TT&HĐ I - 5/i
PHẦN I: CÓ MỘT CÁI GÌ ĐÓ
“Tại sao có một cái gì đó chứ không phải là không có gì?”
Lepnit.
CHƯƠNG V: KHÔNG GIAN VÀ THỜI GIAN
NTT
"Sự khác biệt giữa quá khứ, hiện tại và tương lai chỉ là một ảo tưởng dai dẳng đến ngoan cố."
Albert Einstein
"Này
Anadda, tất cả những người nào, hoặc ngay bây giờ, hoặc sau khi ta
chết, tự làm ngọn đèn soi sáng cho mình, tự làm chỗ nương tựa cho mình,
không tìm một chỗ nương tựa nào khác ngoài chính mình ra, mà can đảm coi
chân lý là ngọn đuốc … không tìm một chỗ nương tựa nào ở người khác -
những người đó sẽ lên được tới các bậc tối cao! Nhưng những người đó
phải lo học hỏi hoài mới được!”.
(Đức Phật Thích Ca)(Tiếp theo)
* * *
Bản
chất của Tồn Tại là biểu hiện, biểu hiện để khẳng định chính sự Tồn Tại của
mình. Nó biểu hiện ở khắp nơi nơi, ở mọi tầng nấc, một cách toàn diện.
Bởi vì Tồn Tại là duy nhất nên sự biểu hiện của nó chẳng cho cái gì khác
ngoài chính nó. Để biểu hiện được như thế nó phải tự phân định đến tận
cùng giới hạn, làm cho bất cứ một thành phần nhỏ nhất nào cũng phải phân
định được với xung quanh. Đó cũng chính là một tiền đề của quá trình tự
thân, tự trình diễn cho chính mình “xem”, vừa là diễn viên vừa là khán
giả của Tự Nhiên Tồn Tại mà chúng ta gọi là vận động vật chất. không những thế, tồn tại phải có một cái gì đó vốn dĩ, tạm gọi là "giác" để "biết" mà phản ứng phù hợp trở lại đối với các tác động tương phản của những tồn tại xung quanh, làm hình thành nên nguyên lý tác dụng tương hỗ. Vận động
vật chất trong Vũ Trụ xét cho đến cùng, đều có tính cơ học, là quá trình nền tảng vô thủy vô chung thể hiện ra trước nhận
thức như là một Vũ Trụ tổng thể các sự vật - hiện tượng, chằng chịt các
mối quan hệ và đầy biến động. Mọi vận động khác đều có nền tảng là vận động cơ học, và truy cho đến cùng là vận động cơ học. Chuyển hóa không gian đơn giản nhất là vận động cơ học. Vận động cơ học đơn giản nhất, đóng vai trò là yếu tố cấu thành vận động vật chất, là chuyển động, là di dời vị trí.
“Phát lộ” ra từ Tồn Tại, hay nói cách khác Tồn Tại “phát lộ” ra thành Vũ
Trụ tổng thể các sự vật - hiện tượng, nên Vũ Trụ tổng thể các sự vật -
hiện tượng cũng thể hiện một cách đầy đủ những đặc tính vốn có của Tồn
Tại, trong đó có tính phân định. Tính phân định biểu hiện ở chỗ các sự vật -
hiện tượng phân biệt được tương đối so với nhau và với môi trường bởi
những mặt, những phần, những tính chất sai biệt nhau, tương phản nhau;
coi nhau là đối tượng tác động, chuyển hóa nhau, hình thành nên những
mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau trong suốt quá trình tồn tại của chúng
(của từng đối tượng). Cũng từ đó mà có mối tương quan, qua nhận thức là
những cặp khái niệm tương phản: chủ quan – khách quan, chủ thể - khách
thể, hệ quan sát - hệ bị quan sát (và một cách tự nhiên, bao giờ chủ thể
cũng tưởng mình là trung tâm Vũ Trụ!?).
"Giác" cũng là đặc tính tự nhiên, vốn có và cơ bản của tồn tại nhằm tiếp nhận thông tin. Nó bộc lộ ra, hun đúc thành nguyên lý "tác dụng tương hỗ". Sự "giác" vốn dĩ thế là để phân biệt được lẫn nhau và phản ứng tương hỗ đối ứng trước tác dụng của tồn tại xung quanh trong Vũ Trụ là hiện thân sâu xa, cội rễ của sự "phát"
giác được của các sự vật trong thế giới vô tri và cảm giác của các sinh vật trong thế giới sinh vật. Nhờ có "giác" mà mối quan hệ phụ thuộc lẫn
nhau, sự tác động và chuyển hóa lẫn nhau giữa các vật mới có khả năng
tồn tại và duy trì. Tùy vào mức độ phức tạp, kiểu hình cấu trúc trong
quá trình tiến hóa của nội tại các sinh vật, được hình thành duy trì và củng
cố trong suốt quá trình thích nghi với môi trường mà mức độ cảm giác có
khác nhau: phản ứng trực tiếp, cảm giác trực giác, cảm nhận, nhận biết,
siêu cảm, linh giác … (Chúng ta tạm gọi như thế và… không chính xác!).
Sự thể hiện của Tự Nhiên Tồn Tại là toàn diện nhưng sự cảm giác của các
vật là phiến diện. Không có sự tồn tại tương đối nào cảm giác được toàn
diện sự thể hiện của Tồn Tại tuyệt đối, mà chỉ có thể cảm giác được một
số mặt nào đó, một khoảng môi trường nào đó, một qui mô nào đó và một
tầng nấc nào đó. Con người cũng vậy, nhờ có năm giác quan và một bộ phận
não phát triển biết chế tác những công cụ cảm nhận ngày một hiện đại mà
con người có thể cảm nhận hết sức sâu rộng về thế giới khách quan (kể
cả chính con người!) nhưng không bao giờ đầy đủ. Phải nhờ có trí nhớ,
nhờ có tích lũy kinh nghiệm và biết suy tư mà con người mới có thể nhận
thức và thông qua nhận thức mới có thể có khả năng nhận biết được đến tận cùng
Tồn Tại.
Trong mối quan hệ chủ quan – khách quan, khi nói: thế giới khách quan
thì cần hiểu là thế giới khách quan của một đối tượng chủ quan nào đó
chứ không phải là của toàn thể. Sự biểu hiện của Tự Nhiên Tồn Tại, tác
động vào các vật, tùy vào tính đặc thù nội tại khác nhau mà mỗi vật sẽ
cảm nhận khác nhau làm cho thế giới khách quan của các vật có sự sai
biệt nhất định so với nhau. Do đó thế giới khách quan, vì bị ảnh hưởng
của cảm nhận chủ quan mà cũng có tính chủ quan, không còn chân thực nữa
(sự không chân thực này sẽ dần được khắc phục qua quá trình nhận thức!).
Thế giới khách quan của người này ít nhiều gì cũng có sự khác biệt so
với thế giới khách quan của người kia. Thế giới khách quan của con người
và thế giới khách quan của loài chó chắc chắn là phải khác nhau… xa
lắc!
Chúng ta gọi những gì đang quan sát (cảm giác) được từ thế giới khách
quan, hiện còn, là sự hiện hữu, và toàn cảnh các sự hiện hữu ấy là một
hiện thực (cũng tương đối thôi: hiện thực có thể là toàn cảnh hiện hữu
trong một khoảng thời gian quan sát hay qui ước nào đó!)
Chính sự hiện hữu đã cho chúng ta có ý niệm về không gian. Không gian là những khoảng trống rỗng hợp thành vĩ đại. Một trong
những đặc tính cơ bản của mọi hiện hữu, mọi hữu thể làm cho sự quan sát
có khả năng, là đặc tính quảng tính, đó là kích thước, vóc dáng, hình
hài, thể tích… Một bộ phận không gian là một khoảng (được cho là) trống rỗng nào đó,
là thể tích “chứa đựng” của một vật (thể tích của một vật mà không có
vật ấy!?). Đi sâu về hướng vi mô, khoảng không gian có giới hạn không? Có thể xác quyết rằng: có! Vì không thể tưởng tượng nổi sự hợp thành nên cái vĩ đại lại là từ Hư Vô!
Đến đây, chúng ta bỗng chợt nhớ đến một nhận định của Platon như thế này:“Toàn bộ thế giới cuối cùng là tồn tại vĩnh viễn không có bắt đầu,
hay là được sáng tạo ra và có bắt đầu? Tôi cho rằng nó được sáng tạo ra.
Bởi vì người ta có thể trông thấy nó, sờ được nó, vả lại nó cũng có
hình thể. Tất cả nhữ ng cái đó đều có thể cảm giác được. Phàm tất cả
những cái gì có thể cảm giác được đều là đối tượng của ý kiến và cảm
giác. Do đó nó phải ở trong một quá trình sáng tạo và nó được sáng tạo
ra. Chúng ta đã nói ở trên rằng phàm cái gì được sáng tạo ra đều phải có
nguyên nhân. Vì vậy nhiệm vụ của chúng ta bây giờ là phải phát hiện ai
là người sáng tạo , là cha đẻ của nó”.
Rõ ràng “toàn bộ thế giới” ở đây của Platon thực ra chỉ là một hiện thực
của con người (toàn cảnh của sự hiện hữu). Mà hiện thực theo ý chúng
ta, là kết quả của một nền tảng tự thân (nguyên lý nhân-quả: mọi tồn tại đều có nguyên nhân, chỉ Tổn Tại là có nguyên nhân và kết quả của chính nó!), nên nó có bắt đầu và được tạo
dựng, nhưng vì đã qua cảm giác nên nó đồng thời cũng có “bàn tay” con
người “thò vào”. Vậy có thể nói nó là một công trình lai tạp. Rốt cuộc
chỉ có thể nói: hiện thực (hiện hữu) thì có bắt đầu, Tồn Tại thì không!
Platon đã nhận định sai do lầm lẫn, chưa phân biệt được tính tuyệt đối
với tính tương đối của Tồn Tại, và quên mất không gian, cái có thể thấy
nhưng không thể sờ được!
Chúng ta nhấn mạnh: tồn tại tương đối luôn nằm trong mối quan hệ nhân
quả, là kết quả của tạo dựng, có khởi đầu và kết thúc, nghĩa là muốn có
nó phải có một cú “hích”.
Chúng ta có một tưởng tượng: giả sử chúng ta đứng trong một vùng mênh
mông nào đó, chẳng có bất cứ một cái gì cả ngoài chúng ta, với dưới là
mặt đất phẳng phiu, trên là bầu trời trong xanh không một chút gợn và
trời đất phân biệt nhờ đường chân trời ở xa tít tắp. Chúng ta quan sát
được gì ở đó? Trước mắt chúng ta rõ ràng là một hiện thực, trong đó là
sự hiện hữu của nền trời, mặt đất, một đường chân trời và một khoảng
không, một thể tích được xác định bởi trời đất, ngoài ra không còn cái
gì khác nữa (quên chúng ta đi!). Nếu không quan tâm tới đất, trời và
giáp tuyến (chính chúng ta trong đời thường cũng rất hay quên sự hiện
hữu của chúng!), thì chỉ còn một hiện hữu, một khoảng không mà ta “thấy”
được, cảm giác được, một thể tích chẳng chứa chấp cái gì cả, và ta gọi
đó là không gian. Như vậy, không gian chẳng khác gì một sự trống rỗng
hoàn toàn và thật là “vô vị”. Đúng! Nói như thế là chính xác, nhưng chỉ
chính xác đối với chúng ta thôi, vì đối với một con siêu vi khuẩn chẳng
hạn, nó sẽ “thấy” một hiện thực hoàn toàn khác: khoảng trống rỗng thực
ra là lúc nhúc đầy phân tử các loại với những “đồng chí” siêu vi khác
và…
Cho dù có thể giả định rằng cả siêu vi khuẩn và không khí đều bị loại
trừ, thì sự trống rỗng ấy vẫn không trống rỗng, nó tràn ngập ánh sáng.
Nhờ có ánh sáng phản chiếu từ trời và đất mà chúng ta mới “thấy” được
cái trống rỗng. Cuối cùng, nếu “tống khứ” luôn cả ánh sáng đi và chúng
ta bồng bềnh trong đó (một đêm lặng tờ, không trăng không sao, không đèn
không đóm) thì dù đất, trời và đường phân giới không còn hiện hữu nữa,
chúng ta vẫn cảm giác được sự hiện hữu của không gian, tuy không rõ
ràng: một thể tích (chúng ta quờ quạng và biết được có khoảng chứa đựng
chính chúng ta) đầy cái gì đó… “đen thui”, và cũng như trường hợp về con
siêu vi khuẩn, lần này thận trọng hơn chúng ta phải nói rằng, đối với
chúng ta cái “đen thui” đó là trống rỗng nhưng thực sự chưa chắc nó đã
trống rỗng!
Chúng ta quay lại với cảnh sắc ban đầu để nhìn ngắm lại một lần nữa hiện
thực. Chúng ta nhìn ngắm lại nó không phải vì nó xấu hay đẹp, đó là mục
đích của thơ ca nhạc họa. Lúc này chúng ta không có tâm hồn ấy, không
còn tâm trí đâu mà “uống rượu thành thơ” nữa. Chúng ta quay lại nhìn soi
mói để kiếm tìm một cái gì đó đáng lẽ phải thấy mà chẳng thấy đâu trong
lần quan sát đầu tiên. Hình như có điều gì đó nghiêm trọng ở đây? Điều
gì nhỉ?
A, phải rồi, thời gian! Lần quan sát trước và cả lần này nữa, chúng ta
chẳng thấy thời gian đâu cả, chẳng thấy bất cứ cái gì khả dĩ có thể đặt
tên là thời gian cả. Nhưng nó phải có chứ? Đúng, phải có! Thế thì nó ở
đâu? Ừ nhỉ, nó ở đâu?
Hãy nhớ đi, thời gian là sự dài lâu! Chúng ta đã quan sát hiện thực hai
lần và hai lần quan sát ấy có độ “dài ngắn” khác nhau, chúng ta nói
trong hai lần quan sát ấy có một lần “dài” hơn lần kia, và để tránh nhầm
lẫn với khái niệm khoảng cách (một yếu tố làm nên thể tích, hay cứ gọi
là một thành phần làm nên không gian), chúng ta dùng từ “lâu”: Sự quan
sát này lâu hơn sự quan sát kia. Tương phản với “lâu” ta có “mau”. Thời
gian đã được cảm nhận định nghĩa: Thời gian là một qui ước mô tả sự lâu-mau của một quá trình tồn tại chuyển hóa, vận động, chuyển động di dời vị trí, biến đổi trạng thái của sự vật -
hiện tượng!
Nếu chấp nhận sự lý giải trên về thời gian, và vì chúng ta không quan
sát được trong hiện thực, thì phải đi đến kết luận rằng thời gian không
hiện hữu trong hiện thực của chúng ta. Nhận định này đúng tương đối
nhưng sai tuyệt đối! Trước hết, chúng ta nói ngay rằng thời gian nói
trên là một hiện hữu vô hình (nhưng cảm giác được) trong một hiện thực
có cả sự hiện hữu của chúng ta hay của một quan sát nào đó ngoài chúng
ta (của người khác hoặc cũng có thể là một dạng tư duy nào đó ngoài hành
tinh). Nhưng quan trọng hơn là chúng ta đã quên (con người là chúa hay
quên!) rằng cái hiện thực mà ta quan sát được chính là một sự vật - hiện
tượng mà đã là một sự vật - hiện tượng thì nó là một tồn tại tương đối,
là kết quả của một tạo dựng; phân biệt được với xung quanh và có mối
quan hệ tương hỗ với xung quanh, sống động và biến đổi. Nói thế cho dông
dài chứ thực ra nếu không có Trái Đất vận động tự xoay, quay quanh Mặt
Trời và Mặt Trời chiếu sáng thì không thể có hiện thực mà chúng ta quan
sát được và hiện thực mà chúng ta quan sát được không thể là một bất
biến. Nhờ chu kỳ sáng tối mà chúng ta phân được hiện thực ra thành những
giai đoạn theo qui ước: hiện thực bình minh, hiện thực trưa, hiện thực
chiều, hiện thực tối… và nhờ vậy, chúng ta cảm nhận được sự hiện hữu lâu
mau của các giai đoạn. Từ sự cảm nhận lâu mau ấy, chúng ta định ra một
khoảng nào đó qui ước làm đơn vị đo (giờ, phút, ngày tháng…) và chúng ta
lại qui ước như thế nào, với bản thân đơn vị đo thì một quá trình gọi
là lâu hay mau (so với một quá trình nào đó đã chọn làm “mốc”). Nếu chỉ
so sánh độ lâu mau giữa hai quá trình thì đơn giản chúng ta dùng cặp
khái niệm tương phản lâu hơn – mau hơn (hay không phải là tương phản?).
Vì chỉ có “một chiều” thời gian nên thay cho lâu – mau có thể dùng chậm –
nhanh, thâm chí là dài - ngắn, (nhưng phải hiểu là dài, ngắn về mặt
thời gian, nếu không, chúng ta sẽ lẫn lộn vì dài - ngắn cũng là cặp tương
phản áp dụng cho không gian. Không gian có “ba chiều” nên cặp dài -
ngắn không đủ mô tả một bộ phận nào đó của không gian, một thể tích. Vì
lý do đó cặp dài - ngắn phải được “phân ra” thành ba cặp đại loại là
rộng - hẹp, nông - sâu, cao - thấp).
Từ cuộc tưởng tượng vừa qua hay cũng có thể coi là một cuộc thực nghiệm
trong… hoang tưởng, chúng ta đã tạm có một ý niệm sơ bộ về không gian và
thời gian: không gian và thời gian là những hiện hữu góp phần làm nên
hiện thực; nếu không gian được cho là hiện hữu hữu hình thì thời gian là
hiện hữu vô hình (!). Không gian đôi khi cũng trở nên vô hình (chẳng hạn
như đêm tối), đôi khi cũng không hiện hữu (chẳng hạn như quan sát giữa
lòng đại dương), còn thời gian thì có khi không hiện hữu trong hiện thực
(khoảng quan sát quá “ngắn”, không cảm giác được sự biến đổi) nhưng
luôn vô hình (như nóng, lạnh… ); không bao giờ là hữu hình. Chính vì
thời gian hiện hữu kiểu “mập mờ” như thế nên “chân tướng” của nó rất khó
được nhận biết. Người thì cho rằng thời gian “trôi” đều đặn qua hiện
thực; người lại cho rằng thời gian trôi có chỗ nhanh, chỗ chậm, mang
tính cục bộ, trong sự vật này thì trôi chậm, trong sự vật kia thì trôi
nhanh, thậm chí còn biết “co giãn” và đôi khi không “thèm” trôi nữa
(trong lỗ đen).
Như đã từng đề cập, chúng ta chắc chắn là hoàn toàn bất lực, không thể
tưởng tượng nổi sự “trôi” của thời gian mà không vấp phải phi lý nào.
Nếu có sự “trôi” của thời gian trong hiện thực thì thời gian phải là hữu
hình (dù không rõ ràng, ví như sự lạnh là một vô hình lan tỏa, nhưng
khi sự lan tỏa đó chỉ theo một hướng thôi thì ta phải gọi đó là luồng
(không khí) lạnh, và như vậy là nó trở nên hữu hình (một cách vô định
hình) và có thể xác định nó như một khối hay một thể tích không gian có
nội dung thời gian, như một dòng trôi từ đâu đó qua hiện thực rồi về đâu
đó theo một hướng xác định được trong không gian và vùng không gian
trống rỗng của hiện thực cũng phải đầy ắp thời gian. Một thể tích không
gian chứa đầy thời gian, nghe sao mà mù mịt quá! Nếu suy rộng ra cho
toàn Vũ Trụ thì chúng ta… biết rồi đấy!
Chúng ta không chấp nhận một kiểu thời gian vĩnh viễn vô hình và “trôi”?
Khó mà biết được ai là người đầu tiên và từ bao giờ làm xuất hiện ý
niệm ấy. Chỉ đoán mò rằng có thể là lâu lắm rồi, từ thời xa lắc, có một
thi hào vô danh nào đó đứng tư lự bên dòng sông Nin, ngẫm nghĩ đến cuộc
xoay vần thản nhiên và bất tận của đất - trời, xót xa cho nỗi buồn vui
thấm thoắt của nhân tình thế thái mà tức cảnh sinh tình:
Lấp lánh thời gian
Là dòng sông năm tháng
Thầm lặng lở bồi, miên man tít tắp
Ngày đêm lũ lượt luân hồi
Hiện tại, tương lai cuồn cuộn trôi xuôi
Hối hả lùa vào đại dương dĩ vãng
Mà dòng chảy, chẳng hề vơi cạn
Từ ngàn xửa, ngàn xưa…
Là dòng sông năm tháng
Thầm lặng lở bồi, miên man tít tắp
Ngày đêm lũ lượt luân hồi
Hiện tại, tương lai cuồn cuộn trôi xuôi
Hối hả lùa vào đại dương dĩ vãng
Mà dòng chảy, chẳng hề vơi cạn
Từ ngàn xửa, ngàn xưa…
Và “kinh nghiệm” cổ xưa ấy đã ám ảnh con người đến tận ngày nay!
Để thỏa mãn tính đầy đủ của Tồn Tại, chúng ta đành phải chấp nhận sự tồn
tại tất cả những đặc tính của không gian và thời gian mà vật lý học
ngày nay đã suy đoán từ những lập luận chặt chẽ và trên cơ sở những thực
nghiệm lặp đi lặp lại như: sự cong của không gian và thời gian (do khối
lượng), sự co của không gian và thời gian (do vận động) và sự ngừng
trôi, suy biến của không gian và thời gian (do mật độ vật chất đạt đến
tới hạn), nhưng chỉ trong vật lý học hoặc trong tư tưởng mà thôi!
Nghĩa là trong ý niệm về không gian và thời gian, chúng ta cần phải bổ
sung thêm khả năng hiện hữu ảo của chúng nữa. Không cần phải đưa ra thêm
thí dụ minh họa nữa vì chúng ta đã quên (lại quên!) rằng cuộc thực
nghiệm của chúng ta là tưởng tượng, cho nên có thể lấy luôn nó để minh
họa, và chỉ cần thêm chữ “ảo” sau những từ “hiện thực”, “không gian” và
“thời gian” là xong.
Nói đến hiện thực là phải nói đến quan sát, không có quan sát thì không
có hiện thực. Ở đây, chúng ta hiểu quan sát không phải đơn thuần là nhìn
bằng mắt, mà có nghĩa rộng hơn, đó là sự cảm giác, cảm thấy… Và cũng
không phải chỉ bằng năm giác quan mà có thể là linh giác, linh cảm, hoặc
là sự nhận biết thông qua các dụng cụ, thiết bị hỗ trợ (kính thiên văn,
kính hiển vi, máy dò phóng xạ…).
Nói đến quan sát thì phải nói đến khoảng thời gian quan sát và khoảng
thời gian đó có thể lâu có thể mau và tuyệt đối không bao giờ bằng
không. Do vậy một hiện thực có khi chỉ như một bức ảnh, tĩnh tại; khi là
một hoạt cảnh tương tự một bộ phận nhưng cũng có khi tùy theo qui ước,
tùy theo thỏa thuận ngầm nào đó mà chúng ta còn hiểu nó như một thời
đại, ngày nay, hiện nay… Ngoài ra, chúng ta còn thấy rằng trong một hiện
thực tương đối dài lâu nào đó, có những hiện hữu (sự vật - hiện tượng)
chỉ tồn tại trong chớp mắt, trong chốc lát, hoặc trong một khoảng xác
định được, nhưng cũng có những hiện hữu (hình như) không thay đổi, không
biến đổi, chẳng hạn như những vì sao, dãy Trường Sơn… và một cách tương
đối chúng ta gọi chúng ta là những bất biến, “nằm ngoài” thời gian,
“hầu như” thời gian không “trôi qua” chúng.
Khi không quan sát mà chúng ta suy nghĩ về hiện thực, hồi ức, mường
tượng lại những hoạt cảnh đã qua, tưởng tượng ra một hoạt cảnh nào đó mà
chúng ta chưa từng quan sát thấy (nhưng cũng không thể thoát ly được
tồn tại, kinh nghiệm đã tích lũy được!) hay là ngủ mơ thấy, hay là mơ
ước,…thì tất cả những cái ấy (hiện lên trong tư duy, trong não) đều được
chúng ta gọi là hiện thực ảo. Thế còn khi chúng ta đang xem một bộ
phim, đang xem truyền hình trực tiếp thì thuộc hiện thực hay hiện thực
ảo (thực tại ảo!)? Cũng tùy qui ước cả thôi! Chúng ta có thể cho rằng
những hoạt cảnh mà chúng ta thấy qua truyền hình trực tiếp là hiện thực
quan sát nhờ sự hỗ trợ của thiết bị truyền thông. Và xem phim là chúng
ta đang quan sát một hiện thực (một màn ảnh có sự biến động liên tục
trong đó), còn nội dung của bộ phim là một thực tại ảo (hiện thực ảo).
Điều đương nhiên, không gian và thời gian trong một hiện thực ảo nào đó phải là không gian ảo và thời gian ảo.
Việc chúng ta chế tác một mô hình nào đó trong thực tiễn, có nghĩa là
chúng ta đang mô phỏng lại biểu tượng, hiện hữu ảo, hiện thực ảo (toàn
cảnh hiện hữu ảo) tồn tại trong tư duy. Mô hình đó phải được coi là hiện
hữu thực (hay toàn cảnh hiện hữu thực – một hiện thực). Nó giống với
hiện thực ảo nhưng không phải là hiện thực ảo và càng không phải là hiện
thực của hiện thực ảo (nếu là hồi ức). Hiện thực ảo mang nặng tính chủ
quan của con người, là một phản ánh đã méo mó, thiếu chi tiết của hiện
thực, thậm chí hoàn toàn do tư duy tạo dựng. Sự hồi ức, tưởng tượng lại
quan sát đã qua thường là không đầy đủ, phiến diện, lẫn lộn và mờ nhạt.
Chúng ta gọi hiện thực ảo đó là quá khứ. Hiện thực ảo “gần” với lúc quan
sát hoặc có khi là “suýt soát” với thời gian quan sát thì được gọi là
hiện tại (hiện tại cũng có nghĩa như hiện thực – chúng ta qui ước). Qua
nhận thức, qua kinh nghiệm đã tích lũy được khi quan sát mà chúng ta
mường tượng được, phỏng đoán được, ước đoán được những hoạt cảnh tiếp
theo, những toàn cảnh hiện hữu sắp xảy ra hay sẽ xảy ra và chúng ta gọi
hiện thực ảo đó là tương lai. Tương lai xảy ra đúng hay sai, đúng nhiều
hay đúng ít so với sự ước đoán là một biểu hiện về trình độ nhận thức
của tư duy. Rõ ràng, quá khứ và tương lai là Hư Vô khi ta không suy nghĩ về chúng và là những hiện thực ảo khi ta tưởng tượng về chúng!
Trước quan sát thực (nói thế để phân biệt với quan sát trong tư duy
(quan sát ảo)) luôn luôn là hiện thực, không bao giờ là quá khứ cũng như
tương lai. Tự Nhiên Tồn Tại luôn luôn hiển hiện trước mọi quan sát và
được gọi là Hiện Tại vĩ đại. Quá khứ và tương lai chỉ tồn tại trong tư
duy, “cũng phù phiếm như một giấc mộng” (lời của Nietzsche).
(Còn tiếp)
Nhận xét
Đăng nhận xét