Thứ Hai, 18 tháng 5, 2020

CÂU CHUYỆN LỊCH SỬ 170

(ĐC sưu tầm trên NET)
 
Nicolaus Copernicus - Cha Đẻ Thuyết Nhật Tâm, Đi Ngược Hệ Thống Lý Thuyết Đương Thời

3 bộ óc siêu việt của Hy Lạp cổ đại: Tạc nên 'tứ đại kỳ quan' khám phá đúng đến tận ngày nay

Trang Ly |

3 bộ óc siêu việt của Hy Lạp cổ đại: Tạc nên 'tứ đại kỳ quan' khám phá đúng đến tận ngày nay

Bằng cách quan sát, tư duy và tính toán, những bộ óc vĩ đại của Hy Lạp cổ đại đã tạo nên những chân lý thiên văn đúng cho đến tận ngày nay.

Không bỏ quá nhiều thời gian cho các cuộc chinh chiến triền miên, người Hy Lạp cổ đại dành rất nhiều thời gian để tư duy, quan sát vũ trụ và mọi thứ xung quanh họ. Do đó, các nhà khoa học Hy Lạp cổ đại đã có những khám phá quan trọng trong nhiều lĩnh vực như hình học, thiên văn học, toán học và y học, có sức ảnh hưởng trên toàn thế giới trong hàng ngàn năm.
Nhà địa lý, sử gia người Hy Lạp Herodotus sống vào thế kỷ thứ 5 Trước Công nguyên (TCN) được thế giới công nhận là nhà sử học đầu tiên của nhân loại. Vào khoảng năm 425 TCN, Herodotus đã xuất bản kiệt tác của mình mang tên "Historiail" (Lịch sử) kể lại câu chuyện về đội thủy thủ người Phoenicia được vua Neco II của Ai Cập (khoảng 600 TCN) phái đi thực hiện hành trình vòng quanh châu Phi bằng thuyền theo chiều kim đồng hồ, bắt đầu từ Biển Đỏ. Nếu hành trình này có thật thì đây là chuyến đi vòng quanh châu Phi được biết đến sớm nhất trong lịch sử. 
Bằng cách áp dụng kiến thức khoa học của tiền nhân, cộng với tư duy khám phá không ngừng, các nhà khoa học Hy Lạp cổ đại đã góp phần thay đổi thế giới với 4 'kỳ quan' khám phá thiên văn vĩ đại, đúng đến tận ngày nay.
3 bộ óc siêu việt của Hy Lạp cổ đại: Tạc nên tứ đại kỳ quan khám phá đúng đến tận ngày nay - Ảnh 1.
Vài thế kỷ sau chuyến hành trình vòng quanh châu Phi bằng đường biển, thiên văn học thời cổ đại đã có rất nhiều tiến bộ.
Vào thế kỷ thứ 3 TCN, nhà thiên văn, nhà toán học người Hy Lạp Aristarchus xứ Samos (310 TCN-230 TCN) đã lập luận rằng Mặt Trời là ngọn lửa trọng tâm của vũ trụ, và ông sắp xếp tất cả các hành tinh được biết đến sau này theo đúng thứ tự khoảng cách xung quanh Mặt Trời.
3 bộ óc siêu việt của Hy Lạp cổ đại: Tạc nên tứ đại kỳ quan khám phá đúng đến tận ngày nay - Ảnh 2.
Thuyết nhật tâm do Astarchrius lập luận được biết đến sớm nhất trong lịch sử. Nguồn: Internet
Sau các quan sát, Aristarchus biết Mặt Trời lớn hơn Trái Đất hoặc Mặt Trăng rất nhiều và nhà thiên văn người Hy Lạp đã đưa ra phỏng đoán Mặt Trời phải có vị trí trung tâm trong Thái Dương Hệ. Đây chính là thuyết nhật tâm được biết đến sớm nhất trong lịch sử. Không may, văn bản gốc mà Aristarchus đưa ra lập luận này đã bị thất lạc.
Tuy nhiên, đến thế kỷ 16, nhân loại một lần nữa được tiếp cận chân lý bởi nhà thiên văn học người Ba Lan Nicolaus Copernicus (1473-1543), người thậm chí đã thừa nhận quan sát của Aristarchus trong quá trình phát triển tác phẩm "Về sự chuyển động quay của các thiên thể" của mình, trong đó nêu ra thuyết nhật tâm (Mặt Trời ở trung tâm) lần đầu tiên trong lịch sử hiện đại.
3 bộ óc siêu việt của Hy Lạp cổ đại: Tạc nên tứ đại kỳ quan khám phá đúng đến tận ngày nay - Ảnh 3.
Một trong những cuốn sách của nhà thiên văn, nhà toán học người Hy Lạp Aristarchus xứ Samos được lưu lại là về kích cỡ và khoảng cách của Mặt Trời và Mặt Trăng. Trong chuyên luận đáng chú ý này, Aristarchus đã đưa ra các tính toán được biết đến sớm nhất về kích thước và khoảng cách tương đối của Trái Đất đến Mặt Trời và Mặt Trăng.
Người xưa quan sát và nhận định rằng Mặt Trời và Mặt Trăng dường như có cùng kích thước trên bầu trời và chỉ biết Mặt Trời ở xa hơn. Họ nhận ra điều này từ hiện tượng nhật thực. Tuy nhiên, Aristarchus vẫn muốn tính toán khoảng cách bằng phương pháp toán học.
Khi quan sát Mặt Trăng ở hình dạng bán nguyệt, Aristarchus nhận thấy rằng Mặt Trời, Trái Đất và Mặt Trăng tạo thành một hình tam giác vuông.
3 bộ óc siêu việt của Hy Lạp cổ đại: Tạc nên tứ đại kỳ quan khám phá đúng đến tận ngày nay - Ảnh 4.
Một tờ bản thảo của Aristarchus. Nguồn: Wikipedia, CC BY-SA
Cách đó vài thế kỷ, vì nhà triết học người Hy Lạp Pythagoras xứ Samos (Pytago, 570 TCN-495 TCN) đã xác định độ dài của các cạnh trong tam giác vuông qua Định lý Pythagoras [nội dung; Bình phương cạnh huyền (cạnh đối diện với góc vuông) bằng tổng bình phương của hai cạnh còn lại] nên Aristarchus đã tận dụng định lý này để tìm ra khoảng cách từ Trái Đất tới Mặt Trời gấp khoảng từ 18 đến 20 lần so với khoảng cách từ Trái Đất đến Mặt Trăng.
Ông cũng ước tính rằng kích thước của Mặt Trăng xấp xỉ một phần ba so với Trái Đất, dựa trên thời gian diễn ra nguyệt thực.
Khoa học ngày nay cho thấy khoảng cách ước tính từ Trái Đất đến Mặt Trời của Aristarchus là quá ngắn do thiếu độ chính xác của kính thiên văn thời điểm đó, nhưng kích thước của Mặt Trăng so với Trái Đất lại chính xác một cách đáng kinh ngạc (Đường kính Mặt Trăng là 3.474 km, bằng 27% đường kính Trái Đất).
Ngày nay, chúng ta biết kích thước Mặt Trăng và khoảng cách từ Trái Đất đến Mặt Trăng chính xác là nhờ bởi một loạt các phương tiện, bao gồm cả kính thiên văn chuẩn xác, quan sát radar, và phản xạ tia laser còn lại trên bề mặt Mặt Trăng của các phi hành gia Apollo.
3 bộ óc siêu việt của Hy Lạp cổ đại: Tạc nên tứ đại kỳ quan khám phá đúng đến tận ngày nay - Ảnh 6.
Nhà toán học, địa lý và thiên văn người Hy Lạp Eratosthenes xứ Cyrene (276 TCN-195 TCN) nổi tiếng trong lịch sử nhân loại là người nghĩ ra hệ thống kinh độ và vĩ độ cũng như tính toán ra kích thước của Trái Đất.
3 bộ óc siêu việt của Hy Lạp cổ đại: Tạc nên tứ đại kỳ quan khám phá đúng đến tận ngày nay - Ảnh 7.
Eratosthenes xứ Cyrene là người nghĩ ra hệ thống kinh độ và vĩ độ cũng như tính toán ra kích thước của Trái Đất. Nguồn: Internet
Nếu như Pythagoras là người đầu tiên đề xuất về hình dạng hình cầu của Trái Đất thì Eratosthenes vào khoảng năm 240 TCN, bằng việc sử dụng lượng giác và kiến thức về góc của Mặt Trời vào giữa trưa ngày hạ chí, ở các vĩ độ khác nhau, đã tính toán ra chu vi của Trái Đất.
Eratosthenes lập luận, Mặt Trời ở đủ xa đến nỗi, bất cứ nơi nào tia sáng tới Trái Đất, chúng đều song song một cách hiệu quả. Vì vậy, sự khác biệt trong bóng tối đã chứng minh bề mặt Trái Đất cong. Eratosthenes đã sử dụng điều này để ước tính chu vi của Trái đất là khoảng 40.000 km.
Thành tựu hồi thế kỷ thứ 3 TCN này chính xác một cách đáng kinh ngạc cho đến tận ngày nay. Bởi theo trắc địa hiện đại, chu vi Trái Đất tại xích đạo là 40.075 km!
3 bộ óc siêu việt của Hy Lạp cổ đại: Tạc nên tứ đại kỳ quan khám phá đúng đến tận ngày nay - Ảnh 8.
Máy tính cơ học tồn tại lâu đời nhất trên thế giới là Cỗ máy Antikythera. Thiết bị đáng kinh ngạc được phát hiện trong một vụ đắm tàu ​​cổ ngoài khơi đảo Antikythera của Hy Lạp năm 1900.
3 bộ óc siêu việt của Hy Lạp cổ đại: Tạc nên tứ đại kỳ quan khám phá đúng đến tận ngày nay - Ảnh 9.
Phần sót lại của Cỗ máy Antikythera. Nguồn: Brett Seymour / WHOI
Cỗ máy Antikythera là phát minh của người Hy Lạp cổ đại, được sử dụng để dự đoán vị trí của các sự kiện thiên văn và nhật thực cho các mục đích về lịch và chiêm tinh thời xưa.
Nó là một cơ chế đồng hồ phức tạp bao gồm ít nhất 30 bánh răng bằng đồng chia lưới, được gia công tinh xảo, tỉ mỉ.
Khi xoay thủ công bằng tay, các bánh răng quay số ở bên ngoài hiển thị các giai đoạn của Mặt Trăng, thời gian của nguyệt thực và vị trí của 5 hành tinh được biết đến (sao Thủy, sao Kim, sao Hỏa, sao Mộc và sao Thổ) trong các khoảng thời gian khác nhau của một năm.
Điều bí ẩn là, chúng ta không biết chính xác ai đã xây dựng nó. Nhưng việc xác định niên đại của Cỗ máy Antikythera đã đưa các nhà sử học đến một cái tên: Archimedes (287 TCN-212 TCN, Ác-si-mét) - nhà toán học, nhà vật lý, kỹ sư, nhà phát minh, và một nhà thiên văn học người Hy Lạp.
Kiến thức về công nghệ tinh xảo, tỉ mỉ này đã bị mất vào thời cổ đại, và các công trình công nghệ tiếp cận sự phức tạp và tay nghề của nó đã không xuất hiện trở lại trong 1000 năm cho đến khi đồng hồ thiên văn cơ học phát triển ở châu Âu trong thế kỷ thứ 14.
Tất cả các mảnh vỡ còn sót lại của Cỗ máy Antikythera được lưu giữ tại Bảo tàng khảo cổ học quốc gia ở Athens (Hy Lạp).
Bài viết sử dụng nguồn: Inverse
Theo Trí Thức Trẻ

Những loại vũ khí cổ đại kỳ dị nhất lịch sử thế giới

Vũ khí là một trong những cải tiến không thể thiếu đối với võ thuật, quân sự. Bên cạnh chiến thuật, số lượng vũ khí được cho là có vai trò quan trọng khi giao đấu thời xa xưa, đặc biệt là những trận tỷ thí võ thuật.
Những loại vũ khí này trong thời cổ đại được công nhận là vũ khí đơn giản và hiệu quả cũng như không đòi hỏi các công nghệ quá phức tạp. Nhiệm vụ chính của nó là kết liễu kẻ thù càng nhanh càng tốt.
Một số vũ khí giết người không được tạo ra cho các mục đích cụ thể, một số khác là các phiên bản nâng cấp của vũ khí ban đầu. Đặc biệt trong lĩnh vực phát minh ra những vũ khí kỳ dị như vậy ở Ấn Độ, Trung Quốc và Nhật Bản đã tạo ra sự khác biệt.
Dưới đây là những loại vũ khí cổ đại kỳ dị nhất lịch sử thế giới do trang popmech.ru tổng hợp:
Những loại vũ khí cổ đại kỳ dị nhất lịch sử thế giới
Haladie là một thanh kiếm hoặc dao găm có hai lưỡi kiếm mà các chiến binh Rajput sử dụng loại dao này để đâm hoặc chém kẻ thù. Một số loại Haladie còn trang bị cán kim loại cùng đinh nhọn, tạo nên vũ khí 3 lưỡi khủng khiếp và đáng sợ nhất đến từ Ấn Độ
Những loại vũ khí cổ đại kỳ dị nhất lịch sử thế giới
Chu Ko Nu là một trong những vũ khí kỳ lạ nổi tiếng nhất của Trung Quốc. Loại nỏ này được ví như “súng máy” của binh lính Trung Quốc cổ đại. Theo các giai thoại của Trung Quốc, cha đẻ của loại nỏ này là Gia Cát Lượng. Đó là lý do khiến nỏ liên hoàn còn được gọi là nỏ Gia Cát hay Gia Cát nỗ, được biết đến rộng rãi ở phương Tây qua cách phiên âm là Chu Ko Nu. Nguyên lý hoạt động được kế thừa từ vũ khí tự động hiện đại với thiết kế để tự động đưa các mũi tên vào rãnh bắn, giúp rút ngắn đáng kể thời gian ngắt quãng giữa các lần bắn của cung thủ. Loại vũ khí này có thể bắn tới 10 mũi tên trong 15 giây, gấp nhiều lần tốc độ bắn của nỏ thông thường. Tần suất bắn nhanh khiến nỏ liên hoàn trở thành một vũ khí tầm xa đáng sợ trên chiến trường.
Những loại vũ khí cổ đại kỳ dị nhất lịch sử thế giới
Urumi là một vũ khí bản địa kỳ dị khác của Ấn Độ, một loại kiếm dạng roi linh hoạt. Được làm bằng kim loại dẻo, có thể quấn quanh hông. Nó đem lại cho chủ nhân một lợi thế rất lớn trong trận chiến, khi sử dụng các chiến binh xoay vòng kiếm, khiến đối phương khó tiếp cận. Cả hai mặt của kiếm đều được mài sắc để tăng sát thương. Tuy nhiên, để sử dụng thành thạo Urumi phải mất nhiều năm luyện tập chăm chỉ, nếu không loại vũ khí này sẽ quay lưng lại với chủ nhân của nó.
Những loại vũ khí cổ đại kỳ dị nhất lịch sử thế giới
Al-Rammah là nguyên mẫu thời trung cổ của ngư lôi được phát triển bởi nhà khoa học Syria Hasan al-Rammah vào thế kỷ 13. Đó là một con tàu bọc kín bằng kim loại, bên trong có thuốc súng và được dẫn đường bởi một tên lửa nguyên thủy đến tàu địch. Theo các nhà nghiên cứu không biết hiệu quả của một ngư lôi như vậy trong hành động quân sự, nhưng nguyên lý hoạt động rất ấn tượng.
Những loại vũ khí cổ đại kỳ dị nhất lịch sử thế giới
“Tổ ong” là một vũ khí hủy diệt hàng loạt đến từ Trung Quốc. Tổ ong bao gồm các ống lục giác chứa 30 mũi tên lửa. Các ống sẽ mở rộng ở đầu để hỗ trợ cho việc phân tán các mũi tên khi tổ mở ra. Các mũi tên được đốt cháy hoặc tẩm độc và phóng ra đồng thời cùng một lúc với độ chính xác bằng cao vào kẻ thù.
Những loại vũ khí cổ đại kỳ dị nhất lịch sử thế giới
Atlatl là vũ khí dạng tên thời kỳ đồ đá, tiền thân của cung sau này. Một trong những vũ khí giết người lâu đời nhất trên thế giới. Đây là vũ khí khá thô sơ, chỉ bao gồm một thanh gậy với tên gắn ở đầu. Phi tiêu nhỏ được nạp vào một thanh gậy làm từ gỗ dẻo và nhờ nguyên lý đòn bẩy, chúng đã phóng xa hơn nhiều so với những chiếc phi tiêu phóng bằng tay. Chúng đã được sử dụng từ cuối thời đại Cổ sinh, khoảng 15 nghìn năm trước Công nguyên.
Những loại vũ khí cổ đại kỳ dị nhất lịch sử thế giới
Kakute là nhẫn nhọn của Nhật Bản, một loại đốt ngón tay bằng đồng của ninja. Kakute dễ dàng cải trang thành những chiếc nhẫn bình thường, và số lượng của chúng sẽ tăng lên trước khi chiến đấu. Các đinh nhọn thường được bôi chất độc và làm bằng đồng (hoặc sắt), nó trở thành một vũ khí đáng sợ của ninja.
Những loại vũ khí cổ đại kỳ dị nhất lịch sử thế giới
Sodegarami là một dạng “móc” (“dây trói nô lệ” ) chiến đấu của Nhật Bản được sử dụng bởi samurai và lính canh thời kỳ Edo. Vũ khí không gây chết người, mặc dù được bao phủ bởi gai. Mục đích chính của người Sodegarami là hạ gục kẻ vi phạm pháp luật xuống đất và giữ anh ta trong thời gian cần thiết.
Những loại vũ khí cổ đại kỳ dị nhất lịch sử thế giới
Lửa Hy Lạp được tạo ra trong thời Đế quốc Byzantine cho các trận hải chiến. Nó là một vật liệu gây cháy có thể bắn ra từ một con tàu và sẽ cháy trên mặt nước. Điều làm nên sự khác biệt là việc họ sử dụng vòi phun áp lực để phóng chất lỏng lên kẻ thù. Thành phần của lửa này được đoán là hỗn hợp của nhựa thông, naphta, vôi, canxi, photphua, lưu huỳnh hoặc niter. Lửa Hy Lạp đã mang lại cho Đế quốc Byzantines một lợi thế rất lớn trên biển, nhanh chóng nuốt chửng các tàu của đối thủ và tiếp tục đốt cháy chúng ngay cả trên mặt nước.
 Thanh Bình (lược dịch)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét