các cuộc tranh luận về tín ngưỡng. Hãy cứ nói thoải mái về tín ngưỡng của mình, song tránh chỉ trích các quan điểm của họ...
Đừng bắt chước người Arập và tránh nói chuyện tuỳ tiện về phụ nữ. Đây cũng là vấn đề khó như tín ngưỡng. Về mặt này, các quan điểm của người Arập khác với các quan điểm của chúng ta đến mức những nhận xét vô hại theo quan điểm của người Anh chúng ta lại là những lời nói láo xược đối với họ, cũng như một số tuyên bố của họ nếu dịch máy móc từng chữ có thể lại là láo xược đối với anh.
Toàn bộ bí quyết đối xử với người Arập là ở chỗ phải nghiên cứu họ liên tục. Phải luôn cảnh giác, không bao giờ được nói những điều không cần thiết, luôn theo dõi mình và các bạn bè mình. Hãy nghe những gì đang diễn ra, hãy tìm cho ra những nguyên nhân thật sự. Hãy nghiên cứu tính cách của người Arập, những sở thích và những điểm yếu của họ và hãy giấu kín cho mình những gì mà anh đã phát hiện ra... Thành công của anh sẽ tỷ lệ với số năng lượng trí tuệ mà anh đã bỏ ra cho việc này".
Như người Anh thường thích nói: "No comment" - miễn bình luận. Giá như người Arập được đọc chỉ thị mật này mà "người bạn" của họ chuẩn bị với những sắc thái tâm lý như thế!... Nhưng khi đó họ đang rất tin tưởng Lawrence bởi vì anh ta là một diễn viên khôn khéo, biết giành lấy sự tín nhiệm của các thủ lĩnh, biết cách mua chuộc các quốc vương một cách "ít tốn kém", biết nguỵ trang và diễn vai của mình trong "nhà hát của kẻ khác" một cách không ngừng nghỉ, mạo hiểm đối với tính mạng, nhưng không bao giờ mắc sai lầm và đã giành được quyền lực đối với những vùng lãnh thổ và những con người.
Trong cuốn sách nhiều tập "Lịch sử gián điệp" xuất bản ở Italia, người đã viết về đặc điểm tính cách của "người bạn" của người Arập: "Chỉ trong biên chế của "Phòng Arập", Lawrence mới có thể phát huy tối đa tài năng dàn dựng âm mưu của mình. Ông ta là con cáo tinh ranh, cực kỳ khôn khéo, không thèm đếm xỉa đến ai, nhổ toẹt vào thượng cấp và do đó làm cho cả bộ tổng tham mưu Anh chống lại mình. Chỉ có một nhóm chuyên gia nhỏ biết đánh giá ông thực sự là cuốn bách khoa từ điển sống và là người biết làm việc với người Arập. Lawrence biết rằng, ông có những người bạn đầy thế lực ở London. Bởi vậy, ông không do dự đuổi thẳng cổ những kẻ gây phiền nhiễu hoặc những kẻ mà ông không ưa. Tự tin và táo bạo, mơ mộng và kênh kiệu, Lawrence là sĩ quan của chi nhánh SIS tại Cairo trong 20 năm am hiểu nhất về người Arập và có một mạng lưới điệp viên Arập rộng rãi, được tổ chức tốt tại những vùng đất bị quân Thổ chiếm. Khép kín, hiếu danh, say mê sự tôn sùng đối với bản thân, ông ta thật can đảm khi đối diện với hiểm nguy và phiêu lưu đến tuyệt đỉnh. Lawrence đã trở thành một người dân du mục thực sự, mặc trang phục của người Beduin, dễ dãi trong ăn uống, dễ dàng chịu nóng, chịu khát và cuối cùng đã trở thành chỉ huy của các đơn vị khởi nghĩa Arập, những đơn vị đã chiến đấu hiệu quả với quân Thổ. Ông được an táng trong nhà thờ Thánh Paul ở London giữa những anh hùng chiến tranh và những nghệ sĩ danh tiếng của nước Anh".
Thiếu tá Sterling, một trong những sĩ quan liên lạc với bộ tham mưu quân Anh nhớ lại: "Khi đến Abu-El-Lissal, tôi tìm được Lawrence vừa trở về sau một cuộc tập kích thành công vào đường sắt khi ông đang ngồi trong lều của mình trên một tấm thảm Ba Tư tuyệt đẹp lấy được từ một đoàn tàu hỏa nào đó của quân Thổ. Ông ăn mặc như thường thấy: trang phục trắng, sau thắt lưng dắt con dao găm bằng vàng. Phía ngoài, đây đó trên cát có một số vệ sĩ người Arập trong đội cận vệ của ông đang ngồi lau súng trường... Bảo vệ là biện pháp đề phòng cần thiết bởi vì đầu Lawrence được treo giá 20.000 bảng Anh, còn người Arập là loại người hay phản phúc nếu họ đã không tuyên thệ với anh và không nhận được tiền thưởng. Bất cứ vệ sĩ nào trong đội cận vệ cũng sẵn sàng vui lòng hy sinh tính mạng cho ông... Cái gì đã giúp ông thống trị được người Arập và khiến họ tuân phục? Đây là câu hỏi rất khó trả lời. Người Arập nổi tiếng là cá nhân chủ nghĩa và vô kỷ luật, nhưng mặc dù vậy, ta chỉ cần nói rằng, hễ Lawrence muốn gì thì điều đó nhất định sẽ được thực hiện. Làm sao mà ông có thể có được quyền lực như vậy đối với họ? Điều đó có thể lý giải một phần là Lawrence giả vờ làm người ủng hộ phong trào giải phóng của người Arập. Người Arập nghĩ rằng do ông ta đã dẫn dắt họ đến một sự nghiệp quan trọng như vậy nên ông ta đứng ngang hàng với các quốc vương hay con cháu của Đấng tiên tri, không phải vô cớ mà Faisal đã đối xử với ông như với một người anh em, như một người ngang hàng, hơn nữa hiển nhiên ông còn ta còn có một nguồn dự trữ vàng vô hạn, mà người Arập lại là loại người dễ bị mua chuộc nhất..."
Đại tá Lawrence là kẻ khiêu khích theo đúng nghĩa đen của từ này, bởi vì cuộc nổi dậy của người Arập không phải là để thực hiện "nhiệm vụ vĩ đại thành lập nhà nước Arập" như bản thân Lawrence cố làm ra vẻ như vậy trong hồi ký của mình. Nó, cái phong trào này, cùng với cuộc khởi nghĩa đã trở thành công cụ của chính sách thôn tính của đế quốc Anh, kẻ đang muốn biến các vùng đất Arập thành thuộc địa của mình, điều mà nó đã làm được sau Thế chiến I bằng cách lợi dụng chiêu bài uỷ trị của Hội Quốc Liên. Một trong những người bênh vực kiên trì nhất cho Lawrence, sử gia Liddel Hart, khi ca ngợi chế độ uỷ trị mà dưới vỏ bọc đó, nước Anh đã cố nô dịch dân tộc Arập, đã viết: "Bằng cách đó, Anh quốc đã có thể đưa ra một sự khẳng định hùng hồn rằng, ý tưởng nằm trong nền tảng của quyền uỷ trị có thể đưa vào cuộc sống cả về tinh thần, cả về câu chữ. Danh dự của Lawrence cũng đã được phục hồi. Đối với người Arập, Lawrence thậm chí còn giành được nhiều hơn điều mà ông ta dự tính ban đầu. ông đã cho họ khả năng đứng vững trên đôi chân mình và lợi dụng điều đó một cách phù hợp với nguyện vọng và tài năng của họ. Ông không thể làm hơn được. Việc thiết lập một nhà nước thân Anh ở Iraq đã là mục tiêu chính của Lawrence..."
Như vậy, theo Liddel Hart, ta có được bức tranh khá hấp dẫn: người Arập đã đạt được cái mà họ đang có, Anh quốc thì hài lòng, còn Lawrence thì biến thành một anh hùng. Chả lẽ lại thế?
Người Arập đã nhận được cái gì? Faisal lên ngôi, trở thành Vua Faisal I ở Iraq với, em ông ta là Abdullah lên ngôi ở Transjordanie để tiến hành chính sách của đế quốc Anh nhằm thủ tiêu phong trào giải phóng dân tộc của người Arập.
Nước Anh đã được cái gì? Những thuộc địa mới: Iraq, Palestin, Hejas, cơ sở dầu mỏ và căn cứ hải quân ở Haifa... Nói một cách ngắn gọn, đế quốc Anh đã củng cố vững chắc nền thống trị của mình đối với bán đảo Arập.
Lawrence đã nhận được cái gì? Sự thoả mãn tinh thần, Liddel Hart khẳng định. Có thể... Chính là tinh thần bởi vì cuộc nổi dậy của người Arập mà nhân viên tình báo quân sự Anh Lawrence tự coi mình là người cổ suý, đã không có bất kỳ ảnh hưởng nào đến kết quả của các hội nghị sau chiến tranh xác định số phận của đế quốc Ottoman và các vùng đất Arập của nó. Tại hội nghị các nước Đồng Minh ở San-Remo diễn ra vào tháng 4 năm 1920, quyền uỷ trị đã được phân chia xong. Dưới áp lực của Pháp, Anh phải rút quân khỏi Syria và quân Pháp đã giành lấy Damas nơi mà vào năm 1918, một đơn vị cưỡi lạc đà trong đó có Lawrence, lợi dụng việc quân Thổ đã rút lui, đã tiến vào đánh chiếm. Người "bạn" tốt nhất của người Anh Faisal đã bị lật đổ và ông ta đã nguyền rủa ầm ĩ người "anh em" phản trắc - đại tá Lawrence của mình.
Thực ra cũng có một số nhà nghiên cứu phương Tây đã cố chứng minh rằng, dường như Lawrence rất đau khổ vì việc người Anh đã không thực hiện những cam kết của mình đối với người Arập nên đã đoạn tuyệt hẳn với cơ quan tình báo Anh Secret Intellgigence Service. Tuy nhiên, giả thiết này khó có cơ sở để tồn tại. Đơn thuần là Lawrence với tư cách một nhân viên tình báo quân sự phải thực hiện nhiệm vụ được giao cho ông và các công việc khác. Còn một giả thiết sai lầm khác cố chứng minh rằng, Lawrence, bằng hành động chống quân Thổ của mình, đã hình thành một học thuyết mới trong nghệ thuật tác chiến. Không! Toàn bộ hoạt động quân sự của ông ta tập trung vào việc tổ chức các trận tập kích của các đơn vị Arập nhỏ trong hậu phương quân địch, tiêu diệt các đồn bốt và sinh lực địch. Nói một cách ngắn gọn, đó là chiến tranh du kích đã buộc quân Thổ phải tăng cường canh phòng bảo vệ các tuyến đường sắt, khiến quân Thổ phải phân tán lực lượng, gây những tổn thất vật chất và tất nhiên là làm suy yếu lực lượng quân Thổ trên hướng quyết định. Kết hợp với hành động của quân chính quy, cuộc chiến tranh du kích đã luôn tạo ra một tác động đáng kể trên một chiến trường rộng lớn.
Phần tiểu sử sau chiến tranh của Lawrence rất rắc rối và mờ nhạt. Năm 1921, Winston Churchill, người đứng đầu Bộ Thuộc địa, đã đề nghị ông ta giữ chức cố vấn chính trị trong Cục Trung Đông mới thành lập. Khi xuất hiện vấn đề khen thưởng, Lawrence yêu cầu cấp cho mình 1.000 bảng/năm. Churchill thấy đây là yêu cầu khiêm tốn nhất từng được đề đạt với ông ta và dã quyết định cấp cho vị cố vấn mới khoản tiền 1.600 bảng/năm. Tại hội nghị Cairo tháng 3 năm 1921, Lawrence đã thuyết phục được Churchill đưa lên ngôi vua Iraq, nước nằm dưới quyền uỷ trị của Anh, vị quốc vương Faisal mới bị lật đổ ở Syria. Như vậy là viên đại tá đã trả được món nợ cũ với người "anh em" xưa. Sau đó, Lawrence về hưu và mặc dù có sự thuyết phục của Churchill, ông vẫn rời bỏ Bộ Thuộc địa. Tháng 8 năm 1922, ông bất ngờ gia nhập làm binh nhì trong không quân Anh với tên họ là J.H. Ross. Bản thân Lawrence đã giải thích hành động của mình như sau: "Mỗi người hoặc là phải gia nhập không quân hoặc là phải giúp cho nó phát triển".
Trên thực tế, mọi việc hoàn toàn khác. Có những tin tức cho rằng, chính các xếp tình báo Anh đã phái "con ngựa đua Arập" của mình vào không quân với tên giả. Tuy vậy, Lawrence đã không thể giữ kín được tung tích. Sau khoảng 6 tháng phục vụ, một viên sĩ quan thù địch từ lâu với viên đại tá đã nhận ra ông ta. Với khoản tiền nhỏ, viên sĩ quan đã tiết lộ phát hiện của mình cho báo chí. Sau sự kiện này, tình báo Anh quyết định phái Lawrence đi công tác ở đâu đó xa hơn, nơi mà khả năng bị lộ mặt ít hơn. Lawrence lại đội lốt một thợ máy trong lực lượng xe tăng tên là T.E. Shaw và đồng thời làm thầy tu Pir-Karam-shah. Vỏ bọc đầu được dùng để giao tiếp với người Anh, vỏ bọc thứ hai dùng để giao tiếp với người Hindu: Lawrence được cử sang ấn Độ, tới pháo đài kiêm khu dân cư Miram-shah trên biên giới với Afghanistan.
Khi đó, ngồi trên ngai vàng Afghanistan là tiểu vương Amanullah, người với thiện chí của mình đã quyết định tiến hành những cải cách xã hội trong nước. Điều đó làm cho London không thích thú. Người Anh quyết định bằng mọi cách phá vỡ những kế hoạch của Amanullah, gạt bỏ ông ta khỏi ngai vàng và thay thế bằng một tiểu vương ngoan ngoãn khác sẵn sàng nhảy múa theo tiếng sáo của các ông chủ thực dân. Một trong những kẻ thực hiện chủ chốt kế hoạch này là Lawrence khi đó dưới lốt Pir-Karam-shah.
Sau khi đến pháo đài Misram-shah, Lawrence bắt đầu bắc những "chiếc cầu" với Kabul. Ông ta không hề tiếc tiền, mà trái lại, ông ta được phép mua chuộc hay mua chuộc lại những giáo sĩ Hồi giáo hám tiền, cũng như những tên cướp thuộc các băng cướp địa phương thường xuyên qua lại biên giới ấn Độ-Afghanistan.
Pir-Karam-shah căm thù người Afghanistan giống như căm thù người Arập thời ông ta làm việc ở Trung Đông. Ông ta không hề ngượng ngùng nói thẳng điều đó với những người hầu của mình. Thực ra, đó là một thủ đoạn đặc biệt để gây khiếp sợ cho những người dưới quyền ông ta: ông ta là chủ nhân của họ và là người có quyền bắt chết là phải chết, cho sống là được sống.
Một lần, một liên lạc viên hoả tốc đi từ Kabul tới Miram-shah sau 4 ngày đi đường mang theo một tin mật cho Lawrence. Liên lạc viên hoả tốc và đội bảo vệ anh ta hầu như không ăn gì suốt dọc đường. Đám người này hầu như hoàn toàn kiệt sức. Khi nhìn thấy cảnh này, Pir-Karam-shah đã hạ lệnh cho người hầu của mình: "Cho ngựa ăn. Còn bọn này thì cho uống nước, hay là..."
Trong tin mật nói rằng, cựu tiểu vương Bukhara là Seid Alim-khan sống ở ngoại ô Kabulk và đang buôn bán lông cừu non London, đồng thời cũng duy trì những quan hệ chặt chẽ với bọn thổ phỉ, ông này cấp tiền thu được từ tiêu thụ bán lông cừu non cho chúng. Nhưng bức thư còn có một chi tiết nữa thu hút sự chú ý của Lawrence. Cựu tiểu vương Bukhara hoá ra đang có quan hệ thân thiết với Bachaji Sacao. Tên hung thần này tàn bạo và hung ác đến mức giết cả cha mình, vợ, giáo sĩ Hồi giáo... Lawrence quyết định: đây là đồng minh lý tưởng chỉ có trong mơ. Với sự giúp đỡ của Bachaji Sacao, Lawrence rắp tâm trước hết làm mất uy tín các sáng kiến cải cách của tiểu vương Amanullah, sau đó giành toàn bộ quyền lực ở Afghanistan thông qua những tay chân của mình.
Nhưng Lawrence không thể tìm ngay ra Bachaji Sacao. Tên cướp này cướp bóc các đoàn súc vật chở hàng ở đâu đó trong vùng núi và tránh xuất hiện gần những khu dân cư. Đôi khi hắn vượt biên giới và tham gia các cuộc ăn chơi trác táng nhiều tuần liền ở gần Peshawar. Cuối cùng thì Bachaji Sacao cũng diện kiến với Lawrence. Nắm được bản tính tinh quái của tên cướp, Pir-Karam-shah lập tức chơi bài liều: nếu Sacao giúp ông ta lật đổ Amanullah thì ông ta, Pir, sẽ bảo đảm trao ngai vàng Kabul cho hắn.
"Trước tiên cần phải làm gì? Tuyên truyền chống những cải cách của Amanullah trong dân chúng. Những chủ trương có thể gây bất bình trong nhân dân là những vấn đề sau. Một là Amanullah từ chối mang khăn đóng mà Đấng tiên tri đã quy định. Ông muốn mọi người đội mũ. Hai là Amanullah từ chối mặc trang phục Hồi giáo, thứ trang phục mà tổ tiên người Afghanistan đã từng mặc. Ông hạ lệnh cho tất cả phụ nữa bỏ tấm mạng che mặt. Ba là, ông hạ lệnh cho tất cả đàn bà, con gái đều phải đến trường. Ông quyết định đàn ông không bắt buộc phải để râu, ria. Bốn là ông hoan ngênh sự khinh thường với tôn giáo. Amanullah đưa các bà vợ của mình ra nước ngoài học cách cư xử tốt nhưng trái với tập tục truyền thống. Năm là ông muốn để người dân được bác sĩ điều trị. Ông huỷ bỏ âm lịch..."
Bachaji Sacao không cần những lời bình luận cho bản liệt kê những "hành động có dụng ý xấu" của người cầm quyền tại Kabul. Hắn coi lời huấn thị này như một mệnh lệnh hành động. Một tuần sau đó, ngọn lửa căm hờn đối với Amanullah đã bùng lên như đám cháy trong gió, lan khắp từ làng này đến làng khác. Đã nổ ra các cuộc nổi loạn, bạo loạn có vũ trang chống chính phủ.
Đồng thời, Pir-Karam-shah đã cho phát tán thông qua các điệp viên của mình những bức ảnh giả mạo chụp các cô gái bề ngoài giống như phụ nữ Afghanistan đang ở những tư thế tục tĩu ngồi trên đùi đàn ông. Dòng chữ viết dưới các bức ảnh là: "Amanullah đang thực hiện những giáo huấn thiêng liêng của Đấng tiên tri và luật Hồi giáo Shariat thiêng liêng vốn ghi rõ không ai có quyền để cho người đàn ông khác thấy mặt vợ mình".
Thủ đoạn hèn hạ này đã gây ra làn sóng phẫn nộ mới ở khắp Afghanistan. ở London, nơi Lawrence phải gửi báo cáo về, người ta đang xoa tay hài lòng. Trong một báo cáo, viện đại tá viết: "Vừa mới phát tán tại Afghanistan tuyên bố với nội dung dưới đây thay mặt tất cả những tín đồ sùng tín: "Chúng tôi, tất cả những người Hồi giáo, tước bỏ của Amanullah quyền cai trị chúng tôi và thừa nhận mình theo đúng lời mệnh lệnh của thượng đế và giáo huấn của Đấng tiên tri vĩ đại là thần dân trung thành của tiểu vương Sacao. Chúng tôi tình nguyện coi người là chủ nhân của Kabul... Kẻ nào không muốn sự vĩnh hằng của Padishah (quốc vương) thì kẻ đó sẽ chết". Với những tin tức và mong muốn tốt lành nhất. Pir-Karam-shah".
Đoạn cuối cùng: "Với những tin tức và mong muốn tốt lành nhất" chính là mật khẩu. ở London, người ta biết rằng, điều đó có nghĩa là: đã đến lúc thể hiện sức mạnh quân sự của Anh quốc. Bộ chỉ huy Anh đã hạ lệnh cho các máy bay chiến đấu cất cánh ngay lập tức từ các sân bay của Anh ở ấn Độ và bay vào lãnh thổ Afghanistan. Một số máy bay chiến đấu đã bay tới tận Kabul. Còn dưới tiếng gầm rú của động cơ máy bay Anh, Bachaji Sacao đang bí mật thương lượng với đại sứ Anh tại Afghanistan Hamphris. Tờ báo Anh "Daily Mail" ngày 28 tháng 2 năm 1929 thông báo: "Hamphris đã giúp Bachaji Sacao lên nắm quyền". Ta thừa hiểu rằng, nhân vật chính của toàn bộ câu chuyện phiêu lưu này chẳng phải là Hamphris mà là đại tá Lawrence.
Bachaji Sacao đã chiếm lấy Kabul và tự tuyên bố là tiểu vương Afghanistan. Theo chỉ thị của Pir-Karam-shah, Bachaji Sacao đã triển khai hoạt động điên cuồng chống phá Liên Xô. Có tới 20.000 tên thổ phỉ đồn trú tại miền Bắc Afghanistan đã bắt tay vào thực hiện các cuộc tập kích ăn cướp vào lãnh thổ các nước cộng hoà Xôviết Trung á.  Song bản thân Lawrence cũng hiểu rằng, những đám mây đen đang quần tụ. Ông ta hiểu rằng ngai vàng của Bachaji Sacao không vững chắc. Cần phải thoát thân.
Tháng 2 năm 1929, ông ta trở về London. Chính vào lúc đó, các đảng viên Công đảng đã đưa ra nghị viện Anh chất vấn về "các hoạt động của Lawrence trên biên giới Afghanistan". Còn trong một cuộc tuần hành do những người cộng sản Anh tổ chức, những người tuần hành đã đốt hình nộm Pir-Karam-shah - Lawrence để phản đối.
Rồi thời gian trôi đi, tưởng chừng như người ta đã quên Lawrence. Người ta chỉ nhớ lại ông ta vào tháng 10 năm 1929 khi mà những người ái quốc Afghanistan lật đổ ngai vàng của tên bù nhìn, tay sai của Anh quốc Bachaji Sacao và sau đó hành hình hắn. Còn khi mà các băng đảng thổ phỉ đã bị hoàn toàn đánh tan ở Afghanistan thì những hy vọng của bọn đế quốc sử dụng Afghanistan làm bàn đạp cho hoạt động lật đổ chống Liên Xô cũng sụp đổ.
Còn Lawrence - Pir-Karam-shah thì sao? Ông ta quyết định đặt dấu chấm hết cho một tiểu sử lạ kỳ của mình. Ông ta quyết định chuyển sang viết lách.
Với ngòi bút, ông ta đã cho ra đời 2 cuốn sách: "Nổi dậy trong sa mạc" và "Bảy trụ cột của sự sáng suốt". Ông ta đã không kịp đưa cuộc phiêu lưu Afghanistan của mình thành sách. Chiều 19 tháng 5 năm 1935, một chiếc môtô đang lao nhanh trên một con đường tỉnh lộ. Không ai nhìn thấy tai nạn xảy ra như thế nào. Những người chứng kiến vội vã đổ tới hiện trường tai nạn khi mà người đi xe môtô đã hấp hối. Ông ta chính là Sir Thomas Edward Lawrence, 47 tuổi... Vị cựu tình báo viên quân sự này vội vã đi đâu vậy? Theo một số nguồn tin, người ta biết rằng, một ngày trước khi xảy ra tai nạn, Lawrence đã nhận được một bức thư của một người bạn trong đó đề nghị Lawrence tổ chức một cuộc gặp với Hitler. Mải suy nghĩ về đề nghị này, Lawrene vội vã đi tới bưu điện (ông ta sống ở ngoại ô) để gửi bức điện khẩn thông báo sự nhận lời của mình về cuộc gặp. Trên đường về bằng xe máy, ông ta đã gặp nạn. Người ta còn biết rằng, không lâu trước khi chết, Lawrence đã có những mối liên hệ chặt chẽ với bọn phát xít ở Anh và thủ lĩnh của chúng Oswald Mosley.
Vậy thì đại tá Lawrence là ai?
Về bản thân mình, Lawrence đã một lần từng nói: "Tôi, nói chung, giống như một khách bộ hành khôn khéo đang tránh né các xe ôtô đang chạy trên đường phố chính".

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét