TT & HĐ II - 15/g
Năng Lượng
PHẦN II: Nền tảng
" Triết học bắt đầu từ sự ngạc nhiên"
Arixtốt
“Chúng
ta có thể mường tượng thế giới của thực tại như là một dòng nước ngầm;
thế giới hiện tượng thì ở bề mặt; bên dưới nó chúng ta không nhìn thấy
được. Các sự kiện ở tận đáy của dòng nước gây ra bọt và những xoáy nước ở
bề mặt. Đó là những chuyển động bức xạ và năng lượng của cuộc sống
chung của chúng ta, nó tác động tới các giác quan và do đó, kích thích
trí óc chúng ta; ở bên dưới, dòng nước ngầm vẫn chảy”
(Sir James Jeans.)
“Triết
học chân chính chỉ là triết học truyền đạt chính xác nhất tiếng nói của
bản thân thế giới và được viết dưới những sự chỉ dẫn của thế giới”
(Ph.Bêcơn)
“Tất cả mọi khoa học cần thiết hơn triết học, nhưng không một khoa học nào tốt hơn nó”
(Arixtốt)
CHƯƠNG IV: PHẢN PHỤC
Đạo
rất huyền nhiệm tinh vi, không ai biết hết được, tùy bẩm thụ khác nhau
mà người (có đức) nhân thấy nó nhân, gọi nó là đạo nhân; người trí (sáng
suốt) thấy nó trí, gọi nó là trí. (Hệ Từ truyện – quyển thượng).
Kẻ
tiểu nhân cho rằng một điều thiện nhỏ là vô ích nên không làm, một điều
ác nhỏ là vô hại nên cứ làm; vì vậy mà các điều ác cứ tích lũy tới lúc
không che giấu được nữa, tội hóa lớn mà không thể tha được. (Hệ Từ truyện – quyển hạ).
Theo
tôi đã có một nền văn minh siêu việt nào đó tồn tại trên trái Đất , đã
sản sinh ra lý thuyết này (tức Kinh Dịch) và đã có một thiên tai mang
tính toàn cầu hủy diệt nó, và những bộ phận sống sót còn lại đã lưu
truyền những giá trị của nó . Dân tộc Việt ở Nam Dương Tử chính là bộ
phận sống sót còn lại của nền văn minh đó.
(Nguyễn Vũ Tuấn Anh)
“Thiên
nhiên buộc phải đặt vấn đề trên ngôn ngữ toán học, vì chỉ trên ngôn ngữ
toán học, ta mới có thể thu được lời giải. Nhưng chính vấn đề lại hướng
về quá trình xảy ra ở trong thế giới vật chất, thực tiễn”
Heisenberg
“Toán học là ngôn ngữ viết về vũ trụ. Phát triển Toán là một tiền đề để phát triển nền khoa học”
Galileo Galilei
“Mọi phát kiến của nhân loại đều có bàn tay hướng dẫn của Toán học, bởi vì chúng ta không thể có một người chỉ đường nào khác”
Charles Darwin
“Toán học thuần túy, theo cách của riêng nó, là thi ca của tư duy lôgic”
Albert Einstein(Tiếp theo)
***
Trong
hệ tọa độ Đềcác, để đặc trưng cho tính phương chiều, người ta đưa ra
khái niệm véc tơ. Khi có một véc tơ (phương chiều) thì bao giờ cũng có
một véc tơ hoàn toàn trái ngược với nó và chúng lập thành một cặp tương
phản. Hệ tọa độ Đềcác được xác lập bởi một điểm gọi là gốc tọa độ và ba
cặp véc tơ vuông góc nhau tại đó. Ba cặp véc tơ đó còn được gọi là ba
trục tọa độ, thường được ký hiệu là x, y, z. Giả sử có một lực lượng a
nào đó là lực lượng có tính véc tơ thì người ta ký hiệu: (hay đơn giản hơn: ). Nếu véc tơ đó là dương, người ta viết +, nếu véc tơ đó là âm, người ta viết -.
NTT
không thích cách viết qui ước đó vì nó đã bộc lộ những nhược điểm gây
ngộ nhận “chết người”. Chẳng hạn nếu có hai lực lượng bằng nhau và cùng
loại không phải véc tơ (còn gọi là vô hướng) nhưng là đối lập âm dương
thì phải hiểu như thế nào? Không thể quan niệm được một mối tương phản
là không có tính phương chiều (hay véc tơ). Nếu đã có nóng thì phải có
lạnh; nóng, lạnh là một tương phản, nhưng muốn mối tương phản đó “hiện
lên” thì phải có cái thứ ba bình thường (không nóng không lạnh, vừa nóng
vừa lạnh, là cả hai mà cũng không phải cả hai!) để chọn làm mốc so
sánh, để mà xác định. Cái thứ ba ấy nằm ở vị trí trung dung giữa nóng và
lạnh, qui định “phía” nào là nóng và “phía” nào là lạnh, nghĩa là phải
xuất hiện phương chiều (dù có thể không phải là phương chiều không
gian). Vì vậy, theo NTT, khi có hai khối lượng m1 và m2
độc lập nhau thì chúng không biểu hiện phương chiều (tuy vẫn có phương
chiều nội tại!). Khi giữa chúng xuất hiện một mối tương phản thì đồng
thời giữa chúng cũng xuất hiện, chí ít là một cặp phương chiều lưỡng
nghi, chung gốc tại một điểm được cho là trung dung nào đó chọn làm mốc
so sánh.
Tiếp theo, giả sử rằng m1 và m2 nằm trong mối tương phản với nhau mà m1 được qui ước là lực lượng dương, thì ta phải viết: . Nếu cho luôn m1 = m2 = m và tổng hợp chúng lại thành hệ thống lưỡng nghi thì:
Viết
như thế rõ ràng là không phù hợp với thực tại. Hai lực lượng khi được
tổng hợp thành hệ thống đã biến mất xác. Mà cho dù chỉ là sự “va đập”
không thành hệ thống đi chăng nữa thì cũng không thể như thế được. Có
thể sự tương phản bị triệt tiêu nhưng lực lượng thì phải được bảo toàn,
dù có thể bị biến dạng “tan nát”. Hai con trâu sau khi húc trực diện vào
nhau thì chúng còn đó không?
Nhằm
thỏa mãn “khẩu vị” của riêng mình, NTT dùng ký hiệu hơi khác cách ký
hiệu truyền thống một chút, thay vì theo truyền thống là , ông viết ; thay vì là , ông viết và ông coi đó là hai vectơ tương phản nhau, có thể lập thành lưỡng nghi. Khi chỉ viết thì ông coi đó là vectơ độc lập , không nằm trong mối tương phản nào.
Theo truyền thống thì:
Còn theo NTT thì:
(Dấu 0 trên đầu chữ a biểu thị sự vô hướng của lực lượng).
Theo qui tắc hình bình hành thì vectơ có thể phân tích được ra vô số vectơ thành phần (trong không gian Ơclit).
Trong hệ tọa độ không gian Đêcac:
Và trong hệ tọa độ mặt phẳng (hai chiều) Đêcac:
Đó
là những kiến thức toán học mà ai cũng thuộc. NTT liệt kê ra để làm gì
không biết khi mà ông đang đi tìm sự biện hộ cho tính hợp lý của thuyết
âm dương bát quái và hình như ông đã đạt được điều mong muốn? Con đường
phía trước còn quá dài và mù mịt, mà NTT cứ mê sảng mải miết thế này,
bắt chúng ta phải ngồi chờ, ngáp lên ngáp xuống, thì không biết đến bao
giờ mới đến được cái đích cuối cùng của cuộc hành trình đây? Ôi! Buồn
quá! Âu cũng là định mệnh! Thôi, kệ xác NTT! Lão ta đang ở vùng thái cực
của sự hoang tưởng, có réo gào gọi lão cũng vô ích. Ráng chờ lão vậy!
Để khỏi sốt ruột vì chờ đợi, chúng ta… đi ngủ. Chẳng có sự đợi chờ nào
bình thản hơn là chờ đợi trong giấc ngủ!…
Hình như NTT đang nung nấu ý đồ gì đó nên thấy ông cứ chăm chăm nhìn vào biểu thức:
Trong
toán học, nhất là toán học hiện đại, có những biểu thức cao siêu đến
“phát bệnh”. Nhiều người được cho là tỉnh táo, nhìn vào chúng cũng “tá
hỏa tam tinh”. Tự nhiên tồn tại là tối giản!
Ấy vậy mà toán học làm cho không ít người “danh giá” nổi điên nổi khùng
vì sự phức tạp của nó. Bộ não người phải nói là vô cùng “ghê gớm”. Mới
hôm qua, nhiều vấn đề toán học được trình bày trong sáng, có thể hiểu dễ
dàng thì hôm nay đã bị đưa vào ngôn ngữ “cung đình”, cao vọi, chẳng tài
nào nắm bắt được nếu không được đào tạo chuyên môn sâu. Thí dụ nhiều vô
kể nên khỏi cần đưa thí dụ!
NTT nghĩ rằng để tạo một quá trình biến hóa nào đó, Tự Nhiên
chẳng cần phải tính toán lôi thôi, nào là ma trận, nào là vi, tích
phân… Nó là vốn dĩ thế nên cũng chẳng cần phải uyên bác. Tòa lâu đài
toán học cao nghệu, phải chăng được xây nên do lầm lạc, nhận thức chưa
đầy đủ, hoặc trừu tượng "quá lố" về Tự Nhiên Tốn Tại?
Dù
sao, muốn thắc mắc gì thì thắc mắc, muốn băn khoăn gì thì băn khoăn,
NTT không thể không bái phục những bộ não thiên tài về khoa học nói
chung và toán học nói riêng; những bộ não đã thấy được những điều hết
sức kỳ diệu trong Tự Nhiên Tồn Tại.
Một
tồn tại có thể không hiện hữu nhưng một hiện hữu thì trước hết phải là
tồn tại. Không thể có hiện hữu không tồn tại! Có thể nói hiện hữu là
hình thức biểu hiện của nội dung tồn tại hay nếu hiện hữu là thân xác
thì nội tại là linh hồn. Hoặc cũng có thể nói: bất cứ hiện hữu nào, bất
cứ sự vật - hiện tượng nào cũng có một nội tại. Nội tại nào cũng không ngừng chuyển hóa biến đổi và nhờ thế mà hiện hữu mới có khả năng.
Đã nói đến tồn tại là phải nói đến lực lượng. Bản chất cuối cùng của lực lượng là gì nếu không phải là Không Gian, không phải là một khối tích hợp của các hạt KG (hay chính xác hơn là các hạt KG kích thích)?
Khi nói đến vectơ thì có nghĩa nó hiện hữu, dù có thể là hiện hữu trong tưởng tượng. Nếu
hiện hữu trong tưởng tượng thì nó có tồn tại không? Trước hết, nó phải
có lực lượng là khoảng cách và nhỏ nhất là bằng đơn vị khoảng cách của
hiện thực (thậm chí là bằng “độ dài” của hạt KG!). Nó được tạo dựng
trong tưởng tượng bằng sự vận động của hệ thần kinh, của não bộ, nên
ngay lúc ấy nó tồn tại như một bộ phận của não và đồng thời hiện hữu
trong não. Khi không tưởng tượng đến nó nữa và quên nó đi thì có nghĩa
nó không còn tồn tại và do đó đồng thời cũng không hiện hữu nữa. Trên
một trang giấy trắng, chẳng có gì hiện hữu ngoài mặt phẳng màu trắng.
Mặt phẳng giấy hiện hữu được là bởi vì nó tồn tại, là sự tích hợp của vô
số các phần tử gọi là đơn vị của giấy (các phần tử ấy lại là sự tích
hợp của vô số phần tử nào đó và cứ thế, cuối cùng là hạt KG). Tương tự
như vậy, mặt phẳng là sự tích hợp những phần tử nhỏ nhất gọi là điểm.
Mặt phẳng thì hiện hữu còn điểm thì không! Nếu lấy bút chấm vào trang
giấy, sẽ làm xuất hiện một chấm mực. Đó chính là một điểm qui ước của
hiện thực và nó hiện hữu. Nếu chấm tiếp đâu đó trên trang giấy, sẽ hiện
hữu điểm thứ hai, dùng bút và thước kẻ nối hai điểm (đã cho), một đoạn
thẳng sẽ hiện hữu. Đoạn thẳng ấy rõ ràng là một tồn tại; trước khi kẻ nó
“đã” tồn tại nhưng không quan sát thấy, giờ thì nó hiện hữu vì được
quan sát “đánh dấu”, tạo dựng bằng mực. Nó là một lực lượng gồm nhiều
hạt KG hợp thành. “Vẽ” thêm ký hiệu mũi tên tại một trong hai đầu mút
của đoạn thẳng đó, sẽ làm xuất hiện một lực lượng gọi là véc tơ và có
thể gọi tên nó là véc tơ ; hay phương chiều ,
nhận điểm còn lại là gốc xuất phát. Từ gốc xuất phát đó, có thể vẽ vời
ra vô vàn phương chiều khác hay vô vàn véc tơ khác giống (nhưng không trùng với )
và có thể sắp xếp chúng thành những cặp phương chiều trái ngược nhau mà
NTT đã gọi là những lưỡng nghi phương chiều. Nếu giả sử tại một điểm có
n phương chiều thì số n đó phải chẵn để có lưỡng nghi và mỗi lưỡng nghi có lực lượng là ;
những lực lượng ấy là vô hướng. Vì lẽ đó mà một cách tự nhiên, trên
trang giấy trắng không hiện hữu véc tơ! NTT còn rút ra được một hiển
nhiên quan trọng: nếu qui ước véc tơ đầu tiên là dương thì tổng hợp về
mặt phương chiều của các véc tơ còn lại sẽ là tương phản của nó:
Và tổng lực lượng véc tơ tại điểm ấy là:
Điểm đó đứng yên trong mặt phẳng, làm trọng tâm cho một hệ thống cân bằng nội tại, có tổng lực lượng là nao và có thể biểu diễn:
ao
là một khoảng cách trong hiện thực. Khoảng cách ấy là một lực lượng
phương chiều được phân định (phân cực) thành hai chiều tương phản nhau
qua trọng tâm (điểm giữa, điểm đối xứng). Nếu nó là đơn vị khoảng cách
của hiện thực thì nó bằng một. Cái một ấy, nếu xét ở tầng nền tảng thì
không phải là một mà là một lực lượng do các hạt KG đơn vị tạo nên. Và
hạt KG, đến lượt nó cũng là sự tích hợp nào đó của phương chiều. Một vật
được cho là đứng yên trong hiện thực thì vật đó không thể hiện phương
chiều đối với hiện thực đó, nhưng nội tại của nó vẫn tồn tại phương
chiều.
Trong
mặt phẳng hiện thực, mọi điểm là bình đẳng nên quan sát có thể chọn bất
cứ điểm nào trong đó làm gốc tọa độ để xây dựng nên hệ tọa độ qui chiếu
mọi phương chiều khác; để xác định mọi điểm khác của mặt phẳng ấy theo
qui ước. Một hệ tọa độ của mặt phẳng Ơclít cần và đủ, có hai cặp phương
chiều lưỡng nghi hợp thành. Hai cặp lưỡng nghi ấy lại hợp thành một
lưỡng nghi của hệ thống. Chính tính cân bằng của hệ thống lưỡng nghi làm
nên hệ tọa độ qui chiếu làm cho NTT đi đến phán đoán mặt phẳng tứ tượng
của châu Á và không gian hai chiều của châu Âu đều có chung nguồn gốc
từ chiêm nghiệm hiện thực.
Không
có vận động thì không có phương chiều. Nhờ nhận biết được sự vận động
của vạn vật hiện tượng, nên quan sát mới phát hiện ra tính phân định
phương chiều của thực tại khách quan. Khi một vật đứng yên trong hiện
thực, người ta cho nó là lực lượng vô hướng; nghĩa là phương chiều của
nó bằng 0. Như vậy, nếu quên đi tồn tại thì véc tơ sẽ được coi như một lực lượng phương chiều và nếu cộng với lực lượng tương phản nó, sẽ ra kết quả phù hợp với toán học:
Trong vật lý học và nhất là trong toán học, vì không thể bỏ quên tồn tại và tính bảo toàn của tồn tại nên:
Đó là một lực lượng vô hướng đối với hiện thực, có một nội tại “sôi động”, khác 0.
Vật
lý học biểu diễn tính lực lượng bằng một đại lượng đặc trưng gọi là
khối lượng (thường được ký hiệu là m, hoặc M). Điều rất lạ là không thể
xác định trực tiếp được giá trị khối lượng của một vật trong hiện thực
nếu không tác động vào nó. Ở đây NTT coi như đã biết giá trị m từ trước;
từ kinh nghiệm để lại:
Hình 9: Xác định vị trí của một vật trong tọa độ Đề các hai chiều
Khi vật m nằm trong một hệ tọa độ (NTT dùng hệ tọa độ hai chiều cho đơn giản) thì vị trí của nó được xác định bởi véc tơ (xem hình 9):
Vì vậy m được cho là đứng yên trong hệ tọa độ đó nên là một bất biến theo thời gian và nội tại của vật đó là cân bằng.
Nếu vật m không còn đứng yên nữa so với gốc tọa độ (điểm O) thì véc tơ sẽ là một đại lượng biến đổi theo thời gian.
Sự
biến đổi ấy mô tả sự di dời vị trí của vật m không đổi theo thời gian.
Nếu m đã không đổi thì lực lượng toàn phần của vật đang xét cũng không
đổi. Tuy nhiên nội tại của vật di dời không cân bằng nữa nếu quan sát từ
O, điểm gốc (đứng yên) của hệ tọa độ hiện thực, (và chỉ từ điểm quan
sát này, vì nếu quan sát từ trong tâm vật thì nội tại của nó vẫn cân
bằng!). Để đơn giản, NTT cho rằng quan sát đã thấy sự mất cân bằng nội
tại của vật m như thế này:
Như vậy, từ trạng thái đứng yên sang trạng thái di dời, NTT có thể biểu diễn:
Tính âm dương của nội tại mất đi vì phải theo phương chiều của qui ước hiện thực.
Xem
hình 9, NTT giả sử rằng sau khoảng thời gian t, vật m (hay điểm trọng
tâm của nó) di dời từ điểm A đến điểm B. Tọa độ của điểm B được biểu
diễn dưới dạng véc tơ:
Điều đó cho thấy véc tơ vị trí của vật m đã chuyển hóa từ thành . Lượng chuyển hóa ấy được biểu thị:
là véc tơ chỉ thị phương chiều di dời thực sự của vật m trong hệ tọa độ O.
Để biểu thị tính nhanh chậm của sự di dời ấy, người ta đem lực lượng chia cho t (thời gian di dời) và được một đại lượng mới là véc tơ vận tốc (khoảng cách di dời trong một đơn vị thời gian):
NTT
đã bắt đầu thấy được nguy cơ hình thành nên “bát quái trận đồ” từ những
suy tư “hoảng loạn” của ông ta và không khéo, chính ông ta sẽ lọt thỏm
trong đó, khó mà tìm được lối thoát chứ nói gì đến ca khúc khải hoàn. Để
nhanh chóng chặn đứng cái xu thế chẳng lấy gì làm hay ho ấy, NTT quyết
định cho véc tơ cũng chính là véc tơ . Khi véctơ đặt trong hệ tọa độ O, sẽ được qui định bởi phương chiều qui ước của hệ tọa độ ấy và trở thành . Vậy thì trong thời gian, có thể viết:
Chưa
cần đụng đến vật m mà chỉ cần chuyển đổi từ hệ quan sát này sang hệ
quan sát khác, có trạng thái chuyển động khác nhau thôi, thì nội tại của
vật m đã được nhìn thấy khác nhau: nó là cân bằng đối với hệ quan sát
này thì lại không cân bằng đối với hệ quan sát khác.
Mặt
khác mọi hệ thống, nếu không có tác động từ bên ngoài, thì bản thân
chúng đều có một nội tại vận động cân bằng. Khi hệ thống bị tác động,
vận động của nó bị nhiễu loạn. Sự nhiễu loạn đó là quá trình “sắp xếp”,
điều chỉnh lại để làm hình thành nên vận động cân bằng mới (hoặc trở về
vận động cân bằng cũ), phù hợp với trạng thái mới nhằm duy trì tồn tại.
Nếu sự tác động vượt quá giới hạn “chịu đựng” của hệ thống, phá vỡ mối
quan hệ lưỡng nghi vốn có của nó, phá vỡ sự liên kết đặc thù của nội
tại, làm cho nó không qui căn, phản phục được nữa, lúc đó hệ thống bị
phá vỡ, vật m chấm dứt tồn tại (làm nảy sinh những tồn tại mới: những
vật mới và hiện tượng mới!).
Khi vật m di dời với vận tốc (NTT
chỉ quan tâm đến vận tốc đều và rất sợ các kiểu vận tốc khác; dễ làm
cho ông rơi vào bát quái trận đồ được bày ra bởi sự mù quáng của chính
ông chứ không phải bởi tài năng thao lược của Khổng Minh!) thì không
phải chỉ trọng tâm của nó; điểm được coi là đứng yên tuyệt đối của toàn
bộ các phần tử trong hệ thống, chuyển động so với hệ qui chiếu của hiện
thực mà toàn thể các bộ phận, các phần tử hợp thành hệ thống cũng phải
chuyển động với vận tốc v.
Suy
nghĩ đến đây, NTT lại bỗng trở nên lúng túng. Có lẽ cần phải tìm cách
phân biệt tương đối giữa hai khái niệm hệ thống và vật thể (hay thực
thể). Ở một tầng nấc qui mô nhất định về chiều kích không gian, hệ thống
là một tập hợp nhất định hai thực thể hay nhiều thực thể. Chúng liên
kết với nhau bằng một cách thức nào đó như hấp dẫn, điện từ, khớp nối,
dây buộc…; tác động cơ học lẫn nhau tạo nên sự vận hành một cách điều
hòa hoặc không điều hòa… Một hệ thống họat động cân bằng sẽ lần lượt
chuyển hóa từ trạng thái này sang trạng thái khác một cách lần lượt
trong thời gian… Trong khi đó một thực thể lại được coi như có cấu tạo
hợp thành từ nhiều hệ thống (mà tự nhiên tạo ra được) ở tầng qui mô
không gian dưới nó mà ở tầng hiện hữu của thực thể, những hệ thống đó
được coi như những thực thể đơn vị. Những thực thể đơn vị đó liên kết
với nhau cũng bằng cách thức hấp dẫn, điện từ… và tác động lẫn nhau làm
cho thực thể đang xét luôn có vận động nội tại, chuyển hóa nội tại, làm
xuất hiện các trạng thái nội tại khác nhau. Trong một đơn vị thời gian,
tất cả các đơn vị làm nên thực thể đều có một trạng thái, tổ hợp của
đồng thời các trạng thái ấy chính là trạng thái tại đơn vị thời gian
đang xét của thực thể. Có thể nói thực thể là tổ hợp các hệ thống. Các
hệ thống đều tác động và phụ thuộc lẫn nhau theo khẩu hiệu của “Ba người
lính ngự lâm”: “Một người vì mọi người, mọi người vì một người”.
Ngoài
ra, NTT còn cho rằng nếu không chú ý tới vận động nội tại của những
thực thể làm nên hệ thống thì lực lượng của hệ thống ấy có thể biểu diễn
bằng sự tổ hợp của khối lượng và véc tơ vận tốc. Chẳng hạn một hệ thống
có khối lượng là: m = (m1 + m2) và vận tốc là thì lực lượng của nó là:
Và gọi lực lượng ấy là động lượng của hệ thống:
Khi không bỏ qua vận động nội tại của các thực thể làm nên hệ thống thì động lượng toàn phần của hệ thống là .
Nếu sự tưởng tượng vớ va vớ vẩn của NTT đồng nghĩa với “thiên tài” thì từ:
Và sau khi tích hợp khối lượng của hệ thống, sẽ có:
Với m = 0, chẳng có “ma” nào làm nên hệ thống cả.
Với , hệ thống không vận hành nhưng vẫn “đứng” ở đó, hoặc đứng đó nhưng lại múa may quay cuồng trước một hệ quan sát khác chăng?
Sự
hoạt động đến mức cao trào của bộ não NTT đã làm cho ông ta phát cuồng,
nhất quyết cho rằng lực lượng của hệ thống thực ra chỉ là sự biểu diễn
của lực lượng Không Gian đích thực trên mặt
phẳng. Đối với thực thể thì vì được coi như hệ thống của hệ thống, là
một liên kết “keo sơn” của các thực thể đơn vị hay là các hệ thống làm
nên nó, cho nên tất cả các trạng thái có thể có của các đơn vị phải được
đồng thời thể hiện một cách đầy đủ trong không gian, nghĩa là tại một
thời điểm, trạng thái của thực thể phải là tích hợp của các trạng thái
có thể có của các trạng thái của thực thể đơn vị. Trong không gian Ơclít
ba chiều (mà thực ra là 6 chiều), lực lượng của vật thể m, theo NTT,
phải được biểu diễn như sau:
Khối
lượng m không thể thoát thai từ Hư Vô được, nó phải là sự “trích xuất”
từ Tồn Tại. Chính sự vận động và tính bảo toàn vận động của các đơn vị
cấu thành thực thể làm nên khối lượng. Từ suy nghĩ đó, NTT trích một
phần của ra làm khối lượng m, và ông ta viết (kể cũng liều mạng thật!!!):
Đối với hệ thống; m sẽ là:
Trong không gian Ơclít N chiều, theo như cách đặt vấn đề ở trên, khối lượng của thực thể là vô cùng lớn, bằng:
(Tất
nhiên chỉ số n phải biến đổi theo một cách phù hợp). Việc qui định một
không gian ba chiều lên n chiều là giả tạo, không qua tích hợp và đều có
thể qui n chiều về lại ba chiều! Đối với một vật, trong suốt quá trình
tồn tại của nó, đại lượng đặc trưng mc2 (hay m) là bất biến,
chỉ có hình thức biểu hiện là biến đổi trong những hệ phương chiều khác
nhau. Do đó không thể tăng phương chiều của một hệ không gian nào đó một
cách tùy tiện được.
Theo sự áp đặt như thế của NTT thì rõ ràng biểu thức:
là một biểu thức tổng quát của Tự Nhiên.
Hiện
tượng khi số phương chiều càng lớn thì m phải càng lớn, có tin nổi
không? Đối với người bình thường thì chẳng ai tin một chút nào về điều
đó. Nhưng NTT, vì ở trạng thái hoang tưởng tột độ, nên lại hoàn toàn tin
tưởng. Nếu véctơ phương chiều có độ dày (mà không thể không có độ dày
được!) thì tại một điểm nhỏ cỡ hạt KG, “vẽ vời” được mấy phương chiều?
Nếu cố tình vẽ từ nó ra N phương chiều, thì vì không “đủ chỗ” nên véctơ
này phải “lũng đoạn” véctơ kia, tạo nên những vùng không thể phân định
dứt khoát được phương chiều, làm cho điểm tự nhiên phải “nở ra”. Nó sẽ
nở mãi và khi vẽ được N phương chiều thì đồng thời nó cũng trở thành một
điểm to bằng Vũ Trụ! Một điểm to bằng Vũ Trụ mà khối lượng của nó không
cực đại thì kể cũng hơi… uổng!
Từ đó mà suy ra số lượng phương chiều của một qui mô không gian nào đó là hữu hạn, là đặc trưng của qui mô không gian ấy.
(Vấn đề sẽ dễ hiểu hơn nếu chúng ta nhớ lại và tin vào điều mà chính chúng ta đã nói tới, rằng toán học là cách nhìn phi thời gian về tồn tại, hơn nữa, Không Gian (viết tắt là KG) chính là cội nguồn của vật chất và có thể biến đổi qua lại giữa năng lượng và thể tích theo cách nào đó!!!).
(Vấn đề sẽ dễ hiểu hơn nếu chúng ta nhớ lại và tin vào điều mà chính chúng ta đã nói tới, rằng toán học là cách nhìn phi thời gian về tồn tại, hơn nữa, Không Gian (viết tắt là KG) chính là cội nguồn của vật chất và có thể biến đổi qua lại giữa năng lượng và thể tích theo cách nào đó!!!).
Không cần phải suy nghĩ thêm, NTT viết:
Xét thành phần bình phương ở vế phải:
mc2 = m0c2 + mv2
“Hoặc
là ta đã bị điên loạn, hoặc là nhà vật lý học vĩ đại nhất của thế kỷ XX
đã lầm lạc!...”. NTT mặt tái nhợt, vừa run lẩy bẩy vừa lảm nhảm như thế
rồi ngã vật xuống đất, bất tỉnh nhân sự.
(Còn tiếp)
Nhận xét
Đăng nhận xét