ĐÃ TỪNG HIỆN THỰC 6
- Nhận đường liên kết
- X
- Ứng dụng khác
(ĐC sưu tầm trên NET)
- Phó Tổng Thư ký Hội Văn hoá Văn nghệ Dân gian Việt Nam (từ 1989 đến 2005)
- Chủ tịch Hội Sử học Hà Nội (từ 1990 đến 1996)
- Uỷ viên Ban Chấp hành Hội Sử học Việt Nam (từ 1993 đến 2005)
- Chủ tịch Câu lạc bộ Ngành nghề thủ công truyền thống
- Chủ nhiệm câu lạc bộ Văn hoá Ẩm thực Việt Nam (từ 1995 đến 2005)
- Cố vấn Bộ trưởng Bộ Văn hoá Thông tin về Chương trình thiết kế - tu bổ - tôn tạo các di tích lịch sử (từ 1995 đến 2005)
- Tư vấn Uỷ ban nhân dân Hà Nội về các di tích lịch sử Hà Nội và Chương trình "Ngàn năm Thăng Long" (từ 1995 đến 2005)
- Uỷ viên Hội đồng tư vấn của Viện Khoa học Xã hội Việt Nam về Khu di tích Hoàng thành Thăng Long (2003-2004)
Ngày 20 tháng 1, 2012, ông được Chủ tịch nước ký quyết định trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt IV về Khoa học - công nghệ với cụm công trình Văn hóa Việt Nam: Truyền thống và Hiện đại gồm 3 tác phẩm: Văn hóa Việt Nam - Tìm tòi và Suy ngẫm, Việt Nam cái nhìn Địa - Văn hóa, Trên mảnh đất ngàn năm văn vật
Giáo sư Trần Quốc Vượng
Văn vô sơn thủy phi kỳ khí,
Nhân bất phong sương vị lão tài !
Nghĩa là:
Văn không sông núi, không cao diệu,
Người chẳng phong sương, khó rạng tài !
01.2. Rất gần đây, tôi được đọc bản thảo bài viết của một học giả Mỹ, trong đó có đoạn đại ý rằng:
Phụ thân Hồ Chí Minh – Cụ phó bảng Nguyễn Sinh Huy (Sắc) là một người phiêu lãng (Wanderer), nhưng cụ mới chỉ “lãng du” ở trong nước Việt từ xứ Nghệ xứ Huế đến xứ Thanh, xứ Bình Định rồi vô miền Nam, Sài Gòn, Sông Bé, Long An, Sa Đéc…
Có thể Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh cũng được “di truyền” bởi cái “gen” văn hóa phiêu lãng (wandering) đó, nhưng “CON hơn cha là nhà có PHÚC”, Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh đã phiêu lãng gần như toàn thế giới, từ Á, Âu đến Phi, Mỹ… và ông đã có dịp “sống nghiệm” với nhiều nền văn hóa khác nhau; do đó ông đã trải nghiệm đối sánh nhiều LỐI SỐNG (Way (s)) trên tảng nền LỐI SỐNG VIỆT NAM. Ông giỏi ngoại ngữ mà ngôn ngữ là một sản phẩm đồng thời là một thành tố của Văn hóa, cho nên ông trở thành người của toàn Nhân loại và ông trở nên DUNG DỊ (Generous), rất Việt Nam và cũng rất “Thể tất”, rất “Cận NHÂN TÌNH” (Hunman Sense). Do vậy, Wandering phiêu lãng ở ông là một GIÁ TRỊ VĂN HÓA.
Thế mà đã có kẻ dám dịch “wandering” là “lang bang, lang thang” và bảo rằng học giả Mỹ đó có dụng ý nói xấu Cụ Hồ ! Đáng xấu hổ thay người “DỐT HAY NÓI CHỮ” hay là “HAY CHỮ LỎNG” !
01.3. Nguyễn Ánh (Gia Long từ 1802) đã bôn ba từ đất liền đến hải đảo, từ Việt đến Xiêm, đánh Tây Sơn bại rồi thắng to cũng có, mà đánh thắng cả Miến Điện theo yêu cầu – có lúc là “quái ác” – của vua Xiêm cũng có. Nguyễn Ánh bẩm sinh và sinh nghiệm là một vị tướng tài ba “thắng không kiêu, bại không nản”. Bị Xiêm rồi bị Pháp và sau cả Thanh Mãn Trung Hoa khống chế, gây “áp lực” song Nguyễn Ánh vẫn tìm mọi cách để “thoát ra” được sự khống chế đó và – cho dù chỉ theo ý kiến cá nhân tôi – ông vẫn là NGƯỜI VIỆT NAM và đứng đầu một CHÍNH QUYỀN ĐỘC LẬP VIỆT NAM, cho dù ông chịu nhiều áp lực ngoại bang và cũng có lúc phải sử dụng nhiều cố vấn trong nước và nước ngoài. Ông nghe nhiều nhưng ông nghĩ và làm phần nhiều theo ý ông. Từ 1815 hay về cuối đời, dù nể trọng Tả quân Lê Văn Duyệt, ông vẫn quyết định chọn hoàng tử Đảm (vua Minh Mạng ngày sau) chứ đâu có chọn cháu đích tông – con hoàng tử Cảnh – làm người kế vị ông. Mà Minh Mạng, thì nên trọng nể và học tập ông về việc quản lý hành chánh đất nước và xã hội nhiều hơn nữa, chứ trách cứ ông thì cũng dễ thôi.
01.4. Cho dù ông tin cậy và nhờ cậy vào giám mục Bá Đa Lộc và tỏ ra “khoan hòa” với Thiên chúa giáo của phương Tây, cho dù hoàng tử Cảnh – trưởng nam của ông – đã trở thành giáo dân Thiên chúa giáo, khi ở Gia Định (Nam Bộ) cũng như khi trở thành hoàng đế toàn Việt Nam, ông vẫn tôn Nho, trọng dụng “Gia Định tam gia” người Việt gốc Hoa (Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định, Ngô Nhơn Tịnh), vẫn trọng Phật, Lão và tín ngưỡng dân gian, dù là Việt Nam, là Khơ Me, hay là Chăm, là Thượng… Đội cận vệ của Gia Long, theo sử chép, chủ yếu là người “Thượng” (Sơn nhân). Ở thập kỷ 80, tôi đi điền dã ở xứ Quảng, ở Tây Nguyên, các tộc “thiểu số” vẫn nhắc đến Gia Long với một niềm kính nể. Có một thứ cây nửa trồng nửa hoang dại mang tên “Hoàng oanh quất” (quýt vàng) quả ăn ngon, người dân tộc vẫn bảo tôi rằng đó là thứ quả cây của vùng sơn cước đã nuôi sống Nguyễn Ánh thời khăn khó, sau này trở thành Quýt Ngự. Ấy là tôi chưa kể “Quế Trà My”…
01.5. Ông không chống Tây, Thiên chúa, cũng không sùng bái quá đáng Thanh – Nho như người ta tưởng, và ông loay hoay – tìm mà chẳng được – một HỆ Ý THỨC VIỆT NAM. Ông làm theo kiểu Việt Nam mà chưa điều chế nổi một lối suy nghĩ (Way of thinking) Việt Nam. Chỉ sau này Nguyễn Ái Quốc mới xây dựng được một Tư tưởng Hồ Chí Minh tương đối thuần Việt Nam. Nhưng đó lại là một đề tài chuyên luận Triết – Sử khác, ít dính dáng đến chủ đề ta đang bàn về Gia Long.
02. Sau 10 năm chinh chiến mà dân gian miền Nam Trung Bộ gọi là “TRẬN GIẶC MÙA” (1791-1801) – mùa gió nồm nam, Nguyễn Ánh mới dùng đội thủy chiến THUYỀN BUỒM ra đánh Tây Sơn – cuối cùng ông đã thắng.
02.1. Tôi là con cháu nhà Nho nên cũng có biết câu “Bất tương thành bại luận anh hùng”, nghĩa là “luận anh hùng, chớ kể hơn thua!”.
Song, nếu tôi là nhà sử học như các quý vị Phan Huy Lê, Nguyễn Phan Quang… khả kính, tôi cũng phải tìm cách “giải thích” lịch sử chiến thắng của Nguyễn Ánh với Tây Sơn chứ nhỉ?
Chả nhẽ lại chỉ dùng một thứ “chủ nghĩa Mác thô sơ” là cuối cùng NÔNG DÂN – nếu không có một Đảng của giai cấp công nhân đô thị hiện đại lãnh đạo thì bao giờ cũng THUA giai cấp địa chủ – phong kiến, mà dù có thắng – như Tây Sơn đã từng thắng trước đó – thì rồi cũng bị ĐỊA CHỦ HÓA, PHONG KIẾN HÓA mà thôi!
02.2. Như tôi đã nghiệm sinh trên điền dã khắp Bắc Trung và chút chút ở miền Nam, tôi đã thấy cả Nguyễn Nhạc và cả Bắc Bình Vương – Quang Trung (tất nhiên cả Nguyễn Lữ nữa) đã thất nhân tâm khi các ông – như học giả Tạ Chí Đại Trường đã dẫn ra nhiều chứng cứ (Xem Nội chiến ở Việt Nam 1771-1801…) – ở miền Trung, chỉ để 01 chùa ở cấp huyện, ở miền Bắc chỉ để 01 chùa ở cấp tổng. “ĐẤT VUA – chùa LÀNG – Phong cảnh BỤT” – sáng – chiều nghe tiếng chuông chùa “chiêu mộ” để tấm lòng thư giãn, để biết thời gian trôi chảy vô thường đã từ lâu in hằn vào tâm thức người Việt. Phá chùa, đập tượng, nung chuông (làm tiền, làm khí giới) là làm phản lại tâm thức Việt Nam. Có lẽ nào dân gian xứ Bắc – Đàng Ngoài vốn kính VUA (Lê) nể CHÚA (Trịnh) và sùng Phật – Đạo, dù rất trọng Quang Trung đã vì dân mà chiến đấu và chiến thắng giặc Mãn Thanh, thế mà bên câu ca dao “cổ” (XV):
Lạy trời cho cả gió lên,
Cho cờ vua Bình Định(2) phất (phới) trên kinh thành(3).
Lại có câu ca dao “cận đại”:
Lạy trời cho cả gió Nồm,
Cho thuyền chúa (vua) Nguyễn thắng buồm thẳng ra!
Ra… là ra Bắc. Vô là vô (vào) Trung – Nam. Đấy là một câu ca dao thuần Bắc cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX. Đừng nên chỉ suy diễn lòng dân (XVIII-XIX) theo chủ quan “bác học” (XX), mà nhà làm sử rất nên tham khảo Folklore, nhất là Folklore cổ – cận – dân gian.
02.3. Quân Tây Sơn vào Nam – Nam Bộ – thì phá Cù Lao Phố (Biên Hòa hiện nay), giết hại thương nhân Hoa kiều, vứt phá hàng ngoại bỏ ra đầy đường, sau ở Sài Gòn thì cũng vậy; ra Trung thì tàn phá Hội An (Faifoo), 10 năm sau còn chưa phục hồi lại được; ra Bắc thì phá Vị Hoàng, phố Hiến và có đâu chừa lắm cả Thăng Long. Khi nho sĩ Bắc Hà – mượn lời nông dân xóm Văn Chương – để thưa kiện với chúa Tây Sơn về việc tòa Văn Miếu – bia Tiến Sĩ bị phá thì Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ đã thành thật phê vào đơn:
Thôi! Thôi! Thôi! Việc đã rồi!
Trăm điều hãy cứ trách bồi vào ta!
Nay mai dựng lại nước nhà,
Bia Nghè lại dựng trên tòa muôn gian.
Thôi cũng đừng đổ oan cho thằng Trịnh Khải (1785-1786)!
02.4. Gia Long dù bắt đổi Thăng Long (昇 龍) từ thành phố Rồng bay thủ đô cả nước ra Thăng Long (昇 隆) – ngày thêm thịnh vượng – thủ phủ Bắc thành và dời thủ đô cùng cả Quốc Tử Giám – Văn Miếu vào Huế thì ở Văn Miếu Thăng Long, Gia Long vẫn cho xây một tòa Khuê Văn Các, nhỏ thôi mà cực đẹp; và ở thành cũ hoài cổ của Bà Huyện Thanh Quan, ông cũng cho xây một tòa Cột Cờ cao đẹp nhất kinh thành ngày ấy và cho đến nay còn tồn tại!
Thế thì kể ra cũng khó mà chê Gia Long và nghệ thuật kiến trúc Nguyễn ! Mà chê bai làm gì nhỉ, khi chúng – với thời gian – đã trở thành cái ĐẸP, cái Di sản Văn hóa Dân tộc – Dân gian.
Huế trở thành một Di sản Văn hóa Nhân loại – theo Quyết định của UNESCO 1993, mà hiện nay ta rất tự hào và đang biến thành Trung tâm Du lịch Văn hóa Việt Nam là NHỜ AI, nếu không phải là nhờ VUA – QUAN – DÂN thời Gia Long – Minh Mạng – Tự Đức và Nguyễn nói chung?
Kính xin quý vị Sử gia – tạm / gượng gọi là “đồng nghiệp” của tôi bơn bớt việc “chửi bới” nhà Nguyễn – đời Nguyễn – bắt đầu từ Gia Long – đi cho tôi và dân chúng nhờ… Và thái độ tốt nhất là xếp cả xứ Huế và Việt Nam khi ấy vào Bảo tàng Lịch sử và coi khi đó, không gian đó như một TẤT YẾU TẤT NHIÊN của LỊCH SỬ VIỆT NAM!
03. Có một huyền tích lưu hành rất dai dẳng – và còn được ghi bằng giấy mực nữa kia – là khi Nguyễn Ánh – Gia Long (năm 1801) chiếm lại được Phú Xuân – Huế từ tay triều đại Tây Sơn, đã “cướp” công chúa Lê Ngọc Hân – Bắc cung Hoàng hậu của Quang Trung làm vợ. Huyền tích ấy nay đã được giải ảo hiện thực (désenchanter le réel). Sự thực lịch sử là thế này:
03.1. Sau khi vua Quang Trung mất (1792), Ngọc Hân đã dời cung điện ra ở chùa Tiên gần lăng mộ Quang Trung (xem sách “Đi tìm lăng mộ Quang Trung” của Nguyễn Đắc Xuân và nhất là xem thơ Phan Huy Ích). Theo tôi, đó là vì vua Cảnh Thịnh kế nghiệp Quang Trung mới 12 tuổi (không phải là con đẻ của Ngọc Hân) cùng thái sư Bùi Đắc Tuyên (cậu của Cảnh Thịnh) rất lộng quyền, chẳng ưa gì bà Ngọc Hân xứ Bắc, nên bà đã có ứng xử “chẳng tu thì cũng như tu mới là”; cũng có thể là bà “nặng tình nặng nghĩa” với Quang Trung. Bà có với Quang Trung hai (02) người con, bà mất sớm (1799) và cả hai con bà cũng vậy (1801).
03.2. Cho nên không làm gì có chuyện vua Gia Long giết hai con bà và lại lấy bà làm vợ. Khi Ngọc Hân làm vợ Quang Trung, đã môi giới để người em cùng nhũ mẫu là Ngọc Bình làm vợ của Cảnh Thịnh.
Khi Cảnh Thịnh chạy ra Bắc, không hiểu vì lý do gì, bà Ngọc Bình bị kẹt ở Phú Xuân. Gia Long chiếm Phú Xuân, bắt được Ngọc Bình và quyết định ngay lấy làm vợ (phi). Cả đám triều thần của Gia Long xúm lại can ngăn, họ nói: - Bệ hạ nay có cả thiên hạ, thiếu gì gái đẹp – trinh nguyên, việc gì phải lấy vợ của giặc làm vợ mình! Vua Gia Long cười ha hả mà nói: - Đến đất nước của giặc “tau” còn lấy, huống chi là vợ giặc,“tau” lấy vợ giặc làm vợ “tau” thì có chi mô!
Về việc này Biên Niên sử của triều Nguyễn còn chép hẳn hoi, xem – chẳng hạn – Đại Nam Thực lục Chính biên.
Tôi kể chuyện này với ông bạn thân – nay đã quá cố “người xứ Huế” (mẹ là dòng Hoàng phái Nguyễn) là PGS Nguyễn Đức Từ Chi, ông cười lâu lắm và bảo tôi rằng: - Ở đại học, tôi học cổ sử Việt Nam với các thầy khác nên không biết chuyện này. Nay nghe anh kể mới biết. Thật là tuyệt ! Đây là một “ca” (cas = trường hợp) mà nếu lý giải bằng phân tâm học (psyanalyse) thì sẽ rất lý thú. Nhưng câu nói ấy của Gia Long trả lời các quan đại thần là rất “cynique” (tôi chưa biết dịch là gì cho đúng, đại khái là rất “tởm”, “lỗ mãng”, “bất cần sĩ diện”, “trắng trợn”… nhưng mà rất THỰC) đấy chứ, phải không anh?
Tôi mủm mỉm gật đầu đồng ý.
03.3. Tôi được đọc GIA PHẢ nhà họ Nguyễn ở làng Nành (nay thuộc xã Ninh Hiệp, huyện Gia Lâm, Hà Nội) quê bà Nguyễn Thị Huyền, mẹ bà Ngọc Bình, nhũ mẫu của bà Ngọc Hân. Gia phả có đoạn chép:
Bà cụ Nguyễn Thị Huyền – qua con gái là bà Ngọc Bình – có làm đơn xin cải táng mộ bà Ngọc Hân (và hai con bà) về Bắc, về quê bà. Vua Gia Long đồng ý. Tiểu sành đựng xương cốt bà Ngọc Hân được chở bằng thuyền về làng Nành và được xây mộ hẳn hoi. Mãi đến thời Thiệu Trị (1840-1847), có một tên cường hào ở làng Nành vì có sự chảnh chọe ngôi thứ gì đó với dòng họ Nguyễn nên làm đơn vu cáo họ Nguyễn đã “lợi dụng” gì đó về ngôi “mả ngụy” Ngọc Hân, cấp trên nó quan liêu hay ăn đút lót gì đó – không biết – phê vào đơn cho phép đào mả Ngọc Hân quẳng xuống sông Nhị Hồng…
Hiện nay ở Gia Lâm có đền Ghềnh, tương truyền là “rất thiêng”, đấy chính là nơi hài cốt Ngọc Hân dạt vào, được dân vớt lên mai táng lại. Nhiều nhà “Hà Nội học” – không đọc gia phả họ Nguyễn làng Nành – đã nói và viết rất “lu bu” về chuyện này và “đổ vạ” cho Gia Long và nhà Nguyễn đào mả vợ Quang Trung để trả thù ! “Trả thù”, vâng, có thể có ở mọi thời, song việc đào mả Ngọc Hân quẳng xuống sông không phải là việc và trách nhiệm – tội lỗi của Gia Long.
03.4. Gia Long “tội vạ” gì mà gây thù chuốc oán thêm với sĩ phu và dân chúng Bắc Hà mà ông chê bai là “bạc” – theo thành ngữ dân gian – hay được / bị “dân gian hóa” thành câu: “Bạc như dân, bất nhân như lính”.
Theo chỗ tôi được biết (tôi biết rất ít thôi), thì sau khi vua Gia Long ra Bắc (1802) diệt nốt “dư đảng Tây Sơn” và cử Nguyễn Văn Thành (“Tiền Quân Thành”) làm Bắc thành trấn thủ, vua Gia Long đã – qua ông Thành – làm vài việc sau đây:
03.5. Tổ chức một lễ tế “Trận vong tướng sĩ” ở bên bờ sông Nhị phía Đông thành Thăng Long. Bài văn tế này vẫn còn và khi xưa – tôi học trung học – vẫn được học ở sách Việt Nam văn học sử yếu của cố GS Dương Quảng Hàm. Sách này đề tên tác giả bài văn tế là “Vô danh”, sau này giới Văn học và Hà Nội học đã tìm ra tác giả chính là Nguyễn Huy Lượng, sĩ phu Bắc Hà – người đã cộng tác với triều đình Tây Sơn đến cùng (1801) và viết bài Phú nôm nổi tiếng “Tụng Tây hồ phú” (và do vậy Phạm Thái, sĩ phu Bắc Hà chống Tây Sơn đã viết bài phản bác cũng khá hay với nhan đề “Chiến tụng Tây hồ phú”). Lễ tế vong này và bài văn tế giành cho mọi sĩ tử binh không phân biệt ai là “chân” ai là “ngụy”. Tế xong, Nguyễn Huy Lượng không bị phạt tù tội gì về việc cộng tác với nhà Tây Sơn và Nguyễn Gia Long “bổ” cho ông cử nhân hay chữ này một chức tri huyện ở phủ Nghĩa Hưng (Nam Định), sau ông bị – theo gia phả và sử địa phương chí chép – giặc cướp giết.
03.6. Cũng dưới thời vua Gia Long, bà phi “tòng vong” với Lê Chiêu Thống xin triều Nguyễn cho đưa hài cốt ông vua Lê cuối cùng này cùng vài quan tòng vong (đã chết bên nước Thanh) đem về nước. Vua Gia Long – qua lời tâu của Trấn thủ Bắc thành – đã đồng ý. Bà phi họ Nguyễn này mang hài cốt chồng và vài quan khác về Việt Nam chôn cất xong thì tự tử chết. Bà cũng được mai táng tử tế (tôi được học chuyện này từ thời trung học Pháp thuộc).
Vua Gia Long đã sai lập “đền Cố Lê” ở Hà Nội (mạn phố Thụy Khuê) để thờ vua Lê cũ và sai dỡ nhà Thái miếu ở Thăng Long về Bố Vệ xứ Thanh quê nhà Lê lập đền thờ. “Đền vua Lê” (còn gọi là “Thái miếu”) hiện vẫn còn và đã được Bộ Văn hóa Thông tin nhà nước CHXHCN Việt Nam xếp hạng (“Di tích Văn hóa được xếp hạng”).
03.7. Quê tổ nhà Nguyễn là Gia Miêu ngoại trang ở Hà Trung – Thanh Hóa, đối diện với dãi núi Triệu Tường. Ở Đàng Trong, Nguyễn Hoàng đã trở thành “ông Hai” (ông cả Nguyễn Uông đã bị anh rể – chồng bà Ngọc Bảo – giết để cướp chính quyền Thái Sư (như thủ tướng ngày sau), thay thế ông bố vợ Nguyễn Kim (phụ thân Nguyễn Uông, Nguyễn Hoàng) đã bị đầu độc chết. Từ thế kỷ XVII-XVIII trên đường hình thành đạo Mẫu Việt Nam mà mẫu Liễu Hạnh ở Phủ Giầy (Vụ Bản, Nam Định, Nam Hà) trở thành “Thánh Mẫu” theo thần tích, ít ra là từ đời Cảnh Hưng (1740-1786). Nguyễn Hoàng đã được thờ ở khắp xứ Đàng Ngoài dưới tên gọi “Quan Lớn Triệu Tường”. Vua Gia Long đã về thăm quê gốc Gia Miêu.
Trên đường công tác điền dã, năm 1994, tôi đã về thăm Gia Miêu, thăm ngoại / nội trang, thăm núi Triệu Tường, và đang đứng trầm ngâm chiêm ngắm ngôi đình được trùng tu lại thời Gia Long, rất đẹp mắt nhưng đang gần như bị “bỏ quên” (chưa được xếp hạng và đang xuống cấp, chưa được trùng tu tôn tạo) thì được một cán bộ xã mời về trụ sở Đảng ủy và UBND xã.
Tôi những tưởng mình sẽ bị khiển trách và “thăm hỏi” vì đã dám ghé thăm ngôi đình làng mang niên hiệu Gia Long trùng tu mà không trình báo lãnh đạo xã. Nhưng không !, tôi được chiêu đãi một bữa bia “đã đời”, vì đã được cán bộ xã đứng tựa cột đình “nghe lỏm” – tôi đang giảng giải cho các cán bộ cùng đi – về nét đẹp ngôi đình làng này và tỏ ý tiếc vì bị nhà nước bỏ quên ! Nghe các nhà lãnh đạo xã quê hương Gia Long nói thêm về tình hình xã, tôi rất mừng vì các đảng viên cộng sản Gia Miêu quê hương nhà Nguyễn đã tỏ ra có “tư duy đổi mới” khi nhận nhìn vai trò lịch sử của vua Gia Long và nhà Nguyễn với thái độ “thể tất nhân tình”, rất đậm đà bản sắc Việt Nam. Vua Gia Long sai sửa đình làng quê gốc của mình nhưng không hề sai sửa lại tên quê. Mãi đến thời Tự Đức (1848-1883), ông vua này mới sai đổi tên Gia Miêu cũ xưa thành tên mới Quý Hương!
03.8. Tuy Trịnh Kiểm đã giết Nguyễn Uông, nhưng chính sử nhà Nguyễn, kể cả Đại Nam nhất thống chí, quyển về Thanh Hóa tỉnh, mục nhân vật vẫn chép về Trịnh Kiểm mà không hề có một lời nói xấu nào về ông tổ họ Trịnh này.
Thật là lạ! Càng lạ hơn, khi tôi (1992) về thăm lại quê hương Trạng Bùng – Phùng Khắc Khoan ở Thạch Thất xứ Đoài (nay thuộc tỉnh Hà Tây) – người được coi là “Trương Tử Phòng” (quân sư Trương Lương của Hán Cao Tổ) của Trịnh Kiểm. Gia Long rồi Minh Mạng đã ban cho ngôi nhà thờ Trạng Bùng một bức đại tự chạm trổ rất đẹp với 4 chữ “TRUNG HƯNG CÔNG THẦN”, miễn sưu dịch cho con cháu Trạng Bùng, lại cho 2 “đinh phụ” được coi sóc nhà thờ và mồ mả của ông Trạng đã hết lòng “phù Lê phù Trịnh” này.
03.9. Tôi có một số bạn bè họ Trịnh đã / đang làm cán bộ cao cấp của nhà nước CHXHCN Việt Nam. Tôi đưa cho họ xem bản Trịnh gia thế phả do Trịnh Cơ vâng lệnh Gia Long, khai báo lại năm 1802.
Lời mở đầu cuốn gia phả họ Trịnh này viết rằng khi vua Gia Long ra Bắc (1802), ông đã cho gọi tộc trưởng họ Trịnh – Trịnh Cơ – từ xứ Thanh ra Thăng Long và phán bảo rằng: - Họ nhà ngươi và họ ta là hai họ có thâm thù vì tổ họ ngươi đã giết tổ họ ta!
Trịnh Cơ run rẩy nghĩ rằng mình và họ mình sẽ bị Gia Long “làm cỏ sạch gốc rễ” để trả thù. Nhưng mà không !, vua Gia Long nói tiếp: - Nhưng họ nhà ngươi và họ ta đã từng là thông gia – thân gia. Ta sẽ lấy tình thân gia mà đối đãi với họ ngươi. Song họ ta ở Nam đã quá lâu, ta chẳng biết rõ gì về họ ngươi cả. Vậy ngươi hãy cung khai về gốc gác họ Trịnh trình cho ta biết!
Trịnh Cơ mang gia phả cũ ra tham khảo và cứ theo sự thực viết ra (cố GS Hoàng Xuân Hãn rất khen ngợi bản gia phả nhà Trịnh này là trung thực, đã viết rõ gốc gác nghèo hèn và hành xử “xấu xa” của Trịnh Kiểm như ăn cắp gà, giết trộm trâu, ăn cắp ngựa…). Đọc xong Gia phả họ Trịnh, Gia Long đã phê ban cho họ Trịnh 200 mẫu ruộng công để dựng nên Trịnh điện làm nơi thờ tự các chúa Trịnh (nay làng Trịnh Điện bên bờ sông Mã có diện tích đúng 200 mẫu, 1 mẫu Trung bộ = 5000m2).
* LỜI TẠM ĐÓNG
Khi còn ở Gia Định và mới chỉ có Gia Định (châu thổ sông Mê Kông) trước 1801-1802, Nguyễn Ánh – Gia Long đã vận dụng “cơ chế thị trường” và đã biến Sài Gòn miền Nam thành nơi sản xuất và xuất khẩu lúa gạo ra toàn Đông Nam Á để đổi lấy các sản phẩm công nghiệp phương Tây, cố nhiên hàng nhập khẩu được ưu tiên hàng đầu là vũ khí để chống lại Tây Sơn. Tôi không muốn / không cần bình luận về ý đồ chủ quan của Nguyễn Ánh, nhưng Nam Bộ cho đến nay vẫn quen với “cơ chế thị trường” hơn miền Bắc. Có nhiều nguyên nhân lắm, song phải chăng cũng có vai trò của NGUYỄN ÁNH?
Tôi đã nhắc đi nhắc lại – làm rườm tai bạn đọc, nếu bài này được đọc và được in – rằng tôi, kẻ ngu hèn này, không phải là một nhà Sử học chính tông.
Vậy, theo ý F. Engels vĩ đại, ai không am hiểu lắm về một lĩnh vực khoa học nào đó mà cứ cố tình “nói chõ” vào thì có thể được lượng thứ về một số sai lầm không đến nỗi lớn lắm.
Tôi, từ lâu đã rất mê F. Engels, mượn và có thể là “lợi dụng” mấy lời nói của ông để tạm đóng bài viết có nhiều phần “dở hơi” này.
Hà Nội – Sài Gòn (Thành phố Hồ Chí Minh)
Mùa thu tháng Tám, 1996
Trần Quốc Vượng
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Đối với các định nghĩa khác, xem Trần Quốc Vượng (định hướng).
Trần Quốc Vượng (12 tháng 12 năm 1934 – 8 tháng 8 năm 2005) là một giáo sư, nhà sử học, nhà khảo cổ học Việt Nam.Bài viết này cần thêm chú thích nguồn gốc để có thể kiểm chứng thông tin. Những nội dung không có nguồn có thể bị đặt vấn đề và xóa bỏ. Mời bạn bổ sung chú thích từ các nguồn đáng tin cậy để giúp cải thiện bài viết. |
Tiểu sử
Ông sinh tại Hải Dương, nhưng quê quán ở Lê Xá, huyện Duy Tiên, tỉnh Hà Nam. Sau khi tốt nghiệp thủ khoa cùng với Phan Huy Lê, Đinh Xuân Lâm năm 1956 ông được giữ lại làm cán bộ giảng dạy tại Khoa Lịch sử, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội (nay là Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội).- 1956-1980 ông là Cán bộ giảng dạy Cổ sử Việt Nam, Khoa Sử, Đại học Tổng hợp
- 1959 ông là Trưởng nhóm/ Trưởng môn Khảo cổ học, Khoa Sử, Đại học Tổng hợp
- 1980-1993 ông là Giáo sư, Chủ nhiệm Bộ môn Khảo cổ học, Khoa Sử, Đại học Tổng hợp
- 1989-2005 ông trở thành Nhà giáo Ưu tú, Giám đốc Trung tâm Liên Văn hoá - Lịch sử Khoa Sử, Đại học Tổng hợp
- 1993-1996 Trưởng môn Văn hoá học, Đại học Đại cương, Đại học Quốc gia Hà Nội
- 1993-1996 Trưởng ngành Du lịch học, Đại học Tổng hợp
- 1996-2005 Chủ tịch Hội đồng Khoa học và đào tạo, Khoa Du lịch, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội; Chủ nhiệm Bộ môn Lịch sử Văn hoá Khoa Lịch sử, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội
Tứ trụ sử học Việt Nam đương đại
Ông được xem là một trong "tứ trụ" "Lâm, Lê, Tấn, Vượng"(tức gồm các Giáo sư Đinh Xuân Lâm, Phan Huy Lê, Hà Văn Tấn và Trần Quốc Vượng) của sử học Việt Nam đương đại. Theo lời giải thích của chính ông, đó là chuyện huyền thoại có lẽ hình thành vào cuối thập kỷ 1960, khi cả bốn ông đều nổi tiếng học giỏi. Ra trường vào giữa thập kỷ 1950, ba ông "Lâm, Lê, Vượng" học cùng khoá, còn ông "Tấn" học sau (thủ khoa năm 1957). Sau đó, theo lệnh của khoa, ông và giáo sư Hà Văn Tấn góp sức xây dựng ngành Khảo cổ học của khoa Sử, vì sau năm 1954, khi Pháp rút khỏi Việt Nam thì ngành Khảo cổ Việt Nam hầu như chỉ còn là con số 0, không có một nhà khảo cổ học nào. Ông đã lên lớp đầu tiên về Khảo cổ học Việt Nam niên khoá 1959 – 1960, cùng với sự giúp đỡ tư liệu của giáo sư Hà Văn Tấn.Tác phẩm
Ông đã viết nhiều bài nghiên cứu khoa học (trên 400 bài) đăng trên các tạp chí chuyên môn trong nước (Khảo cổ, Lịch sử, Văn học, Văn hoá Dân gian, Văn hoá Nghệ thuật...) và ngoài nước (Cornell University Press, North Ilinois, Yale University (Mỹ), Tokyo, Kyoto, Osaka University (Nhật), Seoul University (Hàn Quốc), Oxford University Press (Anh)…). Ngoài ra, ông đã viết và được in ấn nhiều sách (trên 40 cuốn) ở cả trong và ngoài nước, có thể kể đến như:- Việt Nam khảo cổ học (tiếng Nhật, Tokyo, 1993)
- Trong cõi (California, 1993)
- Theo dòng lịch sử (1995)
- Some aspects of Vietnam culture (Mỹ, 1995)
- Tìm hiểu văn hoá dân gian Hà Nội (1997)
- Việt Nam, cái nhìn địa văn hoá (1998)
- Vietnam folklore and history (Mỹ, North Ilinois, 1998)
- Essay into the Vietnam past (New York, Mỹ, 1999)
- Ngành nghề, tổ nghề, làng nghề Việt Nam (1999)
- Làng nghề, phố nghề Thăng Long, Hà Nội (2000)
- Văn hoá Việt Nam, tìm tòi và suy ngẫm (2000)
- Trên mảnh đất nghìn năm văn vật (2001)
- Tìm hiểu bản sắc văn hoá xứ Huế (2001)
- Confusianism in East Asia (Seoul, Hàn Quốc, 2001)
- Khoa Sử và tôi (2001)
- Tìm hiểu bản sắc văn hoá xứ Quảng (2002)
- Tìm hiểu bản sắc văn hoá dân gian Nam Bộ (2004)
- Hà Nội như tôi hiểu (2005)
- Con người – Môi trường – Văn hoá (2005)
Các hoạt động khác
- Tổng Thư ký Hội Văn nghệ Dân gian Hà Nội (từ 1976 đến 2005)- Phó Tổng Thư ký Hội Văn hoá Văn nghệ Dân gian Việt Nam (từ 1989 đến 2005)
- Chủ tịch Hội Sử học Hà Nội (từ 1990 đến 1996)
- Uỷ viên Ban Chấp hành Hội Sử học Việt Nam (từ 1993 đến 2005)
- Chủ tịch Câu lạc bộ Ngành nghề thủ công truyền thống
- Chủ nhiệm câu lạc bộ Văn hoá Ẩm thực Việt Nam (từ 1995 đến 2005)
- Cố vấn Bộ trưởng Bộ Văn hoá Thông tin về Chương trình thiết kế - tu bổ - tôn tạo các di tích lịch sử (từ 1995 đến 2005)
- Tư vấn Uỷ ban nhân dân Hà Nội về các di tích lịch sử Hà Nội và Chương trình "Ngàn năm Thăng Long" (từ 1995 đến 2005)
- Uỷ viên Hội đồng tư vấn của Viện Khoa học Xã hội Việt Nam về Khu di tích Hoàng thành Thăng Long (2003-2004)
Khen thưởng
Ông đã được Chính phủ Việt Nam tặng Huân chương Lao động hạng Nhất (1997) và rất nhiều Huân Huy chương khác.Ngày 20 tháng 1, 2012, ông được Chủ tịch nước ký quyết định trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt IV về Khoa học - công nghệ với cụm công trình Văn hóa Việt Nam: Truyền thống và Hiện đại gồm 3 tác phẩm: Văn hóa Việt Nam - Tìm tòi và Suy ngẫm, Việt Nam cái nhìn Địa - Văn hóa, Trên mảnh đất ngàn năm văn vật
- Trang này được sửa đổi lần cuối lúc 12:18 ngày 1 tháng 8 năm 2015.
Trường phái Trần Quốc Vượng?
TP - Nhà nghiên cứu, chuyên gia của nhiều ngành
khoa học xã hội và nhân văn tề tựu tại tọa đàm khoa học “Còn là tinh
anh” nhân 10 năm ngày mất của GS. Trần Quốc Vượng.
Không ai có thể bắt chước Trần Quốc Vượng
GS.TSKH. Phan Huy Lê, Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, bạn đồng môn của GS. Trần Quốc Vượng là một trong những tên tuổi trong giới nghiên cứu tới tọa đàm cả ngày 17/8, tại ĐH KHXH&NV Hà Nội nhận xét: “Không ai có thể bắt chước Trần Quốc Vượng bởi phong cách của anh ấy rất độc đáo”.
Trong hàng chục tham luận gửi về, không ít người nhắc trường phái Trần Quốc Vượng. PGS.TS. Tống Trung Tín, Chủ tịch Hội Khảo cổ học Việt Nam nhắc lại: “Chẳng quản gối mỏi chân chồn rong ruổi nơi đầu nguồn cuối bể, Trần Quốc Vượng vừa đi vừa học vừa chiêm nghiệm và dấn thân vào con đường khoa học đầy gian lao, tạo nên một phong cách khoa học độc đáo Trần Quốc Vượng trong làng khảo cổ học, sử học và văn hóa học Việt Nam. Làng sử học, khảo cổ học bao giờ mới có một người như Trần Quốc Vượng”.
Trong bài trình bày ngắn gọn về nghiên cứu các sơ đồ mà GS. Trần Quốc Vượng dùng để minh họa các nghiên cứu khoa học, ông Tín đánh giá đây là nét tượng trưng cho cá tính và phong cách Trần Quốc Vượng. Ông nhắc, khi xét tặng giải thưởng Hồ Chí Minh cho Trần Quốc Vượng, hai GS. Nguyễn Quang Ngọc, Vũ Minh Giang nêu quan điểm “GS. Vượng tạo thành trường phái nghiên cứu rất độc đáo”. “Tuy thế, khi trao đổi riêng thì cũng có người băn khoăn. Tạo nên trường phái phải có lý thuyết, lý thuyết của thầy Vượng rất đủ nhưng chưa ai tổng kết. Thêm nữa phải có các thế hệ học trò, dần dần tiếp nối phát triển, và điều này còn nguyên ở phía trước”, ông Tín nhấn mạnh.
Thêm một học trò trong giới khảo cổ, TS. Nguyễn Hồng Kiên khẳng định giới nghiên cứu hình thành một trường phái Trần Quốc Vượng: “Tôi cho rằng các yếu tố hình thành đủ rồi, chỉ có điều học trò và môn đệ chưa thể bằng một phần mười của thầy, cho nên trường phái này hơi yếu. Tuy nhiên đây đó vẫn thấy cách tiếp nhận, nghiên cứu và áp dụng những điều thầy giảng”.
Còn là tinh anh
“Thác là thể phách, còn là tinh anh”, ý thơ Nguyễn Du được học trò của GS. Vượng lấy làm tên tọa đàm. “Giáo sư của chúng ta là nhà văn hóa lớn, luôn có phát kiến mới và có giá trị rất cao. Để có được những phát kiến ấy, Trần Quốc Vượng say sưa nghiên cứu địa lý địa chất, địa mạo môi trường và trở thành vị giáo sư say sưa và thành công nhất trong lĩnh vực địa văn hóa”, TS. Tống Trung Tín nói.
Chủ trì phiên tọa đàm chiều 17/8, GS.TS. Nguyễn Quang Ngọc, Phó Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, một học trò của GS. Vượng cáo lỗi vì vắng mặt buổi sáng, do bận chủ trì một hội thảo cấp thành phố. “Tôi tranh thủ diễn đàn ấy để nói về công lao của thầy mình. Không chỉ là nhà khảo cổ học, sử học, văn hóa học hàng đầu của đất nước, Trần Quốc Vượng còn là nhà Hà Nội học nổi tiếng nhất, mà giải thưởng Hồ Chí Minh đã khẳng định đóng góp kiệt xuất của ông cho Hà Nội học và sự phát triển của
Thủ đô”.
GS. Ngọc dẫn chứng, nhiều nhà địa lý kinh ngạc vì trình độ địa lý của GS. Vượng. “Làm lịch sử, văn hóa mà không giỏi địa lý thì khó mà có những phát hiện đáng nể, thành ra ở đây tôi nói sự liên ngành của giáo sư đạt đến trình độ cao, giống như nghệ thuật. Lâu nay chúng ta hay nói liên ngành, tôi phải nói ngay là nhiều khi chỉ là bịp bợm. Liên ngành thực sự đòi hỏi người nghiên cứu trình độ rất sâu, nhưng khi xử lý phải bình đẳng, không định kiến. Trần Quốc Vượng có một cái đặc biệt, có lẽ đó là bắt đầu từ kiến thức rất uyên thâm, nên mở rộng sang các lĩnh vực khoa học khác một cách nhẹ nhàng”, GS. Ngọc khẳng định.
Nhà nghiên cứu âm nhạc Bùi Trọng Hiền kể, lần đầu biết GS. Vượng là ở hội thảo đầu năm 1990. Càng có dịp gần GS. Vượng, Bùi Trọng Hiền khẳng định sự ảnh hưởng từ cách tiếp cận, nghiên cứu khoa học của ông. Là giáo sư sử học, Trần Quốc Vượng gây sốc cho giới âm nhạc khi tại hội thảo quốc tế năm 1993, đứng lên phản biện bằng tiếng Anh ý kiến của Viện trưởng Viện Âm nhạc.
“Thầy bảo tôi cứ tìm đi, kiểu gì cũng chứng minh được bản sắc của âm nhạc Việt Nam khác với Trung Hoa. Gần thầy tôi học được rằng khi nghiên cứu phải như nhập đồng. Nghiên cứu không phải là công việc, mà dần dần là sự sống và nhịp đập của trái tim ông. Gần ông kiểu gì cũng chịu ảnh hưởng, dần dần nghề là tình yêu, khát vọng như là ăn, uống, thở”, anh Hiền nói. Trong phát biểu tổng kết, PGS.TS. Lâm Thị Mỹ Dung một lần nữa khẳng định, “khó ai có thể có sức đọc, sức điền dã như thầy. Di sản thầy để lại chính là các thế hệ học trò”.
GS.TSKH. Phan Huy Lê, Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, bạn đồng môn của GS. Trần Quốc Vượng là một trong những tên tuổi trong giới nghiên cứu tới tọa đàm cả ngày 17/8, tại ĐH KHXH&NV Hà Nội nhận xét: “Không ai có thể bắt chước Trần Quốc Vượng bởi phong cách của anh ấy rất độc đáo”.
Trong hàng chục tham luận gửi về, không ít người nhắc trường phái Trần Quốc Vượng. PGS.TS. Tống Trung Tín, Chủ tịch Hội Khảo cổ học Việt Nam nhắc lại: “Chẳng quản gối mỏi chân chồn rong ruổi nơi đầu nguồn cuối bể, Trần Quốc Vượng vừa đi vừa học vừa chiêm nghiệm và dấn thân vào con đường khoa học đầy gian lao, tạo nên một phong cách khoa học độc đáo Trần Quốc Vượng trong làng khảo cổ học, sử học và văn hóa học Việt Nam. Làng sử học, khảo cổ học bao giờ mới có một người như Trần Quốc Vượng”.
Trong bài trình bày ngắn gọn về nghiên cứu các sơ đồ mà GS. Trần Quốc Vượng dùng để minh họa các nghiên cứu khoa học, ông Tín đánh giá đây là nét tượng trưng cho cá tính và phong cách Trần Quốc Vượng. Ông nhắc, khi xét tặng giải thưởng Hồ Chí Minh cho Trần Quốc Vượng, hai GS. Nguyễn Quang Ngọc, Vũ Minh Giang nêu quan điểm “GS. Vượng tạo thành trường phái nghiên cứu rất độc đáo”. “Tuy thế, khi trao đổi riêng thì cũng có người băn khoăn. Tạo nên trường phái phải có lý thuyết, lý thuyết của thầy Vượng rất đủ nhưng chưa ai tổng kết. Thêm nữa phải có các thế hệ học trò, dần dần tiếp nối phát triển, và điều này còn nguyên ở phía trước”, ông Tín nhấn mạnh.
Thêm một học trò trong giới khảo cổ, TS. Nguyễn Hồng Kiên khẳng định giới nghiên cứu hình thành một trường phái Trần Quốc Vượng: “Tôi cho rằng các yếu tố hình thành đủ rồi, chỉ có điều học trò và môn đệ chưa thể bằng một phần mười của thầy, cho nên trường phái này hơi yếu. Tuy nhiên đây đó vẫn thấy cách tiếp nhận, nghiên cứu và áp dụng những điều thầy giảng”.
Còn là tinh anh
“Thác là thể phách, còn là tinh anh”, ý thơ Nguyễn Du được học trò của GS. Vượng lấy làm tên tọa đàm. “Giáo sư của chúng ta là nhà văn hóa lớn, luôn có phát kiến mới và có giá trị rất cao. Để có được những phát kiến ấy, Trần Quốc Vượng say sưa nghiên cứu địa lý địa chất, địa mạo môi trường và trở thành vị giáo sư say sưa và thành công nhất trong lĩnh vực địa văn hóa”, TS. Tống Trung Tín nói.
Chủ trì phiên tọa đàm chiều 17/8, GS.TS. Nguyễn Quang Ngọc, Phó Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, một học trò của GS. Vượng cáo lỗi vì vắng mặt buổi sáng, do bận chủ trì một hội thảo cấp thành phố. “Tôi tranh thủ diễn đàn ấy để nói về công lao của thầy mình. Không chỉ là nhà khảo cổ học, sử học, văn hóa học hàng đầu của đất nước, Trần Quốc Vượng còn là nhà Hà Nội học nổi tiếng nhất, mà giải thưởng Hồ Chí Minh đã khẳng định đóng góp kiệt xuất của ông cho Hà Nội học và sự phát triển của
Thủ đô”.
GS. Ngọc dẫn chứng, nhiều nhà địa lý kinh ngạc vì trình độ địa lý của GS. Vượng. “Làm lịch sử, văn hóa mà không giỏi địa lý thì khó mà có những phát hiện đáng nể, thành ra ở đây tôi nói sự liên ngành của giáo sư đạt đến trình độ cao, giống như nghệ thuật. Lâu nay chúng ta hay nói liên ngành, tôi phải nói ngay là nhiều khi chỉ là bịp bợm. Liên ngành thực sự đòi hỏi người nghiên cứu trình độ rất sâu, nhưng khi xử lý phải bình đẳng, không định kiến. Trần Quốc Vượng có một cái đặc biệt, có lẽ đó là bắt đầu từ kiến thức rất uyên thâm, nên mở rộng sang các lĩnh vực khoa học khác một cách nhẹ nhàng”, GS. Ngọc khẳng định.
Nhà nghiên cứu âm nhạc Bùi Trọng Hiền kể, lần đầu biết GS. Vượng là ở hội thảo đầu năm 1990. Càng có dịp gần GS. Vượng, Bùi Trọng Hiền khẳng định sự ảnh hưởng từ cách tiếp cận, nghiên cứu khoa học của ông. Là giáo sư sử học, Trần Quốc Vượng gây sốc cho giới âm nhạc khi tại hội thảo quốc tế năm 1993, đứng lên phản biện bằng tiếng Anh ý kiến của Viện trưởng Viện Âm nhạc.
“Thầy bảo tôi cứ tìm đi, kiểu gì cũng chứng minh được bản sắc của âm nhạc Việt Nam khác với Trung Hoa. Gần thầy tôi học được rằng khi nghiên cứu phải như nhập đồng. Nghiên cứu không phải là công việc, mà dần dần là sự sống và nhịp đập của trái tim ông. Gần ông kiểu gì cũng chịu ảnh hưởng, dần dần nghề là tình yêu, khát vọng như là ăn, uống, thở”, anh Hiền nói. Trong phát biểu tổng kết, PGS.TS. Lâm Thị Mỹ Dung một lần nữa khẳng định, “khó ai có thể có sức đọc, sức điền dã như thầy. Di sản thầy để lại chính là các thế hệ học trò”.
TS. Nguyễn Việt, Giám đốc Trung tâm Tiền sử Đông Nam Á đề xuất nên “xem xét hiện tượng Trần Quốc Vượng là đối tượng khoa học. Các học trò nên nghĩ tới việc lùi ra xa, để sự tôn vinh có giá trị lâu dài”. GS. Nguyễn Quang Ngọc nêu ý kiến sau tọa đàm này nên đề xuất Hà Nội đặt tên phố Trần Quốc Vượng. Được biết, tỉnh Hà Nam quê ông lấy tên ông đặt tên cho một con phố ở Phủ Lý.
'Nói GS Trần Quốc Vượng chết vì cổ vật là sự phỉ báng'
Nhà
nghiên cứu di sản văn hóa Trần Lâm Biền, người bạn gần gũi của cố giáo
sư Trần Quốc Vượng, khẳng định giáo sư chết vì ung thư thực quản. Theo
ông Biền, là nhà khảo cổ học, nếu chỉ dính vào đồ vật cổ mà bị "Thánh
vật" thì giáo sư Vượng phải chết từ rất lâu.
>Nhiễu loạn quanh con sông 'Thánh vật'
>Thông tin 'Thánh vật' xôn xao dư luận
>Nhiễu loạn quanh con sông 'Thánh vật'
>Thông tin 'Thánh vật' xôn xao dư luận
Nhà nghiên cứu di sản văn hóa Trần Lâm Biền.
Ảnh: H.K. |
- Dưới góc độ văn hóa, tín ngưỡng, tôn giáo truyền thống, ông nhìn nhận thế nào về hiện tượng sông Tô Lịch?
- Tôi là người nghiên cứu về văn hóa truyền thống,
trong đó chú ý rất nhiều về văn hóa tâm linh. Hiện tượng sông Tô Lịch
hội tụ rất nhiều sự kiện không may vào một chỗ khiến người ta nghi ngờ,
nhiều khi là không hay. Hiện nay người dân đang gặp nhiều mắc mớ giữa
cuộc sống đời thường và cuộc sống tâm linh. Đưa những sự kiện chưa có cơ
sở rõ rệt hay nhận thức đúng đắn thì hoàn toàn không tốt. Điều thứ hai
là đưa ra ào ạt những sự kiện như thế khiến người ta ngờ vực động cơ của
người viết.
Anh Cường nói rằng thi công công trình ở sông Tô Lịch
khiến anh em gặp tai họa thì tôi không tin. Không có thần linh nào, ma
quỷ nào ác độc như vậy. Nếu có thì phải ác độc với chính người đào, chứ
không phải những người vô tội, chẳng dính dáng gì đến công trình này.
Vậy thì có thể tạm coi như đây là sự ngẫu nhiên, nhưng đưa ra một hiện
tượng này để gắn kết với hiện tượng khác có khi đó là một hình thức biện
minh cho sai trái, tiêu cực.
Mặt khác, khúc sông ấy là nơi hội tụ, nhiều thứ trong
đó có cả đồ thờ cúng từ nhiều nơi dồn về. Nơi đó thường chứa nhiều khí
độc. Ngay như cái giếng lâu không dùng đến, người xuống vẫn chết vì khí
mêtan. Nhiều người không biết, cứ đồn thổi rằng chết dưới giếng do ma
làm, do người từ bên kia thế giới quật đổ.
- Theo lời của anh Cường, giáo sư sử học Trần Quốc
Vượng đã chết sau khi cầm những cổ vật được lấy từ sông Tô Lịch, hòa
thượng Thích Viên Thành chết sau khi đến lập đàn tế lễ. Ông có thể nói
gì về chi tiết này?
Cô Nguyễn Thị Bảy, vợ GS Trần Quốc Vượng
kể lại, hôm đó là vào ngày lễ ông Công, ông Táo Tết Ất Dậu, giáo sư
không ăn uống nuốt rất khó khăn. Sau một cuộc hành trình đằng đẵng qua
nhiều bệnh viện, kết quả xác định căn bệnh ung thư di truyền quái ác đã
làm choáng váng cả gia đình. Hai người con gái của giáo sư Vượng với vợ
đầu đều phải sống chung với căn bệnh này.
Cô Bảy xác định, bệnh ung thư xuất hiện
vào khoảng cuối tháng 2/2005. Đến tháng 4 thì giáo sư đã không thể ăn
uống được nữa mà phải đặt ống thực quản. Cuối tháng 6, giáo sư nhập
viện. Lần nhập viện này chỉ kéo dài 1 tháng 19 ngày thì giáo sư mất. GS
Vượng không hề mất ngột mà qua đời sau một thời gian dài lâm trọng bệnh,
có tính chất di truyền.
(Theo Gia đình Xã hội)
|
-
Tôi không rõ về ông Thích Viên Thành, còn riêng Trần Quốc Vượng với tôi
coi như anh em. Chúng tôi rất thân nhau đến nỗi nhiều người nghĩ tôi là
em ông Vượng. Ông Vượng ủ bệnh ung thư từ lâu. Một lần, đi công tác với
tôi ở Ứng Hòa, Hà Tây, cơ quan bảo tồn di tích mời ông tư vấn về lịch
sử, còn tôi tư vấn về văn hóa. Mọi khi ông ấy luôn đi trước tôi, tay cầm
lon bia. Nhưng hôm đó ông đi sau tôi, dáng vẻ mệt mỏi. Tôi biết ngay là
có chuyện.
Sức khỏe của ông sau đó suy sụp vì nhiều nguyên nhân,
như ông không bảo vệ sức khỏe, ăn ít, uống nhiều, hút thuốc lá nhiều.
Ông bị ung thư thực quản, phải nằm nhiều tháng trong bệnh viện và điều
trị tại nhà. Tôi biết ông ấy chết vì bệnh ung thư, chứ chẳng liên quan
gì đến cổ vật.
Ông Vượng là nhà khảo cổ học, nếu chỉ dính vào mấy đồ
vật cổ mà chết thì ông chết không biết bao nhiêu lần rồi. Ông Vượng đã
đến mồ mả từ thời cổ đại đến bây giờ để xem hiện vật. Thậm chí ông cầm
cả đầu lâu, xương của người ta để đo đạc, nghiên cứu. Thái độ, công việc
của ông Vượng làm là vì phúc đức. Cho nên nói rằng ông ấy cầm hiện vật
như thế mà gây tai họa cho ông là sự phỉ báng cố giáo sư Trần Quốc
Vượng.
- Giải thích cho sự không may mắn khi thi công
công trình, tác giả bài báo dẫn lời một số nhà nghiên cứu rằng tại vị
trí sông Tô Lịch có hiện tượng trấn yểm. Là người nghiên cứu sâu về văn
hóa tâm linh, xin ông giải thích rõ thế nào là trấn yểm?
- Tôi đọc nhiều chuyện của Trung Hoa, hiện tượng trấn
yểm nhiều khi là dùng chính người sống, đặc biệt là người con gái đồng
trinh, chôn sống để linh hồn họ trở nên linh thiêng, nhằm coi sóc, trấn
giữ một không gian đất đai, kho tàng, của cải nào đó cho chủ nhân. Nhưng
đấy là của người Trung Hoa, đã có sự phân hóa xã hội cao từ trên 2000
năm về trước, từ thời Thương Chu với kinh tế tư nhân phát triển, có thể
nảy sinh hiện tượng trấn yểm.
Còn người Việt Nam, kinh tế tư nhân quá chậm phát
triển, kinh tế làng xã cho đến tận gần đây vẫn tồn tại. Điều này thể
hiện rõ ở nhà thờ họ, hay lăng mộ quận công. Những lăng mộ quận công,
người giàu có nhất vùng, hay nhà thờ họ mà chúng tôi biết thì chưa tìm
thấy dấu vết nào của sự trấn yểm bởi chính con người.
Vậy thì việc trấn yểm rộng rãi như người ta từng gán
ghép cho nó là một dấu hỏi rất lớn, chưa đủ sức để lôi kéo các nhà
nghiên cứu vào cuộc. Trấn yểm phải có nguyên tắc của nó, anh lôi các
hiện vật lên rồi khiến nhà khoa học không nhìn thấy gì cả, rồi bảo là
trấn yểm thì làm sao tin được. Về nguyên tắc, khi động tới thì phải còn
nguyên hiện trạng, phải có sự nghiên cứu, đo vẽ, suy ngẫm thật cẩn thận.
- Ở Việt Nam đã bao giờ tìm thấy hiện tượng trấn yểm?
- Hiện nay người ta chưa xác nhận một cách cụ thể mà
chỉ nói là có trấn yểm. Nhưng trấn yểm ở đâu, như thế nào thì chưa thấy.
Trấn yểm có nhiều mục đích, ngoài việc để trấn giữ bảo vệ, với Cao
Biền, người đứng đầu chính quyền đô hộ thời Bắc thuộc, là ngăn cản sự
phát triển của thần linh phương Nam.
Nhưng cái đó thuộc về một giai đoạn của lịch sử. Trấn
yểm tôi tin là có thật, nhưng có thật thế nào thì sách sử không nói cụ
thể, chỉ nói đến một vài hiện tượng mà thôi. Hiện tượng trấn yểm ở sông
Tô Lịch cho đến giờ này, phút này chúng tôi chưa có một bằng chứng nào
cụ thể. Đó chỉ là sự phỏng đoán của tác giả bài viết.
- Để dập tắt những dư luận đồn thổi, ông nghĩ gì
trước ý kiến tổ chức hội thảo khoa học để đi đến kết luận cuối cùng về
hiện tượng sông Tô Lịch?
- Hiện tượng này không thể có một câu trả lời dứt
khoát, chỉ có thể nói rằng khoa học chưa đạt đến mức độ có thể tiếp cận
được với thế giới bên kia, ngoài những người tự nhận rằng có khả năng
ngoại cảm. Nếu nói nghiêm chỉnh có hay không một thế giới phản vật chất
vẫn là câu hỏi lớn đối với các nhà khoa học và chưa trả lời được. Nhận
thức của người sống đối với thế giới bên kia hoặc kiếp đời đã qua chỉ
dựa trên sự nghiệm chứng, những hiện tượng mà thôi. Hay nói đúng ra là
người sống thì chưa chết, mà người chết thì chẳng thấy nói gì cả.
Nhà nghiên cứu Trần Lâm Biền cho biết, sông Tô Lịch
gắn với thành Thăng Long và trước kia là gắn với thành Đại La. Ở đất này
Cao Biền (Trung Quốc) đã đóng đô. Khi đã đóng đô, người Trung Hoa phát
triển kinh tế tư nhân cao, nên có vị thành Hoàng bảo hộ thành thị. Thời
Bắc thuộc, chính quyền đô hộ đã dựng lên thành Đại La, cần có vị thành
Hoàng, để bảo vệ. Vị thành Hoàng đó hội tụ vào thần sông Tô Lịch. Cho
nên thần sông Tô Lịch là thành Hoàng.
Sau này các đình cũng có thành Hoàng thì chữ thành
Hoàng được hiểu là thành Hoàng làng. Thời Lý đã tôn sùng vị thần sông Tô
Lịch. Trong sự phát triển của lịch sử, người Việt không xóa bỏ thần
sông Tô Lịch, mà rất nhiều nơi đưa vào vị thần Việt Nam đó là thần Linh
Lang. Hiện tượng thờ thần Linh Lang rất phát triển dọc sông Tô Lịch, Kim
Ngưu, thậm chí cả sông Hồng.
|
Hồng Khánh thực hiện
GS Trần Quốc Vượng - Mấy vấn đề về vua Gia Long | |
Thứ Năm, 26/02/2015 11:17 | |
Ông không chống Tây, Thiên chúa, cũng không sùng bái quá đáng Thanh – Nho như người ta tưởng, và ông loay hoay – tìm mà chẳng được – một HỆ Ý THỨC VIỆT NAM... |
* PHẦN MỘT
0.1. Tôi không phải là một chuyên gia về lịch sử, đặc biệt là về nhà Nguyễn, nhưng thỉnh thoảng tôi cũng có những nghĩ suy và thực ra là từ những năm giữa thập kỷ 70 cho đến gần đây, đầu xuân Bính Tý 1996. Tôi vẫn thường qua lại xứ Huế và viết dăm bẩy bài về vị thế địa – văn hóa của xứ Huế và vai trò của các chúa Nguyễn, bắt đầu từ Chúa Tiên Nguyễn Hoàng (1558-1613) đến các vua đầu nhà Nguyễn, mở đầu là vua Gia Long (1802-1820) và kết thúc là vua Bảo Đại (1925-1945).
Tôi đã nói và viết tản mạn nhiều vấn đề về xứ Đàng Trong, về thời Nguyễn và nhà Nguyễn.
0.2. Ông Nguyễn Khoa Điềm – thuộc dòng họ Nguyễn Khoa nổi danh từ các chúa Nguyễn mà bà nội ông (Đạm Phương Nữ Sĩ) là cháu nội vua Minh Mạng, sinh ra thân phụ ông là nhà Mác-xít và là một trong những người cộng sản đầu tiên, tức Hải Triều Nguyễn Khoa Văn – đã từng phát biểu ở trường Đại học viết văn Nguyễn Du trong dịp lễ khai giảng khóa 5 (1995-1998), rằng khi ông là tổng biên tập đầu tiên của Tạp chí Sông Hương ở một thời chưa đổi mới lắm, ông đã cho đăng bài của tôi về “Xứ Huế và vị thế lịch sử của Huế” và đã cùng ban biên tập tạp chí ấy tặng tôi giải thưởng đặc biệt cho bài viết này, mà khi ấy người ta cho là một sự “xét lại” về mặt sử học. Bởi trước đó, theo giới Sử – Văn – Triết – Mỹ chính thống của Việt Nam, thì gần như là một sự “phủ định sạch trơn” (table rase) về thời Nguyễn và nhà Nguyễn, trong khi đó ở bài viết ấy và những bài tiếp theo, tôi cùng với các nhà nghiên cứu Dân tộc – Xã hội – Mỹ học như Nguyễn Đức Từ Chi, Trần Lâm Biền đã đề nghị một cách nhìn hơi khác, tóm tắt lại là:
- Cần phân biệt thời Nguyễn, đời Nguyễn và nhà Nguyễn.
- Cần phân biệt thời các chúa Nguyễn và các vua Nguyễn.
- Và trong các vua Nguyễn, cũng cần phân biệt các vua đầu Nguyễn như Gia Long, Minh Mạng (1820-1840) và các vua cuối Nguyễn như Tự Đức (1848-1883); và ngay cả các vua Nguyễn sau Tự Đức, cũng cần phân biệt những ông Đồng Khánh, Khải Định với những ông vua yêu nước như Hàm Nghi, Thành Thái, Duy Tân. Lại càng nên phân biệt chính trị triều Nguyễn và học thuật, trước tác và mỹ thuật của nền Quốc học Nguyễn. Có “cộng đồng” triều đình và có các “cá thể” vua – quan nữa chứ !
1.0. Nay theo yêu cầu của Ban tổ chức Hội nghị về vua Gia Long (1802-1820), tôi chỉ xin nói tóm tắt đôi điều mà tôi cảm nhận được về Nguyễn Ánh – Gia Long.
1.1. Về Nguyễn Ánh: Nếu tôi nhớ không nhầm thì cuộc khởi nghĩa Tây Sơn (mà những người theo lý thuyết Mác-xít thường gọi là “Khởi nghĩa nông dân”) bắt đầu xảy ra vào năm 1771, khi Nguyễn Huệ sau này trở thành vua Quang Trung vĩ đại bấy giờ mới 18 tuổi, thì lúc đó Nguyễn Ánh còn kém Nguyễn Huệ ít ra là 7 tuổi, nghĩa là mới chỉ một cậu bé con trên 10 tuổi, cháu của chúa Nguyễn Phước Thuần. Thế mà chính “cậu bé” Nguyễn Ánh đó – sau khi chúa Nguyễn và gần như hết thảy những nhân vật của dòng chúa đã bị họ Nguyễn Tây Sơn thủ tiêu sạch trơn – đâu chỉ khoảng 14 tuổi, từ xứ Huế, xứ Quảng chạy vô châu thổ sông Cửu Long và gần như là đại diện duy nhất còn lại của dòng chúa Nguyễn, đã trở thành vị Nguyên Soái chống lại phong trào Tây Sơn đang dâng lên và lan tỏa trong toàn quốc từ Nam chí Bắc như triều dâng thác đổ.
1.2. Tôi không bao giờ phủ định rằng phong trào Tây Sơn đã có những công tích vĩ đại, ít nhất ở ba mặt sau đây:
- Ở Đàng Trong thì lật đổ “trào đình” của các chúa Nguyễn rồi tiến ra Đàng Ngoài lật đổ “trào đình” của các chúa Trịnh cùng với triều Lê – mà những ông vua Lê từ quãng đầu thế kỷ XVII trên diễn trình lịch sử đã trở thành những ông vua “bù nhìn”, hay là các “con rối” (puppet) trong tay các chúa Trịnh.
- Chiến thắng vĩ đại chống quân xâm lược Xiêm mà đỉnh cao là trận Rạch Gầm – Xoài Mút ở Mỹ Tho (Tiền Giang) vào cuối năm 1784 đầu 1785. Quân xâm lược Xiêm 5 vạn đã “sợ Tây Sơn như sợ cọp” và chính là do lợi dụng việc Nguyễn Ánh cậy nhờ mà định sang chiếm đoạt miền Nam. Nguyễn Ánh mãi mãi mang tiếng xấu “cõng rắn cắn gà nhà”, cầu ngoại viện để giải quyết vấn đề quốc sự.
- Đại chiến thắng chống vài chục vạn quân xâm lược Thanh đầu xuân Kỷ Dậu 1789 – mà ông vua cuối cùng của nhà Lê là Chiêu Thống đã cầu cứu. Và cũng như Nguyễn Ánh, ông vua Lê ấy cũng mang một bộ mặt nhọ nhem trong lịch sử.
1.3. Nguyễn Ánh cùng Chiêu Thống càng lem luốc bao nhiêu trước lịch sử thì hình ảnh Nguyễn Huệ – Bắc Bình Vương – Quang Trung càng được xem là bộ mặt tỏa rạng và có một vai trò lịch sử lớn lao bấy nhiêu trong lịch sử Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII.
Nhưng bảo rằng Huế – Phú Xuân là do vua Quang Trung xây dựng thành một đô thị thủ đô thì theo tôi lại là một lối viết quá đà ! Huế, với thành Lồi ở Long Thọ bờ phải sông Hương và thành Lý Châu – sau đổi là Hóa Châu ở lưu vực sông Bồ đã trở nên một thị thành, một cảng thị (City-Port, Nagara) – từ thời Chiêm Thành và sau đó thời Đại Việt Huyền Trân nhà Trần (sau 1306) và sau đó nữa là Quãng Phước, Kim Long thời chúa Sãi Nguyễn Phước Nguyên và Phú Xuân thời chúa Thượng Nguyễn Phước Lan (1636-1648) và sau chót là Gia Long – Minh Mạng (trước Gia Long, Phú Xuân vẫn chỉ là Làng Xã).
1.4. Tuy không phải là một nhà sử học chính tông, nhưng tôi không bao giờ dám thể tất cho Nguyễn Ánh khi ông vì thế cùng lực kiệt, đã qua giám mục Bá Đa Lộc (Evêque D’Adran) và cậu bé tí hon hoàng tử Cảnh (lúc bấy giờ khoảng 6 tuổi) đi cầu viện các thế lực phương Tây (nhất là Pháp), đã dám cho vị giám mục người Pháp đó toàn quyền đại diện cho nước Việt phương Nam ký với Pháp cái gọi Hiệp ước Versailles, nhượng cho Pháp nào đảo Côn Lôn, nào cảng cửa Hàn… để mong nước Pháp quân chủ cuối mùa (1787) cứu một nền quân chủ cũng cuối mùa nốt của Đại Việt. Cho dù cái nước Pháp quân chủ cuối mùa ấy đã không giúp đỡ gì được cho Nguyễn Ánh và đã được / bị cuộc cách mạng 1789-1790 xóa sổ khỏi lịch sử phương Tây, nhưng sao chăng nữa, việc đó cũng tạo “tiền lệ” cho giới thực dân phương Tây mà trước hết là Pháp cùng với vài thế lực Thiên chúa giáo thân (Pro) thực dân can thiệp ngày càng sâu vào nội trị Việt Nam, và dẫn tới việc mất nước của ta vào nửa cuối thế kỷ XIX. Ký hiệp ước, hòa ước để nhượng địa rồi “mãi quốc cầu vinh” là những thủ đoạn hèn hạ của thực dân đầu mùa và quân chủ cuối mùa.
1.5. Tuy sự thật lịch sử cho tôi – và cho chúng ta – biết rõ rằng những điều khoản của Hiệp ước Versailles ấy đã không thực hiện và sau này, khi đại diện của chính phủ Pháp đòi vua Gia Long thực hiện hiệp ước Versailles thì vua Gia Long đã kiên quyết từ chối với lý do rất chính đáng là: nước Pháp có thực hiện điều khoản nào của hiệp ước Versailles đâu!
Trên đường từ Pháp về Pondichery (Ấn Độ), giám mục Bá Đa Lộc chỉ tuyển được một số sĩ quan, kỹ sư, kẻ “phiêu lưu” người Pháp và với một số rất ít kinh phí mua được vài cái tàu bọc đồng – mà vua Quang Trung coi là những sự hù dọa vớ vẩn – để mang về giúp Nguyễn Ánh. Cho nên theo tôi, cố giáo sư Trần Đức Thảo và một số người khác đã viết hơi quá đà, rằng sự viện trợ của Pháp là một trong những nhân tố quan trọng nhất để tập đoàn Nguyễn Ánh đã đánh bại phong trào triều đại Tây Sơn, từ Nguyễn Nhạc đến Cảnh Thịnh – Bảo Hưng (1792-1802).
1.6. Như vậy, với những điều viết trên, là tôi đã có một hàm ngôn rằng, sự thắng lợi của Nguyễn Ánh đối với triều đại Tây Sơn chủ yếu là do những nguyên nhân nội sinh, và đứng về mặt cá nhân tôi hay là của chúng ta nhỉ, cũng đáng nên “khâm phục” dù “chút chút” – Nguyễn Ánh – một người có cá tính mạnh, từ một cậu bé con của một ông chúa bị giết hại trong tù, gần như đã nhiều lúc không còn một mảnh giáp, không còn một tấc đất, đã lấy lại được quyền bính trong cả nước Việt Nam từ Lạng Sơn đến Cà Mau. Theo PGS Trần Lâm Biền, nền mỹ thuật Việt Nam chỉ có những thi pháp kiến trúc chung từ xứ Lạng đến Gia Định thành là từ Nguyễn Gia Long.
1.7. Cho nên, cũng không phải quá đáng lắm khi linh mục Nguyễn Phương và một số nhà sử học nước ngoài khác – từ phe XHCN (cũ) đến phe tư bản chủ nghĩa – cho rằng Nguyễn Ánh là người trên thực tế đã thống nhất đất nước chứ không phải là ông vua anh hùng Nguyễn Huệ – Quang Trung, mặc dù ông vua anh hùng 3 lần vĩ đại này đã gạt bỏ những thế lực quân chủ thối nát ở Đàng Trong, Đàng Ngoài và những lực lượng ngoại xâm đứng đàng sau những quyền lực khốn nạn ấy. Và như vậy, xét về mặt lịch sử khách quan là đã góp phần rất lớn vào công cuộc thống nhất đất nước(1).
1.8. Không nói gì đến ông Nguyễn Lữ – là “thầy tu” hay là “thầy võ” – không đủ nội lực để đối địch với Nguyễn Ánh ở miền Nam, chỉ nói đến ông anh Nguyễn Nhạc xuất thân “nậu nguồn” và ông em Hồ Thơm (Nguyễn Huệ) thì, do sự chia rẽ ngay trong nội bộ gia đình, mà theo tôi “ghê tởm” nhất là ông anh cả Nguyễn Nhạc đã vì sự thỏa mãn nhỏ nhen được làm Trung ương Hoàng đế ở thành Trà Bàn, rồi vì ghen tị và “chãnh chọe” với em sau vụ Bắc Bình Vương “xóa hận sông Gianh” tiến ra Thăng Long, đã vội vã ra Bắc kéo em về, rồi lại hãm hiếp cô em dâu – vợ Nguyễn Huệ – tạo mối thù hận khôn nguôi và chiến tranh giữa hai anh em, khiến dưới triều Tây Sơn có một ông hoàng đế ở Quy Nhơn và một ông hoàng đế ở Phú Xuân. Vậy làm sao có thể nói được là nước ta đã được thống nhất ngay dưới thời Tây Sơn? Đó là một “lập trường giai cấp” máy móc đang chuyện nọ (chống ngoại xâm) “xọ chuyện kia” (chống quân chủ Nguyễn – Trịnh).
1.9. Ở đây có một vấn đề thuộc phương pháp luận sử học cần được làm sáng tỏ là: Lịch sử bao giờ cũng có một sự gián cách giữa lịch sử – thực tại (Histoire – Réalité) và lịch sử nhận thức (Histoire – Conscience). Mà cái lịch sử nhận thức thì luôn gắn liền với chủ quan nhà sử học – nhưng trách nhiệm và bổn phận của nhà sử học chân chính là luôn luôn cần cố gắng có cái nhìn khách quan đến mức cao nhất. Mức cao nhất đó là như các nhà lãnh đạo Cộng sản Việt Nam cuối thế kỷ XX nói: Hơn ai hết là nhà sử học cần “nhìn thẳng vào sự thật !”, nói đúng sự thật, và giải thích một cách khoa học cái sự thật khách quan ấy. Vẫn theo tôi, “tâm thức tiểu nông” Việt Nam là nền tảng tinh thần của nền “dân chủ làng xã”, của sự đồng dạng văn hóa (Cultural Identity) ở cấp văn hóa xóm làng Đại Việt – Việt Nam một thời. Thống nhất rồi chia rẽ, đó là “trách nhiệm lịch sử” của cấu trúc quân chủ Phật giáo (Lý – Trần), rồi quân chủ Nho giáo (Lê – Nguyễn). Lịch sử chính trị và lịch sử văn hóa, có cái CHUNG và cũng có cái RIÊNG. Quy mọi thứ vào chính trị hay vào kinh tế là cái nhìn (Point of view) đã “lỗi thời” (Over time) lâu rồi, quá lâu rồi!
* PHẦN HAI
01. Luôn “trung thành” với tư duy tự ý thức rằng “Tôi không phải là một nhà sử học chính tông”, sau đây tôi chỉ nói – và viết – đôi điều “lặt vặt” tôi nhớ lại và cảm nhận được về vị vua khai sáng triều Nguyễn – Gia Long.
01.1. Nguyễn Ánh đã từng bôn ba từ đất liền ra các hải đảo, Côn Lôn, Phú Quốc…
Do nghiệm sinh cá nhân, tôi rất thích những người “bôn ba”, “từng trải”… dù với ý định chủ quan gì hay là do sự dủi dun của Trời Đất – Tự nhiên. Vị Tam Nguyên Vị Xuyên xứ Nam Hạ – Nam Hà quê tôi Trần Bích San đã có hai câu thơ mà tôi coi là tuyệt bút, nhất là câu sau:
0.1. Tôi không phải là một chuyên gia về lịch sử, đặc biệt là về nhà Nguyễn, nhưng thỉnh thoảng tôi cũng có những nghĩ suy và thực ra là từ những năm giữa thập kỷ 70 cho đến gần đây, đầu xuân Bính Tý 1996. Tôi vẫn thường qua lại xứ Huế và viết dăm bẩy bài về vị thế địa – văn hóa của xứ Huế và vai trò của các chúa Nguyễn, bắt đầu từ Chúa Tiên Nguyễn Hoàng (1558-1613) đến các vua đầu nhà Nguyễn, mở đầu là vua Gia Long (1802-1820) và kết thúc là vua Bảo Đại (1925-1945).
Tôi đã nói và viết tản mạn nhiều vấn đề về xứ Đàng Trong, về thời Nguyễn và nhà Nguyễn.
0.2. Ông Nguyễn Khoa Điềm – thuộc dòng họ Nguyễn Khoa nổi danh từ các chúa Nguyễn mà bà nội ông (Đạm Phương Nữ Sĩ) là cháu nội vua Minh Mạng, sinh ra thân phụ ông là nhà Mác-xít và là một trong những người cộng sản đầu tiên, tức Hải Triều Nguyễn Khoa Văn – đã từng phát biểu ở trường Đại học viết văn Nguyễn Du trong dịp lễ khai giảng khóa 5 (1995-1998), rằng khi ông là tổng biên tập đầu tiên của Tạp chí Sông Hương ở một thời chưa đổi mới lắm, ông đã cho đăng bài của tôi về “Xứ Huế và vị thế lịch sử của Huế” và đã cùng ban biên tập tạp chí ấy tặng tôi giải thưởng đặc biệt cho bài viết này, mà khi ấy người ta cho là một sự “xét lại” về mặt sử học. Bởi trước đó, theo giới Sử – Văn – Triết – Mỹ chính thống của Việt Nam, thì gần như là một sự “phủ định sạch trơn” (table rase) về thời Nguyễn và nhà Nguyễn, trong khi đó ở bài viết ấy và những bài tiếp theo, tôi cùng với các nhà nghiên cứu Dân tộc – Xã hội – Mỹ học như Nguyễn Đức Từ Chi, Trần Lâm Biền đã đề nghị một cách nhìn hơi khác, tóm tắt lại là:
- Cần phân biệt thời Nguyễn, đời Nguyễn và nhà Nguyễn.
- Cần phân biệt thời các chúa Nguyễn và các vua Nguyễn.
- Và trong các vua Nguyễn, cũng cần phân biệt các vua đầu Nguyễn như Gia Long, Minh Mạng (1820-1840) và các vua cuối Nguyễn như Tự Đức (1848-1883); và ngay cả các vua Nguyễn sau Tự Đức, cũng cần phân biệt những ông Đồng Khánh, Khải Định với những ông vua yêu nước như Hàm Nghi, Thành Thái, Duy Tân. Lại càng nên phân biệt chính trị triều Nguyễn và học thuật, trước tác và mỹ thuật của nền Quốc học Nguyễn. Có “cộng đồng” triều đình và có các “cá thể” vua – quan nữa chứ !
1.0. Nay theo yêu cầu của Ban tổ chức Hội nghị về vua Gia Long (1802-1820), tôi chỉ xin nói tóm tắt đôi điều mà tôi cảm nhận được về Nguyễn Ánh – Gia Long.
1.1. Về Nguyễn Ánh: Nếu tôi nhớ không nhầm thì cuộc khởi nghĩa Tây Sơn (mà những người theo lý thuyết Mác-xít thường gọi là “Khởi nghĩa nông dân”) bắt đầu xảy ra vào năm 1771, khi Nguyễn Huệ sau này trở thành vua Quang Trung vĩ đại bấy giờ mới 18 tuổi, thì lúc đó Nguyễn Ánh còn kém Nguyễn Huệ ít ra là 7 tuổi, nghĩa là mới chỉ một cậu bé con trên 10 tuổi, cháu của chúa Nguyễn Phước Thuần. Thế mà chính “cậu bé” Nguyễn Ánh đó – sau khi chúa Nguyễn và gần như hết thảy những nhân vật của dòng chúa đã bị họ Nguyễn Tây Sơn thủ tiêu sạch trơn – đâu chỉ khoảng 14 tuổi, từ xứ Huế, xứ Quảng chạy vô châu thổ sông Cửu Long và gần như là đại diện duy nhất còn lại của dòng chúa Nguyễn, đã trở thành vị Nguyên Soái chống lại phong trào Tây Sơn đang dâng lên và lan tỏa trong toàn quốc từ Nam chí Bắc như triều dâng thác đổ.
1.2. Tôi không bao giờ phủ định rằng phong trào Tây Sơn đã có những công tích vĩ đại, ít nhất ở ba mặt sau đây:
- Ở Đàng Trong thì lật đổ “trào đình” của các chúa Nguyễn rồi tiến ra Đàng Ngoài lật đổ “trào đình” của các chúa Trịnh cùng với triều Lê – mà những ông vua Lê từ quãng đầu thế kỷ XVII trên diễn trình lịch sử đã trở thành những ông vua “bù nhìn”, hay là các “con rối” (puppet) trong tay các chúa Trịnh.
- Chiến thắng vĩ đại chống quân xâm lược Xiêm mà đỉnh cao là trận Rạch Gầm – Xoài Mút ở Mỹ Tho (Tiền Giang) vào cuối năm 1784 đầu 1785. Quân xâm lược Xiêm 5 vạn đã “sợ Tây Sơn như sợ cọp” và chính là do lợi dụng việc Nguyễn Ánh cậy nhờ mà định sang chiếm đoạt miền Nam. Nguyễn Ánh mãi mãi mang tiếng xấu “cõng rắn cắn gà nhà”, cầu ngoại viện để giải quyết vấn đề quốc sự.
- Đại chiến thắng chống vài chục vạn quân xâm lược Thanh đầu xuân Kỷ Dậu 1789 – mà ông vua cuối cùng của nhà Lê là Chiêu Thống đã cầu cứu. Và cũng như Nguyễn Ánh, ông vua Lê ấy cũng mang một bộ mặt nhọ nhem trong lịch sử.
1.3. Nguyễn Ánh cùng Chiêu Thống càng lem luốc bao nhiêu trước lịch sử thì hình ảnh Nguyễn Huệ – Bắc Bình Vương – Quang Trung càng được xem là bộ mặt tỏa rạng và có một vai trò lịch sử lớn lao bấy nhiêu trong lịch sử Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII.
Nhưng bảo rằng Huế – Phú Xuân là do vua Quang Trung xây dựng thành một đô thị thủ đô thì theo tôi lại là một lối viết quá đà ! Huế, với thành Lồi ở Long Thọ bờ phải sông Hương và thành Lý Châu – sau đổi là Hóa Châu ở lưu vực sông Bồ đã trở nên một thị thành, một cảng thị (City-Port, Nagara) – từ thời Chiêm Thành và sau đó thời Đại Việt Huyền Trân nhà Trần (sau 1306) và sau đó nữa là Quãng Phước, Kim Long thời chúa Sãi Nguyễn Phước Nguyên và Phú Xuân thời chúa Thượng Nguyễn Phước Lan (1636-1648) và sau chót là Gia Long – Minh Mạng (trước Gia Long, Phú Xuân vẫn chỉ là Làng Xã).
1.4. Tuy không phải là một nhà sử học chính tông, nhưng tôi không bao giờ dám thể tất cho Nguyễn Ánh khi ông vì thế cùng lực kiệt, đã qua giám mục Bá Đa Lộc (Evêque D’Adran) và cậu bé tí hon hoàng tử Cảnh (lúc bấy giờ khoảng 6 tuổi) đi cầu viện các thế lực phương Tây (nhất là Pháp), đã dám cho vị giám mục người Pháp đó toàn quyền đại diện cho nước Việt phương Nam ký với Pháp cái gọi Hiệp ước Versailles, nhượng cho Pháp nào đảo Côn Lôn, nào cảng cửa Hàn… để mong nước Pháp quân chủ cuối mùa (1787) cứu một nền quân chủ cũng cuối mùa nốt của Đại Việt. Cho dù cái nước Pháp quân chủ cuối mùa ấy đã không giúp đỡ gì được cho Nguyễn Ánh và đã được / bị cuộc cách mạng 1789-1790 xóa sổ khỏi lịch sử phương Tây, nhưng sao chăng nữa, việc đó cũng tạo “tiền lệ” cho giới thực dân phương Tây mà trước hết là Pháp cùng với vài thế lực Thiên chúa giáo thân (Pro) thực dân can thiệp ngày càng sâu vào nội trị Việt Nam, và dẫn tới việc mất nước của ta vào nửa cuối thế kỷ XIX. Ký hiệp ước, hòa ước để nhượng địa rồi “mãi quốc cầu vinh” là những thủ đoạn hèn hạ của thực dân đầu mùa và quân chủ cuối mùa.
1.5. Tuy sự thật lịch sử cho tôi – và cho chúng ta – biết rõ rằng những điều khoản của Hiệp ước Versailles ấy đã không thực hiện và sau này, khi đại diện của chính phủ Pháp đòi vua Gia Long thực hiện hiệp ước Versailles thì vua Gia Long đã kiên quyết từ chối với lý do rất chính đáng là: nước Pháp có thực hiện điều khoản nào của hiệp ước Versailles đâu!
Trên đường từ Pháp về Pondichery (Ấn Độ), giám mục Bá Đa Lộc chỉ tuyển được một số sĩ quan, kỹ sư, kẻ “phiêu lưu” người Pháp và với một số rất ít kinh phí mua được vài cái tàu bọc đồng – mà vua Quang Trung coi là những sự hù dọa vớ vẩn – để mang về giúp Nguyễn Ánh. Cho nên theo tôi, cố giáo sư Trần Đức Thảo và một số người khác đã viết hơi quá đà, rằng sự viện trợ của Pháp là một trong những nhân tố quan trọng nhất để tập đoàn Nguyễn Ánh đã đánh bại phong trào triều đại Tây Sơn, từ Nguyễn Nhạc đến Cảnh Thịnh – Bảo Hưng (1792-1802).
1.6. Như vậy, với những điều viết trên, là tôi đã có một hàm ngôn rằng, sự thắng lợi của Nguyễn Ánh đối với triều đại Tây Sơn chủ yếu là do những nguyên nhân nội sinh, và đứng về mặt cá nhân tôi hay là của chúng ta nhỉ, cũng đáng nên “khâm phục” dù “chút chút” – Nguyễn Ánh – một người có cá tính mạnh, từ một cậu bé con của một ông chúa bị giết hại trong tù, gần như đã nhiều lúc không còn một mảnh giáp, không còn một tấc đất, đã lấy lại được quyền bính trong cả nước Việt Nam từ Lạng Sơn đến Cà Mau. Theo PGS Trần Lâm Biền, nền mỹ thuật Việt Nam chỉ có những thi pháp kiến trúc chung từ xứ Lạng đến Gia Định thành là từ Nguyễn Gia Long.
1.7. Cho nên, cũng không phải quá đáng lắm khi linh mục Nguyễn Phương và một số nhà sử học nước ngoài khác – từ phe XHCN (cũ) đến phe tư bản chủ nghĩa – cho rằng Nguyễn Ánh là người trên thực tế đã thống nhất đất nước chứ không phải là ông vua anh hùng Nguyễn Huệ – Quang Trung, mặc dù ông vua anh hùng 3 lần vĩ đại này đã gạt bỏ những thế lực quân chủ thối nát ở Đàng Trong, Đàng Ngoài và những lực lượng ngoại xâm đứng đàng sau những quyền lực khốn nạn ấy. Và như vậy, xét về mặt lịch sử khách quan là đã góp phần rất lớn vào công cuộc thống nhất đất nước(1).
1.8. Không nói gì đến ông Nguyễn Lữ – là “thầy tu” hay là “thầy võ” – không đủ nội lực để đối địch với Nguyễn Ánh ở miền Nam, chỉ nói đến ông anh Nguyễn Nhạc xuất thân “nậu nguồn” và ông em Hồ Thơm (Nguyễn Huệ) thì, do sự chia rẽ ngay trong nội bộ gia đình, mà theo tôi “ghê tởm” nhất là ông anh cả Nguyễn Nhạc đã vì sự thỏa mãn nhỏ nhen được làm Trung ương Hoàng đế ở thành Trà Bàn, rồi vì ghen tị và “chãnh chọe” với em sau vụ Bắc Bình Vương “xóa hận sông Gianh” tiến ra Thăng Long, đã vội vã ra Bắc kéo em về, rồi lại hãm hiếp cô em dâu – vợ Nguyễn Huệ – tạo mối thù hận khôn nguôi và chiến tranh giữa hai anh em, khiến dưới triều Tây Sơn có một ông hoàng đế ở Quy Nhơn và một ông hoàng đế ở Phú Xuân. Vậy làm sao có thể nói được là nước ta đã được thống nhất ngay dưới thời Tây Sơn? Đó là một “lập trường giai cấp” máy móc đang chuyện nọ (chống ngoại xâm) “xọ chuyện kia” (chống quân chủ Nguyễn – Trịnh).
1.9. Ở đây có một vấn đề thuộc phương pháp luận sử học cần được làm sáng tỏ là: Lịch sử bao giờ cũng có một sự gián cách giữa lịch sử – thực tại (Histoire – Réalité) và lịch sử nhận thức (Histoire – Conscience). Mà cái lịch sử nhận thức thì luôn gắn liền với chủ quan nhà sử học – nhưng trách nhiệm và bổn phận của nhà sử học chân chính là luôn luôn cần cố gắng có cái nhìn khách quan đến mức cao nhất. Mức cao nhất đó là như các nhà lãnh đạo Cộng sản Việt Nam cuối thế kỷ XX nói: Hơn ai hết là nhà sử học cần “nhìn thẳng vào sự thật !”, nói đúng sự thật, và giải thích một cách khoa học cái sự thật khách quan ấy. Vẫn theo tôi, “tâm thức tiểu nông” Việt Nam là nền tảng tinh thần của nền “dân chủ làng xã”, của sự đồng dạng văn hóa (Cultural Identity) ở cấp văn hóa xóm làng Đại Việt – Việt Nam một thời. Thống nhất rồi chia rẽ, đó là “trách nhiệm lịch sử” của cấu trúc quân chủ Phật giáo (Lý – Trần), rồi quân chủ Nho giáo (Lê – Nguyễn). Lịch sử chính trị và lịch sử văn hóa, có cái CHUNG và cũng có cái RIÊNG. Quy mọi thứ vào chính trị hay vào kinh tế là cái nhìn (Point of view) đã “lỗi thời” (Over time) lâu rồi, quá lâu rồi!
* PHẦN HAI
01. Luôn “trung thành” với tư duy tự ý thức rằng “Tôi không phải là một nhà sử học chính tông”, sau đây tôi chỉ nói – và viết – đôi điều “lặt vặt” tôi nhớ lại và cảm nhận được về vị vua khai sáng triều Nguyễn – Gia Long.
01.1. Nguyễn Ánh đã từng bôn ba từ đất liền ra các hải đảo, Côn Lôn, Phú Quốc…
Do nghiệm sinh cá nhân, tôi rất thích những người “bôn ba”, “từng trải”… dù với ý định chủ quan gì hay là do sự dủi dun của Trời Đất – Tự nhiên. Vị Tam Nguyên Vị Xuyên xứ Nam Hạ – Nam Hà quê tôi Trần Bích San đã có hai câu thơ mà tôi coi là tuyệt bút, nhất là câu sau:
Văn vô sơn thủy phi kỳ khí,
Nhân bất phong sương vị lão tài !
Nghĩa là:
Văn không sông núi, không cao diệu,
Người chẳng phong sương, khó rạng tài !
01.2. Rất gần đây, tôi được đọc bản thảo bài viết của một học giả Mỹ, trong đó có đoạn đại ý rằng:
Phụ thân Hồ Chí Minh – Cụ phó bảng Nguyễn Sinh Huy (Sắc) là một người phiêu lãng (Wanderer), nhưng cụ mới chỉ “lãng du” ở trong nước Việt từ xứ Nghệ xứ Huế đến xứ Thanh, xứ Bình Định rồi vô miền Nam, Sài Gòn, Sông Bé, Long An, Sa Đéc…
Có thể Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh cũng được “di truyền” bởi cái “gen” văn hóa phiêu lãng (wandering) đó, nhưng “CON hơn cha là nhà có PHÚC”, Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh đã phiêu lãng gần như toàn thế giới, từ Á, Âu đến Phi, Mỹ… và ông đã có dịp “sống nghiệm” với nhiều nền văn hóa khác nhau; do đó ông đã trải nghiệm đối sánh nhiều LỐI SỐNG (Way (s)) trên tảng nền LỐI SỐNG VIỆT NAM. Ông giỏi ngoại ngữ mà ngôn ngữ là một sản phẩm đồng thời là một thành tố của Văn hóa, cho nên ông trở thành người của toàn Nhân loại và ông trở nên DUNG DỊ (Generous), rất Việt Nam và cũng rất “Thể tất”, rất “Cận NHÂN TÌNH” (Hunman Sense). Do vậy, Wandering phiêu lãng ở ông là một GIÁ TRỊ VĂN HÓA.
Thế mà đã có kẻ dám dịch “wandering” là “lang bang, lang thang” và bảo rằng học giả Mỹ đó có dụng ý nói xấu Cụ Hồ ! Đáng xấu hổ thay người “DỐT HAY NÓI CHỮ” hay là “HAY CHỮ LỎNG” !
01.3. Nguyễn Ánh (Gia Long từ 1802) đã bôn ba từ đất liền đến hải đảo, từ Việt đến Xiêm, đánh Tây Sơn bại rồi thắng to cũng có, mà đánh thắng cả Miến Điện theo yêu cầu – có lúc là “quái ác” – của vua Xiêm cũng có. Nguyễn Ánh bẩm sinh và sinh nghiệm là một vị tướng tài ba “thắng không kiêu, bại không nản”. Bị Xiêm rồi bị Pháp và sau cả Thanh Mãn Trung Hoa khống chế, gây “áp lực” song Nguyễn Ánh vẫn tìm mọi cách để “thoát ra” được sự khống chế đó và – cho dù chỉ theo ý kiến cá nhân tôi – ông vẫn là NGƯỜI VIỆT NAM và đứng đầu một CHÍNH QUYỀN ĐỘC LẬP VIỆT NAM, cho dù ông chịu nhiều áp lực ngoại bang và cũng có lúc phải sử dụng nhiều cố vấn trong nước và nước ngoài. Ông nghe nhiều nhưng ông nghĩ và làm phần nhiều theo ý ông. Từ 1815 hay về cuối đời, dù nể trọng Tả quân Lê Văn Duyệt, ông vẫn quyết định chọn hoàng tử Đảm (vua Minh Mạng ngày sau) chứ đâu có chọn cháu đích tông – con hoàng tử Cảnh – làm người kế vị ông. Mà Minh Mạng, thì nên trọng nể và học tập ông về việc quản lý hành chánh đất nước và xã hội nhiều hơn nữa, chứ trách cứ ông thì cũng dễ thôi.
01.4. Cho dù ông tin cậy và nhờ cậy vào giám mục Bá Đa Lộc và tỏ ra “khoan hòa” với Thiên chúa giáo của phương Tây, cho dù hoàng tử Cảnh – trưởng nam của ông – đã trở thành giáo dân Thiên chúa giáo, khi ở Gia Định (Nam Bộ) cũng như khi trở thành hoàng đế toàn Việt Nam, ông vẫn tôn Nho, trọng dụng “Gia Định tam gia” người Việt gốc Hoa (Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định, Ngô Nhơn Tịnh), vẫn trọng Phật, Lão và tín ngưỡng dân gian, dù là Việt Nam, là Khơ Me, hay là Chăm, là Thượng… Đội cận vệ của Gia Long, theo sử chép, chủ yếu là người “Thượng” (Sơn nhân). Ở thập kỷ 80, tôi đi điền dã ở xứ Quảng, ở Tây Nguyên, các tộc “thiểu số” vẫn nhắc đến Gia Long với một niềm kính nể. Có một thứ cây nửa trồng nửa hoang dại mang tên “Hoàng oanh quất” (quýt vàng) quả ăn ngon, người dân tộc vẫn bảo tôi rằng đó là thứ quả cây của vùng sơn cước đã nuôi sống Nguyễn Ánh thời khăn khó, sau này trở thành Quýt Ngự. Ấy là tôi chưa kể “Quế Trà My”…
01.5. Ông không chống Tây, Thiên chúa, cũng không sùng bái quá đáng Thanh – Nho như người ta tưởng, và ông loay hoay – tìm mà chẳng được – một HỆ Ý THỨC VIỆT NAM. Ông làm theo kiểu Việt Nam mà chưa điều chế nổi một lối suy nghĩ (Way of thinking) Việt Nam. Chỉ sau này Nguyễn Ái Quốc mới xây dựng được một Tư tưởng Hồ Chí Minh tương đối thuần Việt Nam. Nhưng đó lại là một đề tài chuyên luận Triết – Sử khác, ít dính dáng đến chủ đề ta đang bàn về Gia Long.
02. Sau 10 năm chinh chiến mà dân gian miền Nam Trung Bộ gọi là “TRẬN GIẶC MÙA” (1791-1801) – mùa gió nồm nam, Nguyễn Ánh mới dùng đội thủy chiến THUYỀN BUỒM ra đánh Tây Sơn – cuối cùng ông đã thắng.
02.1. Tôi là con cháu nhà Nho nên cũng có biết câu “Bất tương thành bại luận anh hùng”, nghĩa là “luận anh hùng, chớ kể hơn thua!”.
Song, nếu tôi là nhà sử học như các quý vị Phan Huy Lê, Nguyễn Phan Quang… khả kính, tôi cũng phải tìm cách “giải thích” lịch sử chiến thắng của Nguyễn Ánh với Tây Sơn chứ nhỉ?
Chả nhẽ lại chỉ dùng một thứ “chủ nghĩa Mác thô sơ” là cuối cùng NÔNG DÂN – nếu không có một Đảng của giai cấp công nhân đô thị hiện đại lãnh đạo thì bao giờ cũng THUA giai cấp địa chủ – phong kiến, mà dù có thắng – như Tây Sơn đã từng thắng trước đó – thì rồi cũng bị ĐỊA CHỦ HÓA, PHONG KIẾN HÓA mà thôi!
02.2. Như tôi đã nghiệm sinh trên điền dã khắp Bắc Trung và chút chút ở miền Nam, tôi đã thấy cả Nguyễn Nhạc và cả Bắc Bình Vương – Quang Trung (tất nhiên cả Nguyễn Lữ nữa) đã thất nhân tâm khi các ông – như học giả Tạ Chí Đại Trường đã dẫn ra nhiều chứng cứ (Xem Nội chiến ở Việt Nam 1771-1801…) – ở miền Trung, chỉ để 01 chùa ở cấp huyện, ở miền Bắc chỉ để 01 chùa ở cấp tổng. “ĐẤT VUA – chùa LÀNG – Phong cảnh BỤT” – sáng – chiều nghe tiếng chuông chùa “chiêu mộ” để tấm lòng thư giãn, để biết thời gian trôi chảy vô thường đã từ lâu in hằn vào tâm thức người Việt. Phá chùa, đập tượng, nung chuông (làm tiền, làm khí giới) là làm phản lại tâm thức Việt Nam. Có lẽ nào dân gian xứ Bắc – Đàng Ngoài vốn kính VUA (Lê) nể CHÚA (Trịnh) và sùng Phật – Đạo, dù rất trọng Quang Trung đã vì dân mà chiến đấu và chiến thắng giặc Mãn Thanh, thế mà bên câu ca dao “cổ” (XV):
Lạy trời cho cả gió lên,
Cho cờ vua Bình Định(2) phất (phới) trên kinh thành(3).
Lại có câu ca dao “cận đại”:
Lạy trời cho cả gió Nồm,
Cho thuyền chúa (vua) Nguyễn thắng buồm thẳng ra!
Ra… là ra Bắc. Vô là vô (vào) Trung – Nam. Đấy là một câu ca dao thuần Bắc cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX. Đừng nên chỉ suy diễn lòng dân (XVIII-XIX) theo chủ quan “bác học” (XX), mà nhà làm sử rất nên tham khảo Folklore, nhất là Folklore cổ – cận – dân gian.
02.3. Quân Tây Sơn vào Nam – Nam Bộ – thì phá Cù Lao Phố (Biên Hòa hiện nay), giết hại thương nhân Hoa kiều, vứt phá hàng ngoại bỏ ra đầy đường, sau ở Sài Gòn thì cũng vậy; ra Trung thì tàn phá Hội An (Faifoo), 10 năm sau còn chưa phục hồi lại được; ra Bắc thì phá Vị Hoàng, phố Hiến và có đâu chừa lắm cả Thăng Long. Khi nho sĩ Bắc Hà – mượn lời nông dân xóm Văn Chương – để thưa kiện với chúa Tây Sơn về việc tòa Văn Miếu – bia Tiến Sĩ bị phá thì Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ đã thành thật phê vào đơn:
Thôi! Thôi! Thôi! Việc đã rồi!
Trăm điều hãy cứ trách bồi vào ta!
Nay mai dựng lại nước nhà,
Bia Nghè lại dựng trên tòa muôn gian.
Thôi cũng đừng đổ oan cho thằng Trịnh Khải (1785-1786)!
02.4. Gia Long dù bắt đổi Thăng Long (昇 龍) từ thành phố Rồng bay thủ đô cả nước ra Thăng Long (昇 隆) – ngày thêm thịnh vượng – thủ phủ Bắc thành và dời thủ đô cùng cả Quốc Tử Giám – Văn Miếu vào Huế thì ở Văn Miếu Thăng Long, Gia Long vẫn cho xây một tòa Khuê Văn Các, nhỏ thôi mà cực đẹp; và ở thành cũ hoài cổ của Bà Huyện Thanh Quan, ông cũng cho xây một tòa Cột Cờ cao đẹp nhất kinh thành ngày ấy và cho đến nay còn tồn tại!
Thế thì kể ra cũng khó mà chê Gia Long và nghệ thuật kiến trúc Nguyễn ! Mà chê bai làm gì nhỉ, khi chúng – với thời gian – đã trở thành cái ĐẸP, cái Di sản Văn hóa Dân tộc – Dân gian.
Huế trở thành một Di sản Văn hóa Nhân loại – theo Quyết định của UNESCO 1993, mà hiện nay ta rất tự hào và đang biến thành Trung tâm Du lịch Văn hóa Việt Nam là NHỜ AI, nếu không phải là nhờ VUA – QUAN – DÂN thời Gia Long – Minh Mạng – Tự Đức và Nguyễn nói chung?
Kính xin quý vị Sử gia – tạm / gượng gọi là “đồng nghiệp” của tôi bơn bớt việc “chửi bới” nhà Nguyễn – đời Nguyễn – bắt đầu từ Gia Long – đi cho tôi và dân chúng nhờ… Và thái độ tốt nhất là xếp cả xứ Huế và Việt Nam khi ấy vào Bảo tàng Lịch sử và coi khi đó, không gian đó như một TẤT YẾU TẤT NHIÊN của LỊCH SỬ VIỆT NAM!
03. Có một huyền tích lưu hành rất dai dẳng – và còn được ghi bằng giấy mực nữa kia – là khi Nguyễn Ánh – Gia Long (năm 1801) chiếm lại được Phú Xuân – Huế từ tay triều đại Tây Sơn, đã “cướp” công chúa Lê Ngọc Hân – Bắc cung Hoàng hậu của Quang Trung làm vợ. Huyền tích ấy nay đã được giải ảo hiện thực (désenchanter le réel). Sự thực lịch sử là thế này:
03.1. Sau khi vua Quang Trung mất (1792), Ngọc Hân đã dời cung điện ra ở chùa Tiên gần lăng mộ Quang Trung (xem sách “Đi tìm lăng mộ Quang Trung” của Nguyễn Đắc Xuân và nhất là xem thơ Phan Huy Ích). Theo tôi, đó là vì vua Cảnh Thịnh kế nghiệp Quang Trung mới 12 tuổi (không phải là con đẻ của Ngọc Hân) cùng thái sư Bùi Đắc Tuyên (cậu của Cảnh Thịnh) rất lộng quyền, chẳng ưa gì bà Ngọc Hân xứ Bắc, nên bà đã có ứng xử “chẳng tu thì cũng như tu mới là”; cũng có thể là bà “nặng tình nặng nghĩa” với Quang Trung. Bà có với Quang Trung hai (02) người con, bà mất sớm (1799) và cả hai con bà cũng vậy (1801).
03.2. Cho nên không làm gì có chuyện vua Gia Long giết hai con bà và lại lấy bà làm vợ. Khi Ngọc Hân làm vợ Quang Trung, đã môi giới để người em cùng nhũ mẫu là Ngọc Bình làm vợ của Cảnh Thịnh.
Khi Cảnh Thịnh chạy ra Bắc, không hiểu vì lý do gì, bà Ngọc Bình bị kẹt ở Phú Xuân. Gia Long chiếm Phú Xuân, bắt được Ngọc Bình và quyết định ngay lấy làm vợ (phi). Cả đám triều thần của Gia Long xúm lại can ngăn, họ nói: - Bệ hạ nay có cả thiên hạ, thiếu gì gái đẹp – trinh nguyên, việc gì phải lấy vợ của giặc làm vợ mình! Vua Gia Long cười ha hả mà nói: - Đến đất nước của giặc “tau” còn lấy, huống chi là vợ giặc,“tau” lấy vợ giặc làm vợ “tau” thì có chi mô!
Về việc này Biên Niên sử của triều Nguyễn còn chép hẳn hoi, xem – chẳng hạn – Đại Nam Thực lục Chính biên.
Tôi kể chuyện này với ông bạn thân – nay đã quá cố “người xứ Huế” (mẹ là dòng Hoàng phái Nguyễn) là PGS Nguyễn Đức Từ Chi, ông cười lâu lắm và bảo tôi rằng: - Ở đại học, tôi học cổ sử Việt Nam với các thầy khác nên không biết chuyện này. Nay nghe anh kể mới biết. Thật là tuyệt ! Đây là một “ca” (cas = trường hợp) mà nếu lý giải bằng phân tâm học (psyanalyse) thì sẽ rất lý thú. Nhưng câu nói ấy của Gia Long trả lời các quan đại thần là rất “cynique” (tôi chưa biết dịch là gì cho đúng, đại khái là rất “tởm”, “lỗ mãng”, “bất cần sĩ diện”, “trắng trợn”… nhưng mà rất THỰC) đấy chứ, phải không anh?
Tôi mủm mỉm gật đầu đồng ý.
03.3. Tôi được đọc GIA PHẢ nhà họ Nguyễn ở làng Nành (nay thuộc xã Ninh Hiệp, huyện Gia Lâm, Hà Nội) quê bà Nguyễn Thị Huyền, mẹ bà Ngọc Bình, nhũ mẫu của bà Ngọc Hân. Gia phả có đoạn chép:
Bà cụ Nguyễn Thị Huyền – qua con gái là bà Ngọc Bình – có làm đơn xin cải táng mộ bà Ngọc Hân (và hai con bà) về Bắc, về quê bà. Vua Gia Long đồng ý. Tiểu sành đựng xương cốt bà Ngọc Hân được chở bằng thuyền về làng Nành và được xây mộ hẳn hoi. Mãi đến thời Thiệu Trị (1840-1847), có một tên cường hào ở làng Nành vì có sự chảnh chọe ngôi thứ gì đó với dòng họ Nguyễn nên làm đơn vu cáo họ Nguyễn đã “lợi dụng” gì đó về ngôi “mả ngụy” Ngọc Hân, cấp trên nó quan liêu hay ăn đút lót gì đó – không biết – phê vào đơn cho phép đào mả Ngọc Hân quẳng xuống sông Nhị Hồng…
Hiện nay ở Gia Lâm có đền Ghềnh, tương truyền là “rất thiêng”, đấy chính là nơi hài cốt Ngọc Hân dạt vào, được dân vớt lên mai táng lại. Nhiều nhà “Hà Nội học” – không đọc gia phả họ Nguyễn làng Nành – đã nói và viết rất “lu bu” về chuyện này và “đổ vạ” cho Gia Long và nhà Nguyễn đào mả vợ Quang Trung để trả thù ! “Trả thù”, vâng, có thể có ở mọi thời, song việc đào mả Ngọc Hân quẳng xuống sông không phải là việc và trách nhiệm – tội lỗi của Gia Long.
03.4. Gia Long “tội vạ” gì mà gây thù chuốc oán thêm với sĩ phu và dân chúng Bắc Hà mà ông chê bai là “bạc” – theo thành ngữ dân gian – hay được / bị “dân gian hóa” thành câu: “Bạc như dân, bất nhân như lính”.
Theo chỗ tôi được biết (tôi biết rất ít thôi), thì sau khi vua Gia Long ra Bắc (1802) diệt nốt “dư đảng Tây Sơn” và cử Nguyễn Văn Thành (“Tiền Quân Thành”) làm Bắc thành trấn thủ, vua Gia Long đã – qua ông Thành – làm vài việc sau đây:
03.5. Tổ chức một lễ tế “Trận vong tướng sĩ” ở bên bờ sông Nhị phía Đông thành Thăng Long. Bài văn tế này vẫn còn và khi xưa – tôi học trung học – vẫn được học ở sách Việt Nam văn học sử yếu của cố GS Dương Quảng Hàm. Sách này đề tên tác giả bài văn tế là “Vô danh”, sau này giới Văn học và Hà Nội học đã tìm ra tác giả chính là Nguyễn Huy Lượng, sĩ phu Bắc Hà – người đã cộng tác với triều đình Tây Sơn đến cùng (1801) và viết bài Phú nôm nổi tiếng “Tụng Tây hồ phú” (và do vậy Phạm Thái, sĩ phu Bắc Hà chống Tây Sơn đã viết bài phản bác cũng khá hay với nhan đề “Chiến tụng Tây hồ phú”). Lễ tế vong này và bài văn tế giành cho mọi sĩ tử binh không phân biệt ai là “chân” ai là “ngụy”. Tế xong, Nguyễn Huy Lượng không bị phạt tù tội gì về việc cộng tác với nhà Tây Sơn và Nguyễn Gia Long “bổ” cho ông cử nhân hay chữ này một chức tri huyện ở phủ Nghĩa Hưng (Nam Định), sau ông bị – theo gia phả và sử địa phương chí chép – giặc cướp giết.
03.6. Cũng dưới thời vua Gia Long, bà phi “tòng vong” với Lê Chiêu Thống xin triều Nguyễn cho đưa hài cốt ông vua Lê cuối cùng này cùng vài quan tòng vong (đã chết bên nước Thanh) đem về nước. Vua Gia Long – qua lời tâu của Trấn thủ Bắc thành – đã đồng ý. Bà phi họ Nguyễn này mang hài cốt chồng và vài quan khác về Việt Nam chôn cất xong thì tự tử chết. Bà cũng được mai táng tử tế (tôi được học chuyện này từ thời trung học Pháp thuộc).
Vua Gia Long đã sai lập “đền Cố Lê” ở Hà Nội (mạn phố Thụy Khuê) để thờ vua Lê cũ và sai dỡ nhà Thái miếu ở Thăng Long về Bố Vệ xứ Thanh quê nhà Lê lập đền thờ. “Đền vua Lê” (còn gọi là “Thái miếu”) hiện vẫn còn và đã được Bộ Văn hóa Thông tin nhà nước CHXHCN Việt Nam xếp hạng (“Di tích Văn hóa được xếp hạng”).
03.7. Quê tổ nhà Nguyễn là Gia Miêu ngoại trang ở Hà Trung – Thanh Hóa, đối diện với dãi núi Triệu Tường. Ở Đàng Trong, Nguyễn Hoàng đã trở thành “ông Hai” (ông cả Nguyễn Uông đã bị anh rể – chồng bà Ngọc Bảo – giết để cướp chính quyền Thái Sư (như thủ tướng ngày sau), thay thế ông bố vợ Nguyễn Kim (phụ thân Nguyễn Uông, Nguyễn Hoàng) đã bị đầu độc chết. Từ thế kỷ XVII-XVIII trên đường hình thành đạo Mẫu Việt Nam mà mẫu Liễu Hạnh ở Phủ Giầy (Vụ Bản, Nam Định, Nam Hà) trở thành “Thánh Mẫu” theo thần tích, ít ra là từ đời Cảnh Hưng (1740-1786). Nguyễn Hoàng đã được thờ ở khắp xứ Đàng Ngoài dưới tên gọi “Quan Lớn Triệu Tường”. Vua Gia Long đã về thăm quê gốc Gia Miêu.
Trên đường công tác điền dã, năm 1994, tôi đã về thăm Gia Miêu, thăm ngoại / nội trang, thăm núi Triệu Tường, và đang đứng trầm ngâm chiêm ngắm ngôi đình được trùng tu lại thời Gia Long, rất đẹp mắt nhưng đang gần như bị “bỏ quên” (chưa được xếp hạng và đang xuống cấp, chưa được trùng tu tôn tạo) thì được một cán bộ xã mời về trụ sở Đảng ủy và UBND xã.
Tôi những tưởng mình sẽ bị khiển trách và “thăm hỏi” vì đã dám ghé thăm ngôi đình làng mang niên hiệu Gia Long trùng tu mà không trình báo lãnh đạo xã. Nhưng không !, tôi được chiêu đãi một bữa bia “đã đời”, vì đã được cán bộ xã đứng tựa cột đình “nghe lỏm” – tôi đang giảng giải cho các cán bộ cùng đi – về nét đẹp ngôi đình làng này và tỏ ý tiếc vì bị nhà nước bỏ quên ! Nghe các nhà lãnh đạo xã quê hương Gia Long nói thêm về tình hình xã, tôi rất mừng vì các đảng viên cộng sản Gia Miêu quê hương nhà Nguyễn đã tỏ ra có “tư duy đổi mới” khi nhận nhìn vai trò lịch sử của vua Gia Long và nhà Nguyễn với thái độ “thể tất nhân tình”, rất đậm đà bản sắc Việt Nam. Vua Gia Long sai sửa đình làng quê gốc của mình nhưng không hề sai sửa lại tên quê. Mãi đến thời Tự Đức (1848-1883), ông vua này mới sai đổi tên Gia Miêu cũ xưa thành tên mới Quý Hương!
03.8. Tuy Trịnh Kiểm đã giết Nguyễn Uông, nhưng chính sử nhà Nguyễn, kể cả Đại Nam nhất thống chí, quyển về Thanh Hóa tỉnh, mục nhân vật vẫn chép về Trịnh Kiểm mà không hề có một lời nói xấu nào về ông tổ họ Trịnh này.
Thật là lạ! Càng lạ hơn, khi tôi (1992) về thăm lại quê hương Trạng Bùng – Phùng Khắc Khoan ở Thạch Thất xứ Đoài (nay thuộc tỉnh Hà Tây) – người được coi là “Trương Tử Phòng” (quân sư Trương Lương của Hán Cao Tổ) của Trịnh Kiểm. Gia Long rồi Minh Mạng đã ban cho ngôi nhà thờ Trạng Bùng một bức đại tự chạm trổ rất đẹp với 4 chữ “TRUNG HƯNG CÔNG THẦN”, miễn sưu dịch cho con cháu Trạng Bùng, lại cho 2 “đinh phụ” được coi sóc nhà thờ và mồ mả của ông Trạng đã hết lòng “phù Lê phù Trịnh” này.
03.9. Tôi có một số bạn bè họ Trịnh đã / đang làm cán bộ cao cấp của nhà nước CHXHCN Việt Nam. Tôi đưa cho họ xem bản Trịnh gia thế phả do Trịnh Cơ vâng lệnh Gia Long, khai báo lại năm 1802.
Lời mở đầu cuốn gia phả họ Trịnh này viết rằng khi vua Gia Long ra Bắc (1802), ông đã cho gọi tộc trưởng họ Trịnh – Trịnh Cơ – từ xứ Thanh ra Thăng Long và phán bảo rằng: - Họ nhà ngươi và họ ta là hai họ có thâm thù vì tổ họ ngươi đã giết tổ họ ta!
Trịnh Cơ run rẩy nghĩ rằng mình và họ mình sẽ bị Gia Long “làm cỏ sạch gốc rễ” để trả thù. Nhưng mà không !, vua Gia Long nói tiếp: - Nhưng họ nhà ngươi và họ ta đã từng là thông gia – thân gia. Ta sẽ lấy tình thân gia mà đối đãi với họ ngươi. Song họ ta ở Nam đã quá lâu, ta chẳng biết rõ gì về họ ngươi cả. Vậy ngươi hãy cung khai về gốc gác họ Trịnh trình cho ta biết!
Trịnh Cơ mang gia phả cũ ra tham khảo và cứ theo sự thực viết ra (cố GS Hoàng Xuân Hãn rất khen ngợi bản gia phả nhà Trịnh này là trung thực, đã viết rõ gốc gác nghèo hèn và hành xử “xấu xa” của Trịnh Kiểm như ăn cắp gà, giết trộm trâu, ăn cắp ngựa…). Đọc xong Gia phả họ Trịnh, Gia Long đã phê ban cho họ Trịnh 200 mẫu ruộng công để dựng nên Trịnh điện làm nơi thờ tự các chúa Trịnh (nay làng Trịnh Điện bên bờ sông Mã có diện tích đúng 200 mẫu, 1 mẫu Trung bộ = 5000m2).
* LỜI TẠM ĐÓNG
Khi còn ở Gia Định và mới chỉ có Gia Định (châu thổ sông Mê Kông) trước 1801-1802, Nguyễn Ánh – Gia Long đã vận dụng “cơ chế thị trường” và đã biến Sài Gòn miền Nam thành nơi sản xuất và xuất khẩu lúa gạo ra toàn Đông Nam Á để đổi lấy các sản phẩm công nghiệp phương Tây, cố nhiên hàng nhập khẩu được ưu tiên hàng đầu là vũ khí để chống lại Tây Sơn. Tôi không muốn / không cần bình luận về ý đồ chủ quan của Nguyễn Ánh, nhưng Nam Bộ cho đến nay vẫn quen với “cơ chế thị trường” hơn miền Bắc. Có nhiều nguyên nhân lắm, song phải chăng cũng có vai trò của NGUYỄN ÁNH?
Tôi đã nhắc đi nhắc lại – làm rườm tai bạn đọc, nếu bài này được đọc và được in – rằng tôi, kẻ ngu hèn này, không phải là một nhà Sử học chính tông.
Vậy, theo ý F. Engels vĩ đại, ai không am hiểu lắm về một lĩnh vực khoa học nào đó mà cứ cố tình “nói chõ” vào thì có thể được lượng thứ về một số sai lầm không đến nỗi lớn lắm.
Tôi, từ lâu đã rất mê F. Engels, mượn và có thể là “lợi dụng” mấy lời nói của ông để tạm đóng bài viết có nhiều phần “dở hơi” này.
Hà Nội – Sài Gòn (Thành phố Hồ Chí Minh)
Mùa thu tháng Tám, 1996
----
(1)
Có nhà Việt Nam học ở Liên Xô (cũ) còn xem vai trò Gia Long như vai
trò của Pi-e đại đế nước Nga xưa nữa kia. Thật là “quá đáng”, nhưng
theo tôi, Quang Trung cũng không hề là nhà cải cách vĩ đại của Việt
Nam.
(2) Bình Định Vương Lê Lợi.
(3) Thăng Long – Đông Đô – Hà Nội
(2) Bình Định Vương Lê Lợi.
(3) Thăng Long – Đông Đô – Hà Nội
Kính nộp,
GS Trần Quốc Vượng
(Đại học Quốc gia Hà Nội)
Nguồn: Khoahocnet
GS Trần Quốc Vượng
(Đại học Quốc gia Hà Nội)
Nguồn: Khoahocnet
An Dương Vương có thật- GS Trần Quốc Vượng
Trần Quốc Vượng,
Đỗ Văn Ninh
VÀI NÉT VỀ QUÁ TRÌNH NGHIÊN CỨU
Sơ qua về tình hình nghiên cứu trước đây:
Những
tài liệu xưa nhất của Việt Nam còn lại là Việt điện u linh, Việt sử
lược, Lĩnh Nam chích quáivà Đại Việt sử ký toàn thư đều ghi chép về sự
tồn tại của thời kỳ lịch sử An Dương Vương và nước Âu Lạc trong giai
đoạn đầu của lịch sử Việt Nam. Tiếp những tập sách trên, Dư địa chí của
Nguyễn Trãi, Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú,… cũng có
ghi chép về An Dương Vương và nước Âu Lạc với nội dung tương tự. Qua
những tài liệu này chúng ta thường hiểu An Dương Vương họ Thục, tên
Phán, người đất Ba Thục (Tứ Xuyên, Trung Quốc ngày nay), con của vua
Thục, nhân vì không mãn ý trong việc cầu hôn của tổ phụ với con gái Hùng
Vương là Mỵ Nương mà mang quân đánh đổ Hùng Vương, lập nước Âu Lạc, làm
vua xưng là An Dương Vương, xây thành Cổ Loa…
Cho
tới cuối thế kỷ XIX, một số sử thần nhà Nguyễn mới tỏ ý hoài nghi những
ghi chép trên. Họ cho là Âu Lạc “hoặc giả ở ngoài cõi tây bắc giáp liền
với nước Văn Lang” và Thục Vương không phải là người Ba Thục. Tiếp đó
Nguyễn Văn Siêu trong một bài thơ chữ Hán đã phủ quyết những điều ghi
chép của sử cũ, không công nhận có thành vua Thục ở đất quận Giao Chỉ.
Dưới thời thuộc Pháp, Ngô Tất Tố cho rằng: “Nước Nam không có ông An
Dương Vương nhà Thục”. Tràn Trọng Kim cũng lặp lại các ý kiến của sử
thần nhà Nguyễn. Một số học giả Pháp như H. Maxpêrô, trong bài Vương
quốc Văn Lang, cho An Dương Vương chỉ là một “nhà vua thần thoại”, hoặc
như A.G. Ôđricua đã kết luận: “Trước nhà Hán thì không có lịch sử An
Nam”[1]. Một vài học giả khác như G. Đuymuchiê và R.Đêpie thì chỉ mô tả
sơ sài bề ngoài thành Cổ Loa, mô tả ngày lễ đền Thượng và lịch sử cũ hay
văn bia nói về An Dương Vương…
Đối
với nhân dân, đặc biệt nhân dân quanh vùng Cổ Loa thì trước sau như một
có một lòng tin vững chắc hơn nữa không còn đặt vấn đề có hay không có –
vào giai đoạn lịch sử này. Một khi truyền thuyết phong phú gắn chặt với
từng địa danh, từng di tích lịch sử, từng phong tục tập quán thành một
khối thống nhất gợi lại một thời kỳ lịch sử xem ra như vừa đầy đủ, vừa
chặt chẽ, vừa hợp lý thì khó có ai tỏ nổi một nỗi hoài nghi. Đền thờ An
Dương Vương và tượng vua Thục, am thờ Mỵ Châu với pho tượng đá cụt đầu
cùng giếng Trọng Thủy như chứng minh sự có thật của những nhân vật quen
thuộc của thời kỳ lịch sử này với những chi tiết khá lý thú khiến khách
tham quan phải tin rằng: Có một vị vua An Dương Vương, có một người con
gái của vị vua đó tên là Mỵ Châu đã nhẹ dạ lấy nỏ thần của vua cha cho
chồng xem, có người chồng của Mỵ Châu tên là Trọng Thủy đã lấy trộm
chiếc lẫy nỏ thần để rồi bi kịch được kết thúc bằng vua Thục thua trận,
mất thành, Mỵ Châu bị cha chém cụt đầu và Trọng Thủy tự tử tại “giếng
ngọc” trước cửa đền An Dương Vương. Ba vòng thành cổ Loa với chiều dài
hơn 16.000m quanh co bao bọc lẫn nhau như hình xoáy ốc, miếu thờ thần
Rùa trên bờ giếng Rùa mang tên Loa khẩu, hàng loạt gò đống từng đôi,
từng đôi, phân bố dọc con đường từ làng Tiên Hội tới Cổ Loa… là chứng cứ
cho truyền thuyết đắp thành. Truyền thuyết kể rằng tiên Hội là nơi các
nàng tiên đêm đêm tụ họp tại đó để gánh đất giúp vua đắp thành, những
hòn đất lọt từ sọt rơi xuống chất thành gò đống. Mỗi cặp gò đống thường
bên nhỏ bên to – và thật vô cùng chặt chẽ – truyền thuyết kể rằng ở bên
nhỏ nàng tiên còn móc thêm cái cuốc, như vậy hai bên vẫn nặng đều nhau.
Di tích và truyền thuyết còn cho biết cả những hoạt động của vua Thục
như việc thiết triều ở ngôi đình “Ngự triều di quy”, xem thử nỏ thần ở
gò “Ngự xạ đài”. Truyền thuyết cũng không quên kể lại cả triều đình vua
Thục với những tướng tài như Cao Lỗ, người đã sáng chế ra nỏ thần, có
công luyện tập binh sĩ và từng dược vua Thục sai làm trấn tướng phía Bắc
nơi xung yếu bậc nhất của Loa Thành: như Nồi Hầu, người đã huy động dân
làng tổ chức dân binh giúp vua chống Triệu và khi mất nước cả 3 cha con
đã tự tử không chịu để cho giặc bắt.
Nhiều
phong tục, kiêng kỵ có quan hệ chặt chẽ với truyền thuyết củng cố thêm
mức độ đáng tin cậy cho truyền thuyết như tục rước vua sống hàng năm,
tục kiêng nuôi gà trắng[2], tục đãi dâu không đãi rể[3], tục kiêng tên
Phán gọi chệch thành Phớn hoặc nồi gọi chệch thành niêu[4]. Những phong
tục địa phương còn mang nặng thái độ về luân lý đạo đức. Người dân địa
phương biểu lộ thái độ khinh bỉ sự phản phúc của Trọng Thủy trong tục
đãi dâu không đãi rể; biểu lộ lòng kính trọng người tướng có công Nồi
Hầu, không dám chạm tên húy; biểu lộ sự tôn trọng dân làng Quậy, mời
ngồi chiếu trên mỗi khi mở hội chính vì dân Quậy vốn là người lập nghiệp
cũ trên đất Cổ Loa, bởi lẽ lấy đất đắp thành mới phải dời về Quậy.
Ý nghĩa của việc nghiên cứu của chúng ta:
“Uống
nước nhớ nguồn” là một trong những đặc điểm cao quý của con người Việt
Nam đạo đức. Dân xã Cổ Loa và 7 xã khác chung quanh hàng năm vẫn mở hội
vào ngày mồng 6 tháng giêng âm lịch để tưởng nhớ vua Thục xưa. Tình cảm
gắn bó với tổ tiên sâu sắc tới mức:
Chết thì bỏ con bỏ cháu
Sống thì không bỏ mồng sáu tháng giêng
Sống thì không bỏ mồng sáu tháng giêng
Vấn
đề An Dương Vương, một bộ phận của cả vấn đề lớn “thời đại bắt đầu dựng
nước và giữ nước”, liên quan đến nguồn gốc của nhân dân ta, liên quan
đến sự diễn biến của lịch sử Việt Nam ta, đến lịch sử nước ta trong mấy
chục năm nay và đến cả tương lai của dân tộc ta.
Tình cảm dân tộc thôi thúc, yêu cầu của khoa học đòi hỏi, chúng ta thấy bức thiết phải đặt vấn đề nghiên cứu.
Tình cảm dân tộc thôi thúc, yêu cầu của khoa học đòi hỏi, chúng ta thấy bức thiết phải đặt vấn đề nghiên cứu.
Vấn
đề đã được nghiên cứu từ hàng chục năm nay, từ nhỏ bé tới quy mô, từ
từng cơ quan riêng lẻ tới việc cộng tác của nhiều cơ quan. Đầu năm 1968,
khi mà đề tài “Thời kỳ lịch sử Hùng Vương – An Dương Vương” của Viện
Khảo cổ học được Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam duyệt và Nhà nước thông
qua coi là đề tài nghiên cứu trong kế hoạch 3 năm 1968-1970, thì công
tác nghiên cứu bước vào thời kỳ mới, thời kỳ hợp tác xã hội chủ nghĩa
chặt chẽ và rộng rãi của nhiều người, nhiều cơ quan và nhiều ngành có
liên quan và tất nhiên kết quả tuy chưa dứt điểm nhưng đã tương đối khả
quan[5].
Sau
gần 2 năm nghiên cứu, mọi vấn đề, mọi khía cạnh của đề tài Hùng Vương
đã được nhiều người xới lên, thì mọi người lại thấy phải quy tụ vào một
số chuyên đề để tập trung đi sâu giải quyết. Vấn đề An Dương Vương tự
nó, qua yêu cầu khách quan của việc nghiên cứu, qua thực tế diễn biến
lịch sử của thời kỳ Hùng Vương, đã trở thành một vấn đề đóng khung, chấm
dứt cho thời kỳ lịch sử Hùng Vương. Dự định đưa vấn đề An Dương Vương
thành một trọng tâm nghiên cứu riêng biệt tiếp sau vấn đề Hùng Vương với
tất cả các mặt kinh tế, xã hội, chính trị,… được thay đổi cho hợp với
khả năng về thời gian và yêu cầu thực hiện phương châm tập trung dứt
điểm trong việc nghiên cứu thời kỳ Hùng Vương, đồng thời, quan trọng
hơn, là phù hợp với thực tế khách quan của lịch sử. Tháng 9-1969, nhóm
nghiên cứu thứ 6 được thành lập với tên gọi Nhóm An Dương Vương và quan
hệ với thời kỳ Hùng Vương. Tên đặt cho nhóm nghiên cứu này tự nó đã giải
thích nhiệm vụ của nhóm là điều tra, sưu tầm tư liệu các mặt, khai quật
khảo cổ học, nghiên cứu rút ra kết luận mấu chốt nhất tức là quan hệ
giữa thời kỳ An Dương Vương với thời kỳ Hùng Vương trước nó. Có được kết
luận có tính chất chỉ đạo này rồi, tương lai chúng ta có thể tách riêng
vấn đề An Dương Vương và nước Âu Lạc để đi sâu nghiên cứu mọi mặt một
cách rất thuận lợi và đúng hướng.
Thành
viên chính thức của nhóm gồm: Nhóm trưởng Trần Quốc Vượng (trường Đại
học Tổng hợp), ủy viên thường trực Đỗ Văn Ninh (Viện Khảo cổ học), và
các ủy viên Trương Hoàng Châu (Viện bảo tàng Lịch sử), Đặng Nghiêm Vạn
(Viện Dân tộc học), Hoàng Hưng (Viện Sử học), Đỗ Đình Truật, Nguyễn Duy
Chiếm, Phạm Như Hồ (Viện Khảo cổ học). Ngoài ra, nhóm còn được sự cộng
tác của các nhà nghiên cứu ở nhiều ngành, nhiều cơ quan như: Nguyễn Khắc
Xương (ty Văn hóa Vĩnh Phúc), Vương Hoàng Tuyên (trường Đại học Tổng
hợp), Trần Huy Bá, Phùng Bảo Khuê, Nguyễn Ngọc Chương (Vụ Bảo tồn bảo
tàng), Vũ Tuấn Sán (Sở Văn hóa Hà Nội), Trần Ngọc (trường Đại học Sư
phạm Việt Bắc), Nguyễn Bá Tiệu, Lê Khôi (trường đại học Sư phạm Hà Nội
1), Bùi Huy Hồng (cán bộ nghiên cứu khí tượng đã về hưu), Đào Duy Anh
(cán bộ Viện Sử học đã về hưu), Nguyễn Ngọc Ngoạn (kiến trúc sư Cục Xây
dựng Hà Nội), Dương Tất Từ (Viện Văn học), v.v…
Từ
khi thành lập nhóm, công tác nghiên cứu lại càng được đẩy mạnh hơn.
Công việc khai quật với diện tích và quy mô khá lớn đã cung cấp thêm
nhiều tư liệu quý. Việc sưu tầm truyền thuyết, địa danh và phong tục tập
quán ở Cổ Loa và những vùng khác cũng bổ sung được nhiều tài liệu có
ích. Trên cơ sở của khối tư liệu khá phong phú đó công việc nghiên cứu
cũng có nhiều tiến bộ. Nhiều ý kiến nghiên cứu phát biểu trong các buổi
sinh hoạt học thuật do nhóm tổ chức hàng tháng hoặc chính thức viết
thành bài đăng trong các tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, tạp chí Khảo cổ học
hoặc các báo khác, mặc dù còn những điều chưa nhất trí, đã nói lên
nhiều hứa hẹn trong việc giải quyết vấn đề.
ĐÃ NHẤT TRÍ
1. Khẳng định thời kỳ lịch sử An Dương Vương và nước Âu Lạc là có thật
Vấn
đề An Dương Vương và nước Âu Lạc là một bộ phận hữu cơ của cả vấn đề
lớn thời kỳ lịch sử Hùng Vương – An Dương Vương, vì vậy những kết quả
của việc nghiên cứu thời kỳ lịch sử Hùng Vương đã góp phần quan trọng
soi sáng thời kỳ lịch sử An Dương Vương.
Hai
hội nghị 1 và 2 nghiên cứu thời kỳ lịch sử Hùng Vương tháng 12-1968 và
tháng 4-1969 đã rút ra được mấy kết luận căn bản, là: “Thời kỳ Hùng
Vương là có thật”. “Nền văn hóa Hùng vương là một nền văn hóa đã trải
qua một quá trình phát triển lâu dài, từ thấp lên cao”. “Đó là một nền
văn hóa bản địa… nảy sinh tại chỗ, tiến lên dần, do chính ông cha ta
sáng tạo ra và xây dựng nên”. “Nền văn hóa Hùng Vương tỏ ra có những nét
đặc sắc, độc đáo, đỉnh cao của sự phát triển đó phải nói là ở một trình
độ cao”[6].
Những
kết luận trên được rút ra từ những cơ sở khoa học chắc chắn. Những văn
hóa Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun, Đông Sơn gần như được mọi người nhất
trí nhận rằng đó là những văn hóa có niên đại kế tiếp nhau từ thời đại
đồng sớm tới thời đại sắt sớm. Như vậy, trước hết ta có cơ sở khoa học
để nói rằng có một thời kỳ rất dài có dấu vết hoạt động liên tục của con
người trên một phần đất Việt Nam ta hiện nay.
Kết
quả chính thức phân tích C14 than tro lấy ở hai di chỉ Đồng Đậu và Vinh
Quang cho biết các niên đại: Đồng Đậu ở độ sâu 4m: 3328 ± 100 năm, và
Vinh Quang ở độ sâu 1m80: 3046 ± 120 năm cách ngày nay (kể từ năm 1950
trở về trước). Đồng Đậu chưa phải là di chỉ sớm nhất của thời đại đồng
(và cũng không phải là di chỉ sớm nhất của thời kỳ lịch sử Hùng Vương).
Như vậy, con số 4000 năm của lịch sử Việt Nam trong thư tịch cũng như
trong truyền thuyết đã có thể được chấp nhận như một điều hợp lý. Đáp số
của khoa học tự nhiên phù hợp với đa số ý kiến đoán định niên đại bằng
phương pháp so sánh loại hình khảo cổ học.
Những
hiện vật khảo cổ đồ gốm, đồ đồng mà ta đã phát hiện, xét từ hình dáng,
hoa văn tới kỹ thuật làm, nhìn lên phía bắc, nhìn sang phía tây và nhìn
xuống phía nam, chúng ta không thể nào tìm thấy những vật nào đủ tiêu
chuẩn là nguồn gốc từ đó phát triển ra chúng. Rõ ràng đây là những hiện
vật phát sinh từ bản địa và phát triển cũng trên bản địa. Những đồ án
hoa văn cân đối, sinh động do những đường cong, đường tròn chấm dải của
văn hóa Phùng Nguyên vẫn còn được giữ gìn khá trọn vẹn ở những mô típ
chủ đạo của những đồ án hình học của văn hóa Gò Mun và rồi lại phản ánh
đầy đủ trên hoa văn đồ đồng Đông Sơn. Những hiện vật trang sức bằng đá
của Phùng Nguyên, những hiện vật bằng đồng Đông Sơn không thua kém bất
cứ hiện vật nào của một nền văn hóa khác cùng thời trên thế giới. Vậy
nói rằng ở thời Hùng Vương tổ tiên ta đã sáng tạo ra một nền văn hóa ở
một trình độ cao là phù hợp thực tế và vẫn rất khiêm tốn.
Những
kết luận khoa học nói trên về thời kỳ lịch sử Hùng Vương, một thời kỳ
còn xưa hơn và mơ hồ hơn rất nhiều so với thời kỳ lịch sử An Dương
Vương, rõ ràng là cơ sở để khẳng định sự có thật của thời kỳ An Dương
Vương và nước Âu Lạc ngắn ngủi nối tiếp ngay sau nó mà có người gọi vui,
nhưng xem ra cũng hợp lý ở góc độ nào đó, là thời “Hùng Vương thứ 19″.
Thư
tịch, truyền thuyết, phong tục, địa danh và những di tích lịch sử về
thời kỳ An Dương Vương và nước Âu Lạc ở những điểm cơ bản rất là nhất
trí. Ở phần trên chúng tôi đã kể một số trong rất nhiều tư liệu đã thu
lượm được trong thời gian qua. Ở đây, thiết tưởng cũng không cần cử thêm
ví dụ, điều cần thiết phải bàn, là: cái lõi của trí nhớ chất phác của
nhân dân là điều có thật trong lịch sử. Với sự thận trọng, “cảnh giác”
với quá trình “lịch sử hóa” truyền thuyết và “truyền thuyết hóa” lịch
sử, qua rất nhiều truyền thuyết ta rút ra được cái lõi gì? Một nhân vật
Thục Phán thay thế vua Hùng cai quản đất nước, rồi có họa xâm lăng của
Triệu Đà từ phương Bắc tới, ông vua này tổ chức kháng chiến nhưng rốt
cuộc bị thua. Từ đó đất nước của Thục Phán chịu sự thống trị của họ
Triệu. Nhân vật Triệu Đà cùng cuộc xâm lược phương Nam đã được lịch sử
Trung Quốc xác minh. Thời kỳ lịch sử Hùng vương cũng đã được chúng ta
khẳng định bằng những căn cứ khoa học chính xác và phong phú. Vậy không
còn nghi ngờ gì nữa, một thời kỳ nối tiếp thời kỳ các vua Hùng, thời kỳ
An Dương Vương tiếp tục dựng nước và tổ chức chống Triệu giữ nước, phải
là điều có thật. Từ cái lõi có thật này, chúng ta thoát khỏi ảnh hưởng
của thái độ hoài nghi, đi tìm những bằng cớ khoa học để giải thích những
điều tưởng như hoàn toàn hoang đường trong truyền thuyết như chuyện Rùa
vàng, chuyện Nỏ thần, chuyện Mỵ Châu – Trọng Thủy, v.v… và tới nay
nhiều cách giải thích đã có thể chấp nhận được.
Di
chỉ khảo cổ học Đường Mây có tầng văn hóa dày từ 30 đến 60cm, là một di
chỉ nằm sâu dưới chân thành ngoài Cổ Loa, ở khu Trại Xóm Vang ngày nay.
Trong di chỉ này, ngoài nhiều mảnh gốm thô (có đồ gốm kiểu Đường Cổ),
rìu đá, bàn mài, bàn “dập gốm” kiểu Phùng Nguyên và nhiều xương thú, đã
tìm thấy một số mũi tên đồng (hình lá, hình tam giác bẹt 2 cánh, có
chuôi, 3 cạnh sắc, tiết diện tam giác…), nhiều cục sắt và mảnh hiện vật
bằng sắt được tạm định thuộc sơ kỳ thời đại sắt”[7]. Di chỉ Đường Mây có
niên đại gần với niên đại của tường thành (trong chứa gạch, ngói ống,
ngói bản). Về niên đại của tường thành, tới nay còn có những ý kiến khác
nhau. Có người cho rằng tường thành thuộc thời An Dương Vương, và di
chỉ Đường Mây thuộc về một thời kỳ lịch sử trước An Dương Vương. Điều đó
phù hợp với truyền thuyết dân gian nói rằng An Dương Vương đã đuổi dân
bản địa ở Cổ Loa xuống vùng Đại Vĩ (Quậy Cả, Quậy Con, Quậy Rào) để lấy
đất đắp lũy xây thành[8]. Có ý kiến cho rằng tường thành có niên đại
thời thuộc Hán và suy nghĩ (chưa khẳng định) rằng di chỉ Đường Mây là
thuộc cuối thời Hùng Vương – An Dương Vương. Tuy có phần khác nhau,
nhưng một điểm thống nhất có thể rút ra được ở cả hai ý kiến trên, là
những di vật Đường Mây là sản phẩm của cư dân vùng Cổ Loa trong khoảng
thời gian hôm trước là thành viên của nước Văn Lang và hôm sau là thành
viên của nước Âu Lạc. Từ điểm này, dễ có thể đi tới kết luận thống nhất,
rằng những hiện vật Đường Mây, nếu không phải là tất cả; ít nhất cũng
là bộ phận quan trọng của văn hóa Âu Lạc, vì người dân Cổ Loa khi dời
sang Quậy vẫn tiếp tục làm ra những sản phẩm hôm trước họ đã làm ở Cổ
Loa (sự khác nhau chắc chẳng là bao), theo truyền thống ông cha từ hàng
nghìn năm trước. Tại thôn Lỗ Khê, gần Quậy và hiện nay cùng thuộc chung
một xã Liên Hà với Quậy, đã tìm thấy dấu vết văn hóa của một thời đại
tương đương với địa điểm Đồng Vông, Bãi Mèn (lớp dưới). Ở đây, còn có mỏ
than bùn (có ý kiến cho rằng ngói gạch Cổ Loa được nung bằng loại than
này). Những vết tích khảo cổ học nơi đây chứng nhận một sự gắn bó hữu cơ
của cả vùng Cổ Loa nói chung. Tuy rằng chúng ta chưa tìm thấy tại đây
những di vật kiểu Đường Mây để có thể, không chút ngập ngừng, giải thích
một cách khẳng định truyền thuyết dời dân đắp thành, nhưng chưa thấy
chưa hẳn đã là không có. Ở Đình Chàng (Dục Tú) – cạnh làng Quậy, đã tìm
thấy những mộ táng chứa đồ gốm kiểu Đường Cồ.
Như vậy, đã có những bằng cớ khoa học để khẳng định sự có mặt của thời kỳ An Dương Vương và nước Âu Lạc trong lịch sử.
2. Khẳng định thời kỳ lịch sử này là bước nối tiếp của thời kỳ Hùng Vương
Trong
khi đi tìm nguồn gốc tộc Thục, những người nghiên cứu đã đi theo những
hướng khác nhau, nhưng trong giả thuyết công tác thì mọi người đều lại
thấy thống nhất ở điểm tìm tộc Thục trên cơ sở tìm “láng giềng” của tộc
Hùng. Người “láng giềng” này phải có sự gần gũi về đất đai, về văn hóa,
và chủng tộc, v.v… nghĩa là có nhiều quan hệ với nhau trong quá trình
phát triển. Có người còn dự đoán tộc Thục có thể chính là một bộ trong
15 bộ thuộc quyền cai quản của vua Hùng; có người nghĩ rằng đây là một
tộc ở xen kẽ ngay trong miền đất đai của 15 bộ của nước Văn Lang. tóm
lại, ít nhất tộc Thục phải là thành phần trong dòng Bách Việt.
Bắt
đầu điểm từ ý kiến “An Dương Vương là người Lạc Việt cho nên việc ông
chiếm Văn Lang dựng nước Âu Lạc chỉ là việc nội bộ người Lạc Việt”. Do
An Dương Vương là người Lạc Việt cho nên chúng ta thấy xã hội Văn Lang
và Âu Lạc không có thay đổi gì do văn hóa của một ngoại tộc đến thống
trị gây ra[9]. Tác giả đã căn cứ vào ghi chép của Sử ký và Hán thư để
giải thích Tây Âu, Tây Âu Lạc và Âu Lạc chỉ là một, chữ “Tây” chỉ là chữ
chỉ phương hướng để phân biệt với chữ “Đông”, và để củng cố cho ý kiến
đó tác giả đã căn cứ thêm vào các sách Hoài Nam tử, Cựu Đường thư, Thái
Bình hoàn vũ ký xác định Tây Âu, Tây Âu Lạc và Âu Lạc đều ở khu vực quận
Quế Lâm thời Tần, và “địa bàn Lạc Việt bao gồm toàn bộ khu vực các quận
Uất Lâm, Thương Ngô, Hợp Phố, Tường Kha, Giao Chỉ, Cửu Chân thời Hán,
tức là bao gồm một vùng rộng lớn từ lưu vực sông Hồng đến lưu vực Tây
Giang ngày nay… Từ Tây Âu hay Tây Âu Lạc là để chỉ tên một nước ở trong
khu vực này”.
Ý
kiến dựa vào truyền thuyết về “bộ Nam Cương” của đồng bào Tày – ở Cao
Bằng thì “suy đoán rằng tộc đảng Thục Vương đó đã định cư ở miền gần
phía nam Tả Giang, lưu vực Hữu Giang cùng miền thượng lưu các sông Lô,
sông Gâm, sông Cầu, mà thành nước Nam Cương, là một bộ lạc liên hiệp
thuộc giống Tây Âu”[10]. Căn cứ vào “sự ghi chép của truyền thuyết của
sử cũ (Đại Việt sử ký toàn thư)… không thấy nêu lên sự tình một cuộc
chinh phục”, căn cứ vào sự suy luận rằng “xưa nay không ai xem An Dương
Vương là một kẻ chinh phục đã đặt ách thống trị ngoại tộc lên cổ nhân
dân hay là một kẻ thù đã gây họa diệt tộc”, tác giả kết luận: “Sự hợp
nhất giữa nước Nam Cương và nước Văn Lang, cái tên Âu Lạc lại càng nêu
rõ sự hợp nhất bình đảng giữa hai thành phần Tây Âu (Nam Cương) và Lạc
Việt (Văn Lang)”. Từ đó, tác giả “tán thành… hợp thời An Dương Vương với
thời Hùng Vương làm một,… thời An Dương Vương là giai đoạn cuối cùng
của một thời kỳ văn hóa chung…”[11].
Thuyết
Ai Lao Di[12] gợi ý một nước Tây Thục mà cư dân là giống người Bộc,
người Lào ở sát nước ta về phía Tây Bắc nay thuộc châu tự trị Đức Hoằng,
tỉnh Vân Nam (Trung Quốc).
Nhiều ý kiến đề cập việc nghiên cứu cả vùng Bách Việt, gợi ý nên lưu ý cả khung cảnh chung vùng Đông Nam Á rộng lớn, đề ra phương hướng đáng chú ý là thoát khỏi sự ám ảnh của biên giới hiện tại. Những ý kiến nghiên cứu về mặt dân tộc học đã rút ra quy luật ở xen kẽ của các dân tộc ở Việt Nam và cả vùng Lưỡng Quảng, từ đấy suy luận về sự phân bố xen kẽ của người Âu Lạc và người Lạc.
Nhiều ý kiến đề cập việc nghiên cứu cả vùng Bách Việt, gợi ý nên lưu ý cả khung cảnh chung vùng Đông Nam Á rộng lớn, đề ra phương hướng đáng chú ý là thoát khỏi sự ám ảnh của biên giới hiện tại. Những ý kiến nghiên cứu về mặt dân tộc học đã rút ra quy luật ở xen kẽ của các dân tộc ở Việt Nam và cả vùng Lưỡng Quảng, từ đấy suy luận về sự phân bố xen kẽ của người Âu Lạc và người Lạc.
Tóm
lại, tất cả các ý kiến đều toát lên một điểm chung là tìm một cái gần
gũi giữa Thục và Hùng và đã phần nào nói lên được rằng việc mất ngôi thủ
lĩnh của Hùng Vương không phải là kết quả sự mất nước của Hùng Vương.
Lịch sử tất cả các vua Hùng và vua Thục đều được chép cùng trong “thời đại bắt đầu dựng nước và giữ nước”.
3. Khẳng định có cuộc kháng chiến chống Tần và chống Triệu Đà
Các
nhà viết sử xưa nay đều nhất trí về cuộc chinh phục của nhà Tần vào đất
Bách Việt và đều nói về việc nhà Tần lập 3 quận Nam Hải, Quế Lâm và
Tượng. Tuy vậy chưa ai đi sâu hẳn vào cuộc kháng chiến chống Tần của
người Việt. Trong quá trình nghiên cứu đề tài An Dương Vương, những
người nghiên cứu chúng ta đã tiến thêm một bước trong việc khẳng định
cuộc kháng chiến chống Tần của tổ tiên xảy ra vào cuối thế kỷ thứ 3
trước Công nguyên.
Dựa vào điều ghi chép “(Người Việt) cùng nhau đặt người tuấn kiệt làm tướng, để ban đêm ra đánh quân Tần, đại phá Tần và giết được Đỗ Thư” trong Hoài Nam tử, và điều ghi chép: “Người Việt bỏ trốn. (Quân Tần) trì cửu lâu ngày. Lương thực bị tuyệt và thiếu. Người Việt ra đánh. Quân Tần đại bại” của Sử ký và đối chiếu với những sách khác, có ý kiến phân tích rằng: quân Tần bị khốn đốn ở miền Nam đất Quảng Tây, miền ấy hẳn là thượng lưu Tả Giang và Hữu Giang. Cư dân miền ấy thuộc giống Tây Âu. Miền ấy tương đương với nước Nam Cương của truyền thuyết mà quân trưởng chính là Thục Phán. Việc “cùng nhau đặt người kiệt tuấn” lãnh đạo kháng chiến chứng tỏ có hội nghị của Nam Cương và Văn Lang, cả hai đều chưa bị Tần đặt làm quận huyện, bầu con người có tài năng độc đáo về cung nỏ lên lãnh đạo cuộc kháng chiến chung. Người đó là Thục Phán. Sau sáu bảy năm, cuộc kháng chiến đã kết thúc thắng lợi.
Dựa vào điều ghi chép “(Người Việt) cùng nhau đặt người tuấn kiệt làm tướng, để ban đêm ra đánh quân Tần, đại phá Tần và giết được Đỗ Thư” trong Hoài Nam tử, và điều ghi chép: “Người Việt bỏ trốn. (Quân Tần) trì cửu lâu ngày. Lương thực bị tuyệt và thiếu. Người Việt ra đánh. Quân Tần đại bại” của Sử ký và đối chiếu với những sách khác, có ý kiến phân tích rằng: quân Tần bị khốn đốn ở miền Nam đất Quảng Tây, miền ấy hẳn là thượng lưu Tả Giang và Hữu Giang. Cư dân miền ấy thuộc giống Tây Âu. Miền ấy tương đương với nước Nam Cương của truyền thuyết mà quân trưởng chính là Thục Phán. Việc “cùng nhau đặt người kiệt tuấn” lãnh đạo kháng chiến chứng tỏ có hội nghị của Nam Cương và Văn Lang, cả hai đều chưa bị Tần đặt làm quận huyện, bầu con người có tài năng độc đáo về cung nỏ lên lãnh đạo cuộc kháng chiến chung. Người đó là Thục Phán. Sau sáu bảy năm, cuộc kháng chiến đã kết thúc thắng lợi.
Cuộc
kháng chiến chống Tần đã rèn đúc sự đoàn kết giữa hai khối Tây Âu và
Lạc Việt. Thắng lợi của kháng chiến đã nâng cao uy thế của Thục Phán để
tiến tới “phục các Lạc tướng” mà hợp nhất nước Nam Cương và Văn Lang,
lập thành nước Âu Lạc.
Thần
tích đền Chèm ghi An Dương Vương đánh nhau với Tần Thủy Hoàng, muốn
“cầu hòa” nên đem Lý Ông Trọng mà hiến để xin bãi binh. Điều thống nhất
là có cuộc chống Tần của An Dương Vương.
Cuộc
kháng chiến chống Tần được những người nghiên cứu về “truyền thống đánh
giặc thời dựng nước” của ông cha ta[13] khẳng định và từ đó khai thác
những nguyên nhân thắng lợi như cách đánh du kích: “Người Việt vào rừng ở
với cầm thú… ban đêm ra đánh quân Tần, đại phá Tần và giết được Đồ
Thư”; hoặc như phương pháp đánh lâu dài: “Người Việt bỏ trốn, trì cửu
lâu ngày. Lương thực bị tuyệt và thiếu (nói quân Tần), người Việt ra
đánh. Quân Tần đại bại”.
Cuộc
kháng chiến chống Triệu được nghiên cứu sâu sắc hơn ở nhiều góc độ khác
nhau. Nước Âu Lạc thành lập sau lần đoàn kết kháng chiến chống Tần của
các bộ lạc Tây Âu và các bộ lạc Lạc Việt, đã trở thành một nước mạnh có
quân đội hùng cường “giỏi cung nỏ, thạo thủy chiến”. Kho mũi tên đồng
Cầu Vực vô cùng lớn về số lượng, những mũi tên tương đối lớn về kích
thước (và có những điểm đặc biệt về hình dáng), phát hiện năm 1959, đã
là cơ sở tốt để giải thích câu chuyện nỏ thần. Nhiều người chấp thuận ý
kiến cho rằng chuyện nỏ thần phản ảnh sự xuất hiện, hoặc ít nhất là cải
tiến, một thứ vũ khí mới lợi hại trong chiến đấu, có tác dụng sát thương
cao. Chúng ta cũng không loại trừ khả năng một thứ nỏ máy thô sơ có thể
một lúc bắn hàng loạt mũi tên, truyền thuyết đã cường điệu thành loại
nỏ “nhất phát sát vạn nhân”.
Sự
xuất hiện thành Cổ Loa mà di tích ngày nay vẫn còn, kiến trúc rất quy
mô, độc đáo, thế đất chọn hiểm trở[14] phù hợp với truyền thuyết “thần
tiên giúp xây thành”, lại phù hợp với sử sách ghi là “Côn Lôn thành”,
“tam trùng thành quách”, “thành 9 vòng chu vi 9 lý”, v.v… chứng minh một
trình độ cao về tổ chức xã hội và cả về văn hóa vật chất, đủ sức chặn
đứng những cuộc tiến công quân sự của quân Triệu Đà, làm cho họ Triệu
phải nhờ tới âm mưu nội gián mới chiếm được Âu Lạc.
Sử
sách cũng như truyền thuyết có ghi về cuộc chiến tranh Thục – Hùng,
nhưng chỉ ghi như một sự kiện nội bộ bình thường. Chúng ta không những
không thấy gì nói tới hằn thù dân tộc mà ngược lại. Phong tục tế lễ đền
Cổ Loa bổ sung cho nội dung câu chuyện dời dân xây thành, phản ánh một
cái gì có tính chất anh em một nhà giữa người dân Âu và người dân Lạc…
Tham
gia tế lễ đền Cổ Loa có tất cả 8 làng quanh Cổ Loa. Dân Quậy (nay là Hà
Vĩ) bao giờ cũng được dân làng Cổ Loa nhường lễ chiếu trên. Khi ra về,
bao giờ dân Cổ Loa cũng biếu dân Quậy khuôn “bỏng hiến” (gọi là bỏng Chủ
– Chủ là tên nôm của Cổ Loa) để về chia cho 8 “giáp” trong làng. Truyền
thuyết kể rằng dân làng Quậy vốn ở Cổ Loa, vì nhường đất xây thành nên
đã dời đến làm ăn ở Quậy, chính vì lẽ đó mà được dân Cổ Loa đời đời kính
trọng. Sự thật chắc đúng là như vậy, bởi vì chẳng bao lâu sau trong lần
thử thách của cuộc chống Triệu Đà xâm lược, người dân Âu Lạc – không hề
phân biệt Âu Lạc hay Lạc – đã kề vai sát cánh chiến đấu tới cùng cho
một mục đích chung giữ gìn đất nước.
4. Về niên đại
Về tuổi thọ của nước Âu Lạc, trước nay có một số ý kiến chính như sau:
- Từ năm 257 đến năm 208 trước Công nguyên: 50 năm[15].(1)
- Từ năm 210 đến năm 207 trước Công nguyên: 4 hoặc 5 năm[16].(2)
- Từ năm 208 đến năm 179 (hoặc năm 180) trước Công nguyên: 30 năm[17].(3)
- Từ năm 257 đến năm 208 trước Công nguyên: 50 năm[15].(1)
- Từ năm 210 đến năm 207 trước Công nguyên: 4 hoặc 5 năm[16].(2)
- Từ năm 208 đến năm 179 (hoặc năm 180) trước Công nguyên: 30 năm[17].(3)
Lấy
năm 179 (hay năm 180) làm mốc cuối cùng ngược lên trước dăm chục năm:
nửa sau thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên. Ý kiến thứ 3 được nhiều người
nghiên cứu chấp thuận. Căn cứ sử liệu của ý kiến này là lấy việc Tần
Thủy Hoàng chết, Tần Nhị Thế bãi binh, cuộc đoàn kết kháng chiến của
người Tây Âu và Lạc Việt kết thúc và từ đó nước Âu Lạc ra đời – năm 208
trước Công nguyên. Niên điểm kết thúc cũng bằng vào sự kiện “Cao Hậu
chết tức bãi binh. Triệu Đà nhân lúc đó uy hiếp biên cảnh và lấy của cải
đút lót khiến Âu Lạc thần phục”[18], để lấy năm 180 trước Công nguyên
làm năm nước Âu Lạc bị Triệu Đà kiêm tính.
Và như vậy thì nước Âu Lạc chỉ tồn tại được khoảng 28-30 năm.
Từ
niên đại này có người lại rút ra được một điều đáng chú ý, là thời kỳ
lịch sử An Dương Vương có hơn 20 năm, trùng với thời Tây Hán. Thời gian
tồn tại song song này còn có thể cho phép giải thích rằng những hiện vật
có đặc điểm Tây Hán có mặt ở khu di chỉ Cổ Loa của An Dương Vương là
điều hợp lý.
CHƯA NHẤT TRÍ
1. Về nguồn gốc tộc Thục
Sau
khi bác bỏ thuyết Ba Thục (thuộc vùng Tứ Xuyên, Trung Quốc), mọi người
đã đi tìm hầu như gần khắp các hướng Bắc, Đông Bắc và Tây Bắc của vùng
trung du và đồng bằng Bắc bộ mà ý kiến chung đã nhất trí coi là khu vực
thuộc nước Văn Lang của Hùng Vương.
a. Thuyết nước Nam Cương và người Tày Cao Bằng
Thuyết
này lấy căn cứ chủ yếu là truyền thuyết “Chín chúa tranh vua” của đồng
bào Tày ở Cao Bằng. Truyền thuyết này đã được Rômanê đuy Caiô nêu từ năm
1880, nhưng trong tay chúng ta không còn tài liệu đó của học giả người
Pháp này. Câu chuyện được Lã Văn Lô dịch thành thơ tiếng Việt đăng lại
trên tạp chí Nghiên cứu Lịch sử số 50 và số 51 năm 1963 là tài liệu thu
thập được của Sở Văn hóa Việt Bắc. Từ khi truyền thuyết được công bố,
một số người nghiên cứu đã hướng về Cao Bằng để tìm quê hương vua Thục.
Truyền thuyết áo lông chim của người Tày – Nùng, tục thờ rùa, truyền
thuyết rùa dạy làm nhà, phù hộ người, chống ma quỷ của người Tày – Thái,
một vài địa danh tiếng Tày bắt gặp ở khu gần Cổ Loa như làng Viềng (tức
Thành) càng tiếp sức cho thuyết vua Thục vốn người Tày làm chúa nước
Nam Cương mà trung tâm là huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng ngày nay.
Tới
nay, vẫn có người tiếp tục đi sâu nghiên cứu và “suy đoán rằng tộc đảng
Thục Vương đó đã định cư miền gần phía nam Tả Giang, lưu vực Hữu Giang
cùng miền thượng lưu các sông Lô, sông Gâm, sông Cầu”.
Sau
cuộc điều tra ở Cao Bằng hồi tháng 7 và 8-1969, các đồng chí Đỗ Đình
Truật và Phạm Như Hồ, viện Khảo cổ học, đã cung cấp những tư liệu có
phần khác. Người sưu tầm và viết lại truyền thuyết này là ông Lê Bỉnh Sư
(còn có tên là Lê Đình Sự), người Kinh vốn ở Nghĩa Lộ, sau năm 1947 mới
dời về ở tại huyện Hòa An (Cao Bằng). Chính ông Lê Bỉnh Sư kể lại rằng
chuyện do ông sắp xếp lại, có sửa ít nhiều cho các chi tiết được hợp lý.
Gốc chuyện là do ông chú ngày trước kể, nay nhớ lại mà viết để dự cuộc
thi văn nghệ do Sở Văn hóa Việt Bắc tổ chức.
Cái
gốc chân thật của truyền thuyết dân gian là những phần nào, chi tiết
nào là thuộc phần sửa chữa của ông Sư, chưa có dịp làm sáng tỏ. Đỗ Đình
Truật và Phạm Như Hồ đã tìm gặp một số cụ già địa phương để xác minh
truyền thuyết, nhưng không một ai biết chút nào. Vấn đề còn ở tình trạng
chưa được sáng tỏ. Như vậy, truyền thuyết này không thể đã được coi là
căn cứ đáng tin cho một kết luận khoa học, và công việc phải tiến hành
tức là tiếp tục điều tra lại để xác minh truyền thuyết.
b. Thuyết Ai Lao Di[19]
Người chủ trương thuyết này không tán thành thuyết trên vì những lẽ:
-
Theo truyền thuyết thì nước Nam Cương không nằm trong phạm vi Tây Vu
được chỉ định theo tài liệu Trung Quốc. Những địa danh trong truyền
thuyết phần lớn bắt đầu có từ đời Nguyễn.
- Truyền thuyết bị “người đời sau dường như đã thêm thắt vào nhiều thậm chí đã tiểu thuyết hóa đi”. Cần phải thẩm tra lại.
- Truyền thuyết bị “người đời sau dường như đã thêm thắt vào nhiều thậm chí đã tiểu thuyết hóa đi”. Cần phải thẩm tra lại.
Tác
giả đã căn cứ vào truyền thuyết Sơn Tinh – Thủy Tinh, nghiên cứu một
khối lượng khá lớn thần phả, ngọc phả, tục hèm có liên quan, thấy rằng
Sơn Tinh (tức Thánh Tản viên) là một nhân thần, là người đã có công giúp
vua Hùng đánh Thục trong cuộc chiến tranh chống Thục, đã “được phản ánh
một cách rất đậm nét, rất cụ thể trong những truyền thuyết về thời Hùng
Vương”, và “giặc Thục ở đây còn được gọi là giặc Ai Lao, Thục Phán đã
từ Ai Lao đến xâm lược Văn Lang”.
Từ
truyền thuyết đối chiếu qua thư tịch, đặc biệt Nam Man Tây Nam di
truyện trong bộ Hậu hán thưvà Thuật dị ký, tác giả đã tìm ra Tây Thục
tức Ai Lao Di, tức nước Thục của thục Phán. “Đó là một nước đã tồn tại
thật sự trong lịch sử: nước Tây Thục (tức Ai Lao)… ở phía Tây Bắc nước
ta ngày nay”. “Cuối đời vua Hùng, Thục Phán đã từ đây mà xuống xâm lược
nước ta. Đó là một cuộc chiến tranh dai dẳng và khốc liệt, cuối cùng
nước Văn Lang bị diệt”. “Nước Tây Thục (Ai Lao) ở sát nước ta về phía
tây bắc, nó nằm trên trục giao thông chủ yếu của nước ta với miền Tây
Nam Di là thung lũng sông Hồng, sông Lô; Tây Thục cũng là một trạm trung
gian trên con đường giao thông quốc tế thời cổ giữa Trung Quốc với các
nước phía tây như Ấn Độ cổ đại”. Tác giả còn có phần chỉ cụ thể: “Đến
đời Hán Minh Đế (58), Ai Lao thuộc hẳn nhà Hán, Hán lấy đất đó phân làm
hai huyện Ai Lao và Bắc Nam, sau đổi thành Vĩnh Xương, nay là châu tự
trị Đức Hoằng thuộc tỉnh Vân Nam (Trung Quốc) hiện nay”.
c. Thuyết người Lạc Việt nói chung[20]
Từ
chỗ chứng minh rằng chữ “Tây” trong Tây Âu hay Tây Âu Lạc chỉ là chữ
chỉ phương hướng, tác giả đã chủ trương Tây Âu, Tây Âu Lạc và Âu lạc chỉ
là tên của một nước.
Từ
chỗ chứng minh rằng Tây Âu, Tây Âu Lạc hay Âu Lạc là một nước có địa
bàn chủ yếu nằm ở lưu vực sông Hồng ngày nay, trùng với bộ phận của địa
bàn rộng lớn của Lạc Việt gồm từ lưu vực sông Hồng tới lưu vực Tây Giang
ngày nay, tác giả chủ trương nước Tây Âu của người Lạc Việt, “trong Lạc
Việt có nhiều dân tộc (theo đúng nghĩa dân tộc học ngày nay) có quan hệ
lịch sử, huyết thống nào đó với nhau”.
Đối
với thuyết Ai Lao Di, tác giả cho rằng “những thần tích ghi về việc
Thục Phán cai trị ở Ai Lao là những tài liệu do người sau viết”. Về việc
giao lưu giữa Giao Châu và Ích Châu thì “chỉ hạn chế đến Điền, không
vượt qua khỏi Điền đến Ai Lao Di bao giờ. Ai Lao Di cũng chưa từng trở
thành một nước hùng mạnh và có xu thế phát triển về phía Giao Châu bao
giờ”. “Văn hóa phương Bắc vào Giao Chỉ không phải qua con đường Ai Lao
Di. Con đường qua Ai Lao Di là một con đường đi Thân Độc Quốc (Ấn Độ),
nhưng con đường cũng chỉ đánh thông được rất muộn về sau. Thời Tần –
Hán, Điền là bức thành chắn ngang đường giao lưu giữa Trung Quốc và Miến
Điện, Ấn Độ ngày nay.
Tất
cả những điều nghiên cứu trên dẫn tới việc không công nhận tên trước Âu
lạc hình thành do sự sáp nhập của hai tộc Âu lạc và tộc Lạc, mà tên
nước này đã xuất hiện ngay từ trước khi thời Hùng Vương kết thúc.
2. Âu Lạc đã là một nhà nước thật sự
Thời
gian nghiên cứu gần đây, vấn đề này chưa được bàn tới nhiều. Những ý
kiến đã chính thức công bố nêu ra đây không phải khác nhau về điểm Âu
Lạc đã là một nhà nước thật sự, mà khác nhau ở chỗ Nhà nước Âu Lạc đã
xuất hiện trên cơ sở trình độ sản xuất của thời đại đồng hay thời đại
sắt.
Những
mũi tên đồng Cầu Vực được coi là vật tiêu biểu của “văn hóa đồ đồng ở
giai đoạn Âu Lạc” và “văn hóa vật chất của tổ tiên ta ở thời An Dương
Vương vẫn chưa khác văn hóa vật chất ở thời Hùng Vương bao nhiêu, căn
bản vẫn là văn hóa đồ đồng”. Đây là một trong những lập luận cho rằng
nước Âu Lạc là một nhà nước của thời đại đồng[21].
Một
ý kiến khác[22] cho rằng “những di tích văn hóa vật chất thời An Dương
Vương còn để lại trên khu di tích Cổ Loa đã được tìm thấy một số, như
những lưỡi cày đồng ở xóm Nhồi, kho mũi tên đồng với hàng vạn chiếc mà
chúng ta đều biết và có thể là lớp dưới của tầng văn hóa ở di chỉ Bãi
Mèn”[23]. Tuy rằng người viết không nói rõ, nhưng ta hiểu ý đó nói rằng
thời kỳ lịch sử An Dương Vương thuộc thời đại đồng thau.
Di
chỉ Đường Mây được phát hiện và khai quật 2 lần vào năm 1970. Nhiều cục
sắt và mảnh hiện vật bằng sắt được tìm thấy, trên cơ sở đó di chỉ được
tạm định thuộc sơ kỳ thời đại sắt[24]. Đặc biệt, di chỉ Đường Mây nằm
trên một doi đất cao tự nhiên ven sông Hoàng và ven bờ đầm cả và ngay
dưới chân thành ngoài của thành Cổ Loa. Từ lẽ đó, người khai quật di chỉ
này quả quyết rằng “nó (Đường Mây) thuộc về một thời đại trực tiếp
trước thời đại của thành Cổ Loa. Khi tiến hành xây thành, người ta đã
đắp lũy (thành ngoài) phủ lên trên khu di chỉ này, biến quả gò trên đó
trước đây có cư dân sinh sống thành một bộ phận của thành ngoài. Vì di
chỉ ấy thuộc về sơ kỳ thời đạt sắt cho nên thời hạn niên đại dưới của
thành Cổ Loa không thể xưa hơn sơ kỳ thời đại sắt. Thành Cổ Loa là một
công trình của thời đại sắt Việt Nam, điều đó bác bỏ luận điểm cũ của
nhiều nhà sử học và khảo cổ học nói rằng thành Cổ Loa thuộc về thời đại
đồng thau phát đạt của Việt Nam”. Nghiên cứu sâu hơn nữa về nước Âu Lạc,
tác giả của ý kiến Cổ Loa chỉ có thể là kinh thành của một nhà nước
Việt Nam thời cổ có trước đời Hán… Nhà nước đó, theo sử cũ là Nhà nước
Âu Lạc của An Dương Vương”. Từ đó tác giả còn rút ra kết luận: “Nước Âu
lạc do An Dương Vương lập đã là một nhà nước thật sự”. Sự phân hóa giai
cấp là rõ rệt. “Tầng lớp vua chúa quý tộc ở nhà ngói sân gạch”. Xã hội
này đã có trình độ phát triển kinh tế cao, có quyền lực xã hội mạnh mẽ,
kỹ thuật xây dựng cao, trình độ tổ chức cao, và có mức phát triển cao,
của trí tuệ và tài năng sáng tạo, có trình độ nghệ thuật quân sự rất
cao.
Một
ý kiến khác cho rằng “văn hóa Âu Lạc” tồn tại chừng 100 năm trước khi
nước Âu Lạc bị tiêu diệt, nghĩa là “văn hóa Âu Lạc” có hơn nửa thế kỷ
song song tồn tại với “văn hóa Văn Lang” và thuộc thời đại sắt[25].
3. Vấn đề thành Cổ Loa
Về
tòa thành cổ nhất của giai đoạn lịch sử này, ngày nay về cơ bản vẫn còn
nhận thấy dấu vết các vòng tường thành, nhưng cũng dễ dàng nhận thấy có
sự đổi thay theo yêu cầu về chính trị, quân sự, kinh tế hoặc văn hóa
của mỗi thời.
Con
đường ôtô lớn chạy từ cửa Nam qua cửa Bắc (?) xuyên qua hai vòng thành
giữa và ngoài, và cửa Bắc ở vòng thành ngoài, chắc là sản phẩm của việc
làm con đường này ngay trong thời đại chúng ta.
Trên
tường thành ở quãng xóm Nhồi, trên tường thành gần ở giữa xóm Mít trên
gò Ông Trưng, dấu vết những lò gạch ngói chứng minh một sự phá hoại khác
của những thời trước đây vài trăm năm.
Đền
An Dương Vương, một kiến trúc thời Lê, đã làm thay đổi hẳn bộ mặt của
góc tây thành trong. Một đoạn tường thành cũ đã biến thành nền đền và
một tay ngai ngoài của đền được đắp thêm để tạo dáng cân đối.
Những
đổi thay mà ta đã biết rất nhiều, những đổi thay chưa biết còn gấp bội.
Chính vì vậy, điều nhất trí trong yêu cầu công tác của chúng ta là đi
tìm bộ mặt ban đầu của thành cũ An Dương Vương.
Do
sự nhất trí nhận định rằng khu di chỉ Cổ Loa nói chung, thành Cổ Loa
nói riêng, là một trọng điểm của đề tài nghiên cứu về “thời kỳ lịch sử
An Dương Vương và quan hệ với thời kỳ Hùng Vương”, nên mấy năm nay chúng
ta đã đầu tư nhiều công sức, tiền của vào đây. Khối lượng tư liệu đã
thu được khá lớn, những ý kiến khác nhau cũng dần dần nhích lại gần
nhau.
Tồn tại chủ yếu hiện nay là vấn đề niên đại của những di vật tìm thấy nhiều nhất, phổ biến nhất tại khu vực Cổ Loa là gạch, ngói ống, ngói bản. Sự khác nhau trong việc đoán định niên đại cho những di vật loại này dẫn tới những giải thích khác nhau về nhiều mặt khác.
Tồn tại chủ yếu hiện nay là vấn đề niên đại của những di vật tìm thấy nhiều nhất, phổ biến nhất tại khu vực Cổ Loa là gạch, ngói ống, ngói bản. Sự khác nhau trong việc đoán định niên đại cho những di vật loại này dẫn tới những giải thích khác nhau về nhiều mặt khác.
a. Về gạch, ngói ống, ngói bản tìm thấy trong các tường thành và những vật cùng loại ở ngoài tường thành
Đây
là loại di vật tìm thấy nhiều nhất và cũng có thể nói là quan trọng
nhất. Xác định được niên đại của chúng, ta có thể không những xác định
được niên đại của các vòng thành còn lại, mà từ đó còn rút ra những kết
luận chính xác về trình độ sản xuất, tổ chức xã hội, trình độ kỹ thuật
quân sự, quan hệ giao lưu văn hóa với các miền khác chung quanh, đặc
biệt là với phương Bắc, v.v…
Trong
khi tiến hành đoán định niên đại cho loại di vật này, bất kỳ ai với kết
luận gì, người nào cũng dùng phương pháp so sánh chúng với các hiện vật
tìm thấy tại Trung Quốc, quê hương của loại sản phẩm này. Ở Trung quốc,
người ta đã có kết luận về quy luật phát triển và diễn biến hoa văn
trên các loại hiện vật này, do đó có thuận lợi cho ta trong việc so sánh
tìm hiểu niên đại. Tuy nhiên, thời gian tồn tại của mỗi loại hoa văn có
khi kéo dài hàng trăm năm, mặt khác Cổ Loa cách rất xa trung tâm của
quê hương những loại hiện vật này, và hiện vật Cổ Loa lại được sản xuất
tại chỗ rất có thể có những điều ngoại lệ. Do đó, việc so sánh để tìm
niên đại cho những hiện vật gạch ngói trong thời kỳ lịch sử An Dương
Vương ngắn ngủi cũng có khó khăn nhất định, đặc biệt là trong trường hợp
chúng ta hầu như chỉ tìm thấy gạch ngói mà không có thêm những vật khác
cùng thời để hỗ trợ cho sự đoán định.
1.
Người cho rằng “Cổ Loa – với loại hình to, có lỗ để đóng đinh ngói,
vách mỏng, văn thừng, tương đối thô – cũng giống ngói Đông Chu và Tần
Hán”, thì cũng kết luận rằng những vòng thành còn lại ngày nay căn bản
là đắp từ thời An Dương vương, đồng thời, trước những sản phẩm mang đậm
nét văn hóa Hán đó, đã đưa ra cách giải thích “tầng lớp quý tộc thời đó
đã hấp thụ ảnh hưởng văn minh Trung Hoa thời Chiến Quốc”. “Việc hấp thụ
ảnh hưởng văn hóa bên ngoài của tầng lớp quý tộc và của đông đảo nhân
dân lao động rất khác nhau. Tầng lớp quý tộc có thể chịu ảnh hưởng sâu
xa phong cách nước ngoài (tổ chức hành chính, tổ chức triều đình, quan
lại, lề lối ăn mặc, nhà cửa, chữ viết, v.v…); trong khi nhân dân lao
động hấp thụ rất thận trọng, có sáng tạo, biết “dân tộc hóa” những yếu
tố vay mượn từ bên ngoài và kiên trì bảo tồn cái vốn tinh túy của nền
văn hóa dân tộc”[26].
2. Người khác lại sắp xếp cho những đầu ngói tìm thấy ở Cổ Loa một niên đại “không thể sớm hơn vãn kỳ Tần Hán” với những lý do:
- Hoa văn mây cuốn của những đầu ngói Cổ Loa tương tự như đầu ngói Tây Hán ở Trung Quốc.
- Hoa văn thừng thô và thừng nhuyễn trên thân ngói bản Cổ Loa là đặc điểm của đồng loại bên Trung Quốc vào văn kỳ Tây Hán.
- Cũng có đầu ngói văn mây cuốn kiểu Đông Hán sơ kỳ.
- Thời Tây Hán sơ kỳ còn có loại đầu ngói nửa hình tròn nhưng ở Cổ Loa không có.
- Ngói Cổ Loa có nhiều mảnh có độ nung cao rắn như sành, vượt xa độ nung của ngói thời Đông Chu.
- Hoa văn thừng thô và thừng nhuyễn trên thân ngói bản Cổ Loa là đặc điểm của đồng loại bên Trung Quốc vào văn kỳ Tây Hán.
- Cũng có đầu ngói văn mây cuốn kiểu Đông Hán sơ kỳ.
- Thời Tây Hán sơ kỳ còn có loại đầu ngói nửa hình tròn nhưng ở Cổ Loa không có.
- Ngói Cổ Loa có nhiều mảnh có độ nung cao rắn như sành, vượt xa độ nung của ngói thời Đông Chu.
Cách
tính tuổi cho đầu ngói như thế, tất nhiên dẫn tới kết luận: “Lớp đất
đắp thành có chứa những mảnh ngói nói trên được đắp vào thời Mã Viện,
sau khi tên tướng xâm lược này đàn áp cuộc khởi nghĩa lừng danh của Hai
Bà Trưng”. Tuy nhiên, tác giả ý kiến này còn đưa thêm giả thuyết “đáng
suy nghĩ hơn cả” rằng lớp đất đắp thành có chứa đựng ngói cổ có thể do
Lý Phật Tử thi công[27].
3. Ngôi mộ cổ tại Mạch Tràng khai quật vào tháng 1-1970 đã cung cấp một số tư liệu đáng chú ý:
- Những viên gạch xây mộ phần nhiều có in chữ Hán và cho biết 3 niên đại tuyệt đối:
Năm 99 sau công nguyên (Vĩnh Nguyên thứ 11).
Năm 105 sau Công nguyên (Vĩnh Nguyên thứ 17).
Năm 111 sau Công nguyên (Vĩnh Sơ thứ 5).
Năm 99 sau công nguyên (Vĩnh Nguyên thứ 11).
Năm 105 sau Công nguyên (Vĩnh Nguyên thứ 17).
Năm 111 sau Công nguyên (Vĩnh Sơ thứ 5).
- Những đồ gốm, đồ sứ chôn trong mộ đều mang đặc điểm thời Đông Hán muộn.
- Những viên gạch xây mộ được chèn bằng các mảnh ngói cùng loại với ngói tìm thấy phổ biến trong và ngoài tường thành Cổ Loa.
- Những viên gạch xây mộ được chèn bằng các mảnh ngói cùng loại với ngói tìm thấy phổ biến trong và ngoài tường thành Cổ Loa.
Người phụ trách khai quật ngôi mộ này đã đưa ra một số ý kiến như sau:
-
Giới hạn niên đại sớm nhất của ngôi mộ là năm 111 sau Công nguyên. Giới
hạn muộn không thể đoán cụ thể, nhưng cũng không thể vượt khỏi thời
Đông Hán.
-
Ngói Cổ Loa có niên đại tương đương với ngôi mộ. Theo quy luật phổ biến
(chưa thấy có ngoại lệ) thì những vật chèn trong gạch mộ thường là
những phế phẩm gốm sứ đương thời. Khó có thể nghĩ rằng người ta đã đi
vào tìm những mảnh ngói cách đó 3 thế kỷ để chèn mộ. Một lẽ khác là cho
tới nay chưa có người nghiên cứu nào nghĩ tới việc tách những ngói Cổ
Loa, loại này đã tìm thấy trong cùng một tầng văn hóa, phân bố phổ biến
biến trên khu vực Cổ Loa, ra nhiều niên đại khác nhau tới 3 thế kỷ.
-Lớp
đất đắp thành chứa ngói Cổ Loa chỉ có cùng niên đại với ngói hoặc muộn
hơn và như vậy việc đi tìm dấu thành cũ của An Dương Vương còn phải tiếp
tục tiến hành.
- Một khi trong tay có những hiện vật không còn nghi ngờ gì nữa là thuộc thời An Dương Vương, mới có thể rút ra kết luận chính xác về bộ mặt xã hội thời đó[28].
- Một khi trong tay có những hiện vật không còn nghi ngờ gì nữa là thuộc thời An Dương Vương, mới có thể rút ra kết luận chính xác về bộ mặt xã hội thời đó[28].
4.
Những hiện vật tìm thấy tại lớp đất cuối cùng (sau 5 đến 6m tính từ mặt
thành) của đoạn thành xóm Mít, một đoạn thành nguyên vẹn nhất và cao
nhất của vòng thành ngoài, vẫn là những mảnh ngói Cổ Loa, một mảnh trôn
và vài mảnh miệng của một cái chõ, một số mảnh gạch in văn thừng thành
đồ án những hình chữ chi, hoặc văn ô trám lồng… Người phụ trách cắt đoạn
thành này quy định cho những hiện vật này một tuổi tương đương với thời
Đông Hán và cũng đưa ra ý kiến cho rằng không thể coi tất cả những
tường thành còn lại trên mặt đất hiện nay là thuộc thời An Dương
Vương[29].
b. Về kỹ thuật xây thành
Từ
kết luận “thành Cổ Loa hiện tại không thể có sau thời Hán, cũng không
thể là một huyện thành đời Hán…, chỉ có thể là kinh thành của một nhà
nước Việt Nam thời cổ trước đời Hán… theo sử cũ, đó là nước Âu Lạc của
An Dương vương”, tác giả ý kiến này đã đi sâu nghiên cứu và rút ra một
số nhận xét về tòa thành:
-
Khi đắp thành, điều kiện địa hình ở khu vực Cổ Loa đã được nghiên cứu
và vận dụng phù hợp sáng tạo. Sông được lợi dụng làm hào thiên nhiên và
cung cấp nước cho hệ thống hào, gò đống được đắp nổi thành tường thành.
- Người xưa đã sáng tạo ra kỹ thuật kè đá tảng và rải gốm ở chân thành và rìa thành để chống sụt lở.
- Thành Cổ Loa là một công trình lao động quy mô lớn.
- Thành Cổ Loa là một công trình phòng vệ kiên cố và lợi hại, vừa là một căn cứ bộ binh, vừa là một căn cứ thủy quân quan trọng. Nó là sự chung đúc truyền thống quý báu của người Âu – người Lạc tổ tiên chúng ta[30].
- Người xưa đã sáng tạo ra kỹ thuật kè đá tảng và rải gốm ở chân thành và rìa thành để chống sụt lở.
- Thành Cổ Loa là một công trình lao động quy mô lớn.
- Thành Cổ Loa là một công trình phòng vệ kiên cố và lợi hại, vừa là một căn cứ bộ binh, vừa là một căn cứ thủy quân quan trọng. Nó là sự chung đúc truyền thống quý báu của người Âu – người Lạc tổ tiên chúng ta[30].
Những
người còn hoài nghi về dấu vết thành còn lại, hay nói cho đúng hơn,
hoài nghi những lớp đất đắp thành trong có chứa những gạch ngói mà họ
cho là có tuổi Đông Hán, thì tất nhiên chưa phát biểu gì về kỹ thuật đắp
thành, về tổ chức ăn ở và bố trí phòng vệ trong và ngoài thành thời
Thục… Họ chủ trương tiếp tục đi tìm dấu vết còn lại của tòa thành Cổ Loa
của An Dương Vương mà họ cho rằng có chỗ không còn chút nào, có chỗ bị
thành Hán trùm lên và có chỗ chìm trong lòng đất ngoài phạm vi chân
thành hiện tại. Họ cũng nhất trí suy luận rằng ngay trên mảnh đất Cổ Loa
lịch sử này có khả năng tìm thấy không những dấu vết thành Cổ Loa của
An Dương Vương mà còn tìm thấy cả những di vật các loại đương thời,
không chỉ là những di vật kiến trúc[31].
Cho
tới nay, trừ di chỉ Đường Mây, thì trong phạm vi tường thành và những
nơi khác trong khu vực ba vòng thành, người ta tìm thấy nhiều nhất là
gạch, ngói ống, ngói bản (đây là nói những di vật trước, sau công nguyên
một vài thế kỷ). Gạch ngói tất nhiên không phải là tất cả những di vật
thời An Dương vương, nhưng cho tới nay nó gần như là tất cả những di vật
đã được tìm thấy mà có ý kiến xếp vào niên đại thời kỳ An Dương Vương.
Những người chưa đồng ý như vậy, về mặt nghiên cứu hiện vật chưa chấp
nhận đây là những di vật sớm hơn thời thuộc Hán, về mặt suy lý chưa thỏa
mãn rằng bộ mặt văn hóa vật chất của một thời kỳ lịch sử tiếp liền ngay
sau thời kỳ Hùng Vương mà tính chất bản địa, độc đáo, sáng tạo, có
trình độ cao của nền văn hóa đã được chứng minh khá đầy đủ bằng những
hiện vật khảo cổ, lại bỗng chốc chịu ảnh hưởng quá đậm nét đặc điểm văn
hóa phương bắc.
Đối
với những hiện vật tìm thấy tại di chỉ Đường Mây, nên nhìn thấy trong
đó những đặc điểm của thời kỳ lịch sử này (có thể không có đặc điểm
riêng trong văn hóa vật chất của thời kỳ này). Di chỉ Đường Mây có niên
đại gần kề với niên đại của tường thành Cổ Loa. Gốm thô Đường Mây tương
tự gốm Đường Cồ mà nhiều người cho là có niên đại từ cuối Chiến Quốc tới
Đông Hán, và có tính chất bản địa. Những đầu mũi tên đồng hình lá, hình
tam giác bẹt 2 cánh, hình 3 cạnh sắc, tiết diện tam giác, v.v… gần gũi
rất nhiều với những đầu mũi tên tìm thấy ở những di chỉ sớm hơn. Những
bàn “dập gốm” có dáng dấp Phùng Nguyên. Những dấu vết sắt của sơ kỳ thời
đại sắt dễ phù hợp với thời gian khoảng 2-3 thế kỷ trước Công nguyên.
Tất cả những điểm kể trên có nhiều gợi ý cho việc đi sâu nghiên cứu hiện
vật di chỉ Đường Mây và từ đó có hy vọng giải thích rõ bộ mặt văn hóa
vật chất của thời kỳ lịch sử An Dương Vương và nước Âu Lạc.
*
* *
Kết hợp nhận xét về cách thức xây thành với sự có mặt của gạch ngói trong tường thành, có một loại giả thuyết được đề ra, bị phản bác, nhưng trong tình hình khai quật và nghiên cứu hiện nay, chưa thể được thật sự đánh giá đúng sai, cũng như mọi giả thuyết khác. Cho nên, trong tinh thần thật sự cầu thị, muốn phản ánh mọi hướng suy nghĩ để tiện đường tìm tòi, cũng xin nêu: hai vòng thành ngoài, dựa vào đồi gò thiên nhiên, có thể là được xây dựng từ trước thời Bắc thuộc, sở dĩ có gạch ngói muộn bên trong tường là do có sửa chữa về sau; còn vòng bên trong có hình chữ nhật cân xứng, có nhiều hỏa hồi, cấu trúc khác hẳn hai vòng ngoài, có thể là xây dựng về sau.
*
* *
Kết hợp nhận xét về cách thức xây thành với sự có mặt của gạch ngói trong tường thành, có một loại giả thuyết được đề ra, bị phản bác, nhưng trong tình hình khai quật và nghiên cứu hiện nay, chưa thể được thật sự đánh giá đúng sai, cũng như mọi giả thuyết khác. Cho nên, trong tinh thần thật sự cầu thị, muốn phản ánh mọi hướng suy nghĩ để tiện đường tìm tòi, cũng xin nêu: hai vòng thành ngoài, dựa vào đồi gò thiên nhiên, có thể là được xây dựng từ trước thời Bắc thuộc, sở dĩ có gạch ngói muộn bên trong tường là do có sửa chữa về sau; còn vòng bên trong có hình chữ nhật cân xứng, có nhiều hỏa hồi, cấu trúc khác hẳn hai vòng ngoài, có thể là xây dựng về sau.
Những việc cần tiếp tục làm
Vấn
đề An Dương Vương tự bản thân nó và trong mối quan hệ gốc gác và tiếp
nối với thời kỳ Hùng Vương nói chung và vấn đề thành Cổ Loa nói riêng,
đối với những người nghiên cứu khảo cổ học, sử học và cả các ngành có
liên quan, ai cũng thấy là vấn đề phong phú, lớn nhưng phức tạp, khó
khăn. Hầu như tất cả mọi người, trong ý kiến phát biểu cũng như trong
bài viết đều đánh giá kết quả những công việc đã làm mới chỉ là “bước
đầu”, mới chỉ là “những giả thuyết nghèo nàn so với thực tế vô cùng sinh
động và phong phú, mới chỉ là “phát biểu trên cơ sở một tình hình
nghiên cứu chưa đầy đủ”.
Vì vậy đặt vấn đề tiếp tục đi sâu nghiên cứu là một điều hợp lý.
Căn
cứ vào tình hình nghiên cứu đã qua, nhóm nghiên cứu thời kỳ An Dương
Vương và quan hệ với thời kỳ Hùng Vương thấy cần phải tiếp tục làm một
số việc trong thời gian tới như sau:
Về mặt tư liệu khảo cổ học
- Phấn đấu để tìm ra những di vật các loại thuộc thời kỳ lịch sử này
Đi
tìm một cái gì riêng của thời kỳ An Dương Vương là một việc làm khó
khăn vì thời gian tồn tại của thời kỳ lịch sử này quá ngắn ngủi. Tuy
nhiên không đặt ra trong giả thuyết công tác lại là một thiếu sót. Tìm
được một cái gì đã có tính riêng của thời đại, một cái gì đã có thể ít
nhất giải thích được sự kế tục của văn hóa thời kỳ Hùng Vương có yếu tố
văn hóa mới hoặc của tộc Thục anh em, hoặc của phương Bắc, tất nhiên đó
là điều lý tưởng. Nhưng địa bàn tìm ra cái đó, quan trọng nhất, vẫn là
khu vực Cổ Loa lịch sử, bởi vì nơi đây thư tịch, truyền thuyết… đã hỗ
trợ đắc lực cho chúng ta kết luận quyền sở hữu các di vật thời đó thuộc
về An Dương Vương. Một khi đã làm được điều nói trên, chúng ta sẽ có cơ
sở để so sánh với những di chỉ đó đây, trả lại cho An Dương Vương những
cái mà trước đây ta thường nói là thuộc thời “Hùng Vương muộn”. Và phải
chăng cũng từ đó chúng ta lần tìm được cương vực (tất nhiên không đơn
giản) của nước Âu Lạc xưa?
Nếu
không tìm được cái gì riêng của thời An Dương Vương, nếu chúng ta chỉ
gặp những hiện vật đồng loại với thời Hùng vương cuối mà có niên đại gần
kề thời thuộc Triệu hay thuộc Hán thì cũng là điều hợp lý, chúng ta lại
có cơ sở để xác minh những dự đoán bấy lâu nay là “văn hóa vật chất
thời kỳ An Dương Vương về cơ bản là văn hóa thời kỳ Hùng Vương”.
Những tài liệu truyền thuyết ở Cao Bằng cần xác minh chu đáo. Những ghi chép của Rômanê đuy Caiô từ năm 1880 chắc giữ được nhiều phần nguyên thủy hơn. Việc kiếm lại tài liệu này là một công việc rất cần. Đồng thời việc cùng tác giả bản Chín chúa tranh vua lọc tìm cái cốt cũ của truyền thuyết cũng cần làm ngay.
Những tài liệu truyền thuyết ở Cao Bằng cần xác minh chu đáo. Những ghi chép của Rômanê đuy Caiô từ năm 1880 chắc giữ được nhiều phần nguyên thủy hơn. Việc kiếm lại tài liệu này là một công việc rất cần. Đồng thời việc cùng tác giả bản Chín chúa tranh vua lọc tìm cái cốt cũ của truyền thuyết cũng cần làm ngay.
Vùng
Tĩnh Gia (Thanh Hóa) và Diễn Châu (Nghệ An) ít nhiều đã cung cấp cho ta
một số tư liệu có ích nhưng tới nay “trữ lượng” tư liệu các vùng này
vẫn chưa được khai thác hết. Trong kế hoạch sưu tầm tư liệu thì vùng này
tất không thể bỏ qua.
Tóm
lại trong kho tư liệu các loại về thời kỳ lịch sử An Dương Vương hiện
nay, tư liệu khảo cổ học còn quá ít cả về số lượng lẫn loại hình. Thực
tế này yêu cầu chúng ta phải bổ khuyết kịp thời.
Về mặt nghiên cứu
-
Nguồn gốc tộc Thục và quan hệ Thục – Hùng tới nay vẫn còn nhiều bí ẩn.
Giải quyết tốt vấn đề nguồn gốc tộc Thục chúng ta sẽ giải quyết tốt vấn
đề quan hệ với Hùng Vương, đồng thời sẽ thoải mái trong việc đưa thời kỳ
lịch sử An Dương Vương vào thời đại bắt đầu “dựng nước và giữ nước”.
Trong việc giải quyết vấn đề này, tài liệu thư tịch và dân tộc học sẽ
phát huy nhiều tác dụng.
-
Vấn đề thành Cổ Loa. Phần trên đã nói tới vị trí quan trọng của thành
Cổ Loa trong việc nghiên cứu thời kỳ lịch sử An Dương Vương và nước Âu
Lạc. Nhưng một tòa thành cổ, trải qua mấy nghìn năm đầy biến động của
lịch sử dân tộc, không dễ gì xác định. Chính sự sụt lở do mưa nắng, thời
gian, chính sự tu sửa bồi đắp và cả sự phá hoại của con người thời sau
đã gây ra những điều chưa nhất trí trong các ý kiến khoa học hiện nay.
Nhưng sự chưa nhất trí còn có nguyên nhân quan trọng là công việc của
chúng ta làm còn quá ít nên chưa gần được chân lý. Tòa thành I-lion
“thần thoại”[32] phải sau 20 năm đào bới, những người làm công tác khảo
cổ học mới tìm thấy vết tích thật của nó.
Trong vấn đề này chẳng bàn cũng có thể dễ dàng thống nhất rằng khảo cổ học đóng vai trò chủ yếu.
Kết
quả khả quan của một thời gian ngắn ngủi nghiên cứu trên tinh thần đoàn
kết hợp tác xã hội chủ nghĩa vừa qua là bảo đảm vững chắc cho việc giải
quyết tốt vấn đề lịch sử phức tạp, khó khăn nhưng có ý nghĩa rất quan
trọng này.
Nguồn: Trần Quốc Vượng, Văn hóa Việt Nam, tìm tòi và suy ngẫm,
Nxb. Văn học, 2003, tr.615-649.
Nxb. Văn học, 2003, tr.615-649.
[1]A.G. Ôđricua, “Người An Nam trước triều đại nhà Hán của Trung Hoa”, Tạp chí Đông Dương, tháng 7-12/1923, tr.229.
[2]Trong truyền thuyết, gà trắng (Bạch kê tinh) là quỷ tinh phá thành vua Thục.
[3]Ở Cổ Loa người con rể không được tự do ăn nằm với vợ ở nhà bố mẹ vợ, người ta sợ rằng như vậy sẽ làm ăn xúi quẩy vì quan niệm rằng chính vua Thục xưa quá tin Trọng Thủy cho ở rể nên sau này mất nước.
[4]Phán là tên Thục Phán, Nồi là tên của Nồi Hầu.
[5]Công tác điều tra khai quật phục vụ cho việc nghiên cứu đề tài “Thời kỳ lịch sử An Dương Vương và nước Âu Lạc” tính từ khi phát hiện kho mũi tên đồng Cầu Vực năm 1959 gồm những đợt lớn như sau:
- Phát hiện kho mũi tên đồng Cầu Vực 1959.
- Lai Quý Hộ (Đội Khảo cổ, Bộ Văn hóa. Điều tra khảo cổ học khu Cổ Loa, 1959.
- Trần Hương Văn, Nguyễn Văn Cự (Đội Khảo cổ, Bộ Văn Hóa). Đào thám sát Đống Chuông, Đống Dáo, 1964.
- Hà Nguyên Điểm, Lê Xuân Diệm (Đội Khảo cổ, Bộ Văn hóa). Đào khu mộ cổ Mả Cơ – Cầu Cả, 1966.
- Đỗ Đình Truật, Nguyễn Thành Trai (Đội Khảo cổ, Bộ Văn hóa). Điều tra cơ bản khu Cổ Loa, 1966.
- Đoàn điều tra cổ sử trưởng ĐHTH. Điều tra sưu tầm truyền thuyết, địa danh, các vòng thành Cổ Loa, 1966.
- Khoa Sử trường Đại học Tổng hợp. Điều tra, khai quật Đồng Vông, Bãi Mèn, Trại Xóm Vang, cắt thành trong, đào khu mộ cổ Mả Cơ, 1967.
- Nguyễn Duy Tỷ (Viện Khảo cổ học). Khai quật Bãi Mèn, 1968.
- Nguyễn Duy Chiếm, Phạm Như Hồ (Viện Khảo cổ học). Điều tra sưu tầm truyền thuyết, 1969.
- Khoa Sử trường Đại học Tổng hợp. Khai quật Đồng Vông – Đường Mây, 1969.
- Đỗ Đình Truật, Phạm Như Hồ (Viện Khảo cổ học). Điều tra khảo cổ học Cao Bằng 7-1969.
- Đỗ Đình Truật, Phạm Như Hồ, Trần Đình Luyện (Viện Khảo cổ học). Cắt thành Luy Lâu, Hà Bắc 12-1969.
- Khoa Sử trường Đại học Tổng hợp. Khai quật Đường Mây, Đình Chàng 1-1970.
- Nguyễn Duy Chiếm, Đỗ Đình Truật, Phạm Như Hồ, Trần Đình Luyện (Viện Khảo cổ học). Khai quật Đồng Vông, mộ Mạch Tràng, cắt thành ngoài Cổ Loa, 1-1970.
- Nhóm sinh viên Dân tộc học trường Đại học Tổng hợp. Điều tra dân tộc học vùng Cổ Loa, 2-1970.
- Đỗ Đình Truật (Viện Khảo cổ học). Điều tra khảo cổ học Thanh Hóa, Nghệ An 4-1970.
[6] Phạm Huy Thông, “Tiến đến đưa thời kỳ Hùng Vương vào chính sử”, Tạp chí Khảo cổ học, Hà Nội, số 1, tháng 6/1969, tr.60.
[7] Trần Quốc Vượng, “Cổ Loa: những kết quả nghiên cứu vừa qua và những triển vọng tới”, Tạp chí Khảo cổ học, số 3-4, tháng 12/1969, tr.112-113.
[8] Trần Quốc Vượng, “Cổ Loa: những kết quả nghiên cứu vừa qua và những triển vọng tới”, bài đã dẫn, tr.112-113.
[9] Nguyễn Duy Hinh, “Bàn về nước Âu Lạc và An Dương Vương”, Tạp chí Khảo cổ học, số 3-4, tháng 12/1969, tr.154.
[10] Đào Duy Anh, “Góp ý kiến về vấn đề An Dương Vương”, Tạp chí Khảo cổ học, số 3-4, tháng 12/1969, tr.138.
[11] Đào Duy Anh, “Góp ý kiến về vấn đề An Dương Vương”, bài đã dẫn, tr.138.
[12] Nguyễn Linh, “Bàn về nước Thục của Thục Phán”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 124, tháng 7/1969, tr.45-50.
[13] Nguyễn Văn Huyên, ý kiến trao đổi trong buổi sinh hoạt học thuật tại viện Khảo cổ học, ngày 5-5-1970.
[14] Phần còn lại của các tường thành trên mặt đất hiện nay còn có ý kiến khác nhau về niên đại, nhưng điểm thống nhất là khẳng định có một ngôi thành An Dương Vương trên miền đất Cổ Loa hiện tại.
[15] Đại Việt sử ký toàn thư.
[16] L. Ôruxô.
[17] Đào Duy Anh.
[18] Xem Sử ký của Tư Mã Thiên.
[19] Nguyễn Linh, “Bàn về nước Thục của Thục Phán”, bài đã dẫn, tr.45-50.
[20] Nguyễn Duy Hinh, “Bàn về nước Âu Lạc và An Dương Vương”, bài đã dẫn, tr.150, 152-153.
[21] Đào Duy Anh, “Góp ý kiến về vấn đề An Dương Vương”, bài đã dẫn, tr.143.
[22] Trương Hoàng Châu, “Tòa thành đất cổ trên đất Cổ Loa”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 129, tháng 12/1969.
[23] Theo ý kiến của Nguyễn Duy Tỳ thì lớp dưới của di chỉ Bãi Mèn là thuộc thời đại đồng thau.
[24] Trần Quốc Vượng, “Cổ Loa: những kết quả nghiên cứu vừa qua và những triển vọng tới”, Bài đã dẫn, tr.113-126.
[25] Diệp Đình Hoa, Sơ kỳ thời đại sắt ở nước ta và vấn đề Hùng Vương – An Dương Vương, Báo cáo tại Hội nghị lần thứ hai nghiên cứu thời kỳ Hùng Vương (bản đánh máy), lưu tại Phòng tư liệu Viện Khảo cổ học.
[26] Trần Quốc Vượng, “Cổ Loa: những kết quả nghiên cứu vừa qua và những triển vọng tới”, bài đã dẫn, tr.120,126.
[27] Trương Hoàng Châu, “Tòa thành đất cổ trên đất Cổ Loa”, bài đã dẫn,.
[28] Nguyễn Duy Chiếm, Báo cáo khai quật ngôi mộ Mạch Tràng (bản đánh máy), lưu tại Phòng tư liệu Viện Khảo cổ học.
[29] Đỗ Đình Truật, Báo cáo cắt thành Cổ Loa ở xóm Mít (bản đánh máy) lưu tại phòng Tư liệu Viện Khảo cổ học.
Đoạn thành này được cắt tháng 1-1970, chân thành rộng 20m.
[30] Trần Quốc Vượng, “Cổ Loa: những kết quả nghiên cứu vừa qua và những triển vọng tới”, bài đã dẫn, tr.126.
[31] Tổ nghiên cứu 3, Viện Khảo cổ học.
[32] Theo tiếng Pháp quen gọi là Tơroa.
[2]Trong truyền thuyết, gà trắng (Bạch kê tinh) là quỷ tinh phá thành vua Thục.
[3]Ở Cổ Loa người con rể không được tự do ăn nằm với vợ ở nhà bố mẹ vợ, người ta sợ rằng như vậy sẽ làm ăn xúi quẩy vì quan niệm rằng chính vua Thục xưa quá tin Trọng Thủy cho ở rể nên sau này mất nước.
[4]Phán là tên Thục Phán, Nồi là tên của Nồi Hầu.
[5]Công tác điều tra khai quật phục vụ cho việc nghiên cứu đề tài “Thời kỳ lịch sử An Dương Vương và nước Âu Lạc” tính từ khi phát hiện kho mũi tên đồng Cầu Vực năm 1959 gồm những đợt lớn như sau:
- Phát hiện kho mũi tên đồng Cầu Vực 1959.
- Lai Quý Hộ (Đội Khảo cổ, Bộ Văn hóa. Điều tra khảo cổ học khu Cổ Loa, 1959.
- Trần Hương Văn, Nguyễn Văn Cự (Đội Khảo cổ, Bộ Văn Hóa). Đào thám sát Đống Chuông, Đống Dáo, 1964.
- Hà Nguyên Điểm, Lê Xuân Diệm (Đội Khảo cổ, Bộ Văn hóa). Đào khu mộ cổ Mả Cơ – Cầu Cả, 1966.
- Đỗ Đình Truật, Nguyễn Thành Trai (Đội Khảo cổ, Bộ Văn hóa). Điều tra cơ bản khu Cổ Loa, 1966.
- Đoàn điều tra cổ sử trưởng ĐHTH. Điều tra sưu tầm truyền thuyết, địa danh, các vòng thành Cổ Loa, 1966.
- Khoa Sử trường Đại học Tổng hợp. Điều tra, khai quật Đồng Vông, Bãi Mèn, Trại Xóm Vang, cắt thành trong, đào khu mộ cổ Mả Cơ, 1967.
- Nguyễn Duy Tỷ (Viện Khảo cổ học). Khai quật Bãi Mèn, 1968.
- Nguyễn Duy Chiếm, Phạm Như Hồ (Viện Khảo cổ học). Điều tra sưu tầm truyền thuyết, 1969.
- Khoa Sử trường Đại học Tổng hợp. Khai quật Đồng Vông – Đường Mây, 1969.
- Đỗ Đình Truật, Phạm Như Hồ (Viện Khảo cổ học). Điều tra khảo cổ học Cao Bằng 7-1969.
- Đỗ Đình Truật, Phạm Như Hồ, Trần Đình Luyện (Viện Khảo cổ học). Cắt thành Luy Lâu, Hà Bắc 12-1969.
- Khoa Sử trường Đại học Tổng hợp. Khai quật Đường Mây, Đình Chàng 1-1970.
- Nguyễn Duy Chiếm, Đỗ Đình Truật, Phạm Như Hồ, Trần Đình Luyện (Viện Khảo cổ học). Khai quật Đồng Vông, mộ Mạch Tràng, cắt thành ngoài Cổ Loa, 1-1970.
- Nhóm sinh viên Dân tộc học trường Đại học Tổng hợp. Điều tra dân tộc học vùng Cổ Loa, 2-1970.
- Đỗ Đình Truật (Viện Khảo cổ học). Điều tra khảo cổ học Thanh Hóa, Nghệ An 4-1970.
[6] Phạm Huy Thông, “Tiến đến đưa thời kỳ Hùng Vương vào chính sử”, Tạp chí Khảo cổ học, Hà Nội, số 1, tháng 6/1969, tr.60.
[7] Trần Quốc Vượng, “Cổ Loa: những kết quả nghiên cứu vừa qua và những triển vọng tới”, Tạp chí Khảo cổ học, số 3-4, tháng 12/1969, tr.112-113.
[8] Trần Quốc Vượng, “Cổ Loa: những kết quả nghiên cứu vừa qua và những triển vọng tới”, bài đã dẫn, tr.112-113.
[9] Nguyễn Duy Hinh, “Bàn về nước Âu Lạc và An Dương Vương”, Tạp chí Khảo cổ học, số 3-4, tháng 12/1969, tr.154.
[10] Đào Duy Anh, “Góp ý kiến về vấn đề An Dương Vương”, Tạp chí Khảo cổ học, số 3-4, tháng 12/1969, tr.138.
[11] Đào Duy Anh, “Góp ý kiến về vấn đề An Dương Vương”, bài đã dẫn, tr.138.
[12] Nguyễn Linh, “Bàn về nước Thục của Thục Phán”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 124, tháng 7/1969, tr.45-50.
[13] Nguyễn Văn Huyên, ý kiến trao đổi trong buổi sinh hoạt học thuật tại viện Khảo cổ học, ngày 5-5-1970.
[14] Phần còn lại của các tường thành trên mặt đất hiện nay còn có ý kiến khác nhau về niên đại, nhưng điểm thống nhất là khẳng định có một ngôi thành An Dương Vương trên miền đất Cổ Loa hiện tại.
[15] Đại Việt sử ký toàn thư.
[16] L. Ôruxô.
[17] Đào Duy Anh.
[18] Xem Sử ký của Tư Mã Thiên.
[19] Nguyễn Linh, “Bàn về nước Thục của Thục Phán”, bài đã dẫn, tr.45-50.
[20] Nguyễn Duy Hinh, “Bàn về nước Âu Lạc và An Dương Vương”, bài đã dẫn, tr.150, 152-153.
[21] Đào Duy Anh, “Góp ý kiến về vấn đề An Dương Vương”, bài đã dẫn, tr.143.
[22] Trương Hoàng Châu, “Tòa thành đất cổ trên đất Cổ Loa”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 129, tháng 12/1969.
[23] Theo ý kiến của Nguyễn Duy Tỳ thì lớp dưới của di chỉ Bãi Mèn là thuộc thời đại đồng thau.
[24] Trần Quốc Vượng, “Cổ Loa: những kết quả nghiên cứu vừa qua và những triển vọng tới”, Bài đã dẫn, tr.113-126.
[25] Diệp Đình Hoa, Sơ kỳ thời đại sắt ở nước ta và vấn đề Hùng Vương – An Dương Vương, Báo cáo tại Hội nghị lần thứ hai nghiên cứu thời kỳ Hùng Vương (bản đánh máy), lưu tại Phòng tư liệu Viện Khảo cổ học.
[26] Trần Quốc Vượng, “Cổ Loa: những kết quả nghiên cứu vừa qua và những triển vọng tới”, bài đã dẫn, tr.120,126.
[27] Trương Hoàng Châu, “Tòa thành đất cổ trên đất Cổ Loa”, bài đã dẫn,.
[28] Nguyễn Duy Chiếm, Báo cáo khai quật ngôi mộ Mạch Tràng (bản đánh máy), lưu tại Phòng tư liệu Viện Khảo cổ học.
[29] Đỗ Đình Truật, Báo cáo cắt thành Cổ Loa ở xóm Mít (bản đánh máy) lưu tại phòng Tư liệu Viện Khảo cổ học.
Đoạn thành này được cắt tháng 1-1970, chân thành rộng 20m.
[30] Trần Quốc Vượng, “Cổ Loa: những kết quả nghiên cứu vừa qua và những triển vọng tới”, bài đã dẫn, tr.126.
[31] Tổ nghiên cứu 3, Viện Khảo cổ học.
[32] Theo tiếng Pháp quen gọi là Tơroa.
- Nhận đường liên kết
- X
- Ứng dụng khác
Nhận xét
Đăng nhận xét