Thứ Bảy, 23 tháng 5, 2020
TT&HĐ I - 5/k
PHẦN I: CÓ MỘT CÁI GÌ ĐÓ
“Tại sao có một cái gì đó chứ không phải là không có gì?”
Lepnit.
CHƯƠNG V: KHÔNG GIAN VÀ THỜI GIAN
NTT
"Sự khác biệt giữa quá khứ, hiện tại và tương lai chỉ là một ảo tưởng dai dẳng đến ngoan cố."
Albert Einstein
"Này
Anadda, tất cả những người nào, hoặc ngay bây giờ, hoặc sau khi ta
chết, tự làm ngọn đèn soi sáng cho mình, tự làm chỗ nương tựa cho mình,
không tìm một chỗ nương tựa nào khác ngoài chính mình ra, mà can đảm coi
chân lý là ngọn đuốc … không tìm một chỗ nương tựa nào ở người khác -
những người đó sẽ lên được tới các bậc tối cao! Nhưng những người đó
phải lo học hỏi hoài mới được!”.
(Đức Phật Thích Ca)(Tiếp theo)
* * *
Câu
chuyện về không gian và thời gian vẫn chưa hết vì dù chúng ta đã tạm
thời biết được những hình thức hiện hữu của chúng nhưng chưa biết chúng
có quan hệ gì với nhau không và quan hệ như thế nào, rồi bản chất thực
sự của chúng là gì.
Chúng ta lại bắt đầu từ không gian vì không gian “dễ thấy” hơn thời
gian: mở mắt ra, đâu đâu cũng thấy nó, nhắm mắt lại hình dung ra ngay
được nó dù nó trống rỗng. Nhưng có thực là nó trống rỗng không? Trong
thời đại ngày nay, khi mà con người đã có những thiết bị hỗ trợ quan sát
cực kỳ tinh nhạy thì cái không gian trống rỗng được năm giác quan con
người cảm giác, đã không còn trống rỗng nữa mà tràn ngập sóng
điện từ (bức xạ điện từ). Hay không gian là sóng điện từ ? Nhưng sóng
điện từ chỉ có thể hiện hữu (tồn tại) nếu có nguồn phát ra nó và nó sẽ
mất đi nếu có vật thu nó. Vả lại, vật lý học đã xác minh được bức xạ
điện từ là những dòng gồm các lượng tử mang bản chất lưỡng tính vừa sóng
vừa hạt, tuy vô cùng nhỏ bé nhưng có thể định lượng được. Như vậy sóng
điện từ nói chung; trước quan sát, là một hiện hữu
mà các phôtôn như là những hữu thể và dòng các phôtôn được coi là sự
vật - hiện tượng tương tự như bất kỳ một sự vật - hiện tượng nào khác,
nghĩa là nó cũng được cấu thành từ vật chất.
Bây giờ giả sử rằng ta lại “tống khứ” hết bức xạ điện từ ra khỏi khoảng
không gian nào đó (việc này chắc cũng dễ dàng vì chúng ta đã có kinh
nghiệm từ những lần “rút” vật chất ra khỏi một thể tích!!!) và ta được
một khoảng “đen thui” (có "đen thui" thật không?) như đã nói. Và chúng ta đặt lại câu hỏi: khoảng
“đen thui” đó có trống rỗng không? Đã thấy được "đen thui" thì phải có gì chứ!? Theo quan niệm Phật Giáo thì trống
rỗng nhưng không Hư Vô. Chúng ta cũng đồng thuận với quan niệm này: Có
thể chúng ta cùng với sự hỗ trợ của các thiết bị hiện đại không quan sát
(hay là chưa quan sát) thấy gì và có cảm giác không gian hiện hữu lên
như một thể tích rỗng rang, không có gì và được chúng ta quy ước gọi là
hư vô, nhưng sự suy lý đã mách bảo chúng ta rằng chắc chắn không gian
không thể là Hư Vô, không thể là từ Hư Vô cấu thành nên được. Tự Nhiên
Tồn Tại là duy nhất, độc tôn! Không gian dứt khoát phải có nội dung! Nội
dung đó là gì và có quan hệ gì với vạn vật không? Không gian không Hư Vô thì không gian phải là Tồn Tại, phải thường biến trong tổng thể bất biến của nó.
Vì chúng ta khẳng định rằng không gian không thể là Hư Vô được nên sự
trống rỗng của nó chỉ có nghĩa rằng chúng ta, những thực thể vĩ mô, chưa quan sát được, chưa
nhận dạng được những tồn tại trong nó. Kinh nghiệm đã cho chúng ta biết
rằng có những tồn tại thực sự nhưng không hiện hữu trong hiện thực vì
nằm ngoài tầm quan sát của chúng ta. Bằng mắt thường chúng ta làm sao
thấy được các phân tử Oxy, Nitơ, Hydro… đang tung tăng nhảy múa trong bầu
khí quyển; làm sao thấy được những vì sao ở tận đâu đó gọi là tận cùng
Vũ Trụ? Hoặc đơn giản như thế này: giả sử chúng ta có phép hóa thân to
lớn bao nhiêu cũng được và nhỏ bé cỡ nào cũng được; lúc đó chúng ta đứng đâu đó
trong Vũ Trụ quan sát Trái Đất.
Chúng ta càng lớn dần lên thì độ phân giải của mắt càng thô nên Trái Đất
như nhỏ dần đi (chưa kể càng xa Trái Đất thì góc nhìn càng hẹp), đến
độ, ta chỉ còn nhìn thấy được dải Ngân Hà mà không thấy được Trái Đất
nữa. Lúc này ta nói Trái Đất vẫn tồn tại nhưng không hiện hữu, và nếu chúng ta hóa lớn đến độ không thấy bất kỳ thiên thể nào mà chỉ nhìn thấy một thinh không có giải Ngân Hà.
Ta to lớn hơn bội phần nữa, thì ngay cả dải Ngân Hà cũng không hiện hữu
nữa và nếu ta đạt đến tầm cỡ Vũ Trụ thì có thể chẳng có gì hiện hữu
trước mắt chúng ta ngoài cái Trống Rỗng vĩ đại(?!). Nếu chúng ta không
hóa to lớn mà làm ngược lại: hóa nhỏ. Càng hóa nhỏ độ phân giải của quan
sát càng cao và chúng ta càng không thấy được những vật lớn bởi kích
thước của vật lớn bỗng trở nên khổng lồ quá tầm quan sát mà chỉ có thể quan sát được một
phần rất hạn chế. Chẳng hạn khi ta bằng kích thước nguyên tử (khoảng
10^-8 cm) thì khoảng cách một mét đối với chúng ta lúc này sẽ tương đương
107 km đối với kích thước bình thường của chúng ta (mét). Càng hóa nhỏ,
sự đa dạng phong phú của các sự vật - hiện tượng càng mất dần đi và sự
đơn điệu bắt đầu chiếm ưu thế. Lúc đó quanh chúng ta không phải là khoảng rỗng rang vĩ đại nữa mà thay vào đó, chúng ta như bị chèn trong một khối gì đó cứng hơn kim cương. Hiện thực khi đó chắc rằng phải khác với
hiện thực thông thường của con người: không còn cái không gian khoáng
đạt với cây cối xanh tươi hoa lá, không còn những dòng sông mênh mang
chảy qua những bình nguyên trù phú để hòa vào đại dương, không còn bầu
trời đêm mênh mông thăm thẳm lấp lánh ngàn sao. Ở kích thước hạt nhân
nguyên tử, có thể chúng ta sẽ thường xuyên thấy sấm chớp và lốc xóay,
không gian không còn trong suốt mà đục ngầu sóng điện từ, vận động của
toàn thể đã trở nên chậm chạp vì bị sức cản của… không gian và rất có
thể do có sự cản trở ấy mà các hạt vật chất (gồm protôn, nơtrôn, điện
tử,…) không thể di dời theo đường thẳng được mà phải luồn lách như một
giả sóng, dích dắc. Chúng ta hóa nhỏ nữa, nhỏ hơn nữa, nhỏ đến tận cùng
giới hạn và chẳng quan sát được gì nữa vì không gian đã “đông đặc”, hóa
cứng để không cho Hư Vô có cơ hội “xâm nhập” vào… Đó chắc chắn phải là
cõi cứng tuyệt đối. Chúng ta có thể hóa
nhỏ hơn nữa để vượt qua cái giới hạn tột cùng ấy không? Không mà cũng
có! Không là vì không thể bước qua giới hạn của Tồn Tại; có là vì Tồn
Tại không thể có giới hạn (vì như thế ngoài giới hạn sẽ phải là Hư Vô)
và khi chúng ta bước qua giới hạn của sự nhỏ tột cùng ấy, chúng ta sẽ trở về với thế
giới vô cùng lớn "này", từ bên kia giới hạn của sự cực nhỏ của Tồn Tại. Nhìn vào cõi vi mô cũng tương tự như nhìn ra xa tít tắp trong cõi vĩ mô!
Vì vạn vật, tất cả các sự vật - hiện tượng đều là sự biểu hiện của vật
chất và vận động vật chất, vì Tự Nhiên Tồn Tại biểu hiện là một Vũ Trụ
tổng thể của vật chất và vận động, vì bên cạnh Tồn Tại không thể là Hư
Vô và sự xuất hiện của Hư Vô là vô vọng nên Vũ Trụ được quan sát ở tầng
tột cùng ấy chỉ là một hiện thực với sự hiện hữu của không gian lấp đầy
cái gì đó mà lúc này, chúng ta cứ tạm gọi là "tiền vật chất" với
hai thể tương phản của nó (gọi là âm và dương?). Hai
thể tương phản này luôn làm hiện ra và biến mất vào không gian "tiền vật chất"
ấy. Khoảng tồn tại của một thể vật chất tương phản (âm hoặc dương) là
khoảng giữa sự xuất hiện và biến mất của nó; vì mang tính dài lâu nên
được gọi là khoảng thời gian, và đó chính là khoảng thời gian nhỏ nhất, là đơn vị thời gian nhỏ tuyệt đối của Vũ Trụ.
Như vậy có thể đoán định rằng sự phân tầng phân lớp một cách tương đối
theo qui mô của Tự Nhiên Tồn Tại, của Vũ Trụ trước quan sát là một sự
thực khách quan, tùy thuộc vào nguồn gốc hình thành nên quan sát, tùy
thuộc vào năng lực và trình độ quan sát mà hiện thực ở mỗi tầng nấc của
Vũ Trụ có thể hiện lên khác nhau, tuy cùng một thế giới khách quan. Ở
tầng sâu thẳm, khoảng tột cùng của vô cùng nhỏ, không gian thể hiện như
một thể tích "đông cứng". Càng về phía vĩ mô, không gian càng "loãng" dần và trở nên rỗng rang hoàn toàn ở vô cùng lớn (không phải vô tận!). Vậy có thể nói, Vũ Trụ là không gian lấp đầy...thể tích, bao gồm toàn bộ vật chất. Nói chính xác hơn: nói về Tồn Tại có nghĩa là nói về Vũ Trụ, Vũ Trụ bao gồm không gian, thời gian và vật chất, như vậy nó cũng là nơi chứa chấp mọi chuyển hóa, vận động, hiện tượng, biến cố. Như thế, chúng ta phải đi tới quan niệm: vật chất có nguồn gốc từ không gian. Vậy không gian có nguồn gốc từ đâu? Đây là câu hỏi không thể trả lời! Để tránh Thượng Đế, chúng ta khẳng định: không gian là vốn dĩ thế Tồn Tại. Nhưng Một Tồn Tại vĩ đại được hợp thành nên từ không có gì hay Hư Vô là một quái dị, không tưởng tượng nổi, nên lại phải quan niệm: Tồn Tại là có giới hạn ở tột cùng nhỏ, nghĩa là Vũ Trụ là sự
cấu thành từ những đơn vị tuyệt đối nhỏ, bất khả phân gọi là “hạt” không gian. Các hạt ấy phải cố định tuyệt đối trong Vũ Trụ, phải “chồng
khít” lên nhau, áp chặt vào nhau để sao cho không xuất hiện kẽ hở Hư Vô.
Vậy khi ta nói đến một thể tích trống không, không biết là gì cả, một
thể tích toán học trong hình học Ơclit thì chúng ta phải nghĩ ngay đến không gian và nói rằng thể tích đó chính là một khối tồn tại của Tồn Tại, nó thể hiện
về mặt lượng (lực lượng) của không gian. Hiểu như thế là chúng ta đã cố
tình đạt đến kết luận: không gian là nguồn gốc vật chất, là tên gọi khác của nó (chúng ta gọi) là "tiền
vật chất", và có thể gọi bức xạ điện từ là "vật chất nguyên thủy". Khi nói một thể tích không gian thì chẳng khác gì nói: một thể
tích "tiền vật chất" và thể tích đó là sự thể hiện về một lực lượng không gian nào
đó. Nếu ta xác định được giá trị thể tích của hạt vật chất thì ta cũng
sẽ tính được số hạt vật chất có trong thể tích không gian đang xét! Đó phải chăng là vật chất tối mà vật lý học hiện nay đang kiếm tìm?
Chúng ta thừa nhận rằng chúng ta quan niệm như vậy về không gian và vật
chất. Vật chất kiểu của chúng ta mang tính cụ thể, xác thực (và biết rằng bản chất thực sự của vật chất là không gian). Không gian là nền tảng làm xuất hiện
vạn vật trong quan sát ở tầng nấc thế giới quan của chúng ta. Vật chất
hiểu kiểu như vậy sẽ phải khác với quan niệm của Anghen khi ông cho
rằng: “Vật chất, với tính cách là vật chất là một sáng tạo thuần túy của
tư duy, và là một điều trừu tượng thuần túy; Chúng ta bỏ qua những sự
khác nhau về chất của những sự vật, khi chúng ta gộp chúng, với tư cách
là những vật tồn tại hữu hình, vào khái niệm vật chất; do đó, khác với
những vật chất nhất định và đang tồn tại; vật chất, với tư cách là vật
chất, không có sự tồn tại cảm tính”, nói riêng và của triết học duy vật
biện chứng cũng như các trường phái triết học duy vật khác từ trước tới nay nói
chung!
Một phát kiến vĩ đại ra đời: Không Gian là tiền vật chất- là thứ "nguyên liệu" làm nên vật chất nền tảng
của mọi vật chất đặc thù, vật chất là cái làm nên vạn vật, vạn vật xuất
hiện từ không gian và biến vào không gian. Chúng ta là những người đầu
tiên đã khám phá ra một trong những điều bí ẩn nhất của Tự Nhiên Tồn Tại
và chúng ta có quyền vỗ ngực hãnh diện vì điều đó? Chưa biết đúng sai
thế nào mà đã kiêu căng tự phụ như thế thì thật là hồ đồ! Nếu là sai,
trước mắt mọi người, chúng ta sẽ là một hiện hữu “vô danh tiểu tốt” bị điện rồ, học
lóm mù quáng, với chứng hoang tưởng đã chuyển sang thể “vĩ cuồng”. Nếu
là đúng, thì người đời sẽ gọi chúng ta là lũ ăn cắp chiến công, vì vinh
quang đời đời thuộc về triết học Upanishad với nhận định “Tất cả các thế
giới kia từ đâu tới? Chúng từ không gian. Mọi sinh vật đều đến từ không
gian và quay trở về không gian, vì thế, không gian là khởi đầu và là
kết thúc”. Ở đây nếu muốn nói một lời nào để bày tỏ niềm sung sướng bởi
chúng ta đã có một không gian phù hợp với mong muốn riêng tư của mình,
thì chỉ có thể là: chúng ta vô cùng may mắn nhặt được viên ngọc bích quí
giá từ quá khứ xa xôi trong lịch sử nhận thức của loài người.
Một không gian - vật chất như mô tả ở trên, gồm vô vàn hạt không gian-vật chất
“nhét đầy chặt” Vũ Trụ sẽ vấp phải câu hỏi “hiểm ác”: nếu thế thì vật
chất vận động thế nào? Chắc chắn là các hạt không thể di dời được, vì
vừa bị vây chặt bởi “đồng loại”, vừa sẽ lập tức “bộc lộ” Hư Vô. Nếu
không thể di dời thì phải đi đến một kết luận rất “khó chịu” là tất cả
các hạt vật chất phải cố định tuyệt đối trong Vũ Trụ, và để tồn tại, để
phụng sự Tồn Tại, để đảm bảo tính thường biến và bất biến, đồng nhất và
dị biệt, không còn cách nào khác, chúng chỉ còn cách biến hóa nội tại.
Sự biến hóa này là vốn dĩ thế, là tự nhiên như thế, sự biến hóa nội tại
của một hạt vừa tự do vừa phụ thuộc, là kết quả biến hóa độc lập, vừa là nguyên nhân của
biến hóa nội tại của toàn thể các hạt khác bao quanh nó, làm nên sự tồn tại của nó. Mỗi một hạt so với những hạt
kề cận xung quanh chúng đều hoàn toàn giống nhau về bản chất vật chất –
không gian, nhưng đều khác nhau về trạng thái. Chúng vừa giống nhau vừa
khác nhau như thế nên chúng tồn tại một cách vừa tuyệt đối vừa tương
đối, tuyệt đối đối với quan sát và tương đối so với nhau. Đó là mường
tượng hết sức "bạo lực" về sự chuyển hóa của không gian- vật chất nhằm thỏa mãn những
đặc tính của Tự Nhiên Tồn Tại mà chúng ta đã “dựng đứng” nên. Lần này,
sự phán đoán chính hiệu là của chúng ta, nó làm cho tâm hồn chúng ta hết sức
hoang mang và hoảng hốt. Đành vậy, nếu muốn không tồn tại phương thức
vận động kiểu di dời vị trí. Cần nhớ, Vũ Trụ là đầy đủ! Hãy tự an ủi rằng trong cõi hoang đường,
mọi cái đều có quyền và đều có thể tồn tại!
Ở tình trạng tỉnh táo (không hoang tưởng), trong phạm vi thô thiển và
què quặt, việc hình dung Vũ Trụ với không gian - vật chất như trên có lẽ
cũng không khó lắm. Có thể coi hiện thực ở khoảng cuối của sự nhỏ tương
tự như hiện thực mà chúng ta quan sát “thấy” ở trong lòng một đại
dương, bốn bề nước, toàn nước là nước, không có bất cứ gì khác ngoài
nước và nước đóng vai trò như thứ vật chất – không gian mà chúng ta đã
ước đoán. Trong lòng đại dương ấy, chúng ta “thấy” muôn ngàn áp lực mà
nếu có máy đo áp lực cực nhạy, chúng ta cũng sẽ “thấy được” sự tác động
không đều của các phân tử nước (hạt vật chất); có một cái gì đó lan
truyền khắp nơi nhưng hình như các phân tử nước vẫn ở nguyên vị trí của
chúng (bỏ qua sự dao động quanh vị trí cân bằng)… Cùng cái thế giới
khách quan ấy nhưng bây giờ chúng ta quan sát nó ở chiều kích bình
thường thì hiện thực sẽ là một quang cảnh quen thuộc: cái dòng hải lưu
nóng lạnh, những vùng nước ấm, những vùng nước mát, những vùng xoáy to
nhỏ… xuất hiện, có khi là di động, rồi mất đi: đó chính là những sự vật -
hiện tượng (những tảng băng) hình thành nên từ vật chất - không gian (từ nước) và biến
mất (tan) vào vật chất - không gian (vào nước).
Thế là, vấn đề không gian coi như đã được “mổ xẻ” xong. Bây giờ đến vấn
đề thời gian. Chúng ta không thể “làm thịt” thời gian giống như đã làm
với không gian vì đơn giản là nó… vô hình. Thời gian là một hiện hữu vô
hình; là khoảng lâu-mau nào đó của tồn tại và cũng là một hiện hữu, hiện
thực … chúng ta đã kết luận được như vậy. Nhưng làm sao chúng ta cảm
giác được khoảng lâu-mau ấy? Bởi vì chúng ta có đồng hồ đo? Không hẳn
thế, vì đồng hồ là sản phẩm do chúng ta làm ra và vận động theo như cách
thức mà nó được chế tạo nên nó chẳng qua cũng chỉ là một sự vật - hiện
tượng bình thường. Cho dù là có thể thông qua đồng hồ mà biết được
khoảng lâu-mau ấy, thì giả sử như chúng ta lúc đó chẳng có bất cứ loại
đồng hồ nào, chúng ta có cảm nhận được khoảng cách lâu-mau đó không? Có
thể! Chúng ta có thể cảm nhận được là nhờ kinh nghiệm ở những lần quan
sát thấy những biến đổi, những lần so sánh độ dài của các biến đổi, sự
xuất hiện và mất đi của quá trình nào đó. Chẳng hạn con người quan sát
thấy sự tuần hoàn ngày và đêm, đồng thời cũng quan sát được sự hiện hữu
của một sự kiện nào đó mà khoảng lâu-mau của nó ngắn hơn khoảng lâu-mau
của một ngày đêm là 24 giờ. Một giờ và 24 giờ đã tạo cho chúng ta cảm
giác về độ lâu-mau, chúng ta nhớ được, lưu giữ thành kinh nghiệm của cảm
giác. Nhờ đó, ở những lần quan sát sau, về mặt định tính, chúng ta sẽ
cảm giác được độ lâu-mau của các sự kiện khác. Trong cuộc sống hàng
ngày, theo dõi một sự kiện nào đó, chúng ta thường thốt lên: “sao lâu
quá!” hay: “nhanh thế?” là vì vậy.
Từ đó mà suy ra rằng một hiện thực hay hiện hữu không biến đổi (tương
đối) trước quan sát sẽ không làm cho quan sát cảm nhận được thời gian và
do đó cũng không định lượng “chính xác” được thời gian. Nói rộng ra,
nếu thế giới này bất biến như một bức tranh tĩnh vật thì chẳng bao giờ
xuất hiện khái niệm thời gian (vẫn có thể xuất hiện khái niệm không
gian!). Bị ràng buộc bởi kinh nghiệm, kiến thức về sự biến đổi, vì thời
gian đã được phát hiện từ trước nên trước một hiện thực bất biến, chúng
ta vẫn cảm nhận như thời gian hiện hữu trong đó, đang “trôi” trong đó,
gây biết bao nhiêu lẫn lộn, phiền toái trên đời.
Chỉ nhờ quan sát được những biến đổi trong hiện thực và so sánh độ lâu-mau giữa chúng trong quá trình nhận thức để phục vụ đời sống mà khái
niệm thời gian hình thành. Do vậy chúng ta có thể nói nó có nguồn gốc từ
sự biến đổi của các sự vật - hiện tượng hiện hữu trong hiện thực, khái
quát hơn, từ sự vận động của vật chất tác động lên tư duy. Hay nói cách
khác: thời gian là một đặc tính của vận động (sự lâu mau) đã qua nhận
thức.
Chúng ta có linh cảm rằng quan niệm về thời gian như thế là mạch lạc,
trong sáng và thời gian vì thế trở nên dung dị, dễ hiểu. Một quan niệm
càng mạch lạc, dung dị bao nhiêu càng gần chân lý bấy nhiêu. Nếu vậy,
cần phải xét lại quan niệm về không gian của chúng ta. Việc gán cho
không gian cái chức năng "đẻ ra" vật chất là một hành động cực đoan, thô bạo. Không,
phải nói đó là một hành động hèn nhát thì đúng hơn. Vì thấy cái trống
rỗng có nguy cơ biến thành Hư Vô (cái mà chúng ta không bao giờ muốn
nghĩ tới!), chúng ta đã vội vàng, mù quáng ép buộc không gian thành vật
chất, xây dựng nên một quan niệm rất mực u ám, hàm chứa nhiều phi lý và quái dị.
Phải quan niệm lại không gian!
Noi gương cách quan niệm về thời gian, chúng ta sẽ quan niệm lại không
gian như thế này: Nhờ quan sát các sự vật đa dạng trong hiện thực; nhờ
so sánh sự khác biệt về hình dáng và về qui mô (sự to nhỏ) giữa chúng mà
khái niệm không gian được hình thành trong nhận thức. Do đó, có thể cho
rằng khái niệm không gian có nguồn gốc từ sự hiện hữu trong hiện thực;
khái quát hơn, từ hiện thực vật chất tác động lên tư duy trừu tượng. Hay nói cách
khác, không gian là một đặc tính thể hiện của vật chất (sự to nhỏ, tròn
méo) đã qua nhận thức, cái khoảng không gian trống rỗng hiện hữu trong
hiện thực ấy, giờ đây chúng ta phải hiểu như thế nào? Khoảng ấy phải
được lấp đầy bởi vật chất nền tảng (thứ vật chất mà chúng ta vừa tạm
“xây dựng” mô hình như ở trên hoặc có thể là chân không lượng tử trong
vật lý học, hoặc sự rỗng rang nhưng không Hư Vô của Phật Giáo). Vật chất
nền tảng đã hiện hữu trong hiện thực (của con người) như một sự trống
rỗng, bất định về không gian và thời gian! Nếu thế thì ta cũng suy ra
rằng sự hiện hữu và hiện thực chỉ có thể tồn tại môt cách xác định trước
một quan sát nhờ hai đặc tính của chúng tác động vào tư duy như là
không gian và thời gian.
Đến đây, câu hỏi cuối cùng được đặt ra là với không gian và thời gian
kiểu như vậy thì giữa chúng có mối tương quan nào không, hay là chúng
hoàn toàn độc lập so với nhau? Trả lời được câu hỏi này không phải là
điều dễ dàng gì vì trong quá trình lập luận diễn giải hay tranh biện
triết học, do sức ì của bộ não mà chúng ta thường xuyên lẫn lộn giữa
những cái chưa qua nhận thức và đã qua nhận thức (nghiêm trọng hơn khi
nhận thức còn sai lạc). Nhưng nếu không tìm cách trả lời thì sự tò mò sẽ
mãi hành hạ tâm can chúng ta, làm cho chúng ta sẽ phải khổ sở vì nó
trong cuộc hành trình này. Thôi thì mặc lòng, phải cố gắng một phen nữa,
ra sao thì ra, được đến đâu hay đến đấy.
Chúng ta sẽ lại bắt đầu quan sát một hiện thực tưởng tượng (trong đời
sống, tưởng tượng là thứ vô cùng quí giá nhưng không phải giàu tiền giàu
bạc là có thể mua được!).
Trước mắt chúng ta là một môi trường (nói toẹt ra là không gian trống
rỗng!), trong đó hiện hữu các sự vật - hiện tượng. Các sự vật - hiện
tượng đó vận động: tác động tương hỗ với môi trường, thông qua môi
trường tác động tương hỗ với nhau hoặc chuyển động va chạm trực tiếp làm
chuyển hóa nhau và cùng biến đổi. Có những sự vật - hiện tượng biến đổi
chậm, có những sự vật - hiện tượng biến đổi nhanh, có những sự vật -
hiện tượng lớn dần lên, có những sự vật - hiện tượng nhỏ dần đi, có
những sự vật - hiện tượng phân rã, tan rã, biến mất và cũng có những sự
vật - hiện tượng mới hình thành… nếu môi trường đủ rộng lớn, chúng ta sẽ
thấy đó chính là một cuộc xoay vần đa dạng về sự vật, phong phú về hiện
tượng, muôn màu muôn vẻ đầy biến loạn nhưng cũng trật tự, nhịp nhàng,
các sự kiện cứ tiếp nối nhau như tiền định và có vẻ như không bao giờ
ngừng nghỉ. Từ kinh nghiệm rút ra của thế giới thiên nhiên xung quanh
con người, chúng ta thấy rằng vận động xoay vần là mang tính chu kỳ, cân
bằng nên có mức độ ổn định cao làm cho quá trình trở nên dài lâu và so
với khoảng thời gian gọi là ngắn nào đó, một cách tương đối, chúng ta
nói đó là quá trình bất tận. Đứng trước một cuộc xoay vần như vậy, chúng
ta có cảm giác các sự vật - hiện tượng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau
và với môi trường, thông qua môi trường mà tác động lẫn nhau, làm
nguyên nhân và kết quả của nhau, độc lập tương đối trong phụ thuộc
tuyệt đối, tự do vận động theo “tiền định” đảm bảo tự do của toàn thể,
sao cho sự tồn tại của tổng thể (cuộc xoay vần) được bảo tòan, nghĩa là
sự vận động của toàn thể được duy trì cân bằng, ổn định và dài lâu (nếu
không còn môi trường nào khác bao trùm môi trường đang xét làm cho môi
trường đang xét trở nên là một sự vật - hiện tượng của môi trường lớn ấy
thì hiện thực mà chúng ta đang thấy sẽ trở nên vĩnh cửu vì nó chính là
biểu hiện của tổng thể Tự Nhiên Tồn Tại!!!); nghĩa là có sinh thì có tử,
có phát triển thì có suy tàn; cái này mất đi để cái khác sinh ra (và
buộc phải sinh ra!), cái khác phát triển làm cho cái khác nữa phải suy
tàn đi… cứ thế cái quá trình “có vay có trả” ấy là bất tuyệt.
Môi trường trong hiện thực đang được chúng ta quan sát (coi là cô lập so
với bên ngoài nó) cũng đóng vai trò như một hiện hữu, nhưng là hiện hữu
đặc biệt, hiện hữu của sự vật - hiện tượng nền tảng của các sự vật -
hiện tượng có trong nó. Do đó nó cũng “vui buồn” theo cuộc sinh sinh tử
tử trong lòng nó. Mọi biến động gây ra bởi các sự vật - hiện tượng trong
môi trường đều làm mất cân bằng vận động của tổng thể làm môi trường
phải biến đổi theo để cân đối duy trì sự cân bằng vốn có, trong trường
hợp quá độ (phải có tác động từ bên ngoài), sự cân bằng mới sẽ được
thiết lập, một môi trường mới (tương đối khác môi trường cũ) xuất hiện,
làm biến đổi thậm chí làm tiêu vong một số sự vật - hiện tượng cũ đã
không còn phù hợp, không thể thích ứng với điều kiện mới và đồng thời
những sự vật - hiện tượng mới ra đời (có thể gọi như vậy là biến cố hay
những biến cố không?).
Mô tả một hiện thực sống động, “vĩ đại”, một cuộc xoay vần đến bất tuyệt
mà chỉ với vài dòng như thế rõ ràng là không đầy đủ, là sơ sài, phiến
diện, “đui què mẻ sứt” và rất dễ gây hiểu lầm sai lạc. Nhưng không sao,
Tự Nhiên Tồn Tại đã chịu vô vàn sự hiểu lầm rồi, thêm vài ba sự hiểu lầm
nữa cũng chẳng làm trầm trọng thêm tình hình. Vả lại, vâng theo lời
khuyên của Sadi Carnot, nhà vật lý học tài năng người Pháp: “Nói ít thôi
về cái mà ta biết, và hoàn toàn đừng nói về cái mà ta chưa biết”, chúng
ta dại gì mà lòi cái dốt bao la của mình ra. Nhưng chủ yếu là vì chúng
ta chỉ cần nhận biết vài vấn đề có “tính nguyên tắc” về vận động (nội
tại) của một hiện thực để có cơ may lần mò đến được với điều mà chúng ta
quan tâm.
Giữa các sự vật - hiện tượng với nhau và với môi trường có những mối
quan hệ phụ thuộc lẫn nhau khắng khít. Không có một sự vật - hiện tượng
nào tồn tại mà thiếu vắng môi trường và không chịu sự ảnh hưởng ít nhiều
của môi trường. Một sự suy tàn và tiêu vong của sự vật - hiện tượng nào
đó sẽ ảnh hưởng đến toàn thể, kích thích toàn thể biến đổi phù hợp để
duy trì vận động cân bằng. Sự chấm dứt tồn tại của (những) sự vật hiện
tượng không có nghĩa là sự mất đi của (lượng) vật chất làm nên nó (lượng
vật chất là bảo toàn trong một hệ cô lập) mà chỉ có nghĩa là sự phân rã
thành những dạng vật chất thành phần, hoặc vật chất nền tảng và (những)
sự vật hiện tượng đó không hiện hữu nữa. Cùng với quá trình suy tàn và
tiêu vong ấy, thỏa mãn đòi hỏi về sự cân bằng vận động của tổng thể và
dưới tác động tương hỗ trong tổng thể mà hình thành nên mầm mống ra đời
(những) sự vật - hiện tượng mới. Sự vật - hiện tượng mới xuất hiện và
tồn tại được là nhờ có toàn thể và sau đó là nhờ có vận động nội tại
tương đối độc lập, có tính cá biệt, phân biệt được với xung quanh, cái
mà do chính toàn thể “góp sức” xây dựng nên.
Cần nói thêm cho rõ là tất cả những khái niệm như hiện thực, hiện hữu,
nội tại… chỉ mang ý nghĩa tương đối, theo quan điểm của quan sát. Tùy
thuộc vào quan sát mà một nội tại được coi là một hiện thực (bị cô lập
tương đối) và ngược lại. Đó cũng chính là sự “bấp bênh” cố hữu, tất yếu
của khái niệm và cũng có lẽ vì thế mà nhiều người cho rằng thế giới này
là không thể nhận thức được, là một phù phiếm đơn thuần tư duy, hay như
Phật Giáo; là một sự giả hợp. Dù sao đi nữa thì “trái đất vẫn quay”
(theo lời Galillê) và Tồn Tại cứ vẫn tồn tại (theo lời của những người
bình dân)!
Chúng ta nói năng loanh quanh từ nãy tới giờ để đạt đến điều này (không
biết có đạt không nữa?): một sự vật - hiện tượng luôn là thành phần làm
nên nội tại của một sự vật - hiện tượng bao trùm nó, đồng thời bản thân
nó cũng có một nội tại; không có nội tại thì không có tồn tại, vận động
nội tại là sự thể hiện của tồn tại trước quan sát, được quan sát gọi là
sự vật - hiện tượng, và hiện hữu trước quan sát. Hiểu ngắn gọn thì: hiện
hữu là sự trình hiện (phô diễn) vận động nội tại của một (hay một số)
sự vật - hiện tượng nào đó. Khi đi trong sa mạc, chúng ta thường thấy ảo
ảnh. Đó phải được cho là một hiện hữu. Nhưng là loại hiện hữu gì? Ảo
ảnh là một hiện hữu thực (không ảo!) và hữu hình, là sự trình hiện của
những vận động tác động lẫn nhau của hàng loạt các sự vật - hiện tượng
(hay có thể là một sự vật - hiện tượng, tùy theo qui mô của sự kiện cũng
như qui ước của quan sát) mà truy sát ra là vận động nội tại và truy
cho đến cùng, chính là vận động vật chất. Chỉ khi ta hình dung lại ảo
ảnh đó trong não thì cái được hình dung ra ấy mới được gọi là hiện hữu
ảo, lúc này ảo ảnh được gọi là ảo ảnh ảo.
Sự vật - hiện tượng được quan sát cảm nhận thì gọi là hiện hữu, vì thế
mà không có hiện hữu nào mà không có nguồn gốc từ vận động nội tại. Mặt
khác, như chúng ta đã trình bày, một trong những đặc tính cơ bản nhất
của hiện hữu, nhờ đó mà có thể nhận biết được hiện hữu, đó là không
gian. Nói đặc tính cơ bản của một hiện hữu là vì ngoài ra nó còn có
những đặc tính không cơ bản, không phổ biến khác nữa. Chẳng hạn trong
hoàn cảnh điều kiện đặc thù của Trái Đất, tất cả mọi hiện hữu trong đó
(kể cả con người quan sát) đều có những nét đặc thù phù hợp, thích nghi
với điều kiện ấy, do đó mà con người quan sát còn cảm giác hiện hữu bởi
mùi thơm thối, vị ngọt đắng, sự nóng lạnh, tĩnh lặng và ồn ào… (nhưng
rốt cuộc, tất cả những điều ấy cũng là biểu hiện của vận động nội tại và
thấp thóang không gian). Có lẽ là một võ đoán: tuy chưa chắc đã là tất
cả nhưng mọi chủ thể quan sát có tư duy không thể không cảm nhận được
cái mà trong khái niệm, con người gọi là không gian, khi đứng trước một
hiện thực?
Chuyển hóa không gian, vật chất và vận động vật chất làm nên tất cả. Một nội tại chắc chắn cũng
chỉ là hệ thống vận động đặc thù nào đó của không gian-vật chất. Để được gọi là
nội tại, nội tại phải vận động như một hành động thể hiện mình. Nói đến
nội tại là nói đến vận động nội tại. Một nội tại không vận động là điều
vô nghĩa (nói theo nghĩa tuyệt đối của khái niệm này!).
Như vậy, thông qua hiện hữu, vận động nội tại bộc lộ ra như một đặc tính
của hiện hữu, như một hình thức của hiện hữu mà chúng ta gắn nhãn mác,
đặt tên cho nó là không gian. Thực ra, vận động nội tại hay môi trường chỉ là khái niệm tương đối, một vận động ở phạm vi nào đó là vận động nội tại nhưng ở phạm vi khác thì lại là vận động môi trường!
Quan sát ở một góc độ khác (chẳng hạn ở tầng nấc “sâu” hơn, có qui mô
nhỏ hơn), có các sự vật - hiện tượng nào đó hiện hữu, vận động, tương
tác lẫn nhau và biến đổi. Vì đó là một hiện thực đầy biến động nên quan
sát sẽ cảm nhận được mối tương quan về mặt lâu mau, về thứ tự sớm muộn
của các biến đổi và trong tư duy hình thành nên khái niệm thời gian.
Tiếp tục thay đổi góc độ quan sát kiểu như thế, ngày một sâu hơn, vào
thế giới vô cùng nhỏ, chúng ta luôn luôn thấy cảnh tượng tương tự: nội
tại của sự vật - hiện tượng là một hiện thực, cũng có khoảng rỗng rang
và các sự vật - hiện tượng biến đổi, chuyển động trong đó, chỉ có điều
càng về hướng vô cùng nhỏ, các sự vật - hiện tượng càng mất đi tính đa
dạng của chúng (sự giống nhau càng nhiều), và khoảng rỗng rang càng ngày
càng như “đặc sệt” lại. Rồi cái gì đến sẽ phải đến! Hiện thực cuối cùng
hiện ra; chất chứa một mâu thuẫn “khủng khiếp”, đe dọa nghiêm trọng đến
sự tích về một Vũ Trụ đầy không gian mà chúng ta đang say sưa kể, có vẻ
như rất hay ho mà cũng có lý nữa. Các sự vật là những hạt vật chất, biến
đổi chuyển động trong cái rỗng rang mà giờ đây cũng đặc chặt các hạt không gian (chúng ta đã “muốn” thế mà!)!
Để bảo vệ “thành quả” của mình, nhất thiết chúng ta phải đạp bằng mâu
thuẫn nêu trên, đồng thời lý giải được cái hiện thực cuối cùng mà chúng
ta đã “vô phúc” nhận thấy trong lúc này, vẫn có đủ đặc tính của một hiện
thực “thông thường”, vẫn gồm những hiện hữu biến đổi, chuyển hóa lẫn
nhau mà thôi; nghĩa là gồm các sự vật - hiện tượng và môi trường (khoảng
rỗng rang).
Chúng ta chẳng đủ năng lực làm việc đó. Cứ giả sử rằng chúng ta có thể
vượt qua mâu thuẫn “đáng ghét” đó thì một vấn đề còn “khủng khiếp” hơn
nữa (có lẽ khủng khiếp nhất từ đầu cuộc hành trình đến giờ!) lại hiện
ra: nội tại hạt không gian là gì, trong đó có vận động không và vận động
đó có phải của chuyển hóa không gian không? Vì thế, để tránh một chướng ngại không
thể vượt qua nổi, chúng ta hãy giấu nhẹm tất cả những gì quan sát thấy
về hiện thực cuối cùng, đừng cho ai biết và quay trở lại ở một tầng nấc
nào đó với một hiện thực vẫn còn phô diễn rõ ràng, các sự vật - hiện
tượng và khoảng rỗng rang, để tiếp tục khảo sát, suy tư nhưng theo…
hướng khác.
Từ những góc độ quan sát khác nhau theo chiều sâu (nhớ là trong đó không
có lần quan sát cuối cùng vì chúng ta đã “ỉm” nó đi mất rồi), chúng ta
đi đến nhận xét: các khái niệm “hiện thực”, “sự vật - hiện tượng”, “nội
tại” đều mang tính tương đối, tùy thuộc vào cảm nhận chủ quan, sự qui
ước của quan sát, cũng như tầng nấc qui mô của thế giới khách quan được
quan sát. Cái là sự vật hiện tượng ở tầng qui mô lớn hơn sẽ được thấy
như một hiện thực ở tầng có qui mô nhỏ hơn và ngược lại. Và ngược lại…, ừ
nhỉ, chiều kích cực đại của hiện thực chính là Vũ Trụ, là nội tại của
Tồn Tại. Nhưng chúng ta đã quan niệm rằng Tồn Tại mang tính nước đôi,
vừa có ngoài, vừa có trong, là cả hai mà cũng không phải cả hai, do đó
buộc phải thừa nhận Vũ Trụ vừa hữu hạn để có nội tại, vừa vô hạn để
không có nội tại; vừa quan sát được vừa không quan sát được và như vậy
Vũ Trụ là một hiện thực vừa thực vừa ảo. Chúng ta cũng đồng tình với
quan niệm về Vũ Trụ của nhà vật lý học Stephen Hawking: Vũ Trụ hữu hạn
nhưng vô biên (thực ra quan niệm này là phiến diện, chỉ đúng trong một
phạm vi giới hạn nhất định!). Tuy nhiên, chúng ta sẽ nói thêm rằng: vì
là hữu hạn nên Vũ Trụ có tận cùng lớn và tận cùng nhỏ; vì là vô biên nên
vượt qua tận cùng lớn sẽ là tận cùng nhỏ và ngược lại, vượt qua tận cùng
nhỏ sẽ là tận cùng lớn. Nếu chui được vào hạt không gian, chúng ta sẽ thấy
một hiện thực của cái Tận Cùng Lớn, nghĩa là sẽ lại trở về với quang cảnh
thiên văn quen thuộc. Và cả những điều tưởng tượng này, chúng ta cũng
phải giấu nhẹm nốt!
Quan sát ở bất cứ “góc biển, phương trời” nào cũng đều chỉ thấy sự vật -
hiện tượng với nội tại cũng là những sự vật - hiện tượng và rốt cuộc
chỉ là vật chất và vận động của vật chất. Không có nội tại thì sự vật -
hiện tượng không tồn tại. Nội tại vận động và vận động theo một cách
thức nào đó làm cho sự vật - hiện tượng phân biệt được và luôn biến đổi
phù hợp với biến đổi của môi trường chính nó. Đối với sự vật - hiện
tượng, biến đổi là tuyệt đối, sự ổn định chỉ là tương đối. Sự ổn định
tương đối ấy làm cho có ý niệm về không gian; quá trình biến đổi ấy làm
cho quan sát có ý niệm về thời gian. Một sự vật - hiện tượng được coi là
xác định trong hiện thực khi chúng ta biết được vị trí (tọa độ), hình
dáng, kích thước… của nó, nghĩa là phải biết những yếu tố làm nên các
biểu hiện không gian của nó trong không gian hiện thực; hay nói gọn lại
là phải biết được không gian của nó trong hiện thực. Bởi cái mà không
gian của sự vật - hiện tượng “chứa đựng” (nội tại) luôn vận động nên nó
chỉ ổn định tạm thời, tương đối theo qui ước của quan sát và luôn luôn
biến đổi… Nhờ theo dõi đuợc những biến đổi của sự ổn định mà quan sát
nhận diện được thời gian. Ổn định và biến đổi chính là một biểu hiện về
tính phân định của Tồn Tại, về mối quan hệ giữa bất biến và thường biến,
về sự không phân biệt được và phân biệt được của một sự vật - hiện
tượng với chính nó. Nói đến không gian thì phải nói đến biến đổi, nói
đến biến đổi thì phải nói đến thời gian; không gian biến đổi là sự phân
biệt với chính nó và có thể nói không gian biến đổi theo thời gian. Để
so sánh mức độ biến đổi hay khoảng tồn tại được cho là ổn định (về không
gian) của các sự vật hiện tượng, quan sát quy ước một “thước đo” thời
gian chung làm hình thành nên mối quan hệ giữa không gian và thời gian.
Mối quan hệ đó có thể là khác nhau và cũng có thể là giống nhau giữa các
sự vật - hiện tượng. Những sự vật - hiện tượng có mối quan hệ không -
thời gian giống nhau được cho là giống nhau. Giống nhau không có nghĩa
là không phân biệt được. Mọi sự vật - hiện tượng luôn được phân biệt
trong không gian và thời gian (quy ước) của hiện thực. Hai sự vật dù có
giống nhau đến mấy thì quan sát cũng phân biệt được, chí ít thì chúng
cũng khác biệt về tọa độ (nghĩa lã về không gian!). Tồn tại tình hình đó là do nội tại, cái không
gian chứa đựng, quy định. Tại sao khoảng rỗng rang và các sự vật - hiện
tượng xét cho cùng thì đều “chứa đầy” một “thứ” là không gian chuyển hóa mà
sao chúng lại khác nhau, có thể phân biệt đuợc với nhau? Vì Vũ Trụ, đâu
đâu cũng đầy không gian-vật chất như nhau nên sự khác nhau về lượng sẽ dẫn tới khác
nhau về quy mô không gian. Nếu chỉ thế thôi thì sự vật - hiện tượng làm
sao mà hiện hữu được, do đó cũng không thể phân biệt được. Phải đi đến
suy đoán rằng chính vận động vật chất (xét cho cùng là biểu hiện của chuyển hóa không gian) là nguyên nhân làm nên mọi sự
khác biệt. Những nội tại khác nhau đều có cách thức và mức độ vận động
khác nhau tương đối, làm hình thành nên những cấu trúc đặc thù, có tính
riêng và được gọi là “chất” của nội tại. Nhớ lại rằng vật chất muốn vận
động được thì trước tiên phải phân biệt được với nhau, phải phân định
thành những lực lượng tương phản nhau, để chuyển hóa nhau, nghĩa là cần
phải cho rằng vật chất ở tầng sâu thẳm của nó luôn tồn tại ở ba trạng
thái âm, dương và trung tính (cái ở giữa). Có nhiều khả năng mối tương
quan của ba trạng thái ấy trong một nội tại làm hình thành nên mức độ và
cách thức vận động của nội tại, tùy thuộc vào môi trường, cái đã sinh
thành, cưu mang nó. Nếu chúng ta gọi vận động là bị biến đổi và cũng có
khả năng làm biến đổi thì cũng có thể gọi khả năng làm biến đổi là năng
lượng và như vậy mức độ vận động cũng có thể được gọi là lượng năng
lượng; mức độ vận động của một nội tại có thể được xác định bởi một giá
trị gọi là mật độ năng lượng (năng lượng chia cho thể tích chứa nó).
Có thể đó là hướng giải thích khả dĩ nhất về sự khác nhau giữa các sự
vật - hiện tượng. Các sự vật - hiện tượng khác nhau là khác nhau về
“lượng” và “chất”. Trong một hiện thực, cái khoảng không gian rỗng rang,
suy ra từ sự giải thích trên có thể có mức năng lượng thấp nhất; thậm
chí cho là bằng không nhưng không gian-vật chất vẫn luôn đầy và vẫn vận động. Vận
động nội tại của khoảng rỗng rang ở mức độ thuần khiết hoàn toàn của nó
(không xuất hiện những trạng thái tương phản làm nên năng lượng), là vận
động tự thân, phi năng lượng; vận động theo sự quy định chặt chẽ của
mối liên hệ phụ thuộc lẫn nhau, là tiền đề và kết quả của nhau của toàn
thể các hạt vật chất trung tính có trong đó cũng như trong Vũ Trụ. Để
phân biệt hạt vật chất trung tính với các hạt tương phản (trạng thái
tương phản của chính nó), chúng ta tạm gọi (ở đây thôi!), hạt vật chất
trung tính là tiền vật chất (khái niệm của các nhà vật lý hiện đại trong
công cuộc tìm kiếm căn nguyên của Vũ Trụ).
Mối quan hệ giữa không gian và thời gian của sự vật-hiện tượng chính là bộc lộ sự biến đổi về chất và lượng; về cách thức và mức độ vận động
nội tại của nó. Cách thức và mức độ vận động nội tại không phải cái gì
khác cả, cũng là mối quan hệ giữa không gian và thời gian bên trong nội
tại. Sự biến đổi không gian nội tại theo thời gian bên trong, bộc lộ ra
thành sự biến đổi không gian theo thời gian bên ngoài và làm xuất hiện
khái niệm năng lượng.
Đường nào thì cũng đến La Mã! Và La Mã đã hiện ra: đặc trưng của vật
chất là không gian, đặc trưng của vận động là thời gian, một cách hình
thức và nôm na, không gian chuyển hóa theo thời gian và biểu hiện của nó là vật chất vận động,
mức độ vận động (trước quan sát và nhận thức!) của vật chất là năng
lượng, năng lượng là động lực của quy trình nhân - quả, của phát triển
và suy tàn, của tạo dựng và phá hủy, là linh hồn của tất cả các sự vật -
hiện tượng.
Tóm lại, không gian là Tồn Tại và cũng là tồn tại, nên nó vừa bất biến vừa thường biến. Lực lượng của nó là thể tích. Không gian thực, duy nhất, tồn tại khách quan là không gian ba chiều. Còn lại, các không gian khác (không gian véctơ, không gian Riman,...) đều là không gian ảo, do tưởng tượng toán học có nguồn gốc từ đặc tính đầy đủ của Tồn Tại mà có. Vật chất xuất sinh từ không gian và trở về với không gian. Thời gian chỉ là tồn tại ảo, là một ước định chỉ mức độ thường biến (chuyển hóa) của không gian cũng như của mọi sự vật - hiện tượng.
Không gian mở ra một hiện thực, hiện thực là cái nôi của Nhân - Quả, và
thời gian chính là cơ hội cho Nhân - Quả được dàn trải mà nên hiện hữu.
Hiện thực là vườn hoa hiện hữu hồn nhiên vui sống và rực rỡ hiến dâng!
(Còn tiếp)
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét