Thứ Bảy, 22 tháng 8, 2020

TT& HĐ II - 14/e

                     ĐỨC LÃO TỬ TRONG BUỔI TAM KỲ PHỔ ĐỘ

                                        Cuộc Đời Đức Phật Thích Ca (Từ Đản Sanh Đến Niết Bàn) 


PHẦN II:     Nền tảng


" Triết học bắt đầu từ sự ngạc nhiên"
Arixtốt


“Chúng ta có thể mường tượng thế giới của thực tại như là một dòng nước ngầm; thế giới hiện tượng thì ở bề mặt; bên dưới nó chúng ta không nhìn thấy được. Các sự kiện ở tận đáy của dòng nước gây ra bọt và những xoáy nước ở bề mặt. Đó là những chuyển động bức xạ và năng lượng của cuộc sống chung của chúng ta, nó tác động tới các giác quan và do đó, kích thích trí óc chúng ta; ở bên dưới, dòng nước ngầm vẫn chảy”

(Sir James Jeans.)

“Triết học chân chính chỉ là triết học truyền đạt chính xác nhất tiếng nói của bản thân thế giới và được viết dưới những sự chỉ dẫn của thế giới” 
 (Ph.Bêcơn)


“Tất cả mọi khoa học cần thiết hơn triết học, nhưng không một khoa học nào tốt hơn nó”
  (Arixtốt)

                CHƯƠNG III: HƯƠNG CAU


"Nơi nào có người đàn bà đẹp, thì nơi đó có người đàn ông thở dài."
(Tục Ngữ Hung-Ga-Ri) 
"Người đàn bà không sợ chết, không sợ đau khổ, nhưng chỉ lo sợ khi mình chết mà chưa được người mình thương yêu biết đến tình yêu của mình."
(Lombroso)

Người ta có thể quyến rũ người đàn bà bằng sự dối trá. Nhưng người ta chỉ chinh phục được họ bằng tấm lòng chân thật”
Khuyết danh.

“Dịu dàng không phải nhu nhược. Dịu dàng mà vẫn cương quyết là bí ẩn của người phụ nữ” 
 A. A. Milne.

 Không ai ngoài người phụ nữ có thể giúp người đàn ông trước nỗi phiền muộn của con tim…”.
Bram Stoker.

“Danh dự của một thiếu nữ thuộc về nàng nên nàng suy nghĩ rất cẩn thận. Danh dự của người đàn bà là thuộc về chồng, nên nàng suy nghĩ ít hơn”.
 Khuyết danh

“Người đàn bà đẹp đạt được thành công dễ dàng hơn người đàn bà thông minh. Chỉ đơn giản là những người đàn ông mù thì ít, bù lại những người đàn ông ngốc nghếch lại quá nhiều”.
 Khuyết danh.

Có hai dạng phụ nữ, một dạng nói thẳng với bạn về các nhu cầu của họ, còn dạng kia thì nói bóng gió”.
 Khuyết danh.


Phụ nữ mà ghen với quá khứ thì sẽ không có tương lai; phụ nữ mà ghen với tương lai thì không còn quá khứ”.
 Khuyết danh.

Người phụ nữ thông minh nghe lời khen để đánh giá đàn ông, còn người ngu ngốc nghe để tự đánh giá bản thân mình”.
 Khuyết danh.

“Phụ nữ thường lo lắng cho tương lai cho đến khi cô ấy kiếm được một tấm chồng. Đàn ông chẳng lo nghĩ gì về tương lai cho đến khi anh ta lấy vợ”.
 Khuyết danh.

“Không gì khiến người phụ nữ xinh đẹp hơn là niềm tin rằng nàng xinh đẹp”.
Sophia Loren.

Khi phụ nữ nói chuyện với bạn về vấn đề của họ, nhiều khả năng là họ không tìm kiếm một câu trả lời mà chỉ muốn có người lắng nghe”.
 Khuyết danh.

“Người đàn bà không biết trang điểm thì chỉ giống như thửa ruộng khô cằn.
Ngạn ngữ Ấn Độ.

“Người con gái thích được khen dù xấu. Vì thế cho nên người đàn bà nào cũng thường hay chết vì người đàn ông am tường điều đó”.
 Blaise Pascal.

Khi một người phụ nữ đang nói, hãy nghe điều nàng nói qua đôi mắt của nàng”.
Victor Hugo.

Tôi nghĩ sự quyến rũ đến từ bên trong. Nó là thứ hoặc ở trong bạn hoặc không ở trong bạn, và thực sự không liên quan gì nhiều tới ngực hay đùi hay đôi môi hờn dỗi”.
Sophia Loren.

Có một hiện tượng phổ biến là chỉ có những cô gái xinh đẹp nhất mới thấy thật khó khăn tìm được người đàn ông cho mình”.
 Heinrich Heine.

“Nước mắt đàn bà có nhiều tác dụng song họ chẳng mất gì khi khóc”.
 Ngạn ngữ Tây Ban Nha

“Phụ nữ đồng bóng đến nỗi bạn sẽ không bao giờ biết được họ muốn nói gì. Họ bảo Không trong khi ý họ là Có, và khiến đàn ông phát điên chỉ để giải khuây.”.
Louisa May Alcott.

"Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lý chói qua tim
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim…

Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải khắp muôn nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời

Tôi đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm, cù bất cù bơ…"
                                                            (Bài thơ "Từ ấy" của Tố Hữu)




(Tiếp theo)

***
 
Hương đâu biết chúng ta lè nhè thế nhưng vẫn còn tỉnh... Tuy vậy sau này chúng ta không bao giờ nhớ nổi đoạn kết của cuộc trò chuyện vui vẻ với Hương như thế nào nữa, và cũng không thể ngờ rằng đó là lần cuối cùng chúng ta ghé quán Hương Cau. Nhưng biết chắc cú rằng trước mặt Hương, chúng ta đã không nói hết và đến mức gay gắt quá đáng quan niệm riêng của mình về Đạo Phật, vì sợ Hương buồn. Nhà Hương theo Đạo Phật mà!...

Chính lần ghé đó đã cho chúng ta thấy “vật đổi sao dời” là nhanh đến cỡ nào. Nếu chúng ta cứ hành trình túc ta túc tắc như vừa rồi, mệt một tí lại la cà quán xá bù khú, “cà kê dê ngỗng” với em này em kia thì chắc rằng không thể nào chúng ta đến được “chân trời mơ ước”. Chúng ta phải có trách nhiệm với miền đất mà chúng ta mới khai phá dở dang và còn rất “ngổn ngang”. Cần phải xốc lại hành trang, nắn lại gân cốt để làm cho mảnh đất ấy trở nên hữu tình, và trù phú một cách … hợp đạo lý.

Có một nơi mà chúng ta sẽ “đào bới” được rất nhiều bổ ích trong công cuộc xây dựng nên mô hình Nền Tảng. Chúng ta sẽ đến đó! Nhưng dọc đường đi, như lệ thường, chúng ta lại kể chuyện. Chuyện gì? Hình như trước đây, có lần chúng ta đã định kể về truyền thuyết Phật Tổ? Ừ, đúng vậy! Thế thì còn phân vân gì nữa!

Chúng ta cho rằng nền tảng tư tưởng của Đạo Phật nguyên thủy, về hình thức có vẻ như là cốt lõi tư tưởng của Kỳ Na Giáo ''đã được làm mềm đi'', nhưng đúng hơn là nhờ có sự tiếp thu hầu hết quan niệm duy vật thô sơ về tự nhiên, cũng như quan niệm sống hòa hợp của Lão Tử trong xã hội-nhân sinh, nhằm cố gắng giải quyết vấn đề đang bức xúc xã hội thời bấy giờ. Có thể nói, toàn bộ học thuyết nguyên thủy của Phật Giáo là nhằm chỉ ra nguyên nhân gây khổ đau ngự trị nổi trội và có vẻ thường trực trong tâm hồn con người và cách chế ngự, làm tiêu vong sự khổ đau ấy (diệt khổ!) để có được cuộc sống an bình, thản nhiên trước mọi biến cố ở cõi trần, cũng như để ''vượt thoát'' ra ngoài vòng luân hồi nghiệp báo, đến với cõi gọi là Niết Bàn...

Vào thời đại xuất hiện và tồn tại những Bàlamôn, Charvaka, Kỳ Na Giáo..., trí não con người đã từ lâu ''thường trực'' cái gọi là tình cảm (mức độ ''sâu đậm'' của cảm giác) trong hoạt động tinh thần (thuộc hoạt động sống) của nó, và tiến trình vận động xã hội đã làm cho xã hội Ấn Độ cổ đại nói riêng và xã hội loài người nói chung phân hóa rõ rệt thành hai tầng lớp cơ bản là thống trị (thiểu số, có quyền lực, thường giàu sang hơn) và bị trị (đại đa số, không có quyền lực, thường nghèo hèn hơn), cũng như cuộc cạnh tranh sinh tồn kiểu ''cá lớn nuốt cá bé'' trong xã hội kinh tế hàng hóa đã nổi trội gay gắt, làm xã hội chứa đựng không ít những bất công dẫn tới thực trạng đại loại như ''kẻ ăn không hết, người lần không ra'', từ đó mà sự lầm than, thống khổ về vật chất lẫn tinh thần đã thành hiện tượng phổ biến cũng như những ao ước, khát khao ở mỗi con người là được sung sướng, hạnh phúc nảy sinh và tồn tại ổn đinh trong đời sống xã hội. Đức Phật Thích Ca ra đời trong thời đoạn lịch sử đó ở vùng đất (Nêpan ngày nay) thuộc Ấn Độ cổ đại...

Truyền thuyết về Đức Phật Thích Ca có nhiều khảo dị. Chúng ta chủ yếu theo ''Lịch sử văn minh Ấn Độ'' của Will Durant. 
Thân phụ của Đức Phật là Shuddhod-hana (Tịnh Phạn), thuộc giới thượng lưu của thị tộc Gautama trong bộ lạc anh dũng Shakya, quốc vương xứ Kapilavatsu ở chân núi Himalaya. Bảy ngày trước ngày rằm, trong dịp thành phố Kapilavastu (Ca Tì La Vệ) chuẩn bị lễ trăng tròn, hoàng hậu Maya (Ma Da) sửa soạn long trọng, dùng rất nhiều hoa và dầu thơm (tất nhiên là không có rượu!). Ngày mùng bảy, bà dậy thật sớm, tắm gội bằng hương thủy và bố thí bốn trăm ngàn đồng tiền. Y phục rực rỡ, bà ăn những cao lương mỹ vị, đọc lời cầu nguyện uposatha (uposatha là bốn ngày thiêng trong tháng, gồm ngày sóc, ngày vọng, ngày mùng tám và ngày hai mươi ba âm lịch) rồi vào căn phòng đẹp đẽ, lên giường nằm, thiêm thiếp vào mộng. Trong giấc mộng, bà thấy bốn vị đại vương khiêng bà cùng chiếc giường tới dãy Himalaya, rồi đặt bà ở trên đồi Manosila. Tại đây, các hoàng hậu của họ ra chào bà, dắt bà tới hồ Anatatta, tắm rửa cho bà hết mọi ô uế trần thế, quấn bà vào chiếc thiên y, xức dầu thơm và cài những đóa hoa tiên lên áo bà. Gần đó là một núi bạc, trên đỉnh có nhà vàng. Các hoàng hậu dọn một chiếc giường tiên hướng về phía đông và đặt bà lên đó. Lúc đó, Bodhisattwa (Bồ Tát, có nghĩa về sau sẽ thành Phật, Phật là ''giác'', là sáng suốt hiểu mọi sự lý trong Vũ Trụ, ở đây người ta dùng như một tôn danh, giống tôn danh Shakya-Mumi (Thích Ca Mâu Ni, nghĩa là vị minh triết của bộ lạc Shakya), hay Tathagata (Như Lai, có nghĩa là vị nắm được chân lý) để gọi người (sẽ) có tên tục là Siddharta (Tất Đạt Ta), tên họ (thị tộc) là Gautama) biến hình thành một con voi trắng từ phương bắc tới, xuống từ núi vàng, đặt chân lên núi bạc, vòi của nó quắp một bông sen trắng. Rồi nó vừa hí vừa bước vô nhà vàng, đi ba lần xung quanh giường bà, húc nhẹ vào sườn bên phải, như chui vào bụng bà... Hôm sau, hoàng hậu Maya tỉnh dậy, kể lại giấc mộng cho nhà vua. Nhà vua bèn cho vời sáu mươi bốn tu sĩ Bàlamôn danh tiếng nhất, dọn tiệc thết đãi linh đình, hậu hĩnh. Khi họ no nê rồi, nhà vua nhờ đoán mộng. Họ đáp: ''Xin nhà vua yên tâm, hoàng hậu sẽ sanh hoàng tử chứ không phải công chúa. Nếu lớn lên hoàng tử vẫn ở trong cung điện, thì sẽ thành minh quân một nước phú cường thịnh trị, nếu rời bỏ cung điện mà đi chu du thiên hạ, thì sẽ thành một vị Phật dắt nhân loại ra khỏi bến mê...''

Hoàng hậu Maya hoài thai mười tháng. Bodhisattwa ở trong bụng bà như dầu ở trong chén. Gần tới ngày sinh nở, hoàng hậu có ý muốn về nhà cha mẹ, bèn tâu với vua: ''Thiếp xin được về nhà cha mẹ thiếp ở Devadaha''. Nhà vua chấp thuận, sai dọn con đường từ Kapilavastu tới Devadaha, bày chậu cảnh, cắm cờ hai bên đường. Hoàng hậu ngồi trên một chiếc kiệu bằng vàng do một đoàn thị thần khiêng, phía sau là một đám đông tiễn chân, nghi trượng chỉnh tề. Ở khoảng giữa hai châu thành có khu rừng nhỏ một loại cây gỗ rất tốt, gọi là cây Sal, dân chúng thường tới đó dạo cảnh. Vào lúc đó khu rừng đầy hoa. Hoàng hậu đến đó thì muốn dừng lại, dạo cảnh một lát. Đến gốc một cây Sal cổ thụ, bà vừa định vít một cành thì cành đó tự rủ xuống vừa tầm tay bà, mềm mại như một cây sậy, đồng thời bà bỗng chuyển dạ. Đám hộ giá vội giăng mùng xung quanh rồi rút lui. Hoàng hậu sinh ra hoang tử lúc đương đứng và tay vẫn nắm cành Sal. Từ bụng mẹ mới ra, trẻ con thì nhơ nhớp, riêng Bodhisattwa không như vậy, mà như một vị thuyết pháp ở trên đăng đàn bước xuống hay như một người xuống cầu thang. Ngài (tức Đức Phật sau này) thoạt tiên đưa chân tay ra, rồi đứng thẳng dậy, thân thể hoàn toàn sạch sẽ, không bợn chút nhơ nhớp, láng bóng như một viên ngọc đặt trên tấm vải Bénarès. Khi Đức Phật ra đời thì một ánh sáng rực rỡ tỏa trên trời, những người điếc bỗng nghe được, những người câm bỗng nói được, những kẻ què quặt bỗng đứng dậy được, các vị thần cúi xuống nhìn từ tầng cao và các vua chúa ở thật xa xôi cũng đến chúc mừng...

Thời niên thiếu, Đức Phật sống sung sướng ''như một vị thần'' trong ba cung điện, được vua cha rất cưng, tránh cho Ngài khỏi phải thấy những đau khổ, buồn rầu của kiếp người. Có bốn vạn vũ nữ bày trò vui cho Ngài, và tới tuổi kết hôn, người ta cho trình diện năm trăm thiếu nữ diễm lệ để Ngài chọn lựa. Vì thuộc tập cấp kshatriya (chiến sĩ-quí tộc), Ngài được học đủ mọi môn võ bị, nhưng Ngài cũng được theo học các vị minh triết và làu thông mọi triết thuyết mà thời đó chấp nhận. Rồi Ngài cưới vợ tên là Yatada (Gia Du Đà La) và cũng hạ sinh đứa con trai, đặt tên là Lahula (La Hầu La)...
Một hôm, Ngài cùng với tên nô bộc là Chanara (Sa Nặc) lẻn trốn vua cha, ra ngoài hoàng thành ngoạn cảnh, thấy một ông già, hôm khác thấy một người đau ốm, hôm khác nữa thấy một người chết, và hôm cuối cùng thì thấy một đạo sĩ hành khất. Lúc đó, Chanara bảo cho Ngài biết rằng, tất cả loài người đều trong vòng sinh-lão-bệnh-tử, riêng chỉ có đạo sĩ hành khất là có thể thoát được ra ngoài vòng ấy. Thế là Ngài có ý định ra đi. Theo các thánh thư do đệ tử chép thì chính Ngài kể lại như sau: ''Ôi, chư tăng, ta vốn tôn nghiêm và rất đỗi đa cảm! Lúc đó ta nghĩ bụng: ''Một người thường, vô học, khi trông thấy một ông già tất lo lắng, xấu hổ, tởm vì nghĩ tới nỗi sau này của mình. Và ta cũng vậy, ta cũng sẽ phải già, không tránh được cảnh già, thế thì ta cũng lo lắng, tởm khi thấy một ông già ư?''. Ta nghĩ đường đường như ta thì không nên vậy. Rồi trong khi suy nghĩ, tất cả lòng tự cao, tự đại của ta hồi trẻ bỗng biến mất...Vậy, chư tăng, trước khi được giác ngộ, chính ta cũng phải theo luật tự nhiên là do cha mẹ sinh ra, ta suy nghĩ về bản thể của sự sinh, chính ta cũng phải theo luật tự nhiên là sẽ già, ta suy nghĩ về bàn thể của sự già nua, sự đau ốm, sự buồn rầu và sự ô trọc. Và ta nghĩ bụng: ''Ta phải theo cái luật ''sinh'' đó mà bây giờ suy nghĩ về bản thể của sự ''sinh'' thì sẽ ra sao...''. Chỉ khi thấy được cái bản thể đáng thương của sự ''sinh'', ta mới tìm thấy cái cảnh bình tĩnh cực kỳ của Niết Bàn (Nirvana)''...

Vào một đêm khuya muộn mà trời chưa sáng, sau khi lặng lẽ nhìn vợ con ngủ lần cuối, hoàng tử Tất Đạt Ta lên ngựa, cùng Sa Nặc rời khỏi châu thành... Ngài đi vào rừng, lột bỏ khăn áo, xuống tóc, đuổi ngựa và cho tất cả về để từ đó bắt đầu sống đời một đạo sĩ hành khất...Ngừng lại một nơi gọi là Uruvela, ở đó hoàng tử tu khổ hạnh một cách nghiêm khắc nhất luôn sáu năm. Ngài sống bằng cây cỏ, tết cỏ làm quần áo. Ngài tiết thực đến độ mỗi ngày chỉ ăn một hạt gạo. Rồi nhổ tóc nhổ râu hết sợi này đến sợi khác, để thân thể cáu ghét bẩn thỉu, xù xì như thân cây cổ thụ, nằm gai và đứng thẳng hàng giờ không nhúc nhích, rồi lại tới ngủ giữa một bãi chứa chất các thây thú vật và ác điểu. đây là lời của Ngài: ''Ta nghĩ bụng: ''Nếu mình nghiến chặt răng, ép sát lưỡi, dùng tinh thần để diệt tinh thần thì sẽ ra sao?''. Ta làm đúng như vậy, mồ hôi từ nách ròng ròng chảy xuống...Rồi ta nghĩ bụng: ''Nếu ta ráng nín thở để đạt tới trạng thái xuất thần thì sẽ ra sao?''. Thế là ta nín thở, không thở cả bằng mũi lẫn bằng miệng. Và trong khi nín thở như vậy thì thấy một tiếng gió mạnh từ trong lỗ tai thổi ra rồi có tiếng gió mạnh ù ù trong óc như thể một người lực lưỡng thọc mũi kiếm vào đầu ta vậy...Rồi nghĩ bụng: ''Nếu ta ăn thật ít, chỉ một nhúm hạt đậu hay hạt gạo thì sẽ ra sao?''. Thế là thân thể ta chỉ còn xương với da. Vì thiếu ăn, ta gầy gò quá, ngồi xuống đám bụi mà chỉ để hằn một vết nhỏ bằng vết chân con lạc đà, còn khi nằm xuống thì xương sống chỉ như một chuỗi ống chỉ nhỏ. Vì thiếu ăn, mắt ta hõm xuống như một cái giếng sâu, da đầu ta nhăn nhúm lại y như vỏ một quả bầu hái non và để dãi dầu dưới mưa ngoài nắng. Lúc đó ta nắn vào bao tử thì thấy nó dẹp lép, ngón tay đụng tới xương sống. Ta ráng nghỉ ngơi một chút nhưng lảo đảo, té úp mặt xuống đất vì đói quá. Ta xoa bóp chân tay cho bớt nhức nhối, xoa tới đâu lông rụng tới đó vì thiếu ăn''.

Nhưng một hôm Đức Phật nghĩ rằng sự tu (quá) khổ hạnh, đày ải tấm thân đến kiệt quệ không phải là cách hay nhất để giác ngộ. Có lẽ ngày đó Ngài đói hơn những ngày khác hoặc một kỷ niệm êm ái nào đó làm dao động lòng Ngài. Ngài thấy rằng tất cả những sự khổ hạnh đó không làm cho Ngài giác ngộ như đã mong muốn: ''Cách tu khắc khổ đó không đem lại cho ta sự giác ngộ siêu phàm, cái nhuệ trí của lương tâm-mà chỉ cái này mới thực cao cả. Trái lại là khác. Nếu có nhờ cách đó mà tinh thần thanh thoát được một chút thì lại mắc cái thói tự cao tự đại rằng mình đã chịu nổi mọi nỗi khổ hạnh''. Thế là Ngài bỏ lối tu đó, đến ngồi dưới bóng một cây cổ thụ (cây Bodhi-Bồ Đề), hướng về phương đông, tuyệt nhiên không nhúc nhích, nhất chí tiềm tu... Ngài trầm tư: cảnh đau khổ sinh lão bệnh tử do đâu mà ra? Bỗng Ngài cảm thấy cái cảnh sinh tử, tử sinh cứ nối tiếp nhau một cách bất tuyệt, có sinh thì có tử, có tử thì có sinh, mỗi lần tâm hồn an ổn, vui vẻ thì lại ước ao những vui vẻ khác rồi chịu những âu sầu khác, thất vọng khác, đau khổ khác. ''Như vậy, khi tinh thần ta đã thanh tĩnh, trong trẻo rồi, ta trầm tư về lẽ sinh rồi tử, tử rồi sinh của muôn loài. Trong một lúc thiên thị, thấu suốt, siêu nhiên, ta thấy các sinh vật, dù sang dù hèn, dù xấu dù đẹp, đều chết rồi tái sinh, chịu cái kiếp sung sướng hay khổ sở tùy theo cái karma (nghiệp) của mình, nghĩa là theo cái luật nhân quả phổ biến này: làm điều thiện thì được thưởng, làm điều ác thì bị phạt trong kiếp này hoặc kiếp sau, khi linh hồn đầu thai rồi''.

Chính vì thấy cảnh liên tục sinh tử, tử sinh đó mà Đức Bồ Tát (trước khi hóa thành Đức Phật!) đâm chán ngán về kiếp người. Ngài bảo: sinh là nguồn gốc của mọi khổ não. Vậy mà loài người cứ phải tái sinh hoài, có khác gì để làm cho biển khổ không lúc nào vơi không... Vì đâu cái dòng ''sinh sinh'' đó không ngừng lại? Chỉ vì luật karma luôn luôn bắt người ta phải đầu thai hoài để linh hồn chuộc tội trong những kiếp trước. Nếu có một người nào suốt đời sống công bằng, một mực nhẫn nhục, nhân từ với mọi người, nếu lòng người đó không ràng buộc với những cái phù du nhất thời mà chuyên chú vào những cái vĩnh cửu, thì có lẽ người đó hy vọng thoát được cảnh tái sinh mà cái dòng khổ não sẽ cạn chăng? Nếu người ta có thể nén các thị dục vị kỷ mà ráng chỉ làm những điều thiện thì có lẽ vượt được cái bản ngã-cái là ảo tưởng đầu tiên và tệ hại nhất của con người-và linh hồn có thể hòa đồng, hợp nhất với cái đại ngã vô biên vô thức chăng? Gột sạch được những tư dục đó, lòng người sẽ an tĩnh làm sao! Còn không gột sạch được thì làm sao an tĩnh? Chỉ khi đã diệt được dục, linh hồn mới an tĩnh, bình ổn, thanh thoát trong cảnh Niết Bàn!... 
Cứ thế, Đức Bồ Tát đi sâu vào các trạng thái tinh thần trầm tư mặc tưởng, liên tiếp đạt được các trình độ tham thấu tâm linh (tức là thiền định), có thể hội thông những căn nguyên của lý nhân quả. Và cuối cùng, Ngài đã đạt đến cõi viên giác đại ngộ (mahasambodhi). Kinh Phổ Diệu kể về sự đắc đạo ấy: ''Bồ Tát ngồi dưới gốc cây, sau khi giáng phục được ma oán, bèn thành chính quả, chính chân giác, dựng đại pháp tràng độ thoát tam giới. Trong khi ngồi tọa định dưới cây, Bồ Tát đã trải bốn bậc thiền định (dhyana), thật là mở đường tắt cho người tu đạo về sau. Ý niệm đã thanh tịnh, gọi là nhất thiền. Tĩnh nhiên thuần nhất, chuyên tâm bất dịch, gọi là nhị thiền. Trong lòng bình tĩnh, trông rõ chân tướng mọi sự vật, gọi là tam thiền. Lòng không y thiện cũng không phụ ác, không khổ, không vui, bình thản như không, tịch nhiên bất biến, gọi là tứ thiền hay ''vô vi độ thế''. Bỏ gốc ác, trừ hết bụng dâm, nộ, mê, thoát khỏi vòng sinh tử, đoạt hết các chủng căn, không còn di nghiệp về sau, việc làm đã thành, trí tuệ đã tỏ, lúc sao mai mọc thì khuếch nhiên đại ngộ, đạt tới cái đạo ''vô thượng chính chân'', ''tối chính giác'' cùng các pháp lực của các Phật đời trước (...) ''. Ngay sau khi viên giác, Đức Phật lạy đất thánh Bénarès (Ba La Nại) và bắt đầu giảng thuyết Niết Bàn cho nhân loại trong vườn hưu (lộc uyển) Sarnath...

Ngày nay Phật Giáo đã có một kho tàng kinh sách đồ sộ, phong phú, và như những tôn giáo khác là tất nhiên nhằm hướng tới phù hợp thời đại hơn trong tiến trình chung mở mang nhận thức của loài người, đã bị chia thành nhiều trường phái triết lý từ sự phân ly ban đầu thành hai trào lưu lớn gọi là Tiểu Thừa (sthaviravada - cỗ xe nhỏ) và Đại Thừa (Mahasanghika - Cỗ xe lớn). Do đó, khó mà biết được trong đó, chính xác đâu là những giáo huấn của chính Đức Phật.

Theo Will Durant, những tài liệu cổ nhất chép lời Đức Phật dạy, hơi đáng cho ta tin là các kinh pitaka (tức ảo luật) viết cho cuộc hội nghị Phật Giáo năm 241 TCN, và những lời truyền khẩu từ khi Ngài tịch đến khi được chép lại bằng chữ pali vào khoảng năm 80 TCN. Các pitaka đó được chia làm tam tạng là sutta (kinh, ký sự), vinaya (luật) và abhihammna (luận)... Cũng như mọi nhà truyền giáo thời đó, Đức Phật đã giảng đạo lý trong các cuộc đàm thoại, trong các cuộc hội nghị, hoặc bằng những ngụ ngôn. Theo những hồi ký của các đệ tử lứa đầu tiên của Đức Phật thì tính tình của Ngài hiện rõ trong các lời Ngài rao giảng. Nói chung Đức Phật là một người rất giàu nghị lực, uy nghi và hào hùng nhưng ngôn ngữ và cử chỉ rất dịu dàng và có đức bao dung vô cùng. Ngài tự cho mình đã được thiên khải. Trong các cuộc tranh luận, Ngài tỏ ra kiên nhẫn và tôn trọng ý kiến của người khác hơn hết thảy các đại sứ đồ của nhân loại. Cứ theo lời (có lẽ hơi quá!) từ các đệ tử của Ngài thì Ngài cũng theo giới luật ahimsa (bất hại): ''Gautama cố tránh, không làm hủy hoại đời sống của bất kỳ một sinh vật nào. Ngài từng là chiến sĩ (kshatriya) mà lại bỏ gươm giáo, rất ghét sự tàn bạo, lòng cực kỳ nhân từ, Ngài tỏ niềm ưu ái với tất cả các sinh vật... Ngài không khi nào nói xấu, vu oan cho ai, sống cơ hồ như chỉ để hòa giải những kẻ chia rẽ, khuyến khích những kẻ muốn hòa hợp với nhau. Ai không hiểu Ngài mà nhục mạ Ngài thì Ngài chỉ làm thinh. Ngài yêu hòa bình, phụng sự hòa bình, chỉ thốt những lời hòa bình''. Đức Phật từng nói: ''Nếu một người nổi điên lên mà làm hại tôi thì tôi vẫn lấy tình thương che chở cho người đó, người ấy càng làm điều ác cho tôi thì tôi lại càng làm điều thiện cho người đó''. Một lần, một kẻ chất phác nọ mạt sát Ngài. Ngài lặng thinh nghe kẻ đó nói xong, rồi nhẹ nhàng hỏi lại: ''Này con, nếu một người không chịu nhận một tặng vật nào đó thì tặng vật đó thuộc về ai?''. Kẻ đó đáp: ''Thuộc về người đem tặng''. ''Vậy thì ta không nhận những lời mạt sát của con đâu. Con nên giữ lấy cho con!''. Trái với nhiều vị thánh khác, Đức Phật có tinh thần hài hước và biết rằng bàn tới siêu hình mà không mỉm cười thì không phải là nhã...

Đức Phật Thích Ca đi từ châu thành này tới châu thành khác, cùng với một nhóm đệ tử thân tín và phía sau là cả một đám đông có khi lên tới hàng ngàn tín đồ. Không bao giờ lo ngày mai, những kẻ ngưỡng mộ dâng thức gì Ngài ăn thức đó. Có lần Ngài nhận lời dùng cơm trong nhà một ả giang hồ, làm cho đám tả hữu của Ngài một phen bực tức. Thường thường Ngài ngừng lại ở đầu một làng nào đó, cắm trại trong một khu vườn, một khu rừng hay bên bờ sông. Buổi chiều và buổi tối Ngài thuyết pháp. Ngài đặt ra những câu hòi rồi gợi ý trả lời, kể một ngụ ngôn có tính cách luân lý, hoặc cùng đàm đạo, biện luận một cách lễ độ, đưa ra những câu ngắn, cô đọng, tóm tắt được đạo của Ngài để mọi người dễ nhớ. Sutra (kinh) mà Ngài hay nhắc tới nhất là sutra về ''tứ diệu đế'' (bốn chân lý cao siêu)...

Theo suy nghĩ của chúng ta thì sự ngưỡng mộ trong mê muội về thiên nhiên của loài người đã là lý do đầu tiên của việc sinh ra tín ngưỡng tôn giáo, để rồi tôn giáo được dùng như bài thuốc tinh thần vô song xoa dịu sự đau khổ của con người. Cho nên nội dung chủ yếu của giáo lý ở các tôn giáo đều nói về đời sống nhân quần, về luân thường đạo lý trong xã hội. Phật Giáo nguyên thủy (và cả hiện nay) cũng mang nét chung đó. Theo truyền khẩu thì Đức Phật hầu như không nói về Tự Nhiên (và nếu có nói về Tự Nhiên thì lại mang đậm quan niệm của Đạo Gia!). Nghe thiên hạ tranh luận về sự hữu hạn hay vô cùng của Vũ Trụ, Ngài chỉ mỉm cười, không hề đưa ra ý kiến gì. Không ai biết Ngài quan niệm cụ thể thế nào về bản chất của Vũ Trụ, về sự tồn tại của linh hồn, về mối quan hệ giữa linh hồn và thể xác, cũng như Niết Bàn là gì. Ngài bảo: những vấn đề đó là ''rừng rậm, sa mạc, trò múa rối, sự khổ hình, sự suy cứu lung tung'', nên không quan tâm tới. Trong thuyết pháp, Đức Phật cũng có nói: ''Một điều chắc chắn là ta biết nhiều hơn những gì ta nói với các con. Hỡi các môn đồ của ta, tại sao ta lại không nói với các con những điều đó? Bởi vì chúng không có lợi cho các con, không mang lại cho các con sự tiến bộ thiêng liêng, sự chinh phục mọi dục vọng, sự kiềm chế cái nhất thời, sự an bình, tri thức, ánh sáng, Niết Bàn'', và rằng: ''Chỉ hai điều ta dạy các con là khổ và diệt khổ''...

Đức Phật thọ 80 tuổi, và đây là di ngôn cuối cùng của Ngài: ''Chư tăng, bây giờ tôi dặn mọi người này. Tất cả những vật gì gồm nhiều yếu tố thì thế nào cũng có lúc bị diệt. Tận lực hành đạo đi nhé!''.

Nếu theo lời Đức Phật thì vì Vũ Trụ gồm nhiều yếu tố nhất, vậy Nó phải dễ bị tiêu diệt nhất, thậm chí là phải bị tiêu diệt ngay...tức khắc. Đúng thế không, thưa Đức Phật!?...

Nói cho ngay, giáo lý của Đức Phật, đúng như Ngài tuyên bố, là chỉ ra nguyên nhân xuất hiện khổ đau trong hồn người và cách thức chế ngự, làm mất đi sự khổ đau ấy, và giáo lý ấy bắt đầu bằng ''tứ diệu đế'' (arya satya-theo Đức Phật đây là bốn chân lý cao siêu), hay ''tứ diệu đế'' chính là ''bộ khung sườn'' của toàn bộ giáo lý. Sau đây là nội dung cơ bản của ''tứ diệu đế'' được truyền lại (có vẻ hầu như) là theo lời của chính Đức Phật:

''Bây giờ, hỡi chư tăng, ta giảng đến ''khổ đế'' (dukkha-satya): sinh là khổ, bệnh là khổ, lão là khổ, rầu rĩ, than khóc, táng tâm chí, thất vọng là khổ...
Bây giờ, hỡi chư tăng, ta giảng tới ''tập đế'' (samudaya-satya): nguyên nhân của khổ là cái nhân dục vô nhai, nó làm cho con người tái sinh hoài.
Bây giờ, hỡi chư tăng, ta giảng tới ''diệt đế'' (nirodha-satya): phải diệt cho hết dục vọng, nhu cầu bằng cách từ bỏ, thoát tục.
Bây giờ, hỡi chư tăng, ta giảng tới ''đạo đế'' (marga-satya): con đường diệt khổ và giải thoát gồm chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mệnh, chánh tinh tiến, chánh niệm, chánh định (bát chánh đạo).''

Vậy ''bộ khung sườn'' giáo lý của Phật Giáo về khổ và diệt khổ mà Đức Phật nêu ra đã hoàn toàn hợp lý chưa? Chúng ta khẳng định ngay lập tức là chưa! Thứ nhất, Đức Phật đã rất phiến diện nên cũng phạm sai lầm trong nhận định khi cho rằng bản thân sự được (bị) sinh ra là giềng mối của mọi đau khổ. Thực ra sự khổ sở thuộc lĩnh vực tình cảm, mà nguồn gốc của tình cảm chính là cảm giác ở loài tư duy trừu tượng cao độ. Tùy thuộc vào sự tinh tế (sự cụ thể hóa) của cảm giác cũng như trình độ hoạt động và sự sâu sắc của tư duy trừu tượng, trước tác động đấu tranh sinh tồn nào đó của ngoại cảnh mà xuất hiện cái gọi là tình cảm ở những mức độ khác nhau, và nói cho gọn là đã trở thành như mặc định ở loài người, coi như chỉ ở loài người mới có (thể hiện rõ rệt ở người trưởng thành, đã qua tuổi trẻ con!), sau một tiến trình vận động xã hội dài lâu. Có thể nói không có cảm giác thì không có sinh vật, nhưng cảm giác ở cấp độ thấp cũng vẫn chưa có (hoặc coi như chưa có) tình cảm, nghĩa là chưa biết hạnh phúc lẫn đau khổ cùng nhiều cặp tương phản ''cao độ cảm giác'' khác nữa thuộc về tình cảm. Như thế, sự được (bị) sinh ra nói chung không hề là giềng mối duy nhất và ''của riêng'' sự khổ mà chỉ là một trong những yếu tố tiền đề (nếu có thể nói như thế) cho sự xuất hiện một trong những trạng thái tình cảm ở con người, được Đức Phật ''ưu tiên lựa chọn'', ''nhấn mạnh'' và ''nâng khống'' lên một cách thiên vị, cảm tính (!) theo ý riêng của mình, đó là buồn khổ. Cần nói thêm một chút cho rõ hơn là đối với loài người, nguồn gốc gây ra khổ đau là có tính khách quan lẫn chủ quan, trong đó tính khách quan đóng vai trò thiết yếu, tiền đề. Ngoài ra, sự gây ra ''bất lợi'' dẫn đến bất hạnh cho một cá nhân hay một số lượng người nào đó, chủ yếu là đến từ môi trường bên ngoài, không chỉ đến từ thiên nhiên mà cả từ người khác hay nhóm người khác nữa. Điều dễ thấy, ''bất lợi'' thường gây bất hạnh, nhưng bất hạnh cá nhân đôi khi chưa chắc do ''bất lợi'' bên ngoài gây ra! Trong thực tiễn xã hội hàng ngàn năm nay, thời nào cũng tìm được người chán sống, ghét sống, nhưng với số lượng không đáng kể, còn tuyệt đại đa số con người dù tầm thường, thậm chí là nghèo hèn mạt rệp so với chuẩn mực đời sống xã hội đương thời, vẫn ''tham sống sợ chết'', hơn nữa là nỗ lực giữ gìn, nâng niu cuộc sống...Có lẽ, vì liên quan đến khát vọng được sống (có tính tự nhiên), khát vọng được ấm no, hạnh phúc (có tính xã hội) mà nỗi lo âu, phiền muộn trở thành tình cảm có tính thường trực, "có vẻ" như trạng thái tình cảm nền tảng trong tâm hồn con người? Thứ hai, nếu Đức Phật cho rằng sống là giềng mối của mọi khổ đau thì vì sao Đức Phật lại ''dừng bước'' ở chỗ chỉ loại bỏ tham-sân-si ra khỏi tâm hồn bằng con đường tu luyện theo ''bát chánh đạo'' để vượt thoát vô minh (sự mê lầm dẫn đến tham-sân-si!) mà không hô hào hành động một cách trực tiếp và triệt để nhất, đó là diệt ngay chính sự sống (thứ mà sau này chính Phật Giáo lại vô hình dung, ''bảo kê'' và dung dưỡng bằng tình yêu thương chúng sinh một cách ''bạc nhược'' kiểu Nhà Phật)!? Đây chính là điểm lẩn quẩn, hàm chứa sự mâu thuẫn cốt tử cũng như phần ''tung tích'' còn ẩn dấu của cái giáo lý nguyên thủy, tưởng hợp lý nhưng vẫn khiên cưỡng, nghĩa là tưởng đúng nhưng lại sai, hơn nữa là đầy thụ động, yếm thế mà cũng ''cải lương'' của Đạo Phật.

Từ truyền thuyết chúng ta phán đoán rằng khi chưa xuất gia đi tu, Đức Phật được dạy dỗ theo giáo lý Bàlamôn, đồng thời cũng là một con người rất nhạy cảm và có vẻ yếu đuối, có những ý nghĩ xa xôi, hoang tưởng, đầy bi quan, thậm chí là có phần sợ hãi về tương lai đời mình. Những phủ dụ Bàlamôn về sự bất tử đã không thể ''xoa dịu'' được nỗi trăn trở, buồn khổ của Ngài về viễn cảnh bệnh hoạn, già nua, chết chóc tất yếu của kiếp người. Chính vì thế Ngài đã trốn vua cha, bí mật từ bỏ vợ đẹp con khôn, khước từ cuộc sống nhung lụa cao sang, rời khỏi châu thành, dấn thân vào bước đường tìm cho ra nguyên nhân đích thực của buồn khổ và cách khắc chế, vượt thoát u sầu, khổ ải cho cuộc đời mình (!). Trên con đường hành khất ''tìm chân lý'' ấy Ngài đã ''trực giác'' được tính chấp nê thái quá trong cuộc sống, sự thản nhiên triệt để trước sinh-tử (bằng ý chí mù quáng!) nhằm một niềm chuộc lỗi theo tín điều của các giáo đồ Kỳ Na Giáo, mà giai đoạn ban đầu, Ngài đã thực tâm ngưỡng mộ, tu theo cách của đạo này (chúng ta suy đoán là thế!). Tuy nhiên, cơ địa sinh học của Ngài đã dần dà ''hết chịu nổi'' lối tu hành xác vô cùng khổ hạnh đó, và quan trọng hơn, có tính quyết định, là Ngài đã ''ngộ ra'' rằng Kỳ Na Giáo không phải là con đường toàn năng có thể cho Ngài biết toàn bộ chân lý tối thượng cũng như cách giải thoát mọi buồn khổ trong kiếp người mà Ngài đã từng mong ước từ lâu, cho nên Ngài đã ''buông lỏng'' lối tu ''ép xác'', ''ngược ngạo'' đó, đồng thời trầm tư mặc tưởng theo chiều hướng mới, và như mọi người biết, từ đó Ngài dần thiên khải dưới cây Bồ Đề và thành Đức Phật, tổ sư của Phật Giáo. Tuy nhiên, có một tình tiết trong truyền thuyết làm chúng ta nghĩ là không phải ngay từ đầu ''xuất gia'', Đức Phật đã có sẵn ý nguyện ''dứt áo ra đi'' vì chúng sinh. Đó là tình tiết, ngay sau khi đại ngộ và thành chính quả xong, Đức Phật định ở lại cõi Phật hóa một mình. Nhưng rồi Ngài động lòng thương sót chúng sinh nên quyết rời cõi Niết Bàn, đi thuyết giáo, mở đường giải thoát cho nhân loại...

Một câu hỏi lớn mà chúng ta đặt ra là tự ý hay từ đâu mà Đức Phật Thích Ca đang tu theo giáo lý Kỳ Na Giáo lại đột nhiên ''ngộ ra'' ý tưởng đến được với ''tứ diệu đế'' để xây dựng nên một thuyết giáo mới về xã hội-nhân sinh? Nếu nhớ, Nêpan xưa kia đâu phải là trung tâm tín ngưỡng Ấn Độ, mà chỉ là vùng ''rìa'', có thể là vùng đất giao lưu văn hóa của Ấn-Đông Á-Nam Á, cũng như nếu tin theo một số triết gia xưa kia rằng nhiều khả năng Đạo Phật ra đời sau Đạo Gia thậm chí cả trăm năm, thì rất có thể Đức Phật đã tiếp thu quan niệm sống tịnh lặng, như nhiên, vô chấp, bất cầu trong xã hội của Lão Tử (nghĩa là của Đạo Gia) trong quá trình xác lập nên ''tứ diệu đế''. Trong ''Lịch sử triết học phương Đông'' (tập 4) của Nguyễn Đăng Thục có viết: ''Trong khoảng thế kỷ II, có một số học giả phát triển thuyết nói Phật là đệ tử của Lão Tử. Sử ký Tư Mã Thiên, thiên 63 nói Lão Tử về già biến đi đâu mất, không ai biết. Rồi có đệ tử của Đạo Hoàng Lão, (có lẽ) quá sùng bái nói rằng Lão Tử đi về phía Tây, tới đất Tây Trúc với một số tín đồ gồm 29 người, và truyền đạo cho Phật. Do đó mà người ta cho rằng Kinh Phật là một giải thích ngoại lai về Đạo Đức Kinh của Lão Tử''.

Xin nhắc lại, theo Lão Tử thì:

''Ngũ sắc làm cho người ta mờ mắt, ngũ âm làm cho người ta ù tai, ngũ vị làm cho người ta tê lưỡi, ruổi ngựa săn bắn làm lòng người mê loạn, vàng bạc châu báu làm cho hành vi con người đồi bại''

''Ngăn hết các lối (tai, mắt, mũi, miệng), đóng hết các cửa (tức không gây cho cảm quan dục vọng, nghĩa là giữ lòng hư tĩnh) thì suốt đời không lo lắng. Mở các đường lối, giúp cho dục vọng phát sinh (ý là làm tăng cường ham muốn thành tham-sân-si, thành ham muốn thái quá), thì suốt đời không cứu được''

''Họa không gì lớn bằng không biết thế nào là đủ, hại không gì bằng tham muốn cho được nhiều. Cho nên biết thế nào là đủ và thỏa mãn về cái đủ đó thì mới luôn luôn thấy đủ''

Phải nói rằng tiến trình xã hội hóa và đấu tranh sinh tồn trong xã hội đã là nguyên nhân chủ yếu làm xuất hiện ''thêm'' loại hình hoạt động tinh thần gọi là tình cảm với những hỉ nộ ái ố...về cuộc sống mà tình cảm gọi là buồn-khổ đóng vai trò ''đầu tàu''. Nhưng không phải vì thế mà cho rằng đời là khổ và đầy bất hạnh như Đức Phật chỉ ra.


Có lẽ sau thời Lão Tử và các đệ tử ''ruột'' của ông (như Liệt Ngự Khấu, Dương Chu...), Đạo Gia suy thoái dần theo hướng huyền bí hóa, linh thiêng hóa, thần thánh hóa bởi chính sự cao siêu trong tư duy lý luận trước hết là về tự nhiên của nó mà hiếm người đời sau thấu đáo được, để trở thành một thứ tôn giáo gọi là Đạo Giáo? Và phải chăng cõi Tiên trong Đạo Giáo cũng chính là cõi Niết Bàn trong Đạo Phật nguyên thủy? Tuy nhiên, dù Đạo Gia và Đạo Phật nguyên thủy đều cùng kêu gọi vô chấp bất cầu, ''giũ bỏ'' tham-sân-si khỏi tâm hồn, và tìm cách thoát khỏi vô minh (sự không biết đạo, nguyên nhân làm xuất hiện tham-sân-si), tưởng chủ trương về xã hội-nhân sinh giống nhau, nhưmg thực ra là có những nét khác nhau cơ bản, chẳng hạn đó là trong khi Đạo Gia hướng nhân quần đến cái tâm thế chừng mực tùy khả năng, an nhiên, hồn hậu, lạc quan vui sống, thì Đạo Phật lại hướng chúng sinh đến lối sống yếm thế, an phận kiểu ''trả nợ đời'' nhằm thoát vòng luân hồi nghiệp báo (mà theo chúng ta, có thể coi là có trong...hiện thực này nọ mà thôi, chứ tuyệt đối không thể có trong thực tại!)...

Một ý nghĩ thoáng qua nhưng gây ấn tượng rất mạnh, sáng quắc như chớp giật trong đầu chúng ta: nền tảng tư tưởng của Đạo Gia có nguồn gốc sâu xa từ nhận thức tự nhiên của người Lạc Việt hoặc từ tiền bối của người Lạc Việt, và có lẽ Đạo Giáo xâm nhập (?) vào Việt Nam cổ đại trước Đạo Phật, mà người Việt đầu tiên lĩnh hội được chính là...Chử Đồng Tử. Hơn nữa, tinh thần Đạo Gia ''nấp'' trong tư tưởng Đạo Giáo vẫn còn ''lồ lộ'' vào thời Trần và chưa bị lấn át hay ''chiếm hữu hẳn'' bởi Phật Giáo. Chúng ta đã biết cách xử thế của các vua Trần, tiêu biểu là Trần Nhân Tông, và sẽ hiểu được cặn kẽ ngọn ngành do đâu mà các vua Trần lại ''không thích'' làm vua mà ''thích'' xuất thế vô vi trong vai...Thái Thượng Hoàng như thế, nếu nhớ lại lời Lão Tử: "Biết trắng giữ đen, làm phép tắc cho thiên hạ. Làm phép tắc cho thiên hạ thì cái đức vĩnh cửu bất biến sẽ không sai lạc, mà trở về với vô cực (bản nguyên của đạo). Biết vinh giữ nhục, làm cái hay cho thiên hạ. Làm cái hay cho thiên hạ thì cái đức vĩnh cửu bất biến sẽ đầy đủ, mà trở về mộc mạc như gỗ chưa đẽo. Gỗ chưa đẽo, xẻ ra thành đồ dùng. Thánh nhân giữ thuần phác mà điều khiển trăm quan...", "...thánh nhân ôm giữ lấy đạo làm phép tắc cho thiên hạ. Không tự biểu hiện cho nên mới sáng tỏ, không tự cho là phải cho nên mới chói lọi, không tự kể công cho nên mới có công, không tự phụ cho nên mới trường cửu (mới hơn người). Chỉ vì không tranh với ai cho nên không ai tranh giành với mình được", "Vàng ngọc đầy nhà làm sao giữ nổi, giàu sang mà kiêu là tự rước lấy họa. Công thành rồi thì nên lui về (công thành thân thoái), đó là đạo trời"...
Chỉ biên niên sử may ra là khách quan, tức là cột mốc của hiện thực quá khứ. Còn lịch sử bao giờ cũng đậm tính chủ quan vì đã bị sự suy tưởng phi hiện thực lũng đoạn. Chính vì thế mà lịch sử Phật Giáo thật mịt mùng! Nhưng dù mịt mùng đến mấy thì lịch sử Phật Giáo và tiểu sử huyền thoại của Đức Phật Thích Ca cũng là sự sáng tạo của tư duy con người để an ủi hồn người! 

(Hết Chương XIV)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét