CÂU CHUYỆN TÌNH BÁO 54
(ĐC sưu tầm trên NET)
Xinh đẹp, gan dạ, bản lĩnh,
thông minh, tài giỏi... bà trở thành một cán bộ tình báo chiến lược,
sánh ngang với những cây đa, cây đề trong làng tình báo Việt Nam.
Mỗi khi nhắc lại câu chuyện người em họ là vua Bảo Đại từng bán chiếc du
thuyền cho bà ăn học lúc ở Paris, bà lại rưng rưng cảm động.
Chiến công đầu đời
Trở lại quá khứ, con đường làm tình báo của Quận chúa Nguyễn
Phúc Ngọc Diệp bắt đầu khi cả gia đình bà bị bọn phản loạn xử giảo hình.
Chỉ duy một mình bà được cán bộ cách mạng là đồng chí Phạm Hùng (người
được cha bà cứu giúp) cứu thoát, lúc đó bà chỉ khoảng 11 tuổi. Sau đó bà
được giao gửi cho đồng chí Phạm Văn Xô cưu mang và nuôi nấng, dạy dỗ ở
Trung đoàn 307 Liên hợp quốc đoàn này gồm bộ đội đa quốc gia, đóng tại
nhà đồng chí Phan Văn Đáng (Trà Vinh, sau này Phó Bí thư Trung ương Cục
miền Nam), năm 1948 thì Trung đoàn này giải tán. Bà được các đồng chí
che chở tránh sự truy sát (vì bà là con của Trần Lệ Chất chống Pháp),
gom tiền cho đi học và hướng tư tưởng vào con đường cách mạng. Sau này
khi lớn lên bà vẫn coi đó là 2 người anh thân tín, bà luôn quý như cha,
như anh ruột của mình.
Chuyện cảm động về vị vua thất sủng
Sau 90 ngày lênh đênh trên biển, ngày 10/8/1954 thì chiếc tàu
cập cảng Marseill, mọi thứ lại bắt đầu với một thiếu nữ trên xứ người.
Được vào học tại đại học danh tiếng của Pháp, may mắn Ngọc Diệp được gặp
Giáo sư Bửu Hội là giảng viên của trường, cũng là anh họ cô. Theo đế hệ
cô phải gọi là Hoàng Huynh, không lâu sau thì người em họ là phế đế Bảo
Đại nghe tiếng tiếp tục tìm đến. Cuộc hội ngộ bất ngờ của những người
đồng tông khiến cô gái Việt bé nhỏ không còn cô độc trên xứ người. Bà
Ánh nói về hai người anh em họ mình: "Họ giúp tôi rất nhiều cả về vật
chất lẫn tinh thần khi tôi học ở Paris hoa lệ. Ở trường Hoàng huynh Bửu
Hội là một người thầy giỏi và nghiêm khắc, đã cho tôi những kiến thức,
còn Hoàng đệ Bảo Đại luôn giúp tôi về vật chất những năm cuối của khóa
học".
Con người khác của Bảo Đại
Nữ tình báo xuất thân Quận chúa xinh đẹp nhất VN (1)
Xinh đẹp, gan dạ, bản lĩnh,
thông minh, tài giỏi... bà trở thành một cán bộ tình báo chiến lược,
sánh ngang với những cây đa, cây đề trong làng tình báo Việt Nam.
Bà là người từng gây chấn động nước Mỹ với trận đánh xóa sổ Đại sứ quán Mỹ, Nha cảnh sát quận I (Sài Gòn) ngày 20/9/1965.
Theo bà Đặng Hoàng Ánh, chính tuổi thơ
bất hạnh, thời thế loạn lạc đã dẫn lối đưa đường một thiếu nữ 11 tuổi
như bà đi theo con đường cách mạng. Mong ước đền nợ nước, trả thù nhà là
động lực để bà cố gắng học hỏi và trở thành một nhà tình báo xuất sắc,
luồn sâu trong lòng địch, thực hiện những trận đánh cảm tử rúng động
chính quyền địch.
Ký ức Hoàng tộc
May mắn được biết đến bà, với tôi đó
là một diễm phúc. Bởi xét theo đế hệ Hoàng triều thời phong kiến, bà là
một Quận chúa lá ngọc cành vàng. Chị em con chú con bác với vua Bảo Đại
và là em họ của giáo sư Bửu Hội (Giáo sư nổi tiếng thuộc Viện Hàn Lâm
Khoa học Pháp). Thời chiến, bà là một chiến sỹ tình báo cao cấp hoạt
động lưỡng tuyến trên lằn ranh giữa ta và địch. Bên cạnh đó, bà cũng là
bác sỹ giải phẫu nổi tiếng từng tốt nghiệp hạng xuất sắc đại học
Sorbonne Pari (Pháp) thập kỷ 60, được chính quyền Sài Gòn trọng dụng và
Tống Ngô Đình Diệm mến mộ nhận làm con nuôi.
Thời bình trở lại, bà là người thẳng
thắn, sắc sảo, dám đấu tranh với tiêu cực, được nhân dân và chính quyền
cơ sở tin yêu. Điều đáng nói cuộc đời bà không bình lặng như người ta
tưởng, đó là quãng đời chỉ có sóng gió và những con đường gập ghềnh, đầy
góc khuất. Tôi cam đoan như thế. Trong những dòng nhật ký được bà chép
tay trong suốt hơn nửa cuộc đời có vinh, nhục, ngọt, bùi, đắng, cay...
Tất nhiên, còn thấm đẫm những dòng nước mắt chát chua. Cả cuộc đời hy
sinh, cống hiến cho cách mạng, cuối đời bà phải sống nương tựa vào người
con tật nguyền của một nữ đồng đội mà bà hứa nhận nuôi. Để có cái ăn,
bà phải tự tay lao động âm thầm ở một bản làng vùng sâu của huyện Đức
Trọng (tỉnh Lâm Đồng).
Chuyến xe từ TP.HCM ngược Tây Nguyên
chông chênh vượt qua những con đường gập ghềnh, đèo cao, dốc thẳm. Qua
điện thoại hẹn trước, giọng cụ bà tôi cần gặp thâm trầm chất Huế pha lẫn
sự ngọt ngào của thanh âm Nam Bộ cứ động viên quan tâm. Tôi bồi hồi
liên tưởng khi được gặp, trò chuyện thân tình với bà, con người mà cuộc
đời có thể ví tựa huyền thoại. Từ ngã ba Liên Khương (thị trấn Liên
Nghĩa, huyện Đức Trọng) rẽ trái tầm 10km thì vào xã Bình Thạnh - chốn
quê yên bình mà cựu tình báo một thời đang sống quảng cuối cuộc đời.
Vừa đến nơi, cụ bà đã đứng đầu ngõ nở
nụ cười đón khách. Với cặp kính trắng trễ gọng, nụ cười tươi trên gương
mặt phúc hậu, vết nhăn thời gian vẫn chưa làm nhòa nét đẹp quý phái của
một Quận chúa có dòng dõi Hoàng tộc. Bà bắt tay lanh lẹ và dẫn tôi vào
nhà. Căn nhà nhỏ, sạch sẽ do một tay bà tạo dựng bằng chính sức lao động
của mình sau giải phóng. Hiện bà ở cùng gia đình anh Đặng Anh Quân (48
tuổi), là con của một nữ đồng đội hi sinh trong tù mà bà nhận nuôi, đến
nay vẫn chưa thể tìm được người thân, cũng như gốc tích.
Trong gian phòng nhỏ, trên chiếc tủ
mộc đơn sơ, bà trân trọng để tấm ảnh trắng đen đã ố màu. Bên đối diện là
ảnh Bác Hồ. Thấy ánh mắt tò mò của tôi, cụ bà cười hiền: "Ba tôi đấy,
Trần Lệ Chất (tự Gia Khanh), đồng môn, đồng niên, đồng chí hướng với cụ
Nguyễn Sinh Sắc (thân sinh Bác Hồ). Ông cũng là thành viên sáng lập ra
trường Dục Thanh (Phan Thiết, nơi Bác Hồ từng dạy học) và tổ chức những
hoạt động yêu nước đầu thế kỷ 20. Bà Đặng Hoàng Ánh bảo, cha bà sinh năm
1862, làm quan triều đình nhà Nguyễn, thông minh, thạo nhiều ngoại ngữ
nhưng có xu hướng tiến bộ, bất mãn triều đình nên bỏ áo mũ, từ quan.
Trong ảnh, ông cụ trán cao, mắt sáng
ẩn sau cặp kính tròn, cổ thắt cà vạt kiểu Tây, bức ảnh chụp chân dung
một trí thức hơn thế kỷ trước vẫn đẹp đến lạ. Trong trí nhớ cụ bà, vị
cha già hiện lên đầy hãnh diện và tự hào: "Sinh thời người dân mến mộ
thường gọi cha tôi là Lệ Chất tiên sinh. Với những hoạt động yêu nước,
khi phong trào Duy tân bị Pháp đàn áp, ông phải chạy sang Bồ Đào Nha.
Sau khi về nước thì ông ra Bắc rồi lấy vợ ngoài Thanh Oai (Hà Nội), sau
đó làm thư ký cho Công sứ Pháp Claude Léon Lucien Garnier (Người có cổ
phần trong Công ty thương mại Liên Thành hồi đầu thế kỷ 20 ở Phan Thiết -
Bình Thuận). Hiện tại con cháu của các anh chị em (con của vợ đầu) của
cha tôi vẫn còn ở ngoài Bắc, đến nay chúng tôi vẫn liên lạc.
Theo cách mạng
Được Công sứ Claude Léon Lucien
Garnier trọng dụng, năm 1906 cha bà vào Bình Thuận xin giấy phép tập hợp
với những trí thức tư sản yêu nước lúc bấy giờ là Hồ Tá Bang, Nguyễn
Trọng Lợi, Nguyễn Quý Anh, Nguyễn Hiệt Chi, Trần Lệ Chất, Ngô Văn Nhượng
thành lập Công ty Liên Thành. Công ty chuyên buôn bán nước mắm và một
số mặt hàng hải sản khác, trong đó có cổ phần của viên công sứ Pháp. Rồi
thành lập tiếp 2 bộ phận là: "Liên Thành Thư Xã (truyền bá sách báo,
tài liệu tiến bộ từ hải ngoại) và Dục Thanh học hiệu (trường dạy học).
Tất cả để hưởng ứng phong trào Duy Tân do Phan Châu Trinh, Trần Quý Cáp
và Huỳnh Thúc Kháng khởi xướng tại Trung Kỳ. Nhân duyên đã đưa cha bà
cưu mang người con của đồng môn Nguyễn Sinh Sắc là Nguyễn Văn Ba (sau
này là Bác Hồ).
Cũng từ đây, cha bà nhận ra nguyện
vọng tìm con đường cứu nước của Nguyễn Văn Ba, nhờ quen biết với Công sứ
Pháp và ông Hồ Tá Bang (trí thức Duy tân) mà ông đã làm giấy chứng nhận
(tựa như giấy chứng minh) cho Văn Ba. Vào tháng 5/1911 Công sứ Pháp gọi
cha bà giao việc đi Pháp để ngoại giao buôn bán. Cơ hội đến, chàng
thanh niên Văn Ba xin được ra nước ngoài cùng chuyến tàu. Cha bà đã đứng
ra xin Công sứ Pháp làm paso xuất cảnh cho Văn Ba và được đồng ý, còn
cha bà chính thức đổi họ thành Nguyễn Như Chuyên
Ngày 2/6/1911 tàu Amiral Latouche
Tréville (quốc tịch Pháp) cập cảng Nhà Rồng (Sài Gòn). Đến ngày
5/6/1911, cha bà và chàng thanh niên Văn Ba lên tàu rời bến Nhà Rồng,
chính thức xuất ngoại. Bà Đặng Hoàng Ánh bảo, những câu chuyện quá khứ
bà đều được nghe cha mình kể lúc ông còn sinh thời. Và, chính tuổi thơ
đầy bất hạnh, những tháng năm đau thương như là chất xúc tác găm tất cả
vào trí nhớ, thường trực theo bà qua từng năm tháng không thể nào quên.
"Đó là những câu chuyện tôi được nghe lúc cha tôi còn sống kể lại và một
phần tôi đã chứng kiến, tôi đã ghi lại trung thực trong những trang
nhật ký từ khi tôi là sinh viên y khoa ở Việt Nam, với mong muốn con
cháu mình sau này đọc lại để biết", bà nói.
Trong những lời trò chuyện, tôi cảm
nhận được nỗi buồn khó giấu trên khuôn mặt nhẫn nhịn của bà. Như khơi
vào ký ức buồn, giọng bà chùng xuống: "Rồi một ngày tai họa ập xuống, cả
nhà tôi bị xử giảo hình". Nói đến đây cổ bà nghẹn lại, khóe mắt đôi
dòng lệ lại rơi, đôi mắt thâm quầng mà cuộc đời đầy sóng gió của một
Quận chúa đã bao lần thầm khóc. Ngồi suy ngẫm lại cuộc đời, bà gửi trong
dòng nhật ký: "Tôi chịu đựng bao cay đắng, nhiều lúc muốn buông xuôi
trôi nổi theo số phận. Nhưng nhìn về quá khứ của bản thân, của ba, của
má, của anh chị em... nên tôi lại gượng dậy, vượt qua".
Câu chuyện giữa tôi và Quận chúa có
lúc chững lại, đó là lúc bà nhắc lại quá khứ đau buồn. Bà Ánh đưa tôi
xem chiếc vòng tay bằng đá xanh, đúng ra nó là một kỷ vật hơn là thứ đồ
trang sức, bà đã cẩn trọng đeo giữ trong suốt quãng đời đã qua của mình.
"Khi cả nhà tôi bị xử giảo hình, máu chảy loang lổ nền đất, mẹ tôi ngã
xuống, tôi chỉ kịp lấy được chiếc vòng này. Mẹ tôi là cụ Trương Ngọc
Trầm em họ của cụ Trương Gia Mô (1866-1929, từng làm quan ở Huế, một sĩ
phu yêu nước đầu thế kỷ 20). Đó là ngày 26 tháng Chạp, năm 1945 (Bính
Tuất), chỉ còn bốn ngày nữa là Tết cổ truyền. Bọn Tôn Nhân Phủ (cơ quan
quản lí nội bộ hoàng tộc thời phong kiến của triều đình) và giặc Pháp đã
cấu kết với nhau giả chiếu của vua Bảo Đại xử tru di cả nhà tôi, vì cha
tôi ủng hộ các phong trào cải tến".
Lối rẽ
Bà bảo, bản thân may mắn
được đồng chí Phạm Hùng (nhà cách mạng lừng danh từng bị Pháp hai lần
tuyên án tử, người từng được cha bà cứu thoát hồi ở Mỹ Tho) cứu đưa về
Sài Gòn giao gửi cho đồng chí Phạm Văn Xô (người được nhà nước tặng
thưởng Huân chương Sao Vàng cao quý). Bà được cưu mang, dạy dỗ và cho đi
học, đó là con đường dẫn bà đến với cách mạng và trở thành một sinh
viên y khoa xuất sắc, một nhà tình báo chiến lược từng làm cho bọn Mỹ -
Ngụy bao phen chao đảo.
|
Nữ tình báo xuất thân Quận chúa xinh đẹp nhất Việt Nam (2)
Mỗi khi nhắc lại câu chuyện người em họ là vua Bảo Đại từng bán chiếc du
thuyền cho bà ăn học lúc ở Paris, bà lại rưng rưng cảm động.
Chiến công đầu đời
Vẫn là câu chuyện giữa tôi và nữ Quận chúa triều Nguyễn
Đặng Hoàng Ánh. Có thể nói, bà dễ gây thiện cảm cho bất cứ ai ngay lần
gặp đầu tiên, với tôi cũng không là ngoại lệ. Mặc dù tuổi đã ngoài 80,
nhưng ngược lại trí của bà thì thông tuệ đến lạ. Bà am hiểu lịch sử, nhớ
chi tiết nếu nói về sử bà có thể kể và phân tích sắc bén khiến bất cứ
ai cũng phải giật mình.
Bà ăn nói nhẹ nhàng, ẩn nét duyên thầm
của con người xứ Huế, có sự sắc sảo của một người từng khiến những viên
quan chóp bu của chế độ Sài Gòn phải nể phục. Bà nói và viết được nhiều
ngoại ngữ: Tiếng Pháp sành sỏi, tiếng Anh chuẩn, đồng thời tiếng Nga,
Đức, Trung Quốc, Nhật bà đều sử dụng được. Lối nói của bà có lúc cổ kính
thoang thoảng của người đi ra từ Hoàng triều, nhưng hiện đại, sắc sảo
khi nói về những vấn đề đương đại, không hổ danh từng là tình báo viên
chiến lược, từng lòn sâu trong lòng địch. Thời hoạt động cách mạng bà có
rất nhiều tên cũng như biệt danh. Hiện tại bà tên là Đặng Hoàng Ánh,
nhưng tên gốc khai sinh là Nguyễn Phúc Ngọc Diệp (dòng họ Nguyễn Phúc
triều đình nhà Nguyễn).
Trong hồi ký,
nhớ lại quãng tuổi thơ bà có viết: "Ngày đi học ở Trường Gia Long Sài
Gòn, thời gian còn lại tôi tranh thủ đi bán báo dạo, bánh mì, lạc
rang... có lúc đói thèm mà chẳng dám ăn một hạt. Học bậc Đệ Tam phải có
đồng phục áo dài trắng, riêng tôi phải mang áo giật gấu vá vai, bọn con
nhà giàu thường trêu chọc. Những lúc buồn muốn buông xuôi, anh Hai Xô
(đồng chí Phạm Văn Xô) lại động viên: "Út Diệp, em phải nhẫn nhục cố học
cho thành tài, hôm nay mây mù, ngày mai sẽ có bình minh chiếu sáng, sau
lũ lụt đất nhiều phù sa, cây lại tươi tốt".
Chính nhờ những lời động viên ấy cô bé
mồ côi lại cố gắng, luôn đạt kết quả xuất sắc, hoàn thành Tú tài I, II
rồi thi đỗ luôn vào trường đại học Y khoa Hà Nội khi chưa đủ tuổi. Đốc
học Lưu (thầy dạy Ngọc Diệp) lo chạy cho cô thêm một tuổi, nhưng trong
thời gian chờ đợi một sự kiện làm thay đổi chính bản thân nữ thiếu niên.
Đó là vào một hôm đi bán báo dạo, đồng
chí Hai Xô giao cho cô mang theo hai quả lựu đạn (lúc ấy phong trào
chống Tây nổ ra khắp nơi), đến rạp hát Nguyễn Văn Hảo (Sài Gòn) cô liều
mình rút kíp ném chết hai tên lính Pháp. Với chiến công đầu đời, cô bé
Ngọc Diệp được các anh khâm phục về sự gan dạ và phong cho biệt danh con
bé to gan lớn mật. Với bản lĩnh, thông minh, Ngoc Diệp được xứ ủy Nam
kỳ cử đi học lớp phản gián ở Đông Cao Miên với thời hạn một năm. Khóa
học phản gián đầu tiên đã trang bị nền móng kiến thức để sau này bà trở
thành tình báo chiến lược.
Bà Đặng Hoàng Ánh còn nhớ như in những năm tháng du học trên đất Pháp. |
Sau khi hoàn thành khóa học phản gián ở
Đông Cao Miên, năm 1952 Ngọc Diệp trở về vừa đủ tuổi vào học tại đại
học Y khoa Hà Nội, một năm sau thì chuyển vào Sài Gòn. Bốn năm trôi qua,
Ngọc Diệp là sinh viên xuất sắc, thuộc danh sách thí sinh học bổng để
sang Pháp học. Nhân tiện tổ chức Xứ ủy Nam kỳ cử đi học để đào tạo bác
sỹ giỏi cho cách mạng sau này. Bà Đặng Hoàng Ánh kể: "Rất may là nhờ vào
sự chăm chỉ, tôi nhận được học bổng của đại học Sorbonne Paris khi chỉ
còn bảy ngày nữa là chiếc thuyền của đoàn quan Pháp và thân nhân thất
bại trong chiến dịch Điện biên phủ năm 1954 từ Việt Nam trở về Pháp. Chỉ
trong vòng một tuần lễ Ngọc Diệp phải hoàn thành hết thủ tục, chuẩn bị
kinh phí để đi cùng đoàn người bại trận sang Pháp.
Vua Bảo Đại. Ảnh nguồn Internet. |
Bà bảo, để có tiền chi trả chi phí đắt
đỏ ở Paris, Bảo Đại đã không đi vào các sòng bài, quán bar, ăn chơi nữa
mà dành dụm tất cả tiền cho bà đi học. Khi túng bấn quá, Bảo Đại đã bán
luôn chiếc du thuyền mang tên Hương Giang của mình để lo chí phí cho bà
học. Thời gian này Bảo Đại định cư cùng vợ là Nam Phương Hoàng Hậu tại
Chabrignac (thuộc tỉnh Corrèze miền trung nước Pháp).
Con người khác của Bảo Đại
"Thời
gian học ở Pháp, tôi được nghe tâm sự của Bảo Đại rất nhiều, trên thực
tế báo chí, những người viết sử không tìm hiểu đến nơi đến chốn, bảo Bảo
Đại ăn chơi sa đọa đến nỗi bán cả du thuyền. Trên thực tế một phần tài
sản trong đó có chiếc du thuyền Bảo Đại đã bán để tôi ăn học. Khi lưu
vong ở Pháp, không lúc nào Bảo Đại và hoàng hậu Nam Phương thôi nhớ về
quê hương. Nhiều lần Nam Phương đòi về Lâm Đồng sống ở đồi chè B'Lao,
nhưng vì điều kiện không cho phép...".
Nữ tình báo xuất thân Quận chúa xinh đẹp nhất VN (3)
Tháng 10/1949, trong phiên tòa xử tên cướp Nguyễn Bình tại thị xã Long Thành (Bà Rịa- Vũng Tàu), bà Đặng Hoàng Ánh chính là thư ký.
Kỳ 3: Sự thật về Trung tướng Nguyễn Bình và phiên xử Nguyễn Bình tướng cướp
Như
chúng tôi đã giới thiệu ở kỳ trước, sau khi thực hiện chiến công ném
lựu đạn diệt hai tên lính Pháp ở rạp hát Nguyễn Văn Hảo (Sài Gòn), bà
Đặng Hoàng Ánh lúc đó có tên là Phạm Ngọc Diệp được Xứ ủy Nam Kỳ tuyển
chọn cử đi học lớp phản gián đầu tiên tại Đông Cao Miên (Campuchia)
trong thời gian 1 năm. Cùng khóa học này còn có đồng chí Phan Văn Đáng
(Phó Bí thư Trung ương cục miền Nam mà bà thường gọi thân thiện là anh
Hai Văn), đồng chí Đặng Thiết Bảng, đồng chí Bùi Ngọc Hường và người
giảng dạy là đồng chí Đào Phúc Lộc (tên khác Hoàng Minh Đạo, Bùi Văn Thu
- nhà tình báo nổi tiếng).
Năm 1948, đồng chí Đào Phúc
Lộc nhận lệnh điều động của Đại tướng Võ Nguyên Giáp cử vào tăng cường
cho chiến trường miền Nam, đảm trách chức Trưởng ban Quân báo Nam Bộ với
nhiệm vụ là Đặc phái viên của Bộ Tổng tham mưu đi kiểm tra tình hình
công tác phản gián, tình báo, quân báo ở Khu IV vào đến tận Nam Bộ. Mục
đích là để kiện toàn thống nhất lại tổ chức của ngành tình báo từ Trung
ương đến địa phương, giúp Cục có điều kiện chỉ đạo tình báo toàn quốc.
Chủ trương này được Trung ương nhanh chóng tiến hành nhằm chuẩn bị để
đối phó với tình hình mới, khi Pháp quyết quay lại leo thang xâm lược ở
Nam Bộ.
Đồng chí Đào Phúc Lộc năm 1968, người cùng bà Ánh xử tên Nguyễn Bình tướng cướp. |
Lúc
này ở miền Nam có một nhóm lớn trung lập, nhưng có xu hướng thân Pháp
đó là lực lượng Bình Xuyên do tên tướng cướp Bảy Viễn (Lê Văn Viễn,
người Chợ Lớn- Sài Gòn) cầm đầu. Trước năm 1945, Bảy Viễn nổi tiếng là
một tên tướng cướp ngang tàng và ma mãnh. Y từng bị chính quyền Pháp
tuyên án rất nhiều lần, từng bị đày đi tù Côn Đảo nhưng vượt ngục trốn
về thành lập lực lượng Bình Xuyên (dân giang hồ tứ chiếng ở Nam Bộ, hoạt
động ở vùng ven Sài Gòn trong 10 năm từ 1945-1955).
Năm
1946, Pháp quay lại Nam Kỳ thì Bảy Viễn ngả sang Pháp, y được Tướng
Pháp De la Tour gắn cho lon đại tá. Năm 1952, vua Bảo Đại phong cho Bảy
Viễn cấp bậc thiếu tướng 2 sao và bổ nhiệm vào chức vụ Đô trưởng Cảnh
sát Công an Sài Gòn Chợ Lớn. Bằng thế lực của mình, Bảy Viễn thâu tóm
các sòng bài Đại Thế Giới, Kim Chung ở Sài Gòn và casino Thái Bình Dương
ở Vũng Tàu, đồng thời làm ngơ cho khu mại dâm Bình Khang hoạt động công
khai.
Với quyền thế cộng với máu giang hồ, Bảy Viễn
không những tăng cường hợp tác với Pháp, mà còn cho đàn em lộng hành
chống phá cách mạng ráo riết, gây tổn thất rất lớn cho cách mạng và nhân
dân. Trong đó y cho một tên tướng cướp tên là Nguyễn Bình, đây là một
đàn em đắc lực của Bảy Viễn, chuyên cướp của giết người ở Long Thành (Bà
Rịa - Vũng Tàu). Điều đáng nói là sau khi gây án, hắn thường lấy tên
công khai và đổ vấy cho phía Việt Minh, hạ uy tín của Trung tướng Nguyễn
Bình phía cách mạng, làm mất lòng tin nhân dân. Chủ trương của phía
cách mạng là phải bắt cho bằng được tên này để công khai xử trước nhân
dân, ổn định tinh thần quần chúng.
Đồng chí Đào Phúc Lộc
được cử thực hiện điệp vụ này, ông đã tìm cách làm quen và làm thư ký
của Thiếu tướng thân Pháp Nguyễn Văn Xuân (1892-1989, Thủ tướng của Cộng
hòa tự trị Nam Kỳ, là sĩ quan gốc Việt đầu tiên mang quân hàm cấp tướng
của quân đội Pháp năm 1947). Qua nhiều lần điều tra thì đồng chí Lộc
lần được hồ sơ về cái tên tướng cướp Nguyễn Bình. Với sự khôn khéo, một
mẻ lưới được bủa, tên tướng cướp Nguyễn Bình nhanh chóng bị bắt gọn.
Tháng 10/1949 phía cách mạng đưa tên này ra xử công khai tại Long Thành,
chính bà Đặng Hoàng Ánh lúc đó tên là Đặng Ngọc Diệp làm thư ký phiên
tòa, Hội đồng xét xử có đồng chí Đào Phúc Lộc và một số đồng chí khác.
Phiên tòa công khai trước bàn dân thiên hạ, kết quả tên Nguyễn Bình
tướng cướp bị nhận án tử, tên thổ phỉ từng gây bao tai họa bị tử hình,
từ đó người dân mới yên tâm sinh sống.
Trung tướng Nguyễn Bình người từng bị nhầm lẫn với tướng cướp Nguyễn Bình của Bảy Viễn. |
Cuộc gặp bất ngờ vị tướng tài ba
Trở
lại năm 1951, trong thời gian học lớp phản gián tại Đông Cao Miên
(Campuchia), bà Đặng Hoàng Ánh là người có cơ duyên gặp được Trung tướng
Nguyễn Bình. Có thể nói, trong lịch sử quân đội Việt Nam đây là nhân
vật khá đặc biệt. Nguyễn Bình là Trung tướng đầu tiên, ông có tên khai
sinh rất nữ là Nguyễn Phương Thảo và có biệt danh là tướng một mắt.
Trước khi theo cách mạng ông là thành viên chủ chốt của Quốc Dân Đảng ở
Bắc Bộ. Sau khởi nghĩa Yên Bái năm 1930 bất thành ông và bạn mình là
Trần Huy Liệu bị đày đi Côn Đảo. Nhưng rồi khi Quốc Dân Đảng bị phân
hóa, ngả sang hữu, do có tư tưởng theo phe cách mạng. Nguyễn Bình và
Trần Huy Liệu bị nhóm cực hữu trong Quốc Dân Đảng kết án tử, nhưng
Nguyễn Bình may mắn thoát nạn, ông bị đâm mù một mắt từ đó.
Với
tài năng quân sự và năng lực lãnh đạo, sau khi Pháp mở rộng đánh chiếm
miền Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh cử ông vào để thống nhất lực lượng vũ
trang toàn Nam Bộ. Chính ông có vai trò to lớn trong việc phân hóa lực
lượng Bình Xuyên do Bảy Viễn đứng đầu, đưa một số quân không nhỏ về phía
cách mạng, được gọi là bộ đội Bình Xuyên. Khi tình hình ổn định, tháng
6/1951, Trung tướng Nguyễn Bình nhận được quyết định triệu tập ra Trung
ương để triển khai kế hoạch mới. Ngày 6/7/1951, ông khởi hành đi từ Tân
Uyên (chiến khu Đ, Bình Dương) với một đội bảo vệ 22 người, dự tính phải
đi 6 tháng mới ra đến thủ đô kháng chiến Việt Bắc. Đoàn của ông đi sang
đường Campuchia, xuyên qua các bản làng để tránh sự truy sát của giặc
Pháp. Tại đây ông có đến thăm lớp học phản gián tại Đông Campuchia, đó
là lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng bà Đặng Hoàng Ánh được gặp
Trung tướng Nguyễn Bình. “Tướng Nguyễn Bình thăm hỏi và động viện đồng
chí Đào Phúc Lộc (người dạy phản gián), và những đồng chí anh em chúng
tôi, sau đó thì cáo từ”, bà nói.
Bà Đặng Hoàng Ánh, nhân chứng sống của vụ án xử tướng cướp Nguyễn Bình của trùm Bảy Viễn. |
Chuyến
đi của Trung tướng Nguyễn Bình được ông ghi nhật ký trong cuốn Nhật ký
đi đường, cho thấy vô cùng gian nan, thiếu thốn. Những dòng nhật ký của
chuyến đi tháng 6 năm ấy nay còn lưu giữ: "Đi từ Sốcky đến Suối Đá, rồi
từ Suối Đá đi Tà Nốt, tôi đành phải nằm trên xe bò vì bệnh ngày càng
nặng. Bác sĩ ở Cao Miên nói phải tạm nghỉ trong hai tháng nếu không muốn
quỵ dọc đường. Tôi nghĩ nếu dừng hai tháng, rồi đến mùa mưa thêm ba
tháng, sau đó đi sáu tháng nữa mới ra tới Trung ương thì không thể được.
Một năm không hoạt động gì trong khi cuộc kháng chiến đang diễn ra ác
liệt, tôi kiên quyết ra đi. 80% đoàn bị bệnh, bốn chiếc xe bò cũng không
chở hết. Gạo đã gần hết. Từ một tháng nay mỗi ngày tôi (Nguyễn Bình)
chỉ ăn chút xíu đủ để đứng vững. Tôi đã ăn măng thay cơm... Đang đi thì
một xe bò bị gãy trục, theo dân địa phương là một điềm rất xấu. Ngày 23,
tôi quyết định phái tổ trinh sát vượt sông Serepok, đi vòng để tránh
gặp địch. Ngày 24, cả đoàn không còn gì ăn nữa".
Bất ngờ
vào trưa 29/9/1951, đoàn của ông dừng lại ở phun Back bên bờ sông
Srê-pốc, bị toán lính Pác-ti-giăng nổ súng hạ sát nhưng không biết ông
là ai, cuốn nhật ký kết thúc...
Đừng tiếp tục nhầm lẫn!
Bà
Đặng Hoàng Ánh bảo, đây là vụ án ít người biết có nhiều chi tiết trùng
khớp, chỉ có những người từng tham gia hoạt động với bà mới nắm rõ.
Nhiều người sau này từng nhầm lẫn cho rằng, Trung tướng Nguyễn Bình là
tướng cướp (vì ông bị hư một mắt) tham gia cướp của đã bị tử hình trong
phiên tòa này. Tiện thể bà Ánh đính chính: "Nguyễn Bình tướng cướp bị
tòa xử tử năm 1949 tại Vũng Tàu, trong khi Trung tướng Nguyễn Bình phía
cách mạng hi sinh năm 1951 tại Campuchia, các sự kiện cách nhau hai năm.
Một người là phía cách mạng, người còn lại là bên kia chiến tuyến. Mong
sao chúng ta đừng tiếp tục nhầm lẫn, nhân chứng vụ việc còn sống chính
là tôi".
Xem lại việc giải quyết chế độ cho một nữ chiến sĩ tình báo-biệt động
QĐND - Chủ nhật, 17/06/2012 | 10:59 GMT+7
QĐND
- Tôi được gặp bà vào đúng dịp lễ mừng Chiến thắng 30-4 vừa qua. Ở tuổi
80, bà có dáng người mảnh mai, gương mặt phúc hậu và quý phái. Bà chính
là nhân vật trong cuốn tiểu thuyết tư liệu “Quận chúa biệt động” của
nhà văn Đặng Vương Hưng mà trước đây tôi đã được đọc.
Chiến sĩ tình báo-biệt động gan dạ, dũng cảm
Theo
Chứng minh thư do Công an tỉnh Lâm Đồng cấp ngày 19-11-2008 (cấp lại do
hết hạn), bà mang tên là Đặng Hoàng Ánh, sinh năm 1940. Nói như vậy là
vì trong quá trình hoạt động cách mạng cũng như ở đơn vị tình báo 1752,
bà mang rất nhiều tên khác nhau: Nguyễn Ngọc Diệp, Nguyễn Phúc Ngọc
Diệp, Nguyễn Thị Thu Hồng, H12, Thu Nga, Hoàng Nga, Út Lệ, Út Đẹt, Út
Diệp, LeNa Phạm và Phạm Thị Na. Theo bà kể, ở đơn vị 1752, bà được công
tác cùng nữ tình báo Đinh Thị Vân (H15), Hoàng Thị Cát (Sáu Hiền), Sáu
Hà, Năm Đen dưới sự chỉ đạo của đồng chí Bạch Ngọc Phách (tức Nguyễn Văn
Ninh, Ba Thu) và đồng chí Phạm Văn Xô (tức T4-Trần Văn Đạt).
Bà Đặng Hoàng Ánh. |
Dưới
sự chỉ đạo của Trung ương Cục miền Nam mà trực tiếp là đồng chí Nguyễn
Vịnh (tức Đại tướng Nguyễn Chí Thanh), đơn vị 1752 được giao nhiệm vụ tổ
chức đánh vào Đại sứ quán Mỹ tại góc đường Mạc Đĩnh Chi và đường Hồng
Thập Tự (nay là đường Nguyễn Thị Minh Khai) nối liền vách với Tổng nha
Cảnh sát quận Nhất. Sau một thời gian điều tra, nghiên cứu và lên kế
hoạch, phương án chiến đấu và được cấp trên đồng ý, các chiến sĩ tình
báo-biệt động gồm Đinh Thị Vân (H15), Hoàng Thị Cát (Sáu Hiền), Sáu Hà,
Năm Đen, Ba Thu và Nguyễn Thị Thu Hồng (tức Đặng Hoàng Ánh), đã tổ chức
trận đánh vào Đại sứ quán Mỹ. Trận đánh xảy ra vào lúc 10 giờ 45 phút
ngày 29-5-1965. Với vỏ bọc là ca sĩ Hoàng Nga, người quen của Cố vấn Mỹ
C.Taylor vào hát cho các sĩ quan và nhân viên sứ quán, bà thực hiện việc
đặt mìn hẹn giờ do Năm Đen đem đến. Kể từ năm 1963 đến thời điểm này,
Đại sứ quán Mỹ đã bị đánh tới 6 lần, nhưng có lẽ lần này là thành công
nhất. Tòa Đại sứ Mỹ và Tổng nha Cảnh sát quận Nhất bị sập hoàn toàn,
hàng trăm lính Mỹ-ngụy bị thương vong. Ngày 28-9-1969, bà được giao
nhiệm vụ đánh cảm tử rạp chiếu bóng Ngọc Lan (Đà Lạt) trong buổi chiếu
phim chiêu đãi sĩ quan trường võ bị Đà Lạt và một số sĩ quan Mỹ. Do đánh
bom cảm tử nên bà phải gửi lại toàn bộ giấy tờ tùy thân và đồ dùng cá
nhân cho đồng chí Lê Văn Phận (tức Ba Du) lúc đó là trưởng đơn vị. Sau
khi hoàn thành nhiệm vụ, bà may mắn thoát chết về gặp lại đồng chí Ba Du
để xin lại giấy tờ. Do nhỏ nhen ích kỷ cá nhân nên Ba Du đã không những
không trả lại bà mà còn nói đã nộp lên trên. Sau này, Khu ủy khu 6 kiểm
điểm, Ba Du hứa sẽ trả lại, nhưng rồi sự việc vẫn chìm vào quên lãng.
Tháng
9-1969, đoàn 1752 được cử đến Khe Sanh và Đắc Tô để nghiên cứu việc Mỹ
đổ quân xuống đây. Khi bám sát quân Mỹ đến Sa-va-na-khet (Lào) thì đoàn
1752 bị chúng bao vây, mất liên lạc với Trung ương Cục nên tổ chức đã
báo tử về cho các gia đình trong đoàn. Sau 3 năm ở Sa-va-na-khet, đoàn
mới bắt liên lạc được với đồng chí Năm Công, Chính ủy Liên khu 5 (đồng
chí Võ Chí Công, Chủ tịch HĐNN sau này). Sau đó không lâu, bà bị địch
bắt giam tại Đà Lạt, cùng ở tù với Trần Văn Thành và Nguyễn Thị Dương.
Hơn 3 tháng bị giam cầm, bà được cơ sở của ta là Trần Văn Phước (tức
C16) giải cứu. Ra tù, bà hoạt động tại Đà Lạt cho tới ngày 29-4-1975 thì
về Sài Gòn và được chứng kiến những giờ phút lịch sử của dân tộc.
Bà và Đoàn dũng sĩ miền Nam chụp ảnh với Bác Hồ tại Phủ Chủ tịch năm 1966 (trong ảnh, bà Ánh được Bác cho đứng trước). Ảnh do nhân vật Ánh cung cấp. |
Trong
cuộc đời hoạt động của bà có một kỷ niệm không thể nào quên, đó là đầu
năm 1966 bà cùng một số chiến sĩ thi đua được Trung ương Cục miền Nam
cho ra Bắc gặp Bác Hồ. Ngày 1-6-1966, Bà cùng các đồng chí khác như Út
Tịch, Lê Chí Nguyện, Trần Dưỡng, Phạm Tất Liêm, Huỳnh Văn Đảnh, Tạ Thị
Kiều, chú Hai Khơ-me… được gặp và báo công với Bác. Mọi người được chụp
ảnh và cùng ăn cơm với Bác - cùng chụp ảnh với Bác và anh chị em trong
đoàn còn có Phó chủ tịch nước Tôn Đức Thắng, Phó thủ tướng Chính phủ
Phạm Hùng, Nhà thơ Tố Hữu… (hiện nay bức ảnh được lưu giữ tại Bảo tàng
Hồ Chí Minh số KKQĐ 743, 744Q6). Hồi ấy bà lấy tên là Nguyễn Thị Thu
Hồng.
Chưa có sự tri ân thỏa đáng
Mấy
năm qua, bà đã gõ cửa nhiều cơ quan chức năng để yêu cầu: Một là, được
khôi phục Đảng tịch (bà kết nạp Đảng ngày 19-4-1954 và chính thức ngày
19-4-1955 tại Trung ương Cục miền Nam);
hai là xem xét lại việc bà đã được trên đề nghị tặng danh hiệu Anh hùng
LLVT nhân dân sau trận đánh vào tòa Đại sứ quán Mỹ (lúc đó xác định là
hy sinh). Theo bà, năm 2001 bà được mời dự lễ phong tặng danh hiệu anh
hùng nhưng trong buổi đó bà chỉ được nhận Kỷ niệm chương Chiến sĩ cách
mạng bị địch bắt tù đày mà thôi (Quyết định số 1022/QĐ-TTg ngày
18-10-2000 do Phó thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng - nay là Thủ tướng
ký). Rất tiếc, việc xác minh lại cho bà không ít cơ quan có trách nhiệm
chưa nhiệt tình vào cuộc.
Quyết
định của UBND tỉnh Lâm Đồng và Quyết định của Sở Lao động-Thương binh
và Xã hội tỉnh về cấp và thu hồi chế độ trợ cấp như thương binh hạng
2/4.
|
Chẳng
hạn, một cơ quan đã trả lời bà: “…Sau khi kiểm tra hồ sơ lưu trữ và
danh sách cán bộ hoạt động qua các thời kỳ kháng chiến; qua gặp gỡ các
đồng chí cán bộ lão thành của ngành đã từng hoạt động thuộc các địa bàn
có liên quan, đều khẳng định không có cán bộ, nhân viên nào có tên Đặng
Hoàng Ánh và các bí danh bà đã nêu…”. Cứ cho việc trả lời trên là xác
đáng, thế nhưng, chẳng lẽ tấm ảnh bà và những người (bà đã nêu tên) được
chụp với Bác Hồ không nói lên điều gì sao? Về tấm ảnh bà có, theo bà,
trong một lần vào công tác ở Lâm Đồng, chính cố Chủ tịch HĐBT Phạm Hùng
đã tận tay đưa tặng bà, vì hồi đó, mọi người không có tấm ảnh quý giá
này. Một chi tiết nữa là bà đã tìm và gặp được ông Bạch Ngọc Phách -
người có trong tấm ảnh cùng được chụp với Bác Hồ (đứng thứ 4, từ phải
qua trái). Hiện nay ông Bạch Ngọc Phách đã 85 tuổi và đang bị một căn
bệnh hiểm nghèo, tuy gần 40 năm xa nhau, nhưng ông Phách và bà vẫn nhận
được nhau trong nước mắt.
Một
cơ quan nữa, sau khi nhận đơn của bà, đã gửi công văn cho Bộ Quốc phòng
và cá nhân bà, vẫn đề “gửi ông Đặng Hoàng Ánh” (chứ không phải bà Đặng
Hoàng Ánh?). Thực ra cái tên Đặng Hoàng Ánh bà lấy từ năm 1982 sau khi
gặp đồng chí Hoàng Đức Nhã (tức Hai Long, tức Vũ Ngọc Nhạ). Đồng chí
Hoàng Đức Nhã khuyên bà hãy thay đổi họ tên, hạn chế tiếp xúc với mọi
người và tạm lánh xa một thời gian. Cũng năm 1982 bà gặp cố Chủ tịch
HĐBT Phạm Hùng (anh Hai Thiện) - người được bố đẻ bà cứu khỏi tù đày khi
hoạt động cách mạng trước đây và luôn coi bà như em gái - can thiệp, bà
mới làm được Chứng minh thư nhân dân, sổ hộ khẩu và chế độ mua gạo bằng
tem phiếu thời đó.
Theo
Quyết định số 90/QĐ ngày 28-8-1989 của UBND tỉnh Lâm Đồng do Phó chủ
tịch thường trực Nguyễn Xuân Ái ký, bà được hưởng chế độ Trợ cấp thương
tật và cấp sổ như thương binh bậc 2/4 từ ngày 1-4-1984. Từ đó đến nay,
bà vẫn lĩnh bình thường. Không hiểu vì sao ngày 10-10-2011, Sở Lao
động-Thương binh và Xã hội tỉnh Lâm Đồng lại ra Quyết định số
78/LĐTBXH-QĐ do bà Đoàn Thị Ngọc Ân, Phó giám đốc sở ký, quyết định ghi
rõ: “Cắt và thu hồi trợ cấp ưu đãi người hưởng chính sách như thương
binh đối với bà Đặng Hoàng Ánh” và “Thời gian thu hồi trợ cấp từ tháng 4
năm 1984 đến tháng 10 năm 2011… thu hồi số tiền 140.375.175 đồng”. Lý
do cắt và thu hồi “thủ tục hồ sơ xác lập không đúng quy định”. Bà buồn
rầu cho biết: “Trước đây tôi kê khai làm các thủ tục để xét do hướng dẫn
của Sở Lao động-Thương binh và Xã hội tỉnh Lâm Đồng hẳn hoi, bây giờ
lại bảo “thủ tục hồ sơ xác lập không đúng quy định” thì tôi cũng không
rõ là không đúng ở điểm gì?”. Phải chăng, theo bà, vì đã “cả gan” làm
đơn kiến nghị trên xem xét về hai trường hợp nhận chính sách chất độc da
cam/đi-ô-xin không đúng đối tượng ở Sở Lao động-Thương binh và Xã hội
tỉnh? Bà cứ băn khoăn, một Phó giám đốc sở ra quyết định phủ nhận quyết
định của UBND tỉnh liệu có đúng không? Việc làm trên của Sở Lao
động-Thương binh và Xã hội tỉnh Lâm Đồng đã được xem xét kỹ chưa?
Từ
một “quận chúa” “lá ngọc cành vàng”, xuất thân trong một hoàng tộc
triều Nguyễn, một thiếu nữ xinh đẹp trở thành một bác sĩ tài hoa được
đào tạo tại Pháp, bà đã trở thành một chiến sĩ tình báo-biệt động gan
dạ, dũng cảm chiến đấu vì độc lập, tự do của Tổ quốc. Vậy mà đến nay, bà
chưa có được sự tri ân thỏa đáng, không được một phần thưởng cao quý
nào khác ngoài một Huân chương Kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng Ba và
Kỷ niệm chương Chiến sĩ cách mạng bị địch bắt và tù đày. Mong rằng, các
cơ quan chức năng sớm xác minh, giải quyết một cách tích cực để những
năm tháng cuối đời của người nữ chiến sĩ biệt động được bù đắp phần nào.
Bài và ảnh: Lê Quý Hoàng
Nhận xét
Đăng nhận xét