Thứ Năm, 28 tháng 5, 2020

GIAI THOẠI 02

(ĐC sưu tầm trên NET)
 
Thầy Phong Thủy Tiết Lộ Mẹo Phong Thủy Với HŨ GẠO Giúp GIA ĐÌNH Tài Lộc Đầy Nhà Tiền Tiêu Không Hết

Những giai thoại ly kỳ về bậc thầy phong thủy nổi tiếng nhất Đài Loan

Lâm Bán Tiên, người ở Lâm Viên Hương, phía Nam của Đài Loan là một trong những bậc thầy phong thủy nổi tiếng, để lại nhiều giai thoại ly kỳ.


Những giai thoại ly kỳ về bậc thầy phong thủy nổi tiếng nhất Đài Loan
Lâm Bán Tiên, người ở Lâm Viên Hương, phía Nam của Đài Loan là một trong những người để lại nhiều giai thoại nhất. (Ảnh: Pinterest)

Giới phong thủy Đài Loan thường có câu: Bắc có Lâm Lương Tiên, Trung có Sắt Mẫu Tiên, Nam có Lâm Bán Tiên. Trong số những thầy phong thủy chuyển từ Đường Sơn tới Đài Loan trong những năm Càn Long này, Lâm Bán Tiên, người ở Lâm Viên Hương, phía Nam của Đài Loan là một trong những người để lại nhiều giai thoại nhất…

Phong thủy đẹp ở Mũi Phượng

Lâm Bán Tiên tên thật là Lâm Trấn Tiên. Vào thời Càn Long, nhà Thanh, quan tổng binh của Phúc Kiến đã phái bốn thầy phong thủy nổi tiếng tới núi Phượng Sơn, thuộc Lâm Viên Hương, Cao Hùng, Đài Loan để khảo sát địa thế, đưa mộ tổ tiên về quê.
Lâm Bán Tiên là một trong số 4 thầy phong thủy đó. Khi chiếc thuyền chở 4 người đi qua Tiểu Lưu Cầu, do trời quang, nên từ đây có thể nhìn thấy ngọn Phượng Sơn giống như một con chim phượng đang giương rộng đôi cánh. Người ta có câu, chim tiên đón người tiên, vì vậy, ngọn Phượng Sơn từ đó đã gắn liền với cuộc đời của Lâm Bán Tiên.
Người ta kể rằng, cha ruột của vị quan tổng binh tỉnh Phúc Kiến lúc sinh thời là một ngư dân nghèo ở Lâm Viên Hương. Ông thường tới gần nơi được gọi là Mũi Phượng của núi Phượng Sơn để đánh cá. Tuy nhiên, cá ở nơi đây rất ít nên nhà ông đã khó càng thêm khó.
Thế rồi, sức khỏe của ông ngày một kém hơn. Cho tới một hôm, ông bỗng bệnh nặng rồi qua đời. Do hoàn cảnh gia đình quá túng quẫn nên không đủ tiền để mua quan tài, đành dùng một chiếc chiếu cói quấn lại rồi cho vào bên trong một cái lưới đánh cá rồi mang tới chôn ngay tại một cái động đá ở Mũi Phượng.
Động này nằm ở điểm đầu của núi Phượng, vì vậy có được toàn bộ linh khí của ngọn núi này. Do là phần mũi, nên thích hợp với nhuyễn táng. Nếu như dùng quan tài kiên cố chôn cất có thể khiến cho phượng tiên bị ngạt mà biến thành đại hung.
Sau khi người cha chết, để lại một đứa con trai khoảng 17 – 18 tuổi. Cha chết, không nghề nghiệp gì, đứa con trai chỉ biết hàng ngày vào chợ ăn xin kiếm sống. Thế rồi một hôm, đứa con trai bỗng nhiên mất tích, cả nhà chẳng biết cậu ta đi đâu.
Năm năm sau, có thông tin từ bên ngoài báo về. Hóa ra cậu con trai đã tới đại lục, nay đã trở thành quan tổng binh của tỉnh Phúc Kiến. Ông tổng binh phái người về tu sửa mộ phần tổ tiên, sẽ cải táng hài cốt của họ tới đại lục, nơi ông trị nhậm.
Khi Lâm Bán Tiên cùng người nhà của của quan tổng binh vào bên trong động đá ở Mũi Phượng, nhìn qua một lượt, họ Lâm đã kêu lên kinh ngạc: “Đây quả thật là một một huyệt tuyệt đẹp, chẳng trách con cháu lại đại phú, đại quý”.
Nói xong, Lâm Bán Tiên quay lại nói với những người cùng đi: “Phong thủy nơi này không được động vào! Quan tổng binh là nhờ âm phúc của nơi này mới có được như ngày hôm này, một khi động vào thì họa đến có ngày!”
Tuy nhiên, những thầy phong thủy được phái đi cùng không coi những lời nói của Lâm Bán Tiên ra gì. Quan tổng binh phái họ tới để đưa di cốt của cha ông ta về Phúc Kiến. Những người này đều sợ nếu như về tay không sẽ bị quan tổng binh trách mắng.
Vì vậy, nhất định thực hiện theo chỉ thị. Lâm Bán Tiên thấy vậy, biết chắc chắn rằng sẽ tai họa sắp giáng xuống đầu, bèn một mình rời khỏi đoàn. Kết quả, chiếc thuyền của đoàn người mang hài cốt cha của tổng binh khi đi tới Thượng Hải thì đột nhiên gặp bão lớn.
Chiếc thuyền bị cơn bão đánh gãy làm đôi, cả người lẫn thuyền cho tới bộ hài cốt mà họ mang theo đều bị chìm xuống đáy biển. Sau đó, quan tổng binh Phúc Kiến bị kẻ tiểu nhân ám hại mà mất chức. Trên đường về quê định hưởng tuổi già, quan tổng binh bị ngã xuống biển mà chết.

Tạo suối từ núi đá

Một chuyện khác kể, một hôm, Lâm Bán Tiên nhìn thấy một nhóm nông dân đang ăn cơm trưa trên bờ ruộng. Người dân phía Nam nổi tiếng hiếu khách, do vậy, những người nông dân nhìn thấy Lâm Bán Tiên thì rất nhiệt tình mời ông ăn cơm cùng.
Lâm Bán Tiên thấy thế cảm động nên ngồi xuống cùng. Đến khi nhìn thấy cơm của họ toàn là rau thì cảm thấy rất thương xót, nghĩ bụng: “Những người này đói khổ như vậy mà vẫn nhường cho mình phần cơm của họ, thật đáng thương”.
Trong lúc ngồi ăn cơm, Lâm Bán Tiên mới biết rằng, thứ nước những người nông dân này dùng để uống được lấy từ một nơi rất xa. Do địa thế của vùng này đều là núi đá nên hoàn toàn không có sông suối gì chảy qua.
Vì thế, hàng ngày, người dân cứ phải mang quang gánh tới nơi đó gánh từng thùng nước về để dùng. Lâm Bán Tiên nghe những người nông dân kể, cảm thấy họ đã khổ càng thêm khổ. Lâm Bán Tiên bèn nghĩ cách để cảm ơn thịnh tình của những người nông dân đã mời cơm ông nên nói:
“Các anh cứ phải đi lấy nước như vậy thì khổ quá. Để tôi giúp các anh cầu nước. Không chỉ có nước để ăn mà có thể dùng để tưới tiêu ruộng đồng mỗi khi trời khô hạn”.
Những người nông dân cảm thấy bán tín bán nghi, nói với Lâm Bán Tiên: “Nếu như được như lời ông nói thì thật là quá tốt!”.
Sau đó, Lâm Bán Tiên chọn một ngày hoàng đạo, rồi leo lên một ngọn núi, bày hương án, tay cầm thanh kiếm bằng gỗ liễu, vừa đi vừa niệm chú. Tới phần lưng chừng núi, sau khi đã ngắm chuẩn, Lâm Bán Tiên phun ba ngụm nước vào cùng một nơi rồi cầm thanh kiếm bằng gỗ liễu đâm thẳng vào vị trí đã phun nước.
Sau đó, Lâm Bán Tiên dặn một người ở lại trông chừng thanh kiếm gỗ còn mình thì quay trở lại hương án, tiếp tục làm phép. Một lúc sau, Lâm Bán Tiên từ trên đỉnh núi nói vọng xuống chỗ của người đang trông giữ thanh kiếm: “Mau rút thanh kiếm ra”.
Người trông chừng thanh kiếm nghe thấy vậy vội vàng rút thanh kiếm ra khỏi đất, đột nhiên, nước từ trong lòng núi theo thanh kiếm mà phun ra.
Lâm Bán Tiên từ trên đỉnh núi, nói vọng xuống hỏi: “Có nước hay không?” Người rút kiếm nói vọng lên rằng: “Có nước rồi!”
Lâm Bán Tiên lại hỏi: “Nước lớn hay nước nhỏ?”
Người rút kiếm lại nói: “Nước nhỏ nhỏ thôi!”
Lâm Bán Tiên nghe thấy vậy bèn than: “Người Lâm Viên phúc thật mỏng, có lẽ là do ý trời! Nếu như nước phun ra lớn thì chắc chắn sẽ thành một dòng sông”.
Tuy nhiên, một dòng nước nhỏ cũng đủ khiến người dân Lâm Viên vui mừng khôn tả, hò reo vang trời. Đột nhiên, Lâm Bán Tiên hét lớn: “Chạy! Có thể chạy bao xa thì chạy, chạy tới lúc không còn sức lực nữa thì mới dừng lại”.
Nghe câu nói của Lâm Bán Tiên, người dân Lâm Viên chẳng hiểu vì sao, nhưng thấy họ Lâm nói cầu nước là cầu được nên tin theo, nhất loạt nghe theo lời Lâm Bán Tiên chạy thục mạng ra phía biển.
Không ngờ, người dân Lâm Viên chạy tới đâu, nước cứ tuôn trên mặt đất chảy theo họ tới đó. Chạy chừng 5 – 6 dặm thì những người nông dân dừng lại. Dòng nước chảy theo chân họ tới nơi đây cũng dừng lại, không chảy nữa.
Kể từ khi có nước, người dân xung quanh vùng không cần phải đi xa lấy nước nữa, ruộng nương cũng tươi tốt hơn nhờ có đủ nước tưới tiêu. Nhờ vậy, đời sống của người dân Lâm Viên ngày một sung túc hơn.
Điều đặc biệt ở con suối do Lâm Bán Tiên tạo ra là dù thời tiết có khô hạn thế nào thì nó cũng không bao giờ cạn, dòng nước của nó cứ giữ nguyên, không nhiều cũng không ít.
Để nhớ ơn Lâm Bán Tiên, những người dân Lâm Viên đã quyết định xây dựng một cái miếu ở phía trên của con suối và đặt tên là miếu Thanh Thủy.

Sư tử đá hiển linh ăn đậu tương

Một lần khác, Lâm Bán Tiên tới thôn Ngũ Phòng ở Tân Viên Hương, quen biết một người bạn họ Trương. Một hôm, họ Trương bàn chuyện ở Vạn Đan Phố có một huyệt mộ, nếu như có thể chôn ở huyệt mộ này thì đời đời con cháu sẽ được hưởng vinh hoa phú quý chẳng bao giờ hết.
Họ Trương muốn nhờ Lâm Bán Tiên tới Vạn Đan Phố khảo sát, tìm được huyệt mộ này để chôn cất hài cốt tổ tiên ông ta.
Huyệt mộ này tựa lưng về hướng Dần, quay mặt về hướng Thân. Ở hướng Càn có một dòng nước tự nhiên chảy qua chính diện. Ở hướng Khôn có một đầm nước sâu có hình bán nguyệt. Hướng Thanh Long là chúng tinh tụ hội, hướng Bạch Hổ có một ngọn núi nhỏ hình tròn làm quan ấn, minh đường rộng rãi thoáng đãng, có thể chứa được cả thiên binh vạn mã.
Có thể nói đây là một long huyệt khó tìm thấy cái thứ hai. Lâm Bán Tiên tới nơi, tính toán một hồi rồi dùng tay làm phép, chỉ đúng vị trí hội tụ linh khí của khu đất.
Phía trước ngôi mộ đặt 2 con sư tử đá, Lâm Bán Tiên còn điểm nhãn cho chúng, khiến chúng biến thành những con sư tử thật. Những con sư tử này mỗi khi sáng sớm hoặc tối muộn lại chạy ra ngoài tìm thức ăn để nuôi dưỡng linh cốt bên trong linh huyệt.
Nhờ vậy, con cháu nhà họ Trương không ngừng ăn nên làm ra, tiền tài vào như nước. Tuy nhiên, 2 con sử tử đá chạy qua các khu ruộng của người dân kiếm ăn, khiến người dân nơi đây bị thiệt hại không ít song họ vẫn không cách nào tìm được con vật phá hoại ruộng vườn của  mình.

Những giai thoại ly kỳ về bậc thầy phong thủy nổi tiếng nhất Đài Loan - 2
Sư tử đá bên trong Tử Cấm Thành, Trung Quốc. (Ảnh: flickr)

Cho tới một hôm, con sư tử ở bên trái chạy ra ngoài tìm đồ ăn đã ăn sạch một ruộng đậu tương của những người  nông dân ở gần đó. Những người nông dân này thấy ruộng đậu tương giống như bị trâu hay dê ăn sạch vì vậy, huy động cả dân làng truy bắt.
Lúc đó đã hoàng hôn, người dân không nhìn thấy rõ là con vật gì, song thấy nó phá hoại ruộng vườn của mình bèn giương cung lên bắn. Chỉ thấy con vật bỏ chạy, máu chảy ròng ròng.
Những người nông dân theo vết máu lần theo nhưng tới mộ của nhà họ Trương thì mất dấu vết. Nhìn kỹ thì thấy con sư tử bên trái mất một cái tai, chỗ tai bị mất máu vẫn còn chảy ròng ròng.
Những người nông dân chửi bới, nói rằng, hóa ra lâu nay con sư tử đá này ăn đậu tương của chúng ta. Một người nông dân tức giận muốn dùng chùy đập vỡ con sư tử đá kia. Không ngờ, Lâm Bán Tiên bố trí một tấm bùa, khiến cho người nông dân kia vừa giơ búa lên thì cảm thấy đầu óc choáng váng, ngã vật xuống đất bất tỉnh.
Mọi người thấy vậy đều phải bỏ về. Tuy nhiên, những người nông dân này vẫn không chịu thua. Mấy ngày sau, họ đem chuyện này kiện nhà họ Trương lên quan phủ, khiến cả một vùng Tân Viên Hương náo động.
Nhà họ Trương biết rằng mình đuối lý, đành phải dùng tiền bồi thường cho những người nông dân, sau đó lại nhờ Lâm Bán Tiên làm phép để khóa chặt hai con sư tử không cho chúng tự do ra ngoài tung hoành nữa.
Người dân nơi đây nói rằng, cho tới nay, ngôi mộ này đã tồn tại hơn 200 năm. Mỗi năm, con cháu nhà họ Trương đều tới đây để tảo mộ. Mỗi lần như vậy là người dân Tân Viên Hương lại một lần được chứng kiến những chiếc xe siêu sang nhập khẩu từ nước ngoài về.
Điều này chứng tỏ con cháu nhà họ Trương cho tới nay vẫn còn làm ăn rất phát đạt. Có điều, cho tới nay, dù rất nhiều lần con cháu nhà họ Trương muốn sửa lại cái tai bị sứt của con sư tử đá ở bên trái phần mộ nhưng vẫn không tài nào sửa được.

Bò vàng sinh ngựa trắng

Sau khi giúp họ Trương chọn mộ và đặt sư tử đá, Lâm Bán Tiên còn nhận lời một người họ Ưu tìm nơi đặt huyệt mộ cho mẹ ông ta. Người ta nói rằng, huyệt mộ này nằm cách huyệt mộ nhà họ Trương vừa đúng 30 thước.
Huyệt mộ này cũng có dòng nước tự nhiên chảy qua chính điện, quay mặt về đầm nước hình bán nguyệt, cũng là một huyệt mộ có thế “chúng tinh ủng nguyệt”.
Lâm Bán Tiên nói với họ Ưu rằng, nếu như mai táng ở huyệt này thì ba năm sau, con bò vàng của nhà ông sẽ sinh ra hai con ngựa trắng. Nếu như ông cho nó ăn lúa gạo thì nó sẽ thải ra vàng, còn nếu như ông cho nó ăn đậu tương thì nó sẽ thải ra bạc. Tuy nhiên, ta có một điều kiện là ông phải cho ta một con.
Họ Ưu nghe vậy thì mừng lắm, ngay lập tức đồng ý điều kiện mà Lâm Bán Tiên đưa ra. Sau khi mai táng mẹ của họ Ưu, Lâm Bán Tiên làm phép khóa long huyệt. Sau khi làm phép xong, Lâm Bán Tiên nói với họ Ưu rằng:
“Ba năm sau, con bò vàng của nhà ông sẽ mang thai, tất sẽ sinh ra hai con ngựa trắng. Ba năm sau ta tới lấy một con ngựa trắng về”. Đúng ba năm sau, con bò vàng của nhà họ Ưu quả thực mang thai và đúng như lời của Lâm Bán Tiên nói, con bò vàng sinh ra hai con ngựa trắng.
Họ Ưu mừng lắm, tuân theo lời của Lâm Bán Tiên mang lúa cho ngựa ăn. Khi con ngựa trắng đại tiện, họ Ưu nhìn vào thì quả thực toàn là vàng. Con ngựa trắng còn lại, họ Ưu mang đậu tương cho nó ăn, quả nhiên, khi con ngựa đại tiện ra toàn bộ đều là bạc nén.
Đang lúc họ Ưu vui mừng không gì tả xiết thì Lâm Bán Tiên tìm tới. Thấy Lâm Bán Tiên tới, lòng tham của họ Ưu chợt nổi lên. Trong lòng họ Ưu nghĩ: “Hai con ngựa quý giá như vậy, lẽ nào lại phải tặng cho người khác một con”.
Nghĩ vậy, họ Ưu liền sai người nhà dắt một con ngựa mang đi giấu rồi nói với Lâm Bán Tiên rằng, con bò vàng nhà mình chỉ sinh được một con ngựa trắng chứ không phải hai con như ông đã nói.
Lâm Bán Tiên nghe họ Ưu nói vậy thì biết rằng y nói dối. Tuy nhiên, Lâm Bán Tiên vẫn không hề nói nửa câu, lặng lẽ quay về. Lâm Bán Tiên tới trước phần mộ của nhà họ ưu làm phép một hồi, sau đó ngồi xe trở về Lâm Viên Hương.
Kết quả, hai con ngựa trắng của nhà họ Ưu chỉ trong một đêm đều chết cả. Họ Ưu muốn tìm Lâm Bán Tiên để bắt đền nhưng lúc này Lâm Bán Tiên đã dời đi từ lâu. Cũng kể từ đó, nhà họ Ưu bắt đầu lụn bại. Cuối cùng cả nhà họ Ưu phải rời quê đi tha phương cầu thực.
TinhHoa tổng hợp

Những giai thoại nổi tiếng về bậc thầy phong thủy Tả Ao

Những giai thoại nổi tiếng về bậc thầy phong thủy Tả Ao
Tả Ao tiên sinh là một trong những bậc thầy phong thủy nổi tiếng nhất nhì của Việt Nam. Những giai thoại về ông được lưu truyền rộng rãi cho đến tận ngày nay, trở thành những câu chuyện hết sức ly kỳ. Ông được cho là tác giả của một số cuốn sách Hán Nôm cổ truyền bá thuật phong thủy của Việt Nam. Trong dân gian tương truyền nhiều giai thoại cổ về hành trạng thuật phong thủy của ông ở các làng xã Việt Nam thời xưa.
Tả Ao tiên sinh, tên thật là Nguyễn Đức Huyên, người làng Tả Ao, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Ông sinh vào thời vua Lê chúa Trịnh (1545 – 1788), là một bậc thầy phong thủy nổi tiếng nhất nhì nước Việt. Nhà Tả Ao nghèo, cha mất sớm còn mẹ bị bệnh lòa mắt, vì thế nên ông  đến giúp việc cho một ông thầy thuốc người Tàu ở trong huyện, trước lấy tiền trị mắt cho mẹ sau học thêm được nghề bốc thuốc chữa bệnh. Chính vì thế mà ông chữa được bệnh mắt lòa cho mẹ.

Ông thầy Tàu thấy Tả Ao có chí lớn, nên khi về lại bên Trung Hoa đã dẫn ông theo để dạy thêm nghề thuốc. Trên đất khách, gần nhà ông thầy thuốc, có một thầy địa lý rất giỏi, cũng đang bị bệnh về mắt, Tả Ao liền được thầy phái sang chữa trị thay ông ta.
Thầy địa lý nói rằng, nếu Tả Ao chữa khỏi bệnh mắt cho mình thì ông sẽ thưởng 50 lượng vàng. Tả Ao nhờ kinh nghiệm chữa khỏi bệnh mắt cho mẹ, nên đã chữa khỏi bệnh cho thầy địa lý, nhưng ông không nhận vàng mà chỉ xin ông ta truyền cho nghề xem phong thủy.
Vì ơn nghĩa, nên thầy địa lý bằng lòng, truyền dạy hết tinh hoa địa lý phong thủy cho Tả Ao, đến khi học thành tài, ông xin cả 2 ông thầy cho về nước.
Trước khi cho Tả Ao về Việt Nam, ông thầy địa lý muốn thử lần cuối sự hiểu biết của Tả Ao, ông ta làm ra 100 mô hình đất kết trên bãi cát, dưới mỗi huyệt có yểm một đồng tiền, rồi đưa Tả Ao 100 cây kim ra đó tìm huyệt để điểm.
Tả Ao điểm đúng 99 lỗ của đồng tiền, còn một cây điểm ở mép, mà huyệt này lại là huyệt thứ 100. Đây là huyệt ảo, vì mô hình tạo dáng rất huyền bí, ẩn hiện dưới những mô đất nhấp nhô, những thầy địa lý giỏi cũng khó phát hiện ra đúng huyệt đạo.
Khi Tả Ao về đến quê hương, ông chỉ lo hành nghề bốc thuốc, ít khi sử dụng đến khoa địa lý, chỉ khi nào cần thiết ông mới ra tay xem thế đất giùm mọi người, tuy vậy danh tiếng xem địa lý, phong thủy của Tả Ao lại nổi hơn nghề thầy thuốc.
Cũng chính vì ông không hành nghề xem phong thủy cho ai, nên không có hậu bối. Khi Tả Ao mất người nhà chỉ tìm thấy 2 bộ sách viết về địa lý phong thủy, là Địa đạo diễn ca và Dã đàm Tả Ao. Nhưng trong dân chúng có nhiều sách được in ra nói là sách do chính Tả Ao viết. Còn các nhà địa lý phong thủy, khi đọc xong 2 quyển sách trên, đều cho đây là sách quý.
- Tả Ao cứu vua nhờ mộ kết
Một ngày nọ thầy phong thủy Tả Ao đi ngao du sơn thủy, tuổi tuy đã già nhưng dáng người vẫn quắc thước khoẻ mạnh, khi ông đi đến một làng quê nọ, trời nắng nóng nên ghé vào ngồi nghỉ mát dưới gốc cây đa bên làng, ông nhìn thấy một anh nông dân đang miệt mài cày ruộng, đến khi mặt trời đứng bóng mới chịu tháo cày cũng vào gốc đa ngồi mở cơm nắm ra ăn.
Thấy một ông lão cùng ngồi ở đó nhưng không ăn uống gì cả, anh ta mới lên tiếng hỏi: “Xế trưa rồi ông không dùng cơm sao, hay là ông không sẵn mang theo, thôi cùng nắm cơm này ăn với cháu cho vui”.
Anh nông dân vừa giở cơm, vừa mau mắn mời ông lão: “Cháu mời ông dùng cơm…”
Thấy thái độ anh nông dân dễ mến, Tả Ao không khách khí, bèn vui vẻ ngồi lại cùng ăn. Bốn năm ngày như vậy, anh nông dân vẫn một lòng kính trọng Tả Ao, mời cơm và ông cũng không lần nào từ chối.
Đến bữa cuối cùng, bỗng ông nói với anh nông dân: “Chắc anh vẫn không biết ta là ai? Ta chẳng giấu gì anh, ta chính là thầy phong thủy Tả Ao đây”.
Anh nông dân nghe danh Tả Ao đã lâu, nay có dịp diện kiến nên vừa mừng vừa hốt hoảng, liền cúi đầu xin ông tha lỗi. Tả Ao đỡ anh nông dân đứng dậy nói tiếp: “Ta xem anh là người có đức nên có ý giúp anh đặt một ngôi mộ sau này sẽ phát phúc, phát tài, cho anh nở mặt với thiên hạ”.
“Ông dạy quá lời, nhà cháu mấy đời nay đều là nông dân chân lấm tay bùn, bần hàn, đi cày thuê cuốc mướn kiếm cơm qua ngày, mong gì nở mày nở mặt với ai”.
“Anh cứ yên tâm. Ta nói sẽ giúp anh được giàu sang phú quý trong vòng 100 ngày thôi. Nào anh hãy dẫn ta ra nơi mộ của cha mẹ của anh đi, ta xem thế nào sẽ sửa cho”.
Anh nông dân mừng rỡ bèn nghe theo lời Tả Ao, dẫn ông đi ra mộ của cha mình. Tả Ao xem xong mới nói: “Mộ đặt nơi thế đất không tốt, suốt đời sẽ bần hàn cơ cực. Phải đào lên cải táng, di dời qua nơi đất khác mà thôi”.
Nói rồi bảo anh nông dân đào mộ lên, xếp xương cốt vào một chiếc hủ đất đem đi chôn ở một huyệt đất mà Tả Ao đã chọn sẵn.
Xong đâu đấy, Tả Ao căn dặn: “Anh nhớ không cho ai biết chuyện này! Một trăm ngày nữa, vào ngày Mùi tháng Ngọ, đúng giờ Tý anh phải có mặt ở kinh đô, đứng ở hướng Đông. Hễ gặp một người đàn ông mặc áo trắng, đi hài xanh, từ trong thành chạy ra với bộ mặt hốt hoảng, thì anh cứ chạy lại bảo: ‘Con xin cứu ngài!’, rồi cõng thẳng về giấu trong nhà, ngày ngày lo cơm nước cho tử tế. Anh cứ thế mà làm, đừng suy nghĩ gì hết!”.
Nói xong, Tả Ao từ biệt anh nông dân mà đi thẳng, về sau anh ta có đi tìm nhưng chẳng biết ông đi về đâu. Đúng như lời dặn của Tả Ao, đúng ngày giờ anh nông dân ra kinh đô đứng đợi ở cửa Đông. Bỗng nghe có náo động từ trong thành vọng ra nào tiếng chiêng, tiếng trống, tiếng quân reo hò, tiếng người gào thét, rồi lửa bốc cháy đỏ rực một góc trời.
Và quả nhiên, một người đàn ông dáng thư sinh mặc áo trắng, đi hài xanh, hớt hải một mình chạy qua gần chỗ anh nông dân đang đứng. Anh ta chỉ đợi có thế bèn chạy đến bên nói to: “Thưa ngài, con xin cứu ngài!”
Nói đoạn ghé vai cõng người ấy chạy một mạch về giấu trong nhà. Người ấy có vẻ sợ hãi, suốt ngày im lặng nghe ngóng động tĩnh. Anh nông dân cũng chẳng hỏi thân thế của người đàn ông ấy đang lo sợ đến quên ăn mất ngủ.Vài ngày sau bỗng có loa truyền rằng, ai đang giữ vua ở đâu thì báo cho quan quân kịp đưa vua về kinh.
Lúc ấy ông khách mới nói cho anh nông dân biết mình chính là vua, mấy ngày trước đây bị bọn gian thần định soán ngôi. Rồi nhà vua sai anh ta đi báo cho quan quân biết nơi vua đang ở ẩn. Khi quan quân đến rước vua, vua cho phép cả anh nông dân cùng đi theo mình về kinh thành.
Tại kinh đô vua thiết triều, trấn an trăm họ và phong cho vị ân nhân là anh nông dân được làm quan đến chức nhị phẩm, cùng vàng bạc lụa là nhiều vô số kể. Thì ra ngôi mộ mà Tả Ao đặt cho người cha anh nông dân, kết phát y như lời ông nói khi trước, chỉ trong vòng 100 ngày.
- Dạy dỗ kẻ tham lam

Một hôm Tả Ao đang đi đến vùng đất nọ. Thấy ngôi đình làng ở đây đặt hướng bị thất cách, ông đứng ngắm mãi rồi đến gần để xem cho rõ. Các vị chức sắc trong làng biết danh Tả Ao nên khẩn khoản nhờ ông đổi lại hướng đình làng để cả làng phát khoa bảng, muốn đè đầu cưỡi cổ thiên hạ một phen cho họ biết tay.

Tả Ao nghe xong chỉ cười, sau đó ra trước sân đình đặt tróc long định hướng, rồi cắm hướng mới cho ngôi đình. Xong cáo biệt đi thẳng. Mấy tháng sau khi đình đã được xoay ngôi đổi hướng, các vị chức sắc kỳ mục không nói cho dân làng nghe chuyện, mà chỉ dặn con cháu ra công đèn sách nay mai ứng thí.
Nhưng không hiểu sao, tất cả đám con trai, từ lớn đến bé hễ cầm quyển sách định học, nhưng học mãi mà chữ nghĩa chẳng vào đầu. Các thầy đồ được mời đến dạy cũng thở dài ngao ngán. Rồi thay vì sách vở bút nghiên, càng ngày càng có nhiều anh con trai con các chức sắc kỳ mục rủ nhau đi sắm hòm đồ nghề thợ cạo, xách đi khắp nơi hớt tóc dạo. Trong lúc hành nghề, họ tha hồ mà “đè đầu đè cổ” thiên hạ.
Các cụ chức sắc lúc ấy mới hiểu ra cái thâm ý của thầy Tả Ao trước đây. Nhưng cũng hiểu rõ, tại họ quá tham lam, chỉ biết tư lợi cá nhân, nên mới bị Tả Ao dạy dỗ. Từ đó có giai thoại Tả Ao chuyên dùng phép trị kẻ tham, kẻ ác.


- Thế đất “phượng hoàng ngậm thư” ở ngôi làng cổ nhất VN (Làng Nam Trì (xã Đặng Lễ, huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên) có trên 1.000 năm tuổi vốn từ xưa được ca tụng nằm tại thê đất “phượng hoàng ngậm thư”, dược Cao Biền và Tả Ao  – hai thầy địa lý nối danh đánh giá rất cao.)
May mắn, làng Nam Trì còn được đích thân hai thầy phong thủy nảy chọn đất xây đình, đặt cửa đê ngirời làng vể sau phát đmrng công danh, tài lộc. Nhung chẳng hiểu vì sao việc chọn đất, xây đình đểu theo ý của hai thầy phong thủy này nhung con đường khoa cử công danh của người dân trong làng không được như ý. Suốt lịch sử khoa cử phong kiến Việt Nam, số ngirờỉ làng đậu đạt lại vô cùng hiếm hoi, ngày nay SỊT học càng tụl dốc khỉ đa số dân làng đểu theo nghề nông, bán sức lao động để kiếm sống.
Đất “phượng hoàng ngậm thư"… mãi không phát?
Làng Nam Trì hiện nay không nhà cổ, cũng chẳng từ đường bề thế như tưởng tượng về những ngôi làng cổ nổi danh khoa bảng mà chúng tôi vẫn thường gặp. cả làng Nam Trì là hệ thống các ngôi nhà ngói đơn sơ, san sát nhau gọi cho người ta nhớ về những gian nhà của một thời bao cấp đã xa. Khung cảnh của ngôi làng cổ này như muốn mách hết cho những vị khách thập phương như chúng tôi về đời sống kinh tế còn bộn bề khó khăn, vất vả. Chính vẻ bề ngoài của làng Nam Trì đã mang đến sự bất ngờ đến khó tin cho chúng tôi trong chuyến hành trình tìm hiểu văn hóa ở nơi được ca tụng là có thế đất “phượng hoàng ngậm thư”.
Từ xưa, vị trí đắc địa của ngôi làng cổ này đã đuợc ca tụng và nổi danh suốt chiều dài lịch sử. Vị trí đắc địa này còn được hai thầy địa lý là Cao Biền và Tả Ao đánh giá rất cao.
Tương truyền với thế đất “phượng hoàng ngậm thư” thì đây là vùng địa linh, nơi sản sinh nhiều bậc văn nhân tài danh cho đất nước. Cũng theo tương truyền, chính vì địa thế hiếm có này đã khiến Cao Biền và Tả Ao bỏ công, bỏ sức giúp làng chọn đất xây đình, mong dân làng sớm có nguời vinh hiển. Cũng chính vì những câu chuyện phong thủy ly kỳ trên mà không ít người chưa một lần đặt chân đến Nam Trì đều nghĩ rằng đây phải là làng khoa bảng, nơi xuất thân của nhiều bậc hiền tài.
Tuy nhiên, trong chuyến khám phá ngôi làng cổ này, những gì chúng tôi thu thập được lại khác xa với sự tuởng tượng ban đầu. Nói về khoa cử công danh thì làng Nam Trì chưa hề được phất lên, thậm chí còn thua xa nhiều làng cổ khác ở đồng bằng Bắc Bộ. Số người đậu đạt xuyên suốt cả lịch sử khoa cử thời phong kiến cũng chỉ có một hai người. Điều này được xem là không hề tương xứng với những gì suốt nhiều thế hệ ca tụng vị trí phong thủy đắc địa của ngôi làng cổ này.
Danh bất hư truyền hay hu danh… vô thực?
Để tìm hiểu sâu hơn nghịch cảnh khoa cử so với vị trí đắc địa của làng Nam Trì. chúng tôi đã tìm đến ngôi đình nơi duy nhất hiện nay thờ Cao Biền và Tả Ao – hai người nổi tiếng giỏi về địa lý làm thành hoàng làng.
Theo quan sát của chúng tôi, đình làng Nam Trì hiện nay được xây trên một gò đất bao quanh hoàn toàn là nước, lối vào duy nhất là cây cầu bê tông nối đình với đường làng. Vị trí ngôi đình này được xây lại trên khuôn viên do chính Cao Biền tự tay chọn đất truớc đây. Người làng vẫn tin đình làng được xây trên thế đât “cổ con rồng”. Theo lời kể của ông Vũ Công Điền, thủ từ đình Nam Trì, sở dĩ đình làng Nam Trì do Cao Biền chọn đất gắn liền với câu chuyện cách đây hơn một thiên niên kỷ trước. Vào giữa thế kỷ IX, Cao Biền từng đi qua vùng đất làng Nam Trì ngày nay, bằng nhãn quan của một nhà địa lý, Cao Biền cho rằng làng này có thế đất “phượng hoàng hàm thư”. Đây là thế đất rất quý, với thế đất này thì Nam Trì về sau sẽ sinh ra bao bậc tài danh lập nên nhiều công trạng lớn. Chính thế đất đẹp hiếm có của Nam Trì đã khiến Cao Biền bỏ công giúp làng chọn đất xây đình với mong muốn cho Nam Trì mau chóng có người hiển đạt, vinh quy!?
Tương truyền, nơi Cao Biền chọn đất để xây đình là nơi có “hoàng long địa mạch, song long tứ nhãn, nhị nhãn hiện nhị nhãn ẩn, thuỷ nhiễu chu viên”. Nhưng theo tìm hiểu của chúng tôi, có một điều lạ, kể từ khi Cao Biền chọn đất, làm đình cho đến thế kỷ XVI thì người làng Nam Trì chẳng một ai đạt được công danh như lời ông Cao Biền truyền lại. Cái thế phong thủy “phượng hoàng ngậm thư” của làng coi như chẳng phát huy được tác dụng nào. Chẳng hiểu vì lý do gì từ ngày Cao Biền chọn đất xây đình cả làng không có nổi một người đậu đạt. Chính điều này khiến cả làng hoài nghi. Đến thế kỷ XVI, nghe danh Nam Tri có thế đất quý, thành địa lý Tả Ao đến làng. Chính ông đã khuyên dân làng dời đình đi nơi khác, không để ở vùng đất Cao Biền lấy trước đây.
Ông Điền kể lại rằng, người Nam Trì chúng tôi đến nay vẫn truyền tụng nhau rằng, Tả Ao tiên sinh từng sinh sống ở làng 38 năm. Vì quý cái thế đất của làng Nam Trì nên ông đã ở mãi nơi đây đến lúc về già. Lý do mà ông Tả Ao ở lại lâu như vậy đến nay vẫn còn là một điều bí ẩn. Lý do vì sao thầy địa lý Tả Ao quyết định dời đình làng sang một vị trí mới, nam ở phía Tây của làng đến nay không ai trả lời được. Đình làng nơi Tả Ao chọn đất đã bị bom cày nát trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ. Hiện nay, vị trí đất đó đã bị nguời làng tự ý xây nhà lên ở. Cũng từ khi Tả Ao chuyển đình sang chỗ mới thì làng Nam Trì mới bắt đầu có người đậu đạt. Tuy nhiên cũng chỉ vỏn vẹn đuợc một ông tiến sỹ, một ông quận công. Sự thực 1.000 năm qua cho thấy thế đất “phụng hoàng ngậm thư” của Nam Trì chưa thể phát đường công danh tài lộc như hai ông thầy địa lý Cao Biền, Tả Ao phán trước đây.
Cao nhân tất hu cao nhân trị
Cao Biền (821- 887), người U Châu (Bắc Kinh, Trung Quốc), nhờ có công đánh bại quân Nam Chiếu xâm chiếm phương Nam nên năm 868, Cao Biền được vua Đường cho trấn giữ Giao Chỉ giữ chức Tĩnh Hải tiết độ sứ và giữ chức này đến năm 875. Dân gian cho rằng, Cao Biền là người có thuật phong thuỷ kỳ lạ và mưu đồ xấu. Nhiều câu chuyện kể lại, khi Cao Biền giữ chức Tĩnh Hải tiết độ sứ, ông thường “cưỡi diều” đi khắp nơi, hễ đâu có thế phong thuỷ đẹp thì yểm, phá long mạch để không cho những đất đó sinh thành ra các bậc tài danh. Ngay nay, ở phường Đình Bảng, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh hay đất Đường Lâm (Sơn Tây), Ba vì, Hà Nội vẫn truyền tụng những câu chuyện tương tự. Còn Tả Ao, có thông tin, ông sinh vào thế kỷ XVI, ở làng Tả Ao, phủ Đức Quang, trấn Nghệ An, nay là huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh, ông là thầy địa lý, phong thuỷ nổi tiếng ở Việt Nam.
Một số cuốn sách Hán Nôm cổ truyền bá thuật phong thủy của Việt Nam được cho rằng, ông là tác giả. Ngày nay, ở Việt Nam vẫn còn nhiều truyền thuyết, giai thoại ghi lại, truyền miệng trong dân gian như việc Tả Ao phá trấn yểm của Cao Biền trên núi Tản Viên (Hà Nội), núi Hàm Rồng (Thanh Hóa). Ngoài ra, còn có các truyền thuyết, giai thoại Tả Ao tìm nơi đất tốt để đặt đình chùa, đền miếu, mồ mả, nhà cửa. Làng này có tục nọ, nghề kia là do Tả Ao chọn đất, hướng đình; họ này phát danh khoa bảng, họ kia phát công hầu, khanh tướng là do Tả Ao tìm long mạch, huyệt đạo đặt mồ. Việc hai ông thầy địa lý được cho là có tài năng này cùng chọn đất xây đình cho làng Nam Trì theo cách khác nhau nhưng chẳng hiểu sao làng này mãi không phất lên được?

- Một số tác phẩm: Các sử gia thời Lê Nguyễn đều không chép về ông nên cuộc đời ông chỉ được chép tản mát trong một số truyện, sách đại lý phong thủy thời nhà Nguyễn và sau này. Sách Hán Nôm được cho là do Tả Ao truyền lại gồm: Tả Ao chân truyền di thư (左 幼 真 傳 遺 書), Tả Ao chân truyền tập (左 幼 真 傳 集), Tả Ao chân truyền địa lý (5 tập-左 幼 真 傳 地 理), Tả Ao tiên sinh bí truyền gia bảo trân tàng (左 幼 先 生 祕 傳 家 寶 珍 藏), Tả Ao tiên sinh địa lý (左 幼 先 生 地 理), Tả Ao xã tiên sư thư truyền bí mật các lục (左 幼 社 先 師 書 傳 祕 宓各 局), Bản quốc Tả Ao tiên sinh địa lý lập thành ca 本國左⿰氵幻先生地理立成歌


Theo sách vở và cả truyền miệng thì Tả Ao có những tên sau: Vũ Đức Huyền hiệu Địa Tiên, Nguyễn Đức Huyền hiệu Phủ Hưng, Hoàng Chiêm, Hoàng Chỉ. Ông sinh vào thời Lê sơ (1428-1527), có sách nói thời Lê – Mạc (1533-1592), thời Lê – Trịnh – Nguyễn (1592-1789), có người khẳng định ông sinh năm Nhâm Tuất (1442) có sách còn nói Tả Ao và Cao Biền thi thố tài năng (tức là đời nhà Đường ở thế kỷ IX). Tuy nhiên, qua những chuyện kể có liên quan đến Mạc Kinh Độ nên hiện nay người ta dễ chấp nhận ông sinh vào thời Lê sơ. Quê quán, có sách nói ông sinh ở làng Tả Ao (Hà Tĩnh). Có sách lại nói gốc ở Sơn Nam (vùng Hải Dương, Hưng Yên), sau đó gia đình phiêu bạt và định cư ở làng Tả Ao. Do các sách đều ghi Vũ Đức Huyền (hợp với ngoài Bắc còn miền Trung trở vào là họ Võ). Từ suy đoán này có thế chấp nhận ông sinh ở vùng Sơn Nam (Hải Dương, Hưng Yên) phiêu bạt và định cư về xã Ao Cầu (sau này tách thành 2 xã Tả Ao và Tiên Cầu), phủ Đức Quang, trấn Nghệ An, nay là xã Xuân Giang, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Ở đây có đền thờ Tả Ao, giếng Tả Ao. Ở thôn Nam Trì, xã Đặng Lễ, huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên có đền thờ 3 thượng đẳng phúc thần: Tể tướng Lữ Gia (Bảo Công), tướng Nguyễn Danh Lang (Lang Công) và Cao Biền (Cao Vương) và Bản cảnh thành hoàng Tả Ao. Bởi nơi đây Tả Ao đã chọn đất lập làng để làng thịnh vượng và phát triển. Tại sao ngài lại giỏi địa lý như vậy? Có 2 nguồn truyền miệng về việc Tả Ao tầm sư học đạo nên nggười. Một truyền thuyết kể rằng, Tả Ao cứu một thầy địa lý người Trung Quốc chết đuối ở sông Phù Thạch xứ Nghệ.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét