TT & HĐ II - 12/d
James Maxwell - Người Hoàn Thiện Lý Thuyết Điện Từ
PHẦN II: Nền tảng
Đọc thêm tại: http://www.tudiendanhngon.vn/tabid/88/itemid/563/search/albert-einstein/ © TuDienDanhNgon.vn
" Triết học bắt đầu từ sự ngạc nhiên"
Arixtốt
“Chúng
ta có thể mường tượng thế giới của thực tại như
là một dòng nước ngầm; thế giới hiện tượng thì ở bề mặt; bên dưới nó chúng ta không nhìn thấy được. Các sự kiện ở tận đáy của dòng nước gây ra bọt và những xoáy nước ở bề mặt. Đó là những chuyển động bức xạ và năng lượng của cuộc sống chung của chúng ta, nó tác động tới các giác quan và do đó, kích thích trí óc chúng ta; ở bên dưới, dòng nước ngầm vẫn chảy”
là một dòng nước ngầm; thế giới hiện tượng thì ở bề mặt; bên dưới nó chúng ta không nhìn thấy được. Các sự kiện ở tận đáy của dòng nước gây ra bọt và những xoáy nước ở bề mặt. Đó là những chuyển động bức xạ và năng lượng của cuộc sống chung của chúng ta, nó tác động tới các giác quan và do đó, kích thích trí óc chúng ta; ở bên dưới, dòng nước ngầm vẫn chảy”
Đọc thêm tại: http://www.tudiendanhngon.vn/tabid/88/itemid/563/search/albert-einstein/ © TuDienDanhNgon.vn
CHƯƠNG I: ÔN CỐ TRI TÂN
"Tôi
biết nhiều khoa học tuyệt vời, nhưng tôi không biết khoa học nào tuyệt
vời hơn triết học". "Dù có cố gắng suy luận mà không quan tâm đến triết
học, các khoa học khác thiếu nó thì vẫn không thể có sự sống, tinh thần,
chân lý".
G. Hêghen
“Cái
tuyệt đối tự biểu lộ đối với những ai tìm kiếm tri thức, là ánh sáng
vĩnh cửu, rõ ràng và rực rỡ như mặt trời lúc chính ngọ cho những ai đấu
tranh vì đức hạnh, là chính nghĩa vĩnh cửu, kiên định và công bằng cho
những ai hướng tình cảm về tình yêu vĩnh cửu và vẻ đẹp thánh thiện”
S. Radhakrisnan.
"Tôi
biết nhiều khoa học tuyệt vời, nhưng tôi không biết khoa học nào tuyệt
vời hơn triết học". "Dù có cố gắng suy luận mà không quan tâm đến triết
học, các khoa học khác thiếu nó thì vẫn không thể có sự sống, tinh thần,
chân lý". (G. Hêghen)
“Triết
học chân chính chỉ là triết học truyền đạt chính xác nhất tiếng nói của
bản thân thế giới và được viết dưới những sự chỉ dẫn của thế giới”
(Ph.Bêcơn)
Con
ong khai thác vật liệu từ hoa ngừi vườn và ruộng đồng, nhưng sử dụng và
biến đổi nó phù hợp với khả năng và chủ định của mình. Công vịcc đích
thực của nhà triết học cũng không khác gì công việc đó.”
(Ph.Bêcơn)
‘‘Các nhà triết học quen sửng sốt. Sửng sốt chính là sự bắt đầu của triết học”
(Tiếp theo)
***
Nếu
Pharađây là người đã đưa ra quan niệm mới về điện và từ; đã nêu lên vai
trò của môi trường, gợi ra khái niệm trường và mô tả nó bằng các đường
sức, thì Mácxoen là người đã hoàn chỉnh tư tưởng của Pharađây về mặt
toán học, đã đưa ra thuật ngữ trường điện từ và đã xây dựng được những
qui luật toán học của trường đó. Mácxoen là nhà bác học có tài năng về
nhiều mặt, đã đóng góp nhiều công sức vào nhiều lĩnh vực của vật lý học,
nhưng tên tuổi của ông trở nên lừng lẫy chính là nhờ thuyết trường điện
từ mà ông đã xây dựng và mang tên là điện động lực Mácxoen, với nòng
cốt là sáu định luật thể hiện bằng sáu phương trình gọi là các phương
trình Mácxoen. Có lẽ thành tựu nổi bật nhất của ông đó là thiết lập lên lý thuyết cổ điển về bức xạ điện từ, mà đã lần đầu tiên bắc chiếc cầu nối giữa điện học, từ học, và ánh sáng như là biểu hiện của cùng một hiện tượng. Phương trình Maxwell của trường điện từ đã được gọi là "lần thống nhất vĩ đại thứ hai trong vật lý" ( Nahin, P.J. (1992). “Maxwell's grand unification”) sau lần thống nhất bởi Isaac Newton.
Michael Faraday | |
---|---|
|
|
Sinh | 22 tháng 9, 1791 Newington Butts, Surrey, Anh |
Mất | 25 tháng 8, 1867 (75 tuổi) Hampton Court, Surrey, Anh |
dẫn có dòng điện một chiều chạy qua. Khi nghiên cứu những
vấn đề này, Faraday đã thành lập khái niệm cơ bản về trường
điện từ trong vật lý, rồi sau đó được phát triển bởi James
Maxwell. Ông ta cũng khám phá ra cảm ứng điện, nghịch từ,
và định luật điện phân. Ông chứng minh rằng từ học có thể tác
động lên các tia của ánh sáng. Những sáng chế của ông ta về
những thiết bị có điện trường quay đã đặt nền móng cho công
nghệ động cơ điện, và ông có công lớn khi làm cho điện có
thể sử dụng trong ngành công nghệ.
Sáu phương trình
đó, theo Mácxoen, đã diễn đạt bằng toán học cái tư tưởng nằm trong cơ sở
tiến trình tư duy của Pharađây trong công trình “Những khảo sát thực
nghiệm”. Năm 1857, Mácxoen có một nghĩa cử rất đẹp là gửi công trình của
mình cho Pharađây khiến Pharađây vô cùng cảm động và đánh giá rằng đó
là một sự an ủi, động viên lớn lao đối với ông.
Về thuyết của mình, Mácxoen viết:
“Lý thuyết mà tôi đề nghị có thể được gọi là lý thuyết trường điện từ, vì rằng nó nghiên cứu không gian bao quanh các vật điện và từ. Nó cũng có thể được gọi là thuyết điện động lực học, vì nó thừa nhận rằng trong không gian đó có vật chất chuyển động, nhờ nó mà diễn ra các hiện tượng điện từ quan sát được”
James Clerk Maxwell | ||||
---|---|---|---|---|
James Clerk Maxwell (1831–1879)
|
||||
Sinh | 13 tháng 6, 1831 Edinburgh, Scotland |
|||
Mất | 5 tháng 11, 1879 (48 tuổi) Cambridge, Anh |
công bố năm 1865, Maxwell đã chứng tỏ được rằng lực tĩnh
điện và từ trường lan truyền trong không gian như là các sóng
chuyển động với vận tốc bằng tốc độ ánh sáng. Maxwell cho
rằng ánh sáng là một dạng dao động sóng trong cùng một môi
trường mà là nguyên nhân gây các các hiện tượng điện và từ
. Sự thống nhất của ánh sáng với các hiện tượng điện đã đưa
đến tiên đoán tồn tại sóng vô tuyến..
Năm
1873, Mácxoen công bố “giáo trình điện học và từ học”, tổng kết và hệ
thống toàn bộ lý thuyết của mình. Trong công trình này ông đã trình bày
tỉ mỉ lý thuyết điện từ về ánh sáng; đã chứng minh được rằng ánh sáng mà
ta nhìn thấy là một dải rất hẹp của bức xạ sóng điện từ (ngoài ánh sáng, các sóng radio, tia tử ngoại, hồng ngoại, rơnghen, tia gamma do các chất phóng xạ phát ra… đều là sóng điện từ).
Nói cách khác, ông đã chứng minh mối liên quan bản chất giữa hiện tượng
ánh sáng và hiện tượng điện từ; ánh sáng là trường hợp riêng của bức xạ
điện từ.
Lý
thuyết của Mácxoen phải đợi đến một phần tư thế kỷ mới được thực nghiệm
khẳng định dứt khoát. Người làm công việc ấy là Hecxơ (Hertz, 1857-1894).
Dựa vào những kết quả thực nghiệm đã tiến hành, ông phân tích trên cơ
sở lý thuyết của Mácxoen; viết lại các phương trình Mácxoen theo một
dạng gần giống như ngày nay. Khi giải hệ phương trình đó, ông tìm ra kết
quả là ở gần bộ rung, trường tạo ra giống như trường tĩnh điện của một
lưỡng cực và từ trường của một nguyên tố dòng, phù hợp với định luật
Biô-Xava. Nhưng ở khoảng cách xa, trường là một trường sóng, cường độ
của nó giảm tỉ lệ với bình phương khoảng cách, lực điện và lực từ vuông
góc với bán kính vectơ và tỷ lệ với sin của góc giữa bán kính vectơ và
trục của lưỡng cực dao động. Trường đó lan truyền trong không gian với
vận tốc ánh sáng. Lưỡng cực bức xạ mạnh nhất theo phương vuông góc với
trục của nó và không bức xạ theo phương trục. Những kết quả nghiên cứu
lý thuyết đó hoàn toàn phù hợp với khảo sát thực nghiệm.
Heinrich Rudolf Hertz | |
---|---|
|
|
Sinh | 22 tháng 2, 1857 Hamburg |
Mất | 1 tháng 1, 1894 (36 tuổi) Bonn, Đức |
Nơi cư trú | Đức |
Từ
đó Hecxơ đã đứng hẳn về phía quan niệm của Mắcxoen và đã xây dựng cơ sở
thực nghiệm vững chắc cho thuyết Mácxoen. Không những thế, ông còn bổ
sung cho thuyết Mácxoen lý thuyết bức xạ điện từ; chứng nghiệm rằng sóng
điện từ đồng nhất với sóng ánh sáng, cũng tuân theo những quy luật
truyền thẳng, phản xạ, khúc xạ, phân cực… như sóng ánh sáng. Nhờ Hecxơ,
lý thuyết Macxoen đã thắng lợi rực rỡ.
Bước phát triển tiếp theo của điện và từ học là sự cố gắng thống nhất lý thuyết trường điện từ và lý thuyết cấu tạo vật chất.
Năm 1884-1885, Pôinting (Poyutig) và Hêvixai (Heaviside) đề ra vectơ mật độ dòng năng lượng của điện từ trường (vectơ Umốp – Pôinting).
Cuối thế kỷ XIX xuất hiện khái niệm xung lượng trường điện từ, và trong
điện động lực học có thêm vectơ mật độ xung lượng cũng như mômen xung
của trường điện từ.
Việc
thống nhất lý thuyết trường điện từ với lý thuyết cấu tạo vật chất dẫn
đến sự ra đời của thuyết điện tử (electron). Trong một báo cáo công bố
năm 1881, Xtônây (Stoney) đề nghị một hệ đơn vị “tự nhiên” với
các đơn vị cơ bản là vận tốc ánh sáng, hằng số hấp dẫn và điện tích
nguyên tố. Ông cho rằng (rất đúng đắn) phải có một điện tích nguyên tố
nhỏ nhất, không thể phân chia được nữa, gắn liền với nguyên tử vật chất
(thời đó khái niệm nguyên tố được cho là vật chất nguyên tố nhỏ nhất,
cũng không thể phân chia).
Thuyết điện tử được Lorenxơ (Lorentz, 1853-1928)
xây dựng vào những năm 70 của thế kỷ XIX. Ông thấy cần bổ sung thêm cho
lý thuyết Mácxoen tính cấu trúc vật chất vì muốn hiểu sâu bản chất các
hiện tượng điện từ phải tạo lập được về mặt cấu trúc của chúng. Lorenxơ
cho rằng thế giới gồm ête là một môi trường không trọng lượng và các vật
thể vật chất có trọng lượng. Các vật thể do rất nhiều các hạt mang điện
tích dương hoặc âm tạo thành; tương tác giữa ête và các vật thể làm các
hạt tích điện dịch chuyển và sự dịch chuyển đó làm phát sinh các hiện
tượng điện - tử.
Hendrik Antoon Lorentz | |
---|---|
Hendrik Antoon Lorentz
|
|
Sinh | 18 tháng 7, 1853 Arnhem, Hà Lan |
Mất | 4 tháng 2, 1928 (74 tuổi) Haarlem, Hà Lan |
Những
phương trình của thuyết điện tử viết cho chân không có dạng như phương
trình Mácxoen, trong môi trường vật chất không thể áp dụng trực tiếp
được. Các đại lượng trong các phương trình đó biến thiên rất nhanh theo
tọa độ và thời gian, vì vậy, đối với môi trường vật chất phải áp dụng
phép lấy trung bình đối với các phương trình Lorenxơ. Ở môi trường đứng
yên, phép lấy trung bình các phương trình Lorenxơ sẽ đưa về được các
phương trình Mácxoen. Ở môi trường chuyển động không xảy ra điều đó
được, làm nảy sinh việc phải nghiên cứu điện động lực học trong các môi
trường chuyển động.
Thuyết
điện từ được xem như chương cuối cùng của vật lý học cổ điển. Đó là một
trong những bài ca tuyệt diệu về trí tuệ con người. Sự phát hiện ra
trường điện từ đã mở rộng thêm sự hiểu biết của con người về vật chất.
Từ nay, con người biết rằng vật chất không phải chỉ thể hiện ra dưới
dạng các vật thể có hình dạng kích thước nhất định, các thực thể gọi là
môi trường chất (nước, không khí) mà còn thể hiện ra dưới dạng
trường. Tuy vậy, vào cuối thế kỷ XIX, khi chưa phát hiện được tính hạt
của ánh sáng, thì việc hình dung trường điện từ như một thực thể vật
chất là không phải dễ dàng. Bởi vì, quen với cách nhìn trực giác, ngay
bây giờ đây, việc hình dung ánh sáng vừa mang tính sóng, vừa mang tính
hạt là một thực thể vật chất vẫn khó mà “chịu đựng nổi” rồi!
Nhưng
các nhà duy vật, những người coi Vũ Trụ này không gì ngoài vật chất,
bắt buộc phải cố “chịu đựng”, cố biện minh trường điện từ phải là vật
chất. (Thực ra, điều quan trọng là có một cái gì đó chứ không thể là
không có gì. Còn “có một cái gì đó” là cái gì thì lại không quan trọng
chút nào. Vì “cái gì đó” có thể tùy ý đặt tên, vật chất, phi vật chất
hay “con cà con kê” cũng được. Vũ Trụ vẫn thế!).
Theo
V.L.Lênin, thuộc tích cơ bản của vật chất là tồn tại và vận động; thuộc
tính cơ bản của một thực thể vật lý, là vật chất, cũng là tồn tại và
vận động khách quan, trước hết là theo nghĩa động lực học.
Sự
tồn tại của trường điện từ là hiển nhiên; sự vận động của nó là rõ
ràng; không ai có thể phủ nhận được. Trường điện từ có năng lượng, động
lượng, chuyển động, lan truyền trong không gian, phản ứng với vạn vật và
tương tác mạnh mẽ với các thực thể mang điện hoặc từ. Do đó trường điện
từ phải là một dạng vật chất nào đó. Quan niệm chung ngày nay cho rằng:
trường điện từ là một dạng vật chất cơ bản, chuyển động với vận tốc ánh
sáng trong mọi hệ qui chiếu quán tính trong chân không: nó thể hiện sự
tồn tại và vận động qua những tương tác với dạng vật chất khác là những
hạt hoặc những môi trường chất mang điện. Trường điện từ là một thực thể
thống nhất, không chia cắt được, thể hiện cụ thể ra hai mặt là điện
trường và từ trường chuyển hóa qua lại nhau, trong những hệ qui chiếu
khác nhau mang những giá trị khác nhau. Tuy nhiên, với những tương tác
thực nghiệm cho thấy rõ nét giữa hai hình thái vận động sóng và hạt
photon của trường điện từ bức xạ, mô tả bởi lý thuyết điện động lực học
lượng tử, một sự mở rộng lý thuyết Mácxoen về trường điện từ.
Theo
các nhà vật lý thì hạt cơ bản là những thực thể tham gia tương tác luôn
luôn như một thể hoàn chỉnh, không chia nhỏ được, tức là không biết
được cấu trúc nội tại của hạt. Do đó theo mô hình; lượng tử hóa thì
trường điện từ phải trao đổi những lượng tử năng lượng, động lượng
..v..v.. nhất định. Theo mô hình này, tuy trường và hạt có những điểm
giống nhau, nhưng vẫn có những điểm khác biệt: hạt rất tập trung ở một
điểm không gian nhưng trường lại phân bố rộng ra và cứ thế tách ra những
lượng tử trường. Hạt có thể chuyển động với những vận tốc khác nhau
nhưng trường và lượng tử trường luôn chuyển động với vận tốc ánh sáng (vận tốc cực đại)
trong chân không, trong mọi hệ qui chiếu. Vì vậy, ở thế giới vô cùng
nhỏ, cấu trúc trường điện từ có thể là rất “gián đoạn”, nhưng trong
quãng kích thước quan sát của dụng cụ đo, không thể “nhìn thấy” được cấu
trúc hạt, không thấy được photon nên giá trị mà nó xác định chỉ mang
tính trung bình, thống kê và như thế trường điện từ lại thể hiện như
liên tục. (Đó cũng chính là một thực tại khách quan!!!). Như vậy, có thể gọi “trường” (trong đó có trường điện từ) là những dạng vật chất không có cấu trúc, tương tự như những môi trường chất thường gặp (như nước, không khí…),
tồn tại có năng lực tương tác động lực trong không gian và thời gian.
Lấy thí dụ minh họa điều này rất dễ. Trên tivi, đã nhiều lần chúng ta
thấy vận động đẹp mắt và lạ lùng của những đàn cá con với số lượng lớn.
Có những lúc chúng không bơi theo một dòng mà bơi rất nhanh sát nhau
theo đủ mọi phương hướng, tưởng vô cùng hỗn loạn mà chẳng bao giờ “đâm
sầm vào nhau”, mà quyện lại như một khối gắn kết. Không biết chúng có
thông tin gì qua lại với nhau không mà làm được như vậy. Khi nhìn ở cự
ly đủ xa, chúng ta sẽ chẳng thấy rõ được từng con cá mà chỉ thấy một
khối gì đó như một thực thể thống nhất liên tục di chuyển, liên tục biến
dạng. Đó là hình ảnh của trường. Ở cự ly xa hơn nữa, chúng ta sẽ tưởng
đó là một khối “đặc” và gọi là “vật thể lạ”.
Còn
một con đường thứ tư nữa là nhiệt động học. Con đường này dẫn đến bức
xạ nhiệt và dừng lại ở đó với khái niệm “lượng tử năng lượng” của
Planck, một khái niệm “làm cho” thế giới vi mô trở nên “rời rạc” hơn cả
cái thế giới mà chúng ta đang sống nữa!
Tóm
lại, từ nhiều hướng khác nhau, đi tìm bản chất của vật chất, các nhà
vật lý học đã khám phá ra biết bao nhiêu hiện tượng kỳ bí của Vũ Trụ,
chiến công nối tiếp chiến công, thành quả nối tiếp thành quả; đã tiến
rất sâu vào thế giới vi mô, đã phát hiện ra biết bao nhiêu hạt gọi là cơ
bản và đang đứng ở vị trí lựa chọn xem hạt nào cơ bản hơn hạt nào để có
thể là hạt cơ bản nhất, là đơn vị vật chất cuối cùng làm nên cái Vũ Trụ
tổng thể các sự vật hiện tượng này.
Từ thế kỷ XX, các nhà vật lý tin tưởng sâu sắc rằng trong những điều kiện nhất định nào đó thì bốn tương tác cơ bản (hấp dẫn, điện từ, yếu, mạnh) phải thống nhất làm một và như thế, có thể xây dựng một lý thuyết duy nhất, thống nhất bốn tương tác đó. Năm 1907, Vainbec (Weinberg) và Xalam (Salam)
đã xây dựng thành công lý thuyết thống nhất giữa tương tác điện từ và
tương tác yếu, gọi là “tương tác điện yếu”. Tương tác này do bốn hạt
chuyển tải là photon và ba bôxôn trung gian: W+, W-, Wo. Tại phòng thí nghiệm, CERN, người ta đã quan sát được trong thực nghiệm các hạt W+, W- vào năm 1983 nhờ máy gia tốc SPPS và hạt Zo vào năm 1992, nhờ máy gia tốc LEP.
Các
nhà vật lý phán đoán rằng tương tác hấp dẫn truyền đi tương tự như
tương tác điện từ, nghĩa là dưới dạng sóng hấp dẫn, và lượng tử của
trường hấp dẫn được đặt tên là hạt gravitôn. Cho tới nay, các thí nghiệm
nhằm phát hiện sóng hấp dẫn và hạt gravitôn đều chưa đạt kết quả gì.
Hiện
nay, các nhà vật lý đang xây dựng lý thuyết thống nhất ba tương tác:
mạnh, điện từ và yếu. Muốn thế phải xác lập được các mối quan hệ giữa
các mối quan hệ giữa các lượng tử tương tác là photon, W+, W-, Wo, luôn
với nhau và với các hạt “thực sự cơ bản” là leptôn và quac. Nghe nói các
kết quả đạt được là rất đáng khích lệ. Cầu Trời!
Nếu có hạt Tồn Tại nhỏ tuyệt đối thì nó phải bằng cái Một tuyệt đối (nghĩa là bằng đơn vị tuyệt đối). Cái Một tuyệt đối là cái 1 nhỏ nhất Vũ Trụ. Nếu Tồn Tại là một tập hợp các hạt đơn vị tuỵệt đối đó, thì nó phải hữu hạn và có thể biểu diễn bằng tổng các số 1 tuyệt đối và có thể qui ước gọn, bằng 10N hạt Tồn Tại nhỏ tuyệt đối, với N là số tự nhiên không thể xác định , lớn vô cùng đến tuyệt đối, nhưng phải...hữu hạn! Khi N = O, thì 10N = 1 = đơn vị tuyệt đối!
Nhăng
cuội thế là đủ vui vẻ rồi! Tóm lại, Tự Nhiên Tồn Tại là đầy đủ và mang tính nước đôi nên nói thế
nào về nó cũng đúng mà cũng sai. Chỉ biết rằng Nó hữu hạn nhưng vô
biên, và cũng có thể vô hạn mà hữu biên, rời rạc mà cũng liên tục,..., không thể chia hay nhân đến
vô tận, mà cũng có thể (!). Nếu Nó có Cái Một Duy Nhất, Tất Cả, Vĩ Đại, thì cũng phải
có Cái Một Đơn Nhất, đơn vị tuyệt đối, nhỏ nhất tuyệt đối. Nếu có Cái Một thì phải có Cái Không. Cái 0, xét trên phương diện vật chất, là không có gì, không quan sát được gì, nhưng vẫn còn tồn tại( vì không phải Hư Vô!!!). Đố ai biểu diễn được số O nếu không dùng đến tồn tại! Số O thật khó hiểu nhưng có thể nói số O được nhận thức qui ước biểu diễn cái trống rỗng, cái không xác định, và thật lạ lùng, khi đứng sau Cái 1, chúng hoàn toàn xác định, hợp thành những lực lượng vĩ đại, Phải chăng, chúng chính là “đại chúng” tiểm ẩn, là "kho tàng" hun đúc nên thực chất cho cái “number one” hùng hồn, vĩ đại!? Nếu thế, phải chăng chúng chính là cái chúng ta vẩn thấy nhưng làm như không thấy: không gian, và cả cái chúng ta tưởng cảm giác được nhưng hoàn toàn không có thực: thời gian!?
(Còn tiếp)
Nhận xét
Đăng nhận xét