THỰC TẠI & HOANG ĐƯỜNG 47/c
THỰC TẠI VÀ HOANG ĐƯỜNG (IV)
ĐẠI CHÚNG
--------------------------
PHẦN V: THỐNG NHẤT
“Chính qua cuộc đấu tranh
nhằm thống nhất một cách hợp lý cái đa dạng mà đã đạt được những thành công lớn
nhất, dù rằng chính ý đồ đó có thể gây ra những nguy cơ lớn nhất để trở thành
con mồi của ảo vọng”.
A. Anhxtanh
“Người nhìn thấy cái đa dạng mà không thấy
cái đồng nhất thì cứ trôi lăn trong cõi chết”.
Upanishad
CHƯƠNG VII: HÚT - ĐẨY
“Lực hút cũng như lực đẩy,
là thuộc tính cơ bản của vật chất.”
“Hấp dẫn cần phải được gây
ra bởi một tác nhân thường xuyên tác động theo một qui luật nào đó, nhưng tác
nhân này là vật chất hay phi vật chất thì tôi xin dành cho bạn đọc suy nghĩ.”
Niutơn
(tiếp theo)
Vào năm 1933,
khi phân tích những dữ kiện lý thuyết và thực nghiệm, nhà vật lý học Yakawa,
người Nhật, đã có một ý niệm về bản chất lực hạt nhân. Theo ông, lượng tử liên
kết trong hạt nhân nguyên tử là một hạt vật chất nào đó mà ông gọi là mêzôn.
Các hạt trong hạt nhân phải trao đổi các hạt này để sinh ra những lực khổng lồ
tác động ở khoảng cách nhỏ và chỉ tồn tại trong lòng hạt nhân nguyên tử. Để
thực hiện được sự trao đổi sinh ra lực hạt nhân giữa hai hạt nuclôn (tên gọi
chung của prôtôn và nơtrôn), phải có ba loại mêzôn là mêzôn âm, mêzôn dương và mêzôn
trung tính. Mêzôn âm và mêzôn dương chịu trách nhiệm trao đổi lực qua nơtrôn và
prôtôn (hoặc nơtrôn phát ra một mêzôn âm, trở thành prôtôn, prôtôn nhận mêzôn
này trở thành nơtrôn, hoặc prôtôn phát ra một mêzôn dương, trở thành nơtrôn, nơtrôn
nhận mêzôn này trở thành prôtôn). Mêzôn trung tính chịu trách nhiệm trao đổi
lực giữa hai hạt nuclôn cùng loại (giữa prôtôn với prôtôn hay giữa nơtrôn với nơtrôn).
Cho đến năm 1948 các nhà vật lý mới phát hiện ra ba mêzôn này và gọi chúng là mêzôn
âm, mêzôn
dương, mêzôn
trung tính. Khối lượng
của mêzôn
gấp 273 lần khối lượng
của điện tử.
Lý thuyết mêzôn
đã giải thích một cách thỏa đáng các đặc tính tác động của lực hạt nhân nhưng
dù sao cũng thật là khó hình dung là lại có thể biến thành lực đẩy mạnh hơn nữa
khi khoảng cách giữa hai hạt nuclôn nhỏ hơn 0,5.10-13cm, và cũng vì hoàn toàn trái ngược với nhận thức thông
thường. K. A. Gladkov, tác giả cuốn sách nổi tiếng có tựa đề “Năng
lượng nguyên tử, xuất bản lần đầu tiên vào năm 1958, có viết: “Ta cũng không loại
trừ khả năng là lý thuyết mêzôn có thể sẽ sai và các nhà bác học sẽ phải kiên
nhẫn xây dựng một lý thuyết mới để giải đáp vấn đề số một của vật lý học hiện
đại: bản chất của lực hạt nhân”.
Theo thiển ý
của chúng ta, nguyên nhân làm xuất hiện lực hạt nhân dù có vẻ lạ lùng đến mấy
chăng nữa thì cũng phải có nguồn gốc sâu xa từ sự xuất hiện lực tương tác cảm
ứng kích thích Không Gian
và xảy ra trên nền
tảng ấy. Nếu đúng là lực hạt nhân xuất hiện trong quá trình trao đổi mêzôn giữa
các hạt nuclôn, thì sự trao đổi ấy xảy ra như thế nào? Chắc chắn các hạt nuclôn
không thể hút nhau bằng cách bức xạ mêzôn trực diện vào nhau tương tự như hai
cầu thủ chuyền bóng cho nhau trong môn chơi bóng chuyền được. Nhớ lại sự hút
nhau của ngôi sao và hành tinh của nó trong Vũ Trụ vĩ mô mà chúng ta suy tưởng
ra là nhờ vào sự thu phát bức xạ của chúng, có thể nghĩ rằng lực hạt nhân cũng
được sinh ra từ sự thu phát giữa ngôi sao và hành tinh đều được hình thành theo
cùng một nguyên tắc, dù rằng về mặt hình thức, hai quá trình có thể rất khác
nhau. Nói cách khác, hai lực ấy có cùng bản chất.
Theo một tài
liệu, khối lượng của prôtôn:
và của nơtrôn:
Đó là những
khối lượng thực sự nhỏ bé. Tuy nhiên nếu đem so chúng với khối lượng hạt
mà chúng ta đã giả
định thì chúng là những gã khổng lồ. Nếu đem chia khối lượng của prôtôn và của nơtrôn
cho khối lượng của
, chúng ta sẽ biết được ước chừng số lượng hạt
hợp thành prôtôn và nơtrôn.
Cụ thể là:
Nếu lấy trung
bình thì số hạt
hợp thành hạt nuclôn
là khảong 163437 hạt. Đây là một con số không hề nhỏ với số lượng phần tử hợp
thành như thế, đồng thời do yêu cầu về chuyển hóa KG phải tồn tại xoáy nội tại
mà có thể coi các nuclôn vận động như là những ngôi sao thu phát bức xạ trong Vũ
Trụ ở tầng qui mô hạ nguyên tử.
Hiện nay, theo
vật lý học nhận định từ những dữ kiện đã thu thập được thì có thể coi nuclôn
phát xạ ra một đám mây mêzôn lượn quanh nó trong một khoảng thời gian cực kỳ
ngắn ngủi rồi đám mây mêzôn này lại bị nuclôn hấp thụ trở lại. Quá trình thu -
phát đó lặp đi lặp lại liên tục.
Chúng ta đã
hình dung ra một cách định tính cơ chế và cách thức thu phát mêzôn của một prôtôn
(đang trong vai trò là hạt nhân của nguyên tử Hydrô), đồng thời mô tả quá trình
đó trên hình 7/a.
Như chúng ta đã
quan niệm, Tự Nhiên Tồn Tại là vốn dĩ như thế và thể hiện ra trước quan sát,
nhận thức thành không gian vận động và để đảm bảo cho sự vận động đến tuyệt
cùng có khả năng, không gian phải phân định tương đối đến “chân tơ kẽ tóc”.
Chính thể, vô cùng phong phú các hiện tượng biến ảo đến bất tuyệt. Từ đó có thể
thấy, Tồn Tại (tuyệt đối) là duy nhất nhưng tồi tại (tương đối) phải là vô vàn
để thể hiện triệt để sự duy nhất ấy. Điều kiện tiên quyết để đảm bảo và đồng
thời thể hiện được Tồn Tại là sự không ngừng biến hóa đến cùng tận. Do đó, điều
kiện tiên quyết để đảm bảo và thể hiện được tồn tại là sự vận động không ngừng.
Như vậy, không thể có bất cứ thực thể nào đang tồn tại trong Vũ Trụ không vận
động. Hơn nữa, cần thấy rằng, vì Tồn Tại là vốn dĩ thế cho nên sự biến hóa của
Nó là hoàn toàn tự nhiên, có tính tự thân một cách tuyệt đối, vừa là nguyên
nhân, vừa là kết quả của chính nó. Trong khi đó, vì bất cứ sự tồn tại nào cũng
là kết quả được tạo ra từ sự biến hóa tuyệt đối ấy cho nên không thể có tồn tại
tự thân tuyệt đối (mà chỉ có tồn tại tự thân tương đối và theo qui ước). Nói
cách khác, chỉ có bản thân Vũ Trụ và sự vận động của nó là tự thân tuyệt đối,
còn tất cả mọi thực thể tồn tại và vận động trong Vũ Trụ đều phải tuân theo
nguyên lý nhân - quả.
Hình
7: - a/ Prôtôn tự thu phát mêzôn
b/
Thu phát mêzôn lẫn nhau của hai nuclôn.
Suy ra từ luận
điểm triết học nói trên, chúng ta cho rằng prôtôn không thể tự thân phát ra mêzôn
rồi hấp thụ lại được. Phải có một nguyên nhân bên ngoài, hay nói cụ thể hơn là
phải có một tác động đến prôtôn (với vai trò là hạt nhân của nguyên tử Hydrô)
từ môi trường chứa nó (vùng không gian “trong” nguyên tử Hydrô) làm cho nó bị
kích thích phát ra mêzôn và sau đó, trong tình trạng “hụt hẫng” đã phải hấp thụ
lại chính mêzôn ấy. Vậy tác động ấy xuất phát từ đâu? Theo phán đoán của chúng
ta thì chẳng từ đâu khác mà từ chính sự biến động tương tác điện giữa prôtôn và
điện tử của nguyên tử Hydrô. Mà sự biến động tương tác này, vì không tự thân
xuất hiện được cho nên nó phải là kết quả của sự tương tác giữa nguyên tử Hydrô
với môi trường bên ngoài dưới hình thức thu phát trao đổi bức xạ điện từ.
Lý thuyết về
nguyên tử của vật lý (được xây dựng trên cơ sở suy ra từ sự đúc kết các kết quả
khảo sát trong các thí nghiệm) cho biết: nguyên tử bất kỳ nào (nghĩa là cả
nguyên tử Hydrô)
cũng đều thu phát bức xạ điện từ. Sự thu phát bức xạ điện từ này có liên quan
chặt chẽ đến hành vi của (các) điện tử trong nguyên tử. Nói chung, một điện tử
trong nguyên tử luôn xoáy nội tại (có spin) và đồng thời vận động quay quanh hạt
nhân. Không phải điện tử chỉ có một trạng thái năng lượng quay duy nhất quanh
hạt nhân mà có tương đối nhiều trạng thái. Khó mà hình dung được rõ ràng, dứt
khoát hoạt cảnh sống động của hành tung điện tử trong nguyên tử, nhưng một cách
đại khái, có thể mường tượng điện tử quay quanh hạt nhân phần nào tương tự như
một hòn bi sắt bị ràng buộc vào một trục bằng một sợi dây thun và quay quanh
trục ấy. Tùy thuộc vào tốc độ quay của trục ấy mà hòn bi sắt có thể quay quanh
trục trên những quĩ đạo khác nhau, được đặc trưng bằng những số chỉ động lượng
khác nhau tương ứng của viên bi. Số chỉ giá trị động lượng viên bi sắt trên một
quĩ đạo quay nào đó là xác định và được gọi là mức năng lượng của quĩ đạo ấy.
Khi vận tốc trục quay biến đổi từ giá trị này sang giá trị khác thì viên bi sắt
cũng thay đổi quĩ đạo một cách thích ứng (và động lượng của nó cũng vì thế mà
biến đổi theo).
Trong Vũ Trụ vi
mô, vì tính hạt của các thực thể KG đã trở nên không còn rõ rệt nữa nên tính
quĩ đạo cũng trở nên nhạt nhòa. Đối với vận động của điện tử quanh hạt nhân, có
thể dùng “trạng thái vận động” để thay cho từ “quĩ đạo”. Đặc trưng cho mỗi
trạng thái vận động là một mức năng lượng xác định. Khi điện tử vận động tương
đối ổn định ở một trạng thái nào đó thì nó không thu phát năng lượng. Vì vậy,
người ta còn gọi trạng thái vận động của điện tử trong nguyên tử là “trạng thái
dừng” và trạng thái dừng có mức năng lượng thấp nhất (điện tử ở gần hạt nhân
nhất) được gọi là trạng thái cơ bản. Điện tử ở cách hạt nhân càng xa thì mức
năng lượng của nó càng lớn.
Bình thường,
điện tử luôn nó khuynh hướng trở về trạng thái cơ bản. Khi nhận được một năng
lượng nhất định đủ để chuyển đổi trạng thái thì nó sẽ phải thay đổi từ trạng
thái có mức năng lượng thấp hơn lên trạng thái có mức năng lượng cao hơn (gọi
là mức năng lượng kích thích). Nhưng điện tử không tồn tại lâu ở trạng thái vận
động kích thích ấy mà chỉ sau khoảng 10-8 s, nó lại phát xạ năng lượng để trở về trạng thái có mức năng
lượng thấp hơn nào đó.
Theo ý kiến
chúng ta, xu thế bức xạ năng lượng để từ trạng thái vận động có mức năng lượng
cao hơn trở về trạng thái vận động có mức năng lượng thấp hơn của điện tử nhằm
làm giảm mức độ vận động nội tại của nguyên tử là có tính thường trực và nguyên
nhân sâu xa của hiện tượng này có thể tìm thấy ở cái yêu cầu cải thiện chuyển
hóa KG trong nội tại nguyên tử cũng như trong nội tại điện tử.
Không thể có
thực thể tồn tại ngoài môi trường không gian cũng như không thể ngăn cách được
một cách tuyệt đối bất cứ thực thể nào với môi trường đang chứa nó. Khi nói một
thực thể nào đó, trong tình trạng cô lập hoàn toàn với môi trường đang chứa nó
thì đó chỉ có ý nghĩa tương đối. Đối với nguyên tử Hydrô cũng vậy. Giả sử rằng
trong một khoảng thời gian nào đó, một nguyên tử Hydrô ở trong tình trạng cô
lập như thế, nghĩa là trong trong tình trạng hoàn toàn không trao đổi bức xạ
điện từ với môi trường xung quanh và thực sự định xứ trong không gian. Lúc này,
coi như nội tại nguyên tử Hydrô hoàn toàn tự thân vận động để duy trì sự tồn
tại của bản thân nó tương tự như một… Vũ Trụ, hay cũng có thể tương tự như nội
tại, hạt
trong khoảng thời gian
định xứ. Nếu gọi khối lượng của nguyên tử Hydrô là mH thì lực lượng toàn
phần của nó là mHc2 và trong trạng thái nó
bị cô lập hoàn toàn, lực lượng toàn phần ấy bất biến. Dù ở trạng thái cô lập
hoàn toàn thì để duy trì sự tồn tại của mình, nguyên tử Hydrô không thể không
vận động nội tại.
Bất cứ một thực
thể nào định xứ trong không gian đều vận động nội tại một cách cân bằng, nghĩa
là vận động đó có tính điều hòa theo chu kỳ và được duy trì lâu dài một cách tự
thân. Như vậy, có thể hình dung vận động nội tại của một thực thể cô lập hoàn
toàn với môi trường xung quanh như là một sự xoáy nào đó, gọi chung là “xoáy Không
Gian”. Hơn nữa, cần phải đi đến nhận định rằng đặc trưng cơ bản, có tính phổ
quát đối với vận động nội tại của mọi thực thể KG trong tình trạng bị cô lập
chính là sự xoáy Không Gian. Đối với vận động nội tại của nguyên tử Hydrô cô
lập mà chúng ta đang xét cũng không thể ngoại lệ và một cách hình thức còn có
thể biểu diễn toán học về sự xoáy Không Gian của nó như sau:
Với: dH là đường kính biểu
kiến của nguyên tử Hydrô cô lập.
tH là chu kỳ xoáy nội tại
của nguyên tử Hydrô cô lập.
atmax là gia tốc tiếp tuyến
cực đại của sự xoáy.
cH là chu vi biểu kiến
của nguyên ử Hydrô cô lập.
Có thể biến đổi
lại biểu diễn trên để có thêm biểu diễn:
Với: aht là gia tốc hướng tâm
cực đại của xoáy nội tại Hydrô.
sH là diện tích mặt “khối
cầu” Hydrô 
Trong thực tại,
vì nguyên tử Hydrô là thực thể được hợp thành bởi một điện tử và một prôtôn,
nên vận động xoáy nội tại của Hydrô chính là tổng hợp vận động xoáy nội tại của
hai hạt thành phần ấy và vận động quay quanh nhau của chúng. Như vậy, nhớ lại
biểu diễn năng lượng toàn phần của một thực thể bằng tổng nội năng và động năng
của nó, và gọi moH là khối lượng nội tại
của Hydrô, gọi vH là vận tốc chu vi
trung bình biểu kiến và
là vận tốc góc xoay
của Hydrô quanh trục của nó, thì chúng ta có một biểu diễn nữa về vận động nội
tại của Hydrô là:
Có lẽ không thể
khác, phải rút ra được từ đó:
moH=moe+mop
mHvH2=meve2+mpvp2
Và vì: 
Nên cuối cùng:
Với: moe là khối lượng nội tại
của điện tử.
mop là khối lượng nội tại
của prôtôn.
ve là vận tốc chu vi của
điện tử.
vp là vận tốc chu vi của prôtôn.
d1 là khoảng cách từ điện
tử đến trọng tâm Hydrô.
d2 là khoảng cách từ prôtôn
đến trọng tâm Hydrô.
me là khối lượng “thật”
của điện tử.
mp là khối lượng “thật”
của prôtôn.
Như đã nói, tất
cả những biểu diễn trên đều nặng tính hình thức vì chúng ta đã diễn tả vận động
nội tại của nguyên tử Hydrô trong không gian vi mô phi Ơclit như vận động nội
tại của một hệ thống hành tinh hiện hữu trong tầng không gian vĩ mô thuần
Ơclit, đồng nhất và đẳng hướng. Tuy nhiên, nếu chỉ chú ý đến mặt lực lượng KG
thôi thì về nguyên tắc, kể ra cũng ổn.
Chúng ta cho
rằng, càng đi sâu về hướng vi mô, tính mạng khối của môi trường không gian càng
thể hiện ra rõ rệt.
Do đó và cũng
do tính đồng nhất và đẳng hướng lặn khuất dần đi mà các thực thể KG không còn
được thấy như những khối cứng chuyển động di dời theo một quĩ đạo có thể xác
định rõ ràng mà như những dòng chảy lan, uốn lượng tương đối rối loạn làm cho
không thể xác định được quĩ đạo một cách rõ ràng được nữa. mặt khác do tính bất
đẳng hướng của không gian phi ơclit cũng như yêu cầu đòi hỏi phải chuyển hóa
KG kịp thời mà hình ảnh vận động của các hệ hành tinh trong Vũ Trụ vi mô sẽ rất
khác so với hình ảnh vận động của các hệ hành tinh trong Vũ Trụ vĩ mô. Hệ hành
tinh điện tử - prôtôn đóng vai trò nội tại của nguyên tử Hydrô cũng vậy.
Trong trường
hợp giả tưởng là Hydrô hoàn toàn bị cô lập với môi trường không gian chứa nó,
điện tử và prôtôn hợp thành nó coi như tự thân xoáy nội tại và đồng thời, vận
động quay quanh nhau. Do khối lượng prôtôn rất lớn so với khối lượng điện tử
nên một cách tương đối, có thể cho rằng prôtôn định xứ và chỉ xoáy nội tại, còn
điện tử trông như một bó dây, hay theo các nhà vật lý mô tả, trông như một đám
mây uốn lượn, vận động di dời quanh prôtôn trong một trạng thái ổn định, không
đổi về mức năng lượng.
Vận động tự
thân là tự nhiên như thế, là vốn dĩ thế rồi, nghĩa là nó không tuân theo nguyên
lý nhân quả. Thế nhưng xem xét theo một góc độ khác thì vận động tự thân cũng
không thoát ra ngoài vòng nhân quả. Chỉ có điều phải coi đây là trường hợp đặc
biệt: vận động tự thân vừa là nguyên nhân vừa là kết quả của tồn tại. Tồn Tại
là sự thể hiện do đó mà có vận động, vận động là để đảm bảo và duy trì tồn tại.
Vậy, có thể nói, hệ vận động tự thân điện tử - prôtôn vận động để đáp ứng sự
chuyển hóa KG của nội tại Hydrô.
Nhưng tại sao
điện tử và prôtôn liên kết, quay quanh nhau, hay nói tương đối là điện tử lại
quay quanh prôtôn được? Tại sao điện tử lại phải xử sự như thế chứ không theo
cách khác? Phải chăng là do hai hạt mang điện tích trái dấu đã chuyển biến miền
không gian giữa chúng và do đó, làm xuất hiện một hiệu ứng hút điện từ lẫn
nhau? Nếu có thế thì cũng vẫn chưa đủ yếu tố vì chỉ với lực hút ấy thôi, điện
tử dễ dàng “đâm sầm” vào prôtôn, mà trong thực tại đâu thấy xảy ra như thế. Vậy
thì phải còn ít ra là một yếu tố nữa để cùng với hiệu ứng hút điện từ hợp thành
nên nguyên nhân rực tiếp làm cho điện tử vận động quay quanh prôtôn.
Giả sử rằng,
trong một miền không gian nào đó chỉ có một hạt prôtôn và ở tương đối xa nó
xuất hiện một điện tử. Giả sử thêm rằng không có bất cứ ảnh hưởng nào từ các
thực thể KG khác đến chúng. Lúc đó do có hiệu ứng hút điện từ giữa chúng mà hạt
điện tử phải bay về phía prôtôn. Điều hiển nhiên thấy được trong không gian
Ơclit là nếu không có gì cản trở, thực thể đóng vai trò điện tử sẽ phải đâm
chính diện vào thực thể đóng vai trò prôtôn. Trong không gian vi mô phi Ơclit,
tùy thuộc vào những điều kiện ban đầu nào đó mà cũng có khi điện tử bay vào prôtôn.
Tuy nhiên, có thể rút ra được từ các kết quả khảo sát không mang tính phổ biến
trong Vũ Trụ. Mặt khác, cũng có thể suy luận rằng nếu hiện tượng đó xảy ra một
cách phổ biến, được ưu tiên, không cần đến một nỗ lực tác động nào từ bên
ngoài, thì rất khó có khả năng tồn tại hệ thống tập hợp các nguyên tử - những
đơn vị lực lượng KG nền tảng làm hình thành nên lực lượng vật chất đa dạng,
hiện hữu trong Vũ Trụ vĩ mô.
Như chúng ta đã
quan niệm, trong Vũ Trụ luôn tồn tại nguyên lý ưu tiên lựa chọn lan truyền
chuyển hóa KG, đó là lực lượng KG luôn ưu tiên lựa chọn lan truyền theo hướng
có mật độ KG thấp nhất. Có lẽ chính nguyên lý này đã ngăn chặn, làm cho điện từ
hiếm khi va chạm được với prôtôn. Khi điện tử từ xa bay về phía prôtôn bời tác
dụng của hiệu ứng hút điện từ thì đồng thời nó cũng lan truyền theo hướng không
được tự nhiên ưu tiên lựa chọn. Sự vi phạm nguyên lý ưu tiên này của điện tử là
do bị hiệu ứng hút điện từ cưỡng bức. Tình hình đó làm xuất hiện một hiệu ứng
đẩy điện từ ra xa prôtôn. Càng bay đến gần prôtôn thì tác dụng của cả hai hiệu
ứng càng mạnh, đồng thời hướng truyền của điện tử càng chệch khỏi hướng ban
đầu. Do hai hiệu ứng đó có tác dụng tương phản nhau lên điện tử làm cho nó vừa
phải bay hướng về prôtôn vừa phải hướng ra xa hạt này, cho nên đến một lúc nào
đó tác dụng tổng hợp của chúng cân bằng nhau, làm cho điện tử vận động quay ổn
định ở một mức năng lượng xác định và không đổi quanh prôtôn. Đó là quá trình
làm hình thành nên một nguyên tử Hydrô.
Hình dung về
quá trình hình thành Hydrô như ở trên có lẽ chưa ổn vì có vẻ “nhẹ nhàng” quá,
không tốn bất cứ một “công sức” nào từ bên ngoài. Do đó, chúng ta sẽ điều chỉnh
hình dung đó bằng một suy lý rằng, khi Thượng Đế làm xuất hiện một điện tử
trong vùng không gian không có bất cứ thực thể KG nào khác ngoài prôtôn, hoặc
nếu có thì cũng không gây bất cứ tác động nào đến hai hạt ấy, thì đồng thời
điện tử cũng cùng một lúc chịu hai hiệu ứng coi như do chính chúng gây ra cho
nhau là hút và đẩy. Hai hiệu ứng hút, đẩy ấy sẽ làm hình thành nên một lực tổng
hợp tác động lên điện tử mà nếu phân tích ra thì sẽ gồm một lực có hướng xuyên
tâm prôtôn và một lực có phương vuông góc với phương của lực xuyên tâm, và
phương của hai lực ấy đều thuộc cùng một mặt phẳng (khi coi không gian hạ
nguyên tử là không gian Ơclit). Có thể cho rằng đứng trên quan điểm điện học
thì lực tổng hợp ấy chính là lực điện từ, trong đó, một thành phần lực của nó
gọi là lực từ (nhiều khả năng là lực hút xuyên tâm giữa hai hạt điện tử và prôtôn),
và thành phần lực còn lại gọi là lực điện. Hai lực đó lập tức tạo nên một thế
cân bằng động cho điện tử, làm cho điện tử bay trên một “quĩ đạo” xác định và
không đổi quanh prôtôn. Vì một nguyên tử Hydrô có đường kính cỡ 10-8cm nên khi hệ thống vận động tự thân nói trên có khoảng cách
giữa điện tử và prôtôn lớn hơn rất nhiều khoảng cách 10-8cm, thì hệ thống đó chưa phải là nội tại của một nguyên tử
Hydrô.
Vận động tự
thân của hệ thống điện tử - prôtôn, do không có tương tác nào với môi trường
chứa nó nên mang tính vĩnh cửu, nghĩa là hệ thống đó không thể chuyển biến
thành nguyên tử Hydrô được. Muốn cho hệ thống đó chuyển biến thành nguyên tử
Hydrô, không còn cách nào khác là phải có một “cú hích” hay nhiều “cú hích” từ bên
ngoài hệ thống tác động vào điện tử, làm cho nó tiến đến gần prôtôn hơn.
Trong Vũ Trụ vi
mô, chắc rằng không thể xảy ra một “cú hích” cứng như trái bia va đập vào nhau
được. Như vậy, nếu có một “cú hích” tác động đến điện tử thì chỉ có thể là hút,
đẩy mang bản chất của hiệu ứng điện từ hay thu, phát bức xạ điện từ.
Lực lượng (năng
lượng) toàn phần của một điện tử (có khối lượng me) luôn không đổi trong tình trạng điện tử quay tự thân quanh prôtôn.
Chúng ta có thể biểu diễn:
mec2=moec2+mev2 = không đổi
Thành phần thứ
nhất của vế phải biểu diễn tính xoáy nội tại hay nội năng của điện tử; thành
phần thứ hai biểu diễn năng lượng bộc lộ ra ngoài hay động năng của điện tử.
Biểu diễn trên
cho thấy mec2 không đổi và khi v không đổi thì hai
thành phần năng lượng ở vế phải cũng không đổi theo. Tuy nhiên, có thể cho
rằng, khi điện tử vận động tự thân quanh prôtôn, lượng mec2 không đổi là một kết
quả tiên quyết, còn hai lực lượng thành phần ở vế phải, trong những trường hợp
nhất định (do không gian vi mô phi Ơclit gây ra như khả năng lựa chọn phương
chiều của “đám mây” điện tử bị hạn chế, do vận động nội tại của prôtôn… gây
ra), có thể bị biến đổi bằng cách chuyển hóa qua lại nhau.
Nói chung, quan
niệm ngày nay vẫn cho rằng một thực thể bao gồm hai bộ phận là lượng vật chất
và năng lượng. hai bộ phận này tuy có mối quan hệ mật thiết với nhau nhưng cũng
được thấy như tồn tại tương đối tách biệt nhau. Đặc biệt, rất nhiều người còn
lầm lẫn là có thể cung cấp thêm hoặc lấy bớt đi năng lượng của một thực thể mà
trong nhiều trường hợp, không làm tăng thêm hay giảm đi lượng vật chất của nó.
Quan niệm đó là
một sai lầm sâu sắc của nhận thức và còn thể hiện rõ ràng trong các giáo trình
vật lý học đang lưu hành, nhất là trong phần giảng dạy về cơ học cổ điển. Theo
vật lý học thì lượng vật chất được đặc trưng bằng khối lượng, và năng lượng, dù
ở bất cứ dạng nào thì cũng được qui về hai dạng đặc trưng cơ bản là tích của
khối lượng với vận tốc bình phương (mv2) hay tích của hằng số
Plank với tần số bức xạ (h.o). Nếu đặc trưng năng lượng cơ bản thứ nhất được ứng dụng phổ
biến đối với các thực thể có tính hạt nổi trội thì đặc trưng thứ hai chỉ áp
dụng cho các thực thể có tính dây (sóng) nổi trội (dây giả hạt). Tuy nhiên, dù
cứ coi như hoàn toàn hình thức, thì vẫn có thể đưa dạng đặc trưng thứ hai về
dạng đặc trưng cơ bản thứ nhất. Vật lý học hiện nay vẫn cho rằng khi làm biển
đổi vận tốc của một vật có khối lượng m đang chuyển động thì
làm cho lượng năng lượng mà nó hàm chứa biến đổi (tăng hay giảm) theo một cách
tương ứng, còn khối lượng m của nó vẫn không đổi.
Chỉ trong những hiện tượng thu phát bức xạ có chỉ thị rõ ràng về sự đồng thời
thêm bớt khối lượng, vật lý học mới thừa nhận sự biến đổi (tăng, giảm) khối
lượng đi liền với sự biến đổi (tăng, giảm) của vật thu phát bức xạ.
Thực ra, như
chúng ta đã từng lập luận và đi đến được biểu diễn tổng quát:
mc2=moc2+mv2
(với: c là vận tốc di dời cực
đại trong Vũ Trụ (hằng số)
m là khối lượng được xác
định theo hệ qui chiếu của hệ “chứa” vật
mo là khối lượng được xác
định trong hệ chứa vật và đã qui đổi theo số đo của hệ qui chiếu
v là vận tốc của vật
được xác định theo hệ qui chiếu
mc2 là năng lượng toàn
phần của vật
mv2 là cơ năng (động năng
toàn phần) của vật chuyển động, được xác định theo hệ qui chiếu)
thì dù v có bị biến đổi như thế
nào chăng nữa mà không làm biến đổi m (nghĩa là thêm vào hay
bớt đi khối lượng), cũng chỉ làm cho nội năng của vật biến đổi “trái chiều” một
cách tương ứng sao cho năng lượng toàn phần của vật bất biến về mặt số lượng.
Cần phải thấy rằng sự chuyển hóa qua lại giữa moc2 và mv2 vừa mang tính tuyệt đối
vừa mang tính tương đối. Từ những hệ quan sát có trạng thái vận động khác nhau
sẽ thấy v biểu diễn khác nhau
nhưng lượng mc2 là một bất biến đối
với tất cả hệ quan sát ấy. Như vậy, vì c là một đại lượng bất
biến cho nên m cũng là một đại lượng
bất biến đối với một thực thể một khi nó thực sự vẫn là nó. Chúng ta cho rằng,
năng lượng toàn phần là đại lượng đặc trưng chung nhất, cơ bản nhất về mặt lực
lượng KG của mọi thực thể, mà trong đó, khối lượng vừa là bộ phận hợp thành,
vừa là đại lượng vật lý chỉ thị về mức độ qui mô của lực lượng ấy. Trong hiện
thực đời sống, khi chúng ta nói một vật có khối lượng m thì ai cũng hiểu đó là
lượng vật chất mà vật hàm chứa và dù vật đó có đứng yên hay chuyển động thì
lượng vật chất ấy cũng không thay đổi. Hiểu như vậy là do con người, trong tiến
trình nhận thức tự nhiên, đã rút ra kinh nghiệm từ hoạt động thực tiễn của mình
hoàn toàn toàn phù hợp với cảm nhận trực quan và cũng đáp ứng được nhu cầu của
cuộc sống đời thường. Tuy nhiên, một cách rốt ráo và thuần túy khoa học thì đó
là cách hiểu không những phiến diện mà hơn nữa, còn sai lầm hoàn toàn.
Khi nói một vật
“nặng” m kg thì đó chính là
khối lượng của nó. Nếu biểu diễn theo Niutơn thì:
Với:
gọi là lực Niu tơn
t là thời gian gia tốc
vật từ O đến v
v là vận tốc vật đạt
được sau khoảng thời gian t
a là gia tốc
Còn nếu biểu
diễn theo Lepnit thì:
Hai biểu diễn
ấy đều dựa trên quan niệm về lượng vật chất đã thành định kiến trong xã hội và
đều thông qua thực chứng nên đều có tính xác đáng. Vì hai biểu diễn ấy cùng
“nói về” sự duy nhất một khối lượng nên phải có:
Rõ ràng, như
chúng ta đã từng đề cập, hai biểu diễn ấy được thiết lập trong hai trường hợp
khác nhau: biểu diễn của Niutơn được rút ra trong trường hợp vật có khối lượng m ở ngoài trường lực,
còn biểu diễn của Lepnit được rút ra khi vật đó ở trong trường lực.
Có thể nói, hai
biểu diễn trên chỉ mới nêu ra lượng vật chất mà trực quan cảm nhận được trong Vũ
Trụ vĩ mô. Lượng vật chất ấy chỉ như phần nổi của một khối băng chìm trong biển
cả.
Nhờ có hai biểu
diễn của Niutơn và Lepnit mà vật lý học đã xuất hiện hai khái niệm quan trọng
là động lượng, động năng và tiếp đó là khái niệm năng lượng - một khái niệm cực
kỳ quan trọng, mang tính then chốt của nghiên cứu vật lý, và nếu không có khái
niệm này thì coi như không tồn tại vật lý học ngày nay.
Như vậy, một
cách thấu đáo, khi nói một vật có khối lượng m thì tùy vào tình hình
mà chọn một trong hai cách hiểu. Nếu trong thực tiễn đời sống thì khối lượng
phải được hiểu là lượng vật chất xác định và có thể ứng dụng các công thức của
cơ học cổ điển để giải quyết những vấn đề kỹ thuật có liên quan đến nó. Còn nếu
trong nghiên cứu vật lý thuần túy nhằm mục đích nhận thức đến tường tận Vũ Trụ
thì khối lượng phải được hiểu là một đại lượng có tính chỉ số thể hiện mức độ
về qui mô của lượng vật chất, đồng thời là một yếu tố cùng với yếu tố vận tốc
hợp thành lượng vật chất, và khái niệm lượng vật chất ở đây là đồng nghĩa với
khái niệm năng lượng. Nhưng bao hàm hơn khái niệm lượng vật chất hay khái niệm
năng lượng chính là khái niệm “lực lượng KG”.
Lực lượng KG
thể hiện ra trước quan sát dưới nhiều dạng tương đối khác nhau như động năng,
nhiệt năng, điện năng… Nhưng chung qui lại đều có thể đưa biểu diễn những dạng
năng lượng khác nhau ấy về cách biển diễn khối lượng nhân với bình phương vận
tốc của cơ học.
Một thực thể,
không phụ thuộc vào cấu trúc, hình dạng của nó, dù mang điện hay không mang
điện, dù đang đứng yên hay chuyển động, một khi đã xác định được khối lượng của
nó là m thì chúng ta biết chắc
rằng nó là một lực lượng KG có qui mô mc2, hay nó có một năng lượng toàn phần là mc2. Tùy vào mối tương quan về vận động giữa hệ quan sát và thực
thể mà chúng ta có biểu thức toán học về năng lượng toàn phần như đã nêu ra ở
phía trên. Biểu thức toàn học đó chỉ ra rằng nếu thực thể được hệ quan sát xác
định là có một động năng mv2, khi va chạm với một thực thể khác mà lượng động năng đó bị
triệt tiêu (v=0) trong khi khối lượng m vẫn nguyên vẹn, thì
không có nghĩa rằng nó đã bị tiêu hao năng lượng, bởi vì lượng năng lượng dưới
dạng động năng vẫn được bảo toàn, chỉ có điều là đã chuyển hóa hết sang dạng
nội năng (không thấy được) và nội năng lúc này của thực thể cũng chính bằng
năng lượng toàn phần của nó. Trong trường hợp cực đoan nhất, khi mà v=c thì vì động năng cũng
là năng lượng toàn phần của thực thể nên nội năng của nó bằng 0, hay có thể nói
thực thể không còn nội tại nữa, cũng có nghĩa là nó thực sự không tồn tại nữa,
mà thay vào đó, chẳng hạn là một vùng hạt
rời rạc lan tỏa trong
không gian.
Còn một biểu
diễn về năng lượng toàn phần của một thực thể mà có lần chúng ta đã thiết lập
được và ở đây chúng ta nhắc lại. Nếu gọi khối lượng của hạt
là
, thể tích của nó là
, chu kỳ vận động nội tại của nó là t, thì năng lượng toàn phần của thực thể có khối lượng m được biểu diễn triển
khai như sau:
Với n: là số tự nhiên
Từ đó cũng rút
ra được:
Với d: là đường kính của hạt 
(Thật là dị
thường trước một bộ não uyên bác nhưng lại là tuyệt đẹp trước một bộ não đã bị
hoang tưởng cao độ!)
Kết luận lại,
khối lượng chỉ là đại diện cho lực lượng KG thôi chứ không thể là chính lực
lượng KG được. Lực lượng KG có hai đặc tính cốt lõi và cũng là hai biểu hiện cơ
bản, đó là tính thể tích và tính vận động. Bản chất của khối lượng không phải
là thể tích, cũng không phải là vận động mà chỉ là một yếu tố có tính khoảng
cách (độ dài). Vì vậy mà khối lượng không thể đại diện cho thể tích hay vận
động được. Không thể có một tồn tại không vận động cho nên khối lượng chỉ được
coi như một tồn tại ảo góp phần hợp thành tồn tại, nghĩa là như một đại lượng
qui ước bởi chủ quan nhận thức và là đại lượng không thể thiếu được trong các
thành phần tác hợp nên lực lượng KG. Cũng chính vì thế mà không thể xảy ra được
sự chuyển hóa qua lại giữa năng lượng và khối lượng như không ít người lầm
tưởng. Mặt khác, nếu không có KG thì thậm chí cũng chẳng có thực thể biết tư
duy để nhận thức được khối lượng, và giả sử rằng vẫn có tư duy để nhận thức
được khối lượng, thì vì khối lượng ấy là bộ phận hợp thành KG, hơn nữa, là tiền
đề làm nên KG, không có nó thì không thể hình thành được lực lượng KG, cho nên
có vẻ như nó lại là một tồn tại thực sự.
Sự mâu thuẫn
tưởng chừng như không thể giải quyết được ấy hóa ra cũng chẳng có gì mà ầm ĩ.
Khi chúng ta quan niệm Tồn Tại là vốn dĩ thế, sẵn như thế rồi (nghĩa là không
có quá trình làm hình thành nên Tồn Tại!), và sự Tồn Tại ấy không là cái gì
khác ngoài Không Gian vận động. Như vậy, sự tồn tại của hạt KG thông thường
cũng như hạt KG kích thích cũng là vốn dĩ thế. Vì lẽ đó mà không thể phân tích
hạt KG - đơn vị nhỏ nhất tuyệt đối hợp thành Thực Tại, ra thành những bộ phận
nhỏ hơn nữa mà không phải là Không Gian như khối lượng, độ dài… Tuy nhiên, quá
trình đi nhận thức Tự Nhiên Tồn Tại trước sau gì cũng hướng con
người đến nhận thức Không Gian và để nhận thức đích đáng Không Gian thì phải
thấy được bản chất thực sự của hạt KG. Muốn thế, con người chỉ còn cách duy
nhất là dựa trên những thành quả nhận thức đã đứng vững trước mọi thử thách của
quá khứ, từ đó mà tiếp tục suy lý mạnh mẽ hơn nữa để trong sự hình dung “điên
cuồng” và bằng “lưỡi dao” tư duy, “giải phẫu” bằng được hạt KG, “phanh phui”
nội tại của nó mà phân tích ra những chi tiết, những yếu tố cấu thành nên nó.
Đó phải chăng là nguyên nhân sâu xa làm cho khối lượng, vốn dĩ là tồn tại ảo,
lại như một tồn tại thực. Mặt khác, tính hai mặt của khối lượng, không những
không hề gây ngạc nhiên mà còn là một minh chứng tốt cho sự tồn tại của nguyên
lý nước đôi…
Thôi, chúng ta
quay lại vấn đề chính: hành vi của hạt điện tử trong nguyên tử Hydrô theo hình
dung của chúng ta.
Giả sử hạt điện
tử đang vận động ổn định quanh prôtôn ở một trạng thái năng lượng (mức năng
lượng) không đổi gọi là “dừng” nào đó. Lúc này, coi như Hydrô ở tình trạng cô
lập tương đối đối với môi trường chứa nó, nghĩa là không có hoặc có thì cũng
hoàn toàn không đáng kể sự trao đổi bức xạ KG giữa nó với bên ngoài, nhưng do
xung quanh nó không thể không tồn tại những thực thể KG khác (những trung tâm
tích tụ năng lượng) làm “méo” môi trường không gian, gây ra những hiệu ứng
tương tác ảnh hưởng tới nó, làm cho nó không thể định xứ “dứt khoát” được mà
phải di dời theo một con đường có thể là “thất thường” nào đó hoặc chí ít thì
cũng phải dao động quanh một điểm nào đó. Vì thế, dù điện tử vẫn vận động trong
trạng thái dừng thì trạng thái dừng ấy cũng ít nhiều đã bị “biến tướng” so với
trạng thái dừng chuẩn (là trạng thái dừng khi nguyên tử Hydrô định xứ tuyệt đối
trong Vũ Trụ). Trạng thái dừng dù đã bị biến tướng, thăng trầm có thể là thường
xuyên liên tục trong một khoảng hạn định nào đó thì sự vận động của điện tử
trong trạng thái ấy vẫn ổn định, nghĩa là vẫn ở mức năng lượng không đổi. Để
đảm bảo được như thế trong khi (hầu như) không có thu hút bức xạ, (nghĩa là
năng lượng toàn phần của điện tử trong trạng thái ấy luôn không đổi), nó phải
đáp ứng bằng cách chuyển hóa qua lại nhau giữa hai thành phần năng lượng là nội
năng và ngoại năng (động năng) một cách tương xứng.
Trong trạng
thái dừng bị biến tướng, động năng toàn phần của điện tử bị dao động quanh một
giá trị xác định. Vì khối lượng của điện tử là không đổi cho nên vận tốc tổng
hợp (vth) của động năng toàn phần phải biến đổi để tạo nên sự dao
động đó. Vậy thì trong trạng thái dừng chuẩn, sự dao động của động năng toàn
phần không xuất hiện và do đó, vận tốc tổng hợp của điện tử cũng không đổi.
Khi điện tử vận
động trong trạng thái dừng chuẩn thì theo Bo, năng lượng của nguyên tử Hydrô
bao gồm động năng của điện tử và thế năng tương tác Culông của hệ điện tử -
prôtôn:
Với v là vận tốc chu vi của
điện tử
qe là điện tích nguyên tố
mà điện tử mang
r là bán kính quĩ đạo
của điện tử
Vì lực hướng
tâm của điện tử cũng chính là lực tính
điện giữa điện tử và prôtôn nên phải có:
Suy ra:
Từ đó:
Kết quả thí
nghiệm cho thấy điện tử có thể vận động quanh prôtôn trong nhiều trạng thái
dừng chứ không phải chỉ có một trạng thái dừng duy nhất. Tuy nhiên, có nhiều
trạng thái dừng không có nghĩa là có thể chọn giá trị r một cách tùy tiện, hay
nói cách khác, r là một giá trị hoàn
toàn xác định trong một dãy các giá trị cũng hoàn toàn xác định. Quang phổ vạch
của nguyên tử Hydrô đã chỉ ra như thế. Để “hợp lý hóa” biểu thức về mức năng
lượng ở trên, Bo đã đưa ra định đề thứ nhất với biểu diễn toán học của nó là:
Với vế trái của biểu diễn là mômen động
lượng của điện tử,
h là hằng số Plank
n là số tự nhiên trong
dãy 1, 2, 3, …
Từ
có thể viết:
Chú ý đến định
đề thứ nhất thì:
Với rn là bán kính quĩ đạo
của điện tử ứng với số trị cụ thể nào đó của n.
Như vậy
còn có dạng:
Với En là mức năng lượng của
trạng thái dừng có số thứ tự là n (đếm từ trạng thái cơ
bản, gần prôtôn nhất ra phía ngoài).
Nói thêm, Bo
còn nêu lên định đề thứ hai: nguyên tử chỉ hấp thụ hay phát xạ bức xạ điện từ
khi nó chuyển từ trạng thái dừng này sang trạng thái dừng khác. Tần số
của bức xạ điện từ mà
nguyên tử hấp thụ hay phát xạ, được xác định bởi biểu thức:
Nếu: Ei > Ek thì nguyên tử phát xạ
Ei < Ek thì nguyên tử hấp thụ
Biểu thức về
mức năng lượng mà Bo thiết lập đã giải thích được qui luật của các dãy quang
phổ hydrô và dựa vào nó có thể tính ra các tần số (hay bước sóng) của các vạch
quang phổ phù hợp chính xác với kết quả rút ra từ thí nghiệm. Dù không có tính
tổng quát (chỉ áp dụng đúng cho trường hợp nguyên tử Hydrô) nhưng vẫn phải coi
nó là biểu thức đúng, là trường hợp riêng của một biểu diễn tổng quát hơn.
Theo dòng lịch
sử, dù thuyết Bo sớm bộc lộ ra những khiếm khuyết trầm trọng không sao khắc
phục thì nó vẫn là bước tiến nổi bật trong nhận thức vật lý về Vũ Trụ vi mô.
Thuyết ấy được nhiều người đánh giá là tiền đề cho sự ra đời của thuyết “cơ học
lượng tử” - một thuyết tổng quát, giải quyết được rốt ráo những vấn đề về cấu
trúc nguyên tử và hạt nhân mà thực nghiệm nêu ra.
Biểu thức mức
năng lượng của Bo cho thấy mức năng lượng của điện tử trong nguyên tử luôn mang
giá trị âm. Theo các nhà vật lý, điều đó có nghĩa là muốn đưa điện tử từ trạng
thái dừng “gần” hạt nhân hơn (có mức năng lượng thấp hơn) sang trạng thái dừng
“xa” hạt nhân hơn (có mức năng lượng cao hơn), phải “nạp thêm” năng lượng từ
môi trường bên ngoài vào cho nó. Khi n=1 thì điện tử tồn tại ở
trạng thái mức năng lượng thấp nhất gọi là trạng thái cơ bản, và cũng được coi
như “ở gần” hạt nhân nhất. Dựa vào biểu thức của Bo, người ta tính ra được:
E1=-21,76.10-12 erg
(1 erg = 1
)
r1=0,529.10-8 cm
Các kết quả đó
được cho là phù hợp với thực nghiệm
Như vậy, khi n=2 thì mức năng lượng
trạng thái của điện tử trong nguyên tử Hydrô là:
E2=-5,44.10-12 erg,
và khoảng cách
của điện tử đến prôtôn (đóng vai trò hạt nhân của nguyên tử Hydrô) là:
r2=2,116.10-8 cm
Từ đó có thể
thấy, muốn kích thích điện tử trong nguyên tử Hydrô từ trạng thái cơ bản lên
trạng thái n=2, phải cho nó nhận một lượng bức xạ điện từ từ môi trường bên
ngoài là:
E2-E1=[-5,44-(-21,76)].10-12=+16,32.10-12 erg
(Còn muốn giải
phóng điện tử khỏi nguyên tử Hydrô (hay còn gọi là ion hóa Hydrô), rõ ràng,
phải “nạp” cho nó một lượng bức xạ ít nhất cũng phải bằng 21,76.10-12 erg)
Đến đây, với
cách giải quyết vấn đề mức năng lượng cũng như hành vi của điển tử trong nguyên
tử Hydrô như thế, quan niệm cơ bản về vật chất và vận động vật chất giữa Bo và
chúng ta đã bộc lộ ra những bất đồng sâu sắc.
Tuân theo qui
ước về số âm và số dương của toán học mà Bo cho rằng mức năng lượng E phải luôn mang giá trị
âm và khi n=1 thì đó là mức năng
lượng thấp nhất (vì mang giá trị âm nhỏ nhất!). Hơn nữa, biểu thức về mức năng
lượng điện tử trong nguyên tử Hydrô của Bo còn mặc nhiên thừa nhận rằng, dù
điện tử thay đổi mức năng lượng, nghĩa là thu hoặc phát bức xạ, cũng có nghĩa
là nhận vào hay cho đi một lượng vật chất nào đó, dẫn đến chuyển đổi trạng thái
dừng, thì khối lượng của nó vẫn không đổi. Nhưng làm sao có thể như thế được?
Như chúng ta đã trình bày thì khối lượng là một trong hai thành phần tích hợp
nên năng lượng. Nói cách khác là năng lượng không thể thoát ly khỏi khối lượng.
Khi điện tử thu hay phát bức xạ, nghĩa là nạp thêm hay bớt đi năng lượng, thì
đồng thời khối lượng của nó phải tăng lên hay giảm đi theo. Vậy thì phải hiểu
như thế nào về biểu thức của Bo khi nó phạm phải sai lầm to lớn vừa nêu (chúng
ta cho là như vậy!) mà vẫn giải đáp được nhiều hiện tượng về quang phổ Hydrô và
đưa ra được kết quả tính toán phù hợp với số liệu thực nghiệm?
Dù có trả lời
được suôn sẻ câu hỏi đó thì vẫn còn có mọt mắc mứu chết người nữa đòi hỏi phải
được giải quyết, nếu không, giả thuyết về sự nhỏ nhất tuyệt đối của hạt
sẽ bị sụp đổ. Đó là
khi điện tử trong nguyên tử Hydrô nhận được một lượng bức xạ 16,32.10-12 erg từ môi trường thì
nó chuyển đổi từ trạng thái n=1 sang trạng thái n=2. Cần quan niệm như thế nào về lực lượng KG của bức xạ đó khi
so với lực lượng KG của một hạt
được cho là nhỏ nhất
tuyệt đối trong Vũ Trụ (bằng 0,9216.10-8 erg), nó “ít hơn” đến
khoảng 565 lần? Phải chăng hạt
chưa phải là thực thể
nhỏ nhất tuyệt đối mà chỉ là hạt đơn vị nguyên tố hợp thành nên điện tử cũng
như các nuclêon? Muốn bảo lưu giả thuyết của mình thì không còn con đường nào
khác, chúng phải “gàn bướng” đến cùng biện giải cật lực đến kỳ được mới thôi!
Và… chúng ta đã có một hình dung không đến nỗi tệ hại lắm!
Trước hết, vì Không
Gian là tồn tại vốn dĩ và duy nhất, nên sự vận động và chuyển hóa của nó cũng
chỉ theo một cách duy nhất, hay có thể nói khác đi là tuân theo một nguyên lý
duy nhất, tối hậu. Mặt khác, do Không Gian tồn tại là duy nhất mà không thể có Hư
Vô (hư vô tuyệt đối), và để thể hiện được điều đó đến “chân tơ kẽ tóc”, Không
Gian phải vận động và chuyển hóa tự thân đến tận cùng khả năng, dẫn đến sự xuất
hiện ra trước quan sát vô vàn và phong phú vạn vật - hiện tượng sống động đến
bất tuyệt, vận động và biến hóa tuân theo đa dạng nguyên lý có tính đặc thù. Tuy
nhiên, truy cho đến cùng thì tất cả những nguyên lý có tính đặc thù ấy, dù
nhiều khi thấy khác nhau đến một trời một vực, vẫn có gốc xuất phát đầu tiên từ
nguyên lý duy nhất, tối hậu mà chúng ta từng tạm gọi là “nguyên lý Tự Nhiên”.
Chính vì điều đó chứ không phải là bất cứ điều gì khác mà bao trùm khắp Vũ Trụ
một thể hiện gọi là sự hao hao giống nhau giữa thực thể này với thực thể khác,
giữa vận động này với vận động khác, giữa hiện tượng này với hiện tượng khác.
Nói cách khác, tương tự là một đặc tính của tự nhiên, hay tương tự là một trong
những nguyên lý cơ bản của tồn tại.
Chúng ta cho
rằng, vì phải thỏa mãn nguyên lý tương tự mà giữa Vũ Trụ vi mô phi Ơclit và Vũ
Trụ vĩ mô Ơclit, dù “thấy” rất khác nhau về mặt cấu trúc thì chúng vẫn có những
nét tương tự nhau, và nếu thao tác chuyển đổi, dịch chỉnh một cách hợp lý thì
chúng “trông” rất giống nhau, thậm chí, chính là nhau. Nghĩa là trong một chừng
mực nhất định, nhiều khi có thể dùng mô hình toán học của một hiện tượng đã
được hiểu thấu đáo thuộc Vũ Trụ vĩ mô, với những qui ước, điều chỉnh thích hợp
để lý giải một hiện tượng có tính tương tự thuộc Vũ Trụ vi mô. Đó chính là cách
mà các nhà vật lý đi tiên phong trên lĩnh vực nghiên cứu lý thuyết về nguyên tử
hạt nhân, trong đó có Bo, và họ cũng đã gặt hái được những thành quả đáng kể.
Một cách tuyệt
đối, nguyên tử Hydrô không thể tự thân vận động nộii tại được. Vận động đó dù có
mục đích nhằm thỏa mãn yêu cầu về chuyển hóa KG, nhằm duy trì sự tồn tại của
bản thân nguyên tử Hydrô, thì cũng phải trên cơ sở tương tác giữa Hydrô với môi
trường không gian chứa nó, cũng là kết quả của sự tương tác ấy.
Chúng ta đã đưa
ra thuật ngữ “trạng thái dừng chuẩn” để chỉ trạng thái vận động của điện tử khi
nguyên tử tuyệt đối định xứ trong môi trường không gian. Đó là trường hợp mang
tính lý tưởng, khi nguyên tử được cho là hoàn toàn bị cô lập với môi trường
chứa nó. Nhưng trong thực tại, không thể loại trừ được sự tương tác thường
xuyên giữa một thực thể với môi trường chứa nó vì đó chính là điều kiện cho tồn
tại của thực thể đó. Đối với nguyên tử Hydrô cũng vậy. Chịu ảnh hưởng của tương
tác này mà trạng thái dừng chuẩn bị biến dạng đi. Để chỉ trạng thái đã bị biến
dạng này, chúng ta cũng đã đưa ra thuật ngữ “trạng thái dừng biến tướng”. Nói
chung, khi tương tác giữa nguyên tử Hydrô với môi trường chứa nó là hài hòa,
đều đặn và có tính ổn định thì vận động nội tại của Hydrô mang tính điều hòa,
theo chu kỳ. Xét ở góc độ này thì vận động ấy được thấy như một sự xoáy KG, xét
ở góc độ kia thì như một hệ thống hành tinh nhỏ nhất và đơn giản nhất ở tầng
nấc qui mô nguyên tử.
Trong một chừng
mực nhất định, có thể coi hệ thống một điện tử - một prôtôn vận động tương tự
như hệ thống một hành tinh quay quanh một ngôi sao trong Vũ Trụ vĩ mô. Đối với
một hệ quan sát đặt tại trọng tâm hệ thống, nếu thấy quĩ đạo hành tinh là tròn
thì hành tinh đang vận động trong trạng thái dừng chuẩn, còn nếu thấy quĩ đạo
đó là elip thì hành tinh đang vận động trong trạng thái dừng biến tướng.
Tin vào sự
tương tự mà chúng ta đã đi đến nhận định: trong trạng thái dừng chuẩn vận tốc
tổng hợp của điện tử là một hằng số, không phụ thuộc vị trí. Trong một trạng
thái dừng, vì khối lượng của điện tử cũng không đổi, nên động năng toàn phần
của nó cũng là một đại lượng bất biến. Có thể biểu diễn:
Edc=mevc2= không đổi
Với: Edc là động năng toàn phần
của điện tử trong trạng thái dừng chuẩn
me là khối lượng của điện
tử
vc là vận tốc tổng hợp
của điện tử trong trạng thái dừng chuẩn.
Trong trạng
thái dừng biến tướng, vận tốc tổng hợp của điện tử ở những vị trí khác nhau là
khác nhau, Tương tự như quĩ đạo chuyển động elip của hành tinh quanh sao trong Vũ
Trụ vĩ mô, chúng ta cho rằng trong trạng thái dừng biến tướng, điện tử cũng có
một “vị trí” gần prôtôn nhất gọi là “cận nhân” và một vị trí xa prôtôn nhất gọi
là “viễn nhân”. Tại vị trí “cận nhân”, vận tốc tổng hợp của điện tử đạt giá trị
cực đại (vmax) và tại vị trí “viễn nhân”, vận tốc lan truyền quanh prôtôn
của điện từ trong trạng thái dừng biến tướng luôn biến đổi qua từng vị trí, từ
giá trị cực tiểu đến giá trị cực đại rồi từ giá trị cực đại về giá trị cực
tiểu. Quá trình biến đổi ấy là có tính tuần hoàn, theo chu kỳ: vận tốc thay đổi
tuần hoàn theo vị trí thì động năng toàn phần của điện tử cũng thay đổi theo vị
trí một cách chu kỳ dù khối lượng của nó không đổi. Trong Vũ Trụ thuộc tầng nấc
vi mô, tính gián đoạn của cấu trúc không gian trở nên nổi trội, dẫn đến tính
gián đoạn của chuyển hóa KG cũng trở nên rõ rệt. Nghĩa là quá trình chuyển biến
đông năng toàn phần của điện tử là quá trình liên tục tăng hoặc giảm từ một giá
trị xác định này sang một giá trị xác định khác một cách đột biến. Vì năng
lượng toàn phần của điện tử trong một trạng thái dừng là không đổi nên quá
trình tăng - giảm động năng toàn phần lặp đi lặp lại của nó phải được thấy
tương tự như một giao động điều hòa, và ở một góc độ nhât định, sự giao động về
lượng ấy nhận giá trị động năng toàn phần trung bình làm trung tâm chuyển hóa.
Trong Vũ Trụ vĩ
mô, luôn có thể qui đổi một quỹ đạo elip về quỹ đạo tròn và nhận quỹ đạo này
làm đại diện đặc trưng cho nó. Tương tự, mỗi trạng thái dừng biến tướng của
điện tử trong nguyên tử Hydrô cũng đều có thể được qui đổi về một trạng thái
dừng chuẩn và nhận trạng thái lý tưởng này làm đại diện đặc trưng. Chúng ta cho
rằng, giá trị động năng toàn phần trung bình của một trạng thái dừng biến tướng
đúng bằng giá trị động năng toàn phần của trạng thái dừng chuẩn đại diện cho
nó. Vì vậy, có thể viết biểu diễn:
Với Ed là giá trị động năng
toàn phầ trung bình của trạng thái dừng biến tướng.
Có lẽ, môi
trường không gian ở tầng nấc mà nguyên tử “trú ngụ” rất sôi động, luôn tồn tại
những hiệu ứng hút - đẩy và những hiện ứng này thường xuyên biến đổi cả về
cường độ lẫn phương chiều. Đi đôi với sự tồn tại đó là hằng hà sa số các bức xạ
điện từ lan truyền đan xen, chồng chéo nhau, tương tác nhau một cách ngẫu nhiên
và có vẻ hỗn loạn. Tuy nhiên, dù sự sôi động của môi trường không gian có tính
thường xuyên biến đổi và thăng giáng rõ rệt, thì khi sự biến đổi và thăng giáng
ấy được duy trì một cách ổn định, đều đặn, tương đối lâu dài ở mức độ tương đối
thấp nào đó, môi trường không gian ấy vẫn được cho là ở trạng thái bình thường,
có tính yên ả, dịu, ôn hòa. Trong điều kiện môi trường không gian bình ổn như
vậy, vận động nội tại của nguyên tử Hydrô cũng bình ổn, nghĩa là điện tử của nó
vận động trong một trạng thái dừng nhất định nào đó có mức năng lượng tương đối
thấp mà thôi (chứ không nhất thiết phải ở trạng thái cơ bản). Vì tương tác với
môi trường là điều kiện tồn tại của một thực thể, cho nên, dù nguyên tử Hydrô
đang ở trong tình trạng vận động bình ổn thì nó vẫn thu phát bức xạ. Chỉ có
điều sự thu phát ấy ở mức thấp, chưa đủ lượng làm thay đổi trạng thái dừng của
điện tử. Chúng ta cho rằng, bức xạ vào Hydrô thei hai cách. Cách thứ nhất là tự
do, “ngẫu nhiên” vào và ra khỏi Hydrô và hầu như không ảnh hưởng đến vận động
nội tại của Hydrô. Cách thứ hai là do Hydrô chủ động thu vào. Như vậy, khi nói
nguyên tử Hydrô thu - phát bức xạ thì sự thu - phát ấy là có tính chủ động, do
vận động nội tại của nó đòi hỏi. Nhưng hợp thành nội tại Hydrô chỉ gồm một điện
tử và một prôtôn. Do đó, thử hỏi, trong hai phần tử ấy, phần tử nào đóng vai
trò trung tâm thu phát bức xạ cho nguyên tử Hydrô? Chúng ta chọn prôtôn. Tương
tự như ngôi sao trong Vũ Trụ vĩ mô, prôtôn cũng xoáy quanh, nhưng còn xoáy
nhanh hơn ngôi sao rất nhiều lần, rất đáng kẻ so với vận tốc c. Sự xoáy ấy làm
cho prôtôn phải phát xạ ở vùng phát của nó một cách thường xuyên và theo định
kỳ. Một phần nhỏ lượng bức xạ khi prôtôn phát xạ phát tác ra môi trường không
gian chứa nguyên tử Hydrô ưu tiên theo những hướng không hiện diện đám mây điện
tử. Còn lại phần lớn lượng phát xạ hợp thành một đám mây (dây giả hạt) mêzôn
bay rất nhanh, trông như một vành đai quanh prôtôn và sau một khoảng thời gian
rất ngắn ngủi thì bị phễu thu của prôtôn hấp thụ trở lại (xem minh họa hình
thức ở hình 7/a). Bên cạnh đó hiệu ứng hút ở hai vùng phễu thu cũng làm cho prôtôn
hấp thụ bức xạ từ một trường không gian và lượng hấp thụ đó tăng lên mỗi khi prôtôn
phát xạ.
Mức độ “tĩnh
lặng” của môi trường không gian bên ngoài qui định định mức độ tương tác giữa
nó với Hydrô, qua đó mà qui định luôn mức độ thu - phát bức xạ của prôtôn. Mức độ thu phát bức xạ prôtôn, đến
lượt nó, qui định điện tử phải vận động ở trạng thái dừng có mức năng lượng xác
định nào đó.
Trong thực tại,
số lượng các trạng thái dừng của điện tử của nguyên tử Hydrô (và nói chung là
của nguyên tử bất kỳ) không thể là vô hạn được. Như vậy, phải có trạng thái
dừng có mức năng lượng cực đại và trạng thái dừng có mức năng lượng cực tiểu.
Vì khối lượng me được cho là không đổi
dù điện tử ở bất cứ trạng thái dừng nào (nghĩa là điện tử trong nguyên tử Hydrô
(hầu như) không thu phát bức xạ, cho nên ở trạng thái dừng có mức năng lượng
(cũng chính là động năng toàn phần trung bình của điện tử) cực đại
, điện tử phải có vận tốc tổng hợp trung bình cực đại
.
Có thể biểu
diễn mức năng lượng của điện tử trong trạng thái dừng thứ n là:
(Bo cho rằng
thế năng tương tác culông phải là một đại lượng âm nên ông đã sử dụng dấu trừ ở
vế phải của biểu thức. Nhưng thực ra đó chỉ là qui ước. Trong thực tại, tổng
động năng toàn phần phải lớn hơn từng thành phần của nó nê chúng ta dùng dấu
cộng).
Với: vtn là vận tốc chu vi của
điện tử trong trạng thái dừng thứ n
rn là khoảng cách giữa
tâm điện tử và tâm prôtôn.
Trong một trạng
thái dừng, điện tử vận động ổn định và cân bằng (cân bằng động), nghĩa là ở một
góc độ nhất định, phải thấy các tác động lên điện tử đều bị triệt tiêu, hay có
thể viết:
Từ đó rút ra
được:
Xét riêng về
mặt điện, hạt
của điện tử (đóng vai
trò là điện tích nguyên tố âm) và hạt
của prôtôn (đóng vai
trò là điện tích nguyên tố dương) hút nhau, và nếu không tiến đến nhau được thì
ở trạng thái tự do, không bị “ràng buộc” bởi điện tử hay prôtôn, chúng phải
quay quanh một tâm chung với vận tốc đúng bằng c để ra một lực cần bằng
với lực hút điện lên chúng. Lực đó bằng:
Với: 
Vì hạt
bị ràng buộc bởi điện
tử và điện tử quay quanh. Prôtôn (chính xác là quanh trọng tâm của hệ điện
tử - prôtôn), do đó phải tồn tại:
Từ đó rút ra
biểu diễn:
Thay vế phải
của biểu diễn này cho rn ở biểu diễn
thì được:
Vậy:
Nếu viết biểu
diễn ấy trong trường hợp trạng thái dừng có mức năng lượng cực đại thì:
Như vậy trạng
thái dừng có Ecmax chính là trạng thái cơ
bản của điện tử, và điện tử lúc này được coi là ở gần Prôtôn nhất.
Giả sử điện tử
trong nguyên tử Hydrô đang vận động ổn định ở trạng thái cơ bản thì mức độ hoạt
động của môi trường không gian chứa nguyên tử Hydrô tăng lên mạnh mẽ, dẫn đến
sự thu phát bức xạ của prôtôn cũng tăng lên đột biến. Khi prôtôn hấp thụ một
lượng bức xạ tăng đột biến thì khối lượng của nó cũng tăng đáng kể (mật độ năng
lượng trong nội tại prôtôn tăng cao). Theo nguyên lý ưu tiên lựa chọn hướng lan
truyền thì tình hình đó làm cho hiệu ứng đẩy điện tử ra xa prôtôn mạnh lên
trong khi lực hút điện không đổi. Đến một mức độ nào đó thì hiệu ứng đẩy, tùy
thuộc vào lực lượng bức xạ đột biến được prôtôn hấp thụ mà điện tử bị bứt khỏi
trạng thái cơ bản (hay trạng thái dừng nào đó có mức năng lượng tương đối cao)
sang trạng thái dừng có mức năng lượng thấp hơn, cách xa prôtôn hơn, thậm chí
thoát khỏi sự tương tác với prôtôn, gây ra hiệu ứng ion hóa Hydrô. Có thể chu
kỳ thu – phát bức xạ đột biến của prôtôn là khoảng chừng 10-8 s. Nghĩa là sau khi hấp thụ lượng bức xạ tăng đột biến 10-8 s, prôtôn sẽ phát xạ một lượng bức xạ xấp xỉ như thế trở lại
môi trường không gian làm cho khối lượng của nó lại giảm xuống và như vậy, hiệu
ứng đẩy điện tử ra xa prôtôn giảm theo trong khi lực hút điện tử hướng về prôtôn
không đổi. Để duy trì cân bằng vận động, điện tử từ trạng thái dừng có mức năng
lượng thấp, ở xa prôtôn, phải chuyển về trạng thái dừng có mức năng lượng cao
hơn, ở gần prôtôn hơn.
Với hình dung
như trên thì trong suốt quá trình vận động trong nguyên tử Hydrô, dù ổn định
hay không ổn định, điện tử đều không thu phát bức xạ (khối lượng me của nó không đổi). Chỉ
có prôtôn thu - phát bức xạ và chính sự phát bức xạ mạnh mẽ của nó khi môi
trường không gian thăng giáng đột biến kết hợp với hằng hà sa số bức xạ của các
prôtôn khác, đóng vai trò hạt nhân nguyên tử trong môi trường không gian hạn
định nào đó mới làm xuất hiện quang phổ đặc thù gán cho nguyên tử Hydrô.
Khi điện tử
chuyển sang trạng thái dừng có mức năng lượng thấp nhất là Ecmin thì đó là trạng thái
dừng cuối cùng của nó. Vượt qua trạng thái dừng này theo chiều giảm mức năng
lượng hơn nữa, điện tử coi như được giải phóng khỏi nguyên tử Hydrô và nguyên
tử Hydrô lúc đó bị ion hóa. Nếu gọi trạng thái cơ bản là trạng thái dừng thứ
nhất của điện tử trong nội tại nguyên tử Hydrô thì trạng thái dừng có Ecmin là trạng thái dừng thứ
N. Nghĩa là trong nguyên tử Hydrô có N trạng
thái dừng.
Như vậy, muốn
giải phóng một điện tử đang ở trạng thái cơ bản ra khỏi nguyên tử Hydrô thì ít
ra cũng phải cần đến một “động năng” trái chiều (-Ecmax) để triệt tiêu mức năng lượng cực đại (+Ecmax) của nó. Động năng trái chiều đó có thể là do hiệu ứng hút
mạnh xuất hiện trong môi trường không gian chứa nguyên tử Hydrô, hoặc là do
hiệu ứng đẩy xuất hiện khi prôtôn hấp thụ bức xạ một cách đột biến gây ra.
Khi điện tử từ
trạng thái cơ bản vượt qua hàng loạt trạng thái dừng trung gian đến trạng thái
dừng N thì vì khối lượng me không đổi và cũng vì
đại lượng vc2 tăng hay giảm có tính
gián đoạn mà vcmax2 (bình phương vận tốc
tổng hợp chuẩn của trạng thái cơ bản) giảm xuống vcmin2 (bình phương vận tốc
tổng hợp chuẩn của trạng thái N) tuân theo biểu diễn:
Và về mặt mức
năng lượng, có biểu diễn:
Một cách tổng
quát nếu điện tử từ trạng thái cơ bản chuyển sang trạng thái dừng thứ n nào đó
thì mức năng lượng của trạng thái đó là:
Suy ra từ biểu
diễn
, có được:
Vì mức năng
lượng trong một trạng thái dừng là không đổi cho nên viết được:
Vậy:
Cần phải biện
luận (hay ngụy biện?!) để đưa biểu diễn trên về dạng mà Bo đã thiết lập được.
Trước hết, cố
nhớ lại, chúng ta đã có:
Tiếp tục biến
đổi biểu diễn:
Gọi 0,64.10-26 là h (hằng số Planck) thì:
với h* được gọi là hằng số
Planck rút gọn, có trị số bằng 0,1024.10-26.
Như vậy lúc
này:
Muốn giống biểu
thức của Bo thì lượng trong dấu ngoặc đơn ở tử số của vế phải biểu diễn trên
phải bằng 1. Khi đó, khoảng cách tâm từ điện tử đến prôtôn là:
So với kết quả
mà vật lý học xác định được (rn=0,529.10-8 cm) thì kết quả trên
sai bét! Có thể nghĩ rằng vận tốc tiếp tuyến phải nhỏ hơn vận tốc tổng hợp, nên
ở đây thay cho c là một c' nào đó nhỏ hơn c. Biết đâu chừng:
c'=0,64c
Nếu thế:
Kết quả mức
năng lượng của chúng ta cũng sai so với kết quả mà vật lý học đã xác định (21,76.10-12 erg), nó bằng:
Không sao! Có
thể kết quả đó là chính xác trong… Hoang Đường!
Gớt (J. W.
Goethe, 1749-1832), đại văn hào người Đức, từng nói: “Chân lý như hạt kim
cương, nó chiếu muôn mặt chứ không chỉ chiếu có một mặt”.
(còn tiếp)
(còn tiếp)
Mời xem:
Nhận xét
Đăng nhận xét