Thứ Ba, 19 tháng 5, 2020
CHUYỆN ÍT BIẾT 90
RÙNG MÌNH NHỮNG HÌNH PHẠT TRA TẤN KINH DỊ CHẤN ĐỘNG THẾ GIỚI
“Phạt cười” - cách tra tấn đáng sợ bậc nhất thời cổ đại
Thứ ba, ngày 12/05/2020 12:33 PM (GMT+7)
"Phạt cười" nghe qua có vẻ rất hài hước,
nhưng trên thực tế, đây là một phương thức tra tấn không cần dùng đến
bất cứ vũ khí nào, cũng không đổ máu nhưng lại giày vò phạm nhân cho đến
tận lúc chết.
Bình luận
0
Ảnh minh họa.
Từ
thời cổ đại, những người phạm pháp đều phải chịu đựng những hình phạt
thích đáng để trả giá cho lỗi lầm của mình, đồng thời để răn đe những
người khác trong xã hội, bao gồm: tử hình, tù đày hay đánh đập...
Tuy
nhiên, cũng có rất nhiều hình thức tra tấn còn ghê gớm và gây ám ảnh
hơn, dù không hề gây nên đau đớn hay đổ máu, nhưng khiến cho khiến cho
phạm nhân cảm giác bị dày vò, sống không bằng chết. Một trong số đó là
"phạt cười" (Tickle torture), thường là gây ngứa ở lòng bàn chân của các
tử tù, khiến cho họ cười mãi cho đến chết.
"Phạt
cười" hay còn được gọi là Tickle torture (tra tấn bằng cách gây nhột)
hoặc "Tiếu hình" trong tiếng Trung Quốc. Đây là một hình thức tra tấn cổ
xưa, xuất hiện sớm nhất vào thời nhà Hán ở Trung Quốc. "Phạt cười" là
hình phạt dành riêng cho quý tộc vì nó không để lại dấu vết, khiến nhưng
người thực hiện có thể che giấu việc đã tra tấn nạn nhân.
Một
ví dụ khác về việc "phạt cười" đã được sử dụng ở La Mã cổ đại, nơi chân
của phạm nhân bị nhúng vào dung dịch muối, mật ong, hoặc đường trắng và
người ta sẽ đưa một con dê đến liếm lòng bàn chân họ. Kiểu tra tấn này
ban đầu sẽ chỉ như mọi người cù lét nhau để trêu đùa như bình thường,
nhưng cuối cùng sẽ khiến phạm nhân trở nên vô cùng đau khổ.
Có
rất nhiều phương thức khác để thực hiện "phạt cười" như: Dùng lông
ngỗng cù lòng bàn chân hoặc nách, những vị trí có thể gây cười trên cơ
thể con người.
Trong Chiến tranh thế
giới thứ hai, một người đàn ông bị bức hại trong trại tập trung
Flossenbürg đã kể lại việc chứng kiến một tù nhân bị tra tấn bằng cách
gây cười cho đến chết. Sự việc này đã được mô tả lại trong The Men With
The Pink Triangle của Heinz Heger:
"Họ
dùng lông ngỗng để cù vào lòng bàn chân, giữa hai chân, ở giữa các nách
và nhiều bộ phận khác trên cơ thể tù nhân. Lúc đầu, người đó sẽ cố gắng
buộc bản thân phải giữ im lặng, trong khi mắt anh ta co giật vì sợ hãi
và dằn vặt. Sau đó, anh ta không thể kiềm chế bản thân được nữa và cuối
cùng đã cười phá lên, rồi rất nhanh chóng, tiếng cười đó biến thành một
tiếng kêu đau đớn".
Tại sao hình phạt này lại đáng sợ?
Trong
cuốn sách Sibling Abuse, Vernon Wiehe đã công bố kết quả nghiên cứu của
mình về 150 người lớn bị anh chị em của họ lạm dụng trong thời thơ ấu.
Một
số đó cho biết cù lét (gây nhột) là một loại lạm dụng thể chất phổ biến
mà họ từng phải trải qua. Và dựa trên các báo cáo này cũng đã tiết lộ
rằng cù lét có khả năng gây ra các phản ứng sinh lý cực đoan ở nạn nhân,
như nôn mửa, mất kiểm soát (mất kiểm soát bàng quang) và mất ý thức do
không có khả năng thở.
Theo phân
tích, nếu một người liên tục cười không ngừng, không khí trong phổi sẽ
ngày càng ít đi và họ sẽ bị mất khả năng thở. Kết quả là cơ thể sẽ vô
cùng thiếu oxy và gây ra nghẹt thở đến chết. Hầu hết những hình phạt
thời cổ đại được thực hiện trong thời gian rất lâu.
Do
đó, tù nhân sẽ không thể ngừng cười, dẫn đến kết cục bi thảm cuối cùng
là họ sẽ chết trong chính những cơn cười không dứt đó của mình.
Cho đến
ngày nay, người ta vẫn thường nói đùa với nhau là "cười đến không thở
nổi", nhưng trên thực tế đó chính là nguyên nhân dẫn đến cái chết cho
rất nhiều người trong thời Trung Cổ hay phong kiến Trung Quốc xưa kia.
Bên cạnh những hình thức tra tấn như: Lăng trì, ngũ mã phanh thây...
"Phạt
cười" vẫn luôn là hình phạt gây ra nỗi sợ hãi còn kinh khủng hơn các
hình phạt đẫm máu. Hình ảnh một người bị trói, cố định hoàn toàn tay
chân, nhưng vẫn cười mãi cho đến khi không thể chịu đựng được nữa và
chết đi, chắc chắn sẽ để lại sự ám ảnh sâu sắc cho những ai chứng kiến.
(Chan - theo Tri Thức Trẻ)
Danh tướng Nguyễn Cư Trinh và những chuyện 'thâm cung' ít người biết
4
Thanh Niên Online
Lâu nay danh tướng thời Võ vương
Nguyễn Phúc Khoát và Định vương Nguyễn Phúc Thuần là Nguyễn Cư Trinh chỉ
được biết đến qua vài thông tin ít ỏi, vì vậy những tiết lộ của học giả
Vương Hồng Sển về nhân vật này có nhiều thú vị.
Thông tin về vị danh tướng này, một số tài liệu lịch sử cho biết:
Nguyễn Cư Trinh tên thật là Nguyễn Đăng Nghi, húy là Thịnh, tự là Cư
Trinh, hiệu là Đạm Am, Đường Qua và Hạo Nhiên. Vai trò của vị tướng trấn
giữ biên cương từng góp phần to lớn trong công cuộc Nam tiến của các
Chúa Nguyễn là Nguyễn Cư Trinh được học giả Vương Hồng Sển nhận xét thấu
đáo trong cuốn Chuyện cũ ở Sốc Trăng (NXB Trẻ vừa ấn hành):
“Đánh giặc cũng giỏi mà chánh trị cũng hay, rất nhiều sáng kiến dùng kế
tàm thực và đồn điền mở rộng bờ cõi, phòng thủ lâu dài. Về mặt thủy đạo,
ông sai lập dọc theo sông Cửu Long, gần biên giới các đồn: Tân Châu đạo
(Tiền Giang), Châu Đốc đạo (Hậu Giang) và Đông Khẩu đạo (Sa Đéc), làm
hậu thuẫn”.
Tình bạn thơ tri kỷ hiếm có
Theo trang Wikipedia: “Mạc Thiên Tứ, tự là Sĩ Lân (còn gọi là Mạc
Thiên Tích), là danh thần đời chúa Nguyễn. Ông sinh năm Mậu Tuất (1708)
và mất năm Canh Tý (1780). Ông là con Tổng binh Mạc Cửu - người được
chúa Nguyễn phong là Tông Đức hầu. Khi cha ông qua đời (1735), lúc ấy
ông đã trưởng thành, nối nghiệp cha mở mang đất Hà Tiên, được chúa
Nguyễn Phúc Trú phong chức Tổng binh Đại đô đốc. Ông tiếp tục sự nghiệp
khai khẩn miền Tây Nam Bộ, biến vùng đất Hà Tiên trở thành đất văn hiến,
phồn vinh, nhiều lần chống trả lại các cuộc tấn công của các lân bang
Xiêm La và Chân Lạp”.
Cũng theo học giả Vương Hồng Sển trong cuốn di cảo mới xuất bản Chuyện cũ ở Sốc Trăng:
“Từ khi đất Hậu Giang lọt về tay Mạc Thiên Tứ, có một “duyên tiền định”
là cuộc gặp gỡ giữa một tổng binh tài năng kiêm văn võ, trấn ở Hà Tiên
là một nơi xa xôi hẻo lánh và một ông quan do Chúa ở Huế sai vào, lãnh
việc tẩy trừ giặc ở phương xa, quyền sinh sát trong tay nhưng giỏi thi
thơ. Hai người thành một, xây dựng cõi nam được rực rỡ để lại cho đời
sau hưởng và người đời sau vẫn ít nhắc công: Mạc Thiên Tứ và Nguyễn Cư
Trinh”.
Nói về tài đánh giặc thắng như chẻ tre của Nguyễn Cư Trinh, học giả
Vương Hồng Sển kể: “Mùa đông năm Quý Dậu 1753, Võ vương sai ông Thiện
chính (có lẽ đó là ông Thiện chính Nguyễn Hữu Doãn, chứ không ai khác -
Vương Hồng Sển), quan tham mưu tùng chinh là Nguyễn Cư Trinh chức Ký lục
bố chánh, hai người được lịnh Chúa, cùng điều khiển binh sĩ năm dinh,
đi đánh Nặc - Ông - Nguyên. Quân tiến đến Ngưu - Chữ (Bến Nghé) lập dinh
trại, thâu nạp thêm sĩ tốt, tuyển binh trừ bị để làm kế khai thác.
Tới mùa hạ năm Giáp Tuất 1754, binh của ông Nguyễn Cư Trinh đi đến
đâu giặc quy phục đến đó, hội quân với ông Thiện chính ở đồn Lô Yêm
(vùng Đồng Tháp Mười). Từ đó tiến binh thắng phủ Lôi Lạp (Gò Công), Tầm
Bôn (Tân An)…, nơi nơi đều xin quy hàng. Mùa xuân năm Ất Hợi 1755, ông
Thống suất về đồn Mỹ Tho mang theo hơn 1 vạn quân Côn Man vừa thâu phục
đến đất Vô Tà Ân (có lẽ Đồng Tháp Mười – Vương Hồng Sển), chẳng may bị
quân của Nặc Nguyên núp ở đây đổ ra đánh úp. Nguyễn Cư Trinh đem quân
giải vây, cứu thoát cho năm ngàn người đưa hết về núi Bà Đen (Tây
Ninh)".
Người bày ra lệ, buộc khắc tên họ nơi mũi thuyền ghe
"Nguyễn Cư Trinh còn biết dùng phương pháp ‘di địch chế địch’ nên
đặt người Côn Man giữ đất Tây Ninh và Hồng Ngự, làm trái độn giữa Cơ me
và Việt, đến nay hai nơi này còn dấu vết người Chàm. Chính Nguyễn Cư
Trinh dời dinh Long Hồ về đất Tầm Bào (Tân An, Tháp Mười)”, học giả
Vương Hồng Sển viết trong sách di cảo.
Đặc biệt, sách của học giả Vương Hồng Sển còn tiết lộ Nguyễn Cư
Trinh là người đã bày ra lệ, buộc thuyền ghe các hạt, bất luận lớn nhỏ
xứ nào, đều phải chạm khắc tên họ, quê quán nơi mũi. Chủ thuyền ghe ghi
vào bộ sổ quan sở tại cho tiện việc truy xét (nay còn lại thuyền ghe đục
“mắt ghe” sơn màu sơn đỏ).
Cùng với Mạc Thiên Tứ giỏi về ngoại giao, có công lớn trong việc
khai phá phương Nam và kinh bang tế thế, nhân vật Nguyễn Cư Trinh còn
giỏi cầm binh ra trận cùng… thơ văn lẫy lừng. "Lúc còn ở Gia Định, ông
thường xướng họa với thi xã tam hiền: Trịnh Hoài Đức, Ngô Nhơn Tịnh, Lê
Quang Định đều là tôi huân thần nhà Nguyễn, có công xây dựng và đem văn
hiến vào Nam. Và khi tới đất Hà Tiên, danh tướng Nguyễn Cư Trinh gia
nhập Chiêu Anh quán, làm thơ cùng nhóm Mạc Thiên Tứ, hai người rất là
tương đắc", di cảo Chuyện cũ ở Sốc Trăng của học giả Vương Hồng Sển bật mí thêm.
Vì sao hàng trăm năm nay nước Mỹ được gọi là Chú Sam?
Chủ nhật, ngày 17/05/2020 08:31 AM (GMT+7)
Từ năm 1813, nước Mỹ bắt đầu được đặt
biệt danh Chú Sam. Tên gọi này gắn liền với Samuel Wilson, một người
cung cấp thịt bò đóng thùng cho quân đội Mỹ trong cuộc chiến tranh năm
1812.
Bình luận
0
-
Bí mật về kho báu trị giá 1 tỷ USD của quân nổi dậy Simba
-
Hố địa ngục ở Nga giải mã tam giác quỷ Bermuda
-
Điều gì xảy ra với Trái Đất sau một cuộc chiến hạt nhân?
-
6 nét quý tướng của phụ nữ lộ rõ trên mặt, thần Tài hộ mệnh
(Nguyễn Thanh Điệp (Theo Zing))
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét