VÌ DÂN - VÌ NƯỚC 06

-"Gốc có vững cây mới bền,
 Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân"

“Dễ mười lần không dân cũng chịu
 Khó trăm lần dân liệu cũng xong”
 
“Đảng ta là một Đảng cầm quyền...phải xứng đáng là người đầy tớ thật trung thành của Nhân dân”
 
“Nước ta là Nhà nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ, trong bộ máy cách mạng từ người quét nhà, nấu ăn cho đến Chủ tịch nước đều phân công làm đầy tớ cho dân”.

“Từ nơi quần chúng ra, trở lại nơi quần chúng. Có gần gũi, hòa cùng nhân dân thì mới hiểu được dân, đồng cảm với dân, nắm được tâm tư tình cảm của dân... Hòa cùng Nhân dân còn để giác ngộ, lãnh đạo Nhân dân thúc đẩy xã hội phát triển theo chiều hướng có lợi cho Nhân dân”.
 
“...Máy móc, ép buộc đồng bào, nhiều việc quá trình độ, dân không hiểu, không thích. Đã thấy sai lầm mà không kịp thời sửa chữa, kịp thời báo cáo. Dùng thói quan liêu, chỉ biết ra lệnh, ép buộc dân chúng đóng góp”.
  
Hồ Chí Minh
 
------------------------------------------------------------------
(ĐC sưu tầm trên NET)
 
Phim tài liệu : Võ Nguyên Giáp - Vị tướng trong lòng dân

Trong lịch sử đã chứng kiến nhiều chiến công lẫy lừng bảo vệ Giang Sơn Xã Tắc là nhờ biết dựa vào lòng dân, được dân giúp sức. Cũng có trường hợp dù xây dựng quân đội “trăm vạn”, thành trì kiên cố, vũ khí “nhất thiên hạ” nhưng để mất Giang Sơn rồi mới thấm thía “ngã tay chèo mới biết lòng dân như nước”.

“Khoan sức dân làm kế rễ sâu gốc vững”

ADVERTISEMENT
Năm 1300, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn bệnh nặng do tuổi già sức yếu, khó qua khỏi. Vua Trần Anh Tông thăm viếng. Nhà Vua hỏi rằng: “Nếu có sự không lành xảy ra mà quân Nguyên lại sang xâm lấn thì chống cự bằng cách gì?”


Đề bài không hoàn chỉnh, giải toán như thế nào?
Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn (Ảnh: Trí Thức VN)

Hưng Đạo Vương đáp rằng:
“Ngày trước Triệu Võ (Triệu Đà) dựng nước, Vua nhà Hán sai quân sang đánh, bấy giờ, dân thì phá hết hoa màu ở đồng nội, quân thì kéo sang, dùng đoản binh tập hậu mà đánh phá châu Khâm, châu Liêm và châu Trường Sa. Đó là một thời kỳ.
Đến đời nhà Đinh, nhà Lê thì dùng người hiền tài. Lúc ấy phương Nam đang mạnh, phương Bắc đang suy, trên dưới một dạ, dân không có lòng ly tán, đắp thành Bình Lỗ mà phá được quân Tống. Đó lại cũng là một thời kì.
Nhà Lý dựng cơ nghiệp, người nhà Tống sang xâm lấn. Lúc ấy, dùng Lý Thường Kiệt đánh châu Khâm, châu Liêm, nhiều phen đánh đến tận Mai Lĩnh, ấy là có thế lực mạnh.
Vừa rồi, Toa Đô, Ô Mã Nhi bốn mặt đánh phá bao vây. Lúc ấy, vua tôi đồng lòng, anh em hòa thuận, cả nước ra sức nên giặc phải chịu bó tay. Đấy là lòng trời xui khiến.
Quân giặc cậy vào trường trận, ta cậy ở đoản binh, đem đoản binh chống trường trận là việc thường trong binh pháp. Nhưng cần phải cân nhắc cho kĩ, giá thử quân giặc tràn sang như gió như lửa thì có thể chống cự được; nếu giặc dùng cách chiếm cứ dần như tằm ăn dâu, không vơ vét của dân, không mong đánh được ngay thì mình phải dùng tướng giỏi, xem tình thế biến chuyển như người đánh cờ, tùy cơ mà ứng biến cho đúng, làm thế nào thu hút được binh lính như cha con một nhà thì mới có thể chiến thắng được. Vả lại, phải khoan sức dân làm kế rễ sâu gốc vững, ấy mới là thượng sách, không có gì hơn được.”
Khâm định Việt sử thông giám cương mục
Lời bộc bạch cuối đời của Hưng Đạo Vương có giá trị như vàng ngọc để hậu thế sau này giữ nước. Hưng Đạo Vương đưa ra dẫn chứng các kế sách trong lịch sử, nhưng cuối cùng thượng sách vẫn là dựa vào sức dân: “khoan sức dân làm kế rễ sâu gốc vững, ấy mới là thượng sách, không có gì hơn được”.
Nhà Trần khi biết chăm lo cho dân chúng, được người dân đồng lòng ủng hộ, thì mới có được 3 lần chiến thắng quân Nguyên Mông.
Thậm chí dù được lòng dân, nhưng vào năm 1284, khi 50 vạn đại quân Nguyên Mông (bao gồm cả dân phu) chuẩn bị tiến đánh Đại Việt, để chuẩn bị đánh giặc, nhà Trần vẫn tổ chức hội nghị Diên Hồng, củng cố thêm quyết tâm, dùng sức dân làm gốc rễ, nhờ đó mà thắng giặc.

“Thần không sợ đánh, chỉ sợ lòng dân không theo thôi!”

Năm 1399, Hồ Quý Ly cho giết chết gần 400 tôn thất cùng tướng lĩnh nhà Trần. Con cái của họ, gái thì bị bắt làm nô tỳ, trai từ một tuổi trở lên thì bị chôn sống hoặc bị dìm nước cho chết. Nhưng có một điều Hồ Quý Ly không để tâm: Các tướng lĩnh nhà Trần nhiều người biết cầm quân khiển tướng, việc diệt hết các tướng họ Trần khiến quân đội nhà Hồ sau này không còn ai có tài thao lược.
Mặt khác các chính sách của Hồ Quý Ly khiến lòng dân oán thán. Khi quân Minh chuẩn bị tiến đánh, Hồ Quý Ly chuẩn bị rất chu đáo để đánh trả, thành lũy quân đội được xây dựng hùng hậu, nhiều tuyến phòng thủ kéo dài.
Để chuẩn bị chống quân Minh, Hồ Quý Ly từng nói với các tướng muốn xây dựng quân đội “trăm vạn”, vì thế mà quân đội dưới thời nhà Hồ rất đông, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng quân đội dưới thời nhà Hồ đông đúc và được trang bị thuộc loại tốt nhất trong sử Việt. Thậm chí quân đội nhà Hồ còn có Thần cơ thương pháo của Hồ Nguyên Trừng, được quân Minh cho là “vũ khí nhất thiên hạ”. (Xem bài: Khi thần cơ thương pháo đối đầu với 80 vạn quân Minh – P1)


Hồ Nguyên Trừng
Các viên đạn bằng đá của thần cơ thương pháo được khai quật tại thành Tây Đô (Thanh Hóa). (Ảnh từ Trí Thức Trẻ)

Năm 1405 trong cuộc họp bàn các tướng về kế sách chống quân Minh, Tả tướng quốc Hồ Nguyên Trừng đã nói với Vua rằng: “Thần không sợ đánh, chỉ sợ lòng dân không theo thôi!”.
Câu nói của Hồ Nguyên Trừng đã nói đúng vào điểm yếu của nhà Hồ lúc đó. Hồ Quý Ly chỉ lo xây dựng thành trì quân đội, mà không hề để ý đến lòng dân. Các tướng giỏi họ Trần đã bị giết, cải cách thi hành phục vụ chiến tranh gây ra mâu thuẫn và bức bối trong dân chúng, người tài trong thiên hạ không ai muốn phục vụ cho nhà Hồ.
Nhà Hồ cuối cùng đã bại trận.
Sau này lòng dân hướng đến các cuộc khởi nghĩa khắp nơi nổ ra, trong đó cuộc khởi nghĩa Lam Sơn đã quét sạch quân Minh ra khỏi bờ cõi.

“Lật thuyền mới biết dân như nước”

Khi nhà Hồ bị đánh bại, Nguyễn Phi Khanh lúc này đang giữ chức Đại lý tự khanh kiêm Trung thư Thị lang, ông bị bắt và giải về Trung Quốc.
Nguyễn Phi Khanh có người con là Nguyễn Trãi rất hiếu thảo, năm ấy đã 27 tuổi, thấy cha bị bắt thì khóc lóc. Khi Nguyễn Phi Khanh bị giải về phương bắc, Nguyễn Trãi quyết đi theo để ở bên cạnh chăm sóc cha mình dù Nguyễn Phi Khanh không đồng ý.
Tuy nhiên khi đến ải Nam Quan, nơi phân định biên giới hai nước thì Nguyễn Phi Khanh nhất quyết bắt con mình phải quay trở về. Nguyễn Phi Khanh đã nói rằng nuôi chí đánh bại quân Minh, bảo vệ Giang Sơn Xã Tắc mới làm tròn đại hiếu.
Nguyễn Trãi vâng lời cha quay trở về, khi đi ngang qua cửa biển Bạch Đằng, nơi cha ông từng ba lần đánh bại đại quân xâm lược phương bắc, ông ngậm ngùi ngắm biển, suy ngẫm đến vận nước, rồi cảm thán mà viết ra bài Quan hải (Cửa biển) nổi tiếng:
Quan hải
Thung mộc trùng trùng hải lãng tiền
Trầm giang thiết toả diệc đồ nhiên
Phúc chu thuỷ tín dân do thuỷ
Thị hiểm nan bằng mệnh tại thiên
Hoạ phúc hữu hồi phi nhất nhật
Anh hùng di hận kỷ thiên niên
Càn khôn kim cổ vô cùng ý
Khước tại thương lương viễn thụ yên
Tạm dịch:
Sóng biển mênh mang cọc điệp trùng
Ngăn sông xích sắt luống toi công
Lật thuyền mới biết dân như nước
Cậy hiểm không xong trách Hoá công
Hoạ phúc phải đâu trong phút chốc
Anh hùng ôm hận với non sông
Xưa nay trời đất vô cùng ý
Khói toả cây xa sóng chập chùng
Bài thơ nói về sự thất bại của nhà Hồ, tát cả đều xoay quanh ở một câu: “Lật thuyền mới biết dân như nước”. Dẫu nhà Hồ có đóng cọc kín cửa biển, dẫu sông Thao, sông Lô, sông Hồng “sóng biển mênh mang cọc điệp trùng”, dẫu có giăng xích sắt ở sông, có tìm đất hiểm xây thành đá vững bền, cũng chẳng thể nào ngăn được quân giặc dữ. Lúc thua trận thì chợt thấm thía rằng: “lật thuyền mới biết dân như nước”.
Bài học về “lòng dân” trong lịch sử còn nguyên vẹn giá trị đến ngày nay. Dẫu có xây dựng quân đội “trăm vạn”, dẫu có hệ thống an ninh tỏa khắp, dẫu có trang bị vũ khí như thế nào, nhưng nếu để mất lòng dân thì vẫn chỉ chuốc lấy thất bại.
Trần Hưng

Bài học về lòng dân ở triều đại nhà Hồ và mấy suy nghĩ về xây dựng “thế trận lòng dân” hiện nay
Vương triều Hồ được thiết lập vào giai đoạn cuối triều Trần khi mà xã hội Đại Việt đang chìm sâu trong cuộc khủng hoảng trên mọi lĩnh vực, cùng với hiểm họa ngoại xâm. Hồ Quý Ly xuất hiện trên chính trường Đại Việt vào tháng 3 năm Tân Hợi (1371) với chức Khu mật viện đại sứ. Sau gần 30 năm liên tục thăng tiến, Ông được ban tước Hầu, tước Vương, giữ chức tột đỉnh trong triều Trần: Nhập nội Phụ chính Thái sư Bình chương quân quốc trọng sự, Tuyên trung vệ quốc Đại vương. Tháng 2 năm Canh Thìn (1400), Hồ Quý Ly đã phế truất ngôi nhà Trần, thiết lập vương triều Hồ, đặt quốc hiệu là Đại Ngu, gần một năm sau nhường ngôi cho con là Hồ Hán Thương để làm Thái thượng hoàng nhưng vẫn nắm thực quyền. Nhà Hồ thi hành nhiều chính sách cải cách xã hội, như: hạn điền, hạn nô, phát hành tiền giấy, định lại chế độ thuế khóa, chấn chỉnh việc học hành thi cử, v.v. Đồng thời, đặc biệt chú trọng đến việc tổ chức lại quân đội, mở xưởng rèn đúc vũ khí, đóng tàu thuyền, xây đắp hệ thống thành lũy, củng cố các nơi hiểm yếu để phòng thủ đất nước. Tuy nhiên, khi nhà Minh tiến hành xâm lược nước ta (1406), chưa đầy một năm chống giặc, mặc dù nhà Hồ đã có nhiều cố gắng xây thành cao, hào sâu, sản xuất nhiều vũ khí,.. để chống lại kẻ thù nhưng vẫn bị sụp đổ; tháng 6-1407, Hồ Quý Ly bị quân Minh bắt đưa về Kim Lăng (Nam Kinh, Trung Quốc) và chết tại đó. Như vậy, vương triều Hồ tồn tại vỏn vẹn 7 năm.
Cổng phía Nam - cổng lớn và đẹp nhất trong 4 cổng của Thành nhà Hồ.
(Ảnh: TTXVN)
Đánh giá về triều đại nhà Hồ, có rất nhiều ý kiến khác nhau. Các sử gia thời trung đại ở nước ta theo quan điểm của hệ tư tưởng phong kiến thì đa số ý kiến đều phủ nhận những đóng góp của Hồ Quý Ly dưới triều Trần. Ngày nay, các học giả đã nhìn nhận những đóng góp của vương triều Hồ đối với lịch sử dân tộc Việt Nam một cách công bằng hơn, nhất là về vấn đề cải cách do Hồ Quý Ly tiến hành, khởi đầu trong những năm tháng cuối cùng của triều Trần. Tuy nhiên, khi đánh giá về thất bại của nhà Hồ, tất cả các phái đều thống nhất nguyên nhân thất bại của nhà Hồ là: không được lòng dân. Vì vậy, nên nhà Hồ không phát động được cuộc chiến tranh nhân dân (nhân tố quyết định thắng lợi của mọi cuộc chiến tranh giữ nước ở Việt Nam) khi đất nước bị ngoại bang xâm lược. Mặc dù có quân đội mạnh, thành cao, hào sâu nhưng cuộc kháng chiến chỉ kéo dài được hơn 6 tháng. Tả tướng quốc Hồ Nguyên Trừng (con trai cả của Hồ Quý Ly) cũng nhận ra điều này, khi cả quyết: “Thần không sợ đánh, chỉ sợ lòng dân không theo mà thôi”1. Đặc biệt, nhà chính trị, quân sự lỗi lạc, người có công rất lớn trong việc phò tá Lê Lợi đánh đuổi giặc Minh, xây dựng nên triều đại nhà Lê là Nguyễn Trãi (đỗ đạt ở triều Hồ và cùng với cha là Nguyễn Phi Khanh giữ chức trọng, quyền cao tới khi nhà Hồ sụp đổ) đã đánh giá rất sâu sắc trong Bình Ngô đại cáo: “Vì họ Hồ chính sự phiền hà, Để đến nỗi lòng người oán hận2. Nhận xét của một bậc đại trí, đại hiền từng đỗ đạt và hưởng bổng lộc ở triều nhà Hồ chắc hẳn không sai.
Với tham vọng, hoài bão lớn và tư tưởng cải cách rất mới mẻ, toàn diện, Hồ Quý Ly đã xây dựng Đại Ngu trở thành một quốc gia mạnh về quốc phòng nhưng kết cục mất nước khi ngoại bang xâm lược. Sở dĩ như vậy là vì nhiều nguyên nhân, trong đó chủ yếu do “lòng dân không theo” bởi chế độ lao dịch nặng nề làm cho nhân dân bất an, sợ hãi. Nhà Hồ tiến hành đồng thời cải cách về chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục và quân sự với mục đích bảo vệ vương triều, phục vụ chiến tranh là chính, chứ không phải vì đời sống vật chất, tinh thần cho người dân. Cùng với đó, do không làm tốt khâu tuyên truyền nên nhân dân chỉ thấy mặt tiêu cực của cải cách, vô cùng chán ghét khi cuộc sống thường nhật bị thay đổi. Nguy hại hơn, vào giai đoạn cuối của nhà Trần, thế nước đã suy, nguồn lực trong nước cạn kiệt, nhân dân đói khổ, nhưng Hồ Quý Ly không những không “khoan thư sức dân” mà còn tiến hành chiến tranh với Chiêm Thành và tổ chức dời Đô về Thanh Hóa xây thành trì kiên cố khiến cho dân chúng càng thêm lầm than, dẫn tới “nhân tâm ly tán”.
Từ bài học thất bại của nhà Hồ, để xây dựng “thế trận lòng dân” - “chúng chí thành thành” trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc hiện nay, chúng ta có thể rút ra một số vấn đề cơ bản sau:
1. Thường xuyên bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Đảng ta khẳng định luôn bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Đó là quyền của người dân được làm chủ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, được pháp luật bảo vệ. Dân chủ cũng là bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa, vừa là mục tiêu vừa là động lực để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng nhấn mạnh: “Hoàn thiện, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân; không ngừng củng cố, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc3. Theo đó, để quyền làm chủ của nhân dân thực sự được bảo đảm và phát huy thì phải thể chế hóa và thực hiện tốt phương châm "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, giám sát", đảm bảo tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân, nhân dân thực sự là chủ thể của đất nước. Mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước phải xuất phát từ nguyện vọng, lợi ích chính đáng của nhân dân, phải khơi dậy được sự đồng tình, hưởng ứng của quần chúng nhân dân trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội. Nhân dân được tham gia ở tất cả các khâu của quá trình đưa ra những quyết định liên quan đến lợi ích, cuộc sống của nhân dân, từ nêu sáng kiến, tham gia thảo luận, tranh luận đến giám sát quá trình thực hiện, nhất là, những văn bản pháp luật liên quan trực tiếp đến quyền làm chủ của nhân dân. Đồng thời, thực hiện tốt vai trò giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội trong góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền; kiểm tra, giám sát cán bộ, đảng viên, nhất là trong thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) của Đảng. Bên cạnh đó, việc phát huy dân chủ phải đi liền với tăng cường pháp chế, đề cao trách nhiệm công dân, giữ vững kỷ luật, kỷ cương và đề cao đạo đức xã hội. Cùng với phê phán những biểu hiện dân chủ cực đoan, dân chủ hình thức, cần phải xử lý nghiêm những hành vi lợi dụng dân chủ để làm mất an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội và những hành vi vi phạm quyền dân chủ và quyền làm chủ của nhân dân.
2. Chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Để thực hiện tốt vấn đề này, cần tập trung phát triển kinh tế, gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, các chính sách xã hội nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân. Đồng thời, cần đẩy mạnh Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh” phát triển ngày càng sâu rộng, tuy nhiên cần chú ý không vì thành tích mà huy động quá sức dân. Trong phát triển kinh tế, cần tạo dựng được môi trường, điều kiện sản xuất, kinh doanh ngày càng minh bạch, an toàn, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp phát huy khả năng sáng tạo, đầu tư, kinh doanh và cạnh tranh bình đẳng trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh đó, phải tăng cường phát triển hệ thống an sinh xã hội, hỗ trợ người dân có việc làm, thu nhập ổn định, cải thiện điều kiện việc làm; đẩy mạnh phong trào “xóa đói, giảm nghèo”, nhất là ở vùng sâu, vùng xa; hỗ trợ nguồn lực về sản xuất để giúp hộ nghèo vươn lên thoát nghèo bền vững, thu hẹp khoảng cách về đời sống và tiếp cận dịch vụ xã hội. Xây dựng đời sống văn hóa là vừa bảo tồn những giá trị văn hóa truyền thống, vừa kiên quyết loại bỏ dần những hủ tục lạc hậu, phản cảm; tôn vinh và nhân rộng cái đúng, tốt đẹp, tích cực, cao thượng để mọi người học tập; đấu tranh phê phán, đẩy lùi cái xấu, cái ác.
3. Thực hiện tốt công tác vận động quần chúng. Thực ra, nhiều vấn đề cải cách của nhà Hồ thực hiện mang tính tích cực, theo hướng có lợi cho người dân, như: thuế đinh, thuế điền, di dân khai khẩn vùng đất mới, chính sách hạn nô, phát hành tiền giấy,... nhưng người dân chỉ thấy phiền phức, không ủng hộ là do nhà Hồ chưa làm tốt công tác tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện. Đó là một điều vô cùng đáng tiếc! Để hoàn thành thắng lợi công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, chúng ta phải tăng cường tuyên truyền giáo dục nâng cao nhận thức cho nhân dân về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, về công cuộc đổi mới, làm cho các chủ trương, chính sách của Đảng đều được nhân dân đồng tình, ủng hộ, tạo nên sức mạnh trong tổ chức thực hiện. Đặc biệt cần phải tích cực đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác dân vận; vận dụng sáng tạo các mô hình dân vận phù hợp với từng lĩnh vực, địa bàn; hướng mạnh về cơ sở, địa bàn, nơi còn nhiều khó khăn, phức tạp. Đội ngũ cán bộ, đảng viên phải thật sự tin dân, trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân, dựa vào dân, có trách nhiệm với dân thì dân mới tin, mới nghe, mới đồng thuận cả về ý chí và hành động. Mỗi cán bộ, đảng viên tự giác nêu cao trách nhiệm đối với công tác dân vận. Nội dung tuyên truyền giáo dục cần tập trung vào phổ biến sâu rộng các chủ trương chính sách phát triển kinh tế - xã hội, chính sách dân tộc, tôn giáo; truyền thống đoàn kết giữa các dân tộc, tôn giáo trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; nêu cao ý thức tự giác chấp hành, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ công dân đúng với chính sách và luật pháp. Đồng thời, tuyên truyền cho đồng bào hiểu rõ âm mưu thủ đoạn chia rẽ các dân tộc, tôn giáo của thế lực thù địch; qua đó, đề cao cảnh giác không để bị lừa gạt, kích động, lôi kéo. Cùng với đó, tăng cường phổ biến kiến thức quốc phòng và an ninh cho nhân dân, nhất là ở những địa bàn nhạy cảm, khu vực trọng điểm về quốc phòng - an ninh.
Hơn 600 năm đã trôi qua, nhưng bài học về “lòng dân” trong triều đại nhà Hồ vẫn còn nguyên giá trị, cần tiếp tục nghiên cứu thấu đáo để vận dụng vào xây dựng “thế trận lòng dân” trong tình hình mới, góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Đại tá HỒ QUỐC TOẢN
______________
1 - Đại Việt sử ký toàn thư, Tập II, Nxb KHXH, H. 1998, tr. 211.
2 - Sđd, tr. 283.
3- ĐCSVN - Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQG, H. 2016, tr. 79.

Bài học chiến thắng từ thế trận lòng dân

Trần Hà
07-05-2019 08:07
Kinhtedothi - 65 năm trước, Điện Biên Phủ là một trận quyết chiến chiến lược trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, được ghi vào lịch sử dân tộc như “một Bạch Đằng, một Chi Lăng hay một Đống Đa của thế kỷ XX”.
Chiến thắng lịch sử ấy đã được khẳng định là chiến thắng của Nhân dân cả nước, dựa trên sức mạnh của lòng dân.
Ký ức hào hùng về sức mạnh lòng dân
65 năm đã trôi qua, dư âm và dấu ấn của chiến thắng Điện Biên Phủ, một mốc son chói lọi, vẫn còn vang vọng ở nhiều nơi trên thế giới, trên tất cả các lĩnh vực từ chính trị, quân sự đến ngoại giao, văn hóa. Đây là một trong những trận chiến hiếm hoi của Chiến tranh Đông Dương nhận được sự quan tâm lớn của giới truyền thông, giới nghiên cứu trên thế giới, được nhắc lại như một sự kiện mang tầm quốc tế trong mỗi dịp kỷ niệm.
Ở trong nước, Điện Biên Phủ được coi là biểu tượng của tinh thần quyết tâm tự lực, tự cường, chiến đấu và chiến thắng của dân tộc ta. Từ góc độ quốc tế, Điện Biên Phủ là biểu tượng của lòng quả cảm, nguồn cảm hứng bất tận cho khát vọng độc lập, tự do, chính nghĩa của các dân tộc bị đô hộ, áp bức, bóc lột.
Sau 65 năm, từ một chiến trường đẫm máu, ngày nay, Điện Biên Phủ đã trở thành điểm hẹn của hòa bình, hữu nghị và hợp tác giữa các dân tộc.
Như các tướng lĩnh và các nhà nghiên cứu lịch sử quân sự đã chỉ ra, việc chọn trận Điện Biên Phủ là trận quyết chiến đều không nằm trong kế hoạch của cả ta và Pháp. Sự thay đổi kế hoạch từ đánh vào những điểm yếu của địch sang đánh vào nơi mạnh nhất của địch, khi mà Pháp tập trung quân lực mạnh nhất vào Điện Biên Phủ là sự thay đổi quyết định nhanh nhất của Đảng.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp (Tổng Tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam) là người được Chủ tịch Hồ Chí Minh tin tưởng giao toàn quyền quyết định trong trận đánh. Các tư liệu lịch sử đã ghi lại, theo lời Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn Đại tướng trước khi ra trận: Phải chắc thắng mới đánh, vì tất cả quân lực của ta đã dồn vào trận đánh này.
Từ lời căn dặn đó, Đại tướng đã quyết định chuyển phương án “đánh nhanh, thắng nhanh” sang “đánh chắc, thắng chắc” để tiêu diệt và làm suy yếu dần đối phương, đồng thời giảm thương vong ở mức thấp nhất cho bộ đội.
Chính vì vậy, trải qua 3 đợt tấn công liên tục bắt đầu từ 13/3, sau 56 ngày đêm chiến đấu dũng cảm, kiên cường, đến ngày 7/5/1954, quân ta đã tiêu diệt và bắt sống toàn bộ quân địch, đập tan tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương của thực dân Pháp lúc bấy giờ - một “pháo đài bất khả xâm phạm” của quân đội thực dân Pháp đã bị tiêu diệt hoàn toàn.
Tướng De Castries, bộ tham mưu và sĩ quan, binh lính tập đoàn cứ điểm đã đầu hàng Việt Minh vô điều kiện, buộc Pháp phải ký Hiệp định Genève, tôn trọng độc lập, chủ quyền của Việt Nam, Lào và Campuchia.
Một trong những nhân tố có ý nghĩa quyết định thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ chính là phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc. Còn trong hồi ức của các cựu chiến binh, điểm mấu chốt của chiến thắng chính nằm ở thế trận lòng dân cùng một tinh thần quyết chiến để cùng để quyết thắng. Tính cả trước và trong chiến dịch , có tới 62.000 dân công, thanh niên xung phong tham gia làm và sửa chữa hàng trăm kilomet đường, nhiều bến, cầu; vận chuyển hơn 25.000 tấn lương thực, thực phẩm, hàng nghìn tấn vũ khí trang bị, đạn dược tới mặt trận… Khi đó, chỉ bằng sức người là chính, bộ đội đã kéo những khẩu pháo nặng hơn 2 tấn qua núi cao.
Bộ đội và dân công đã sử dụng hơn 21.000 chiếc xe đạp thồ, được gọi với tên là “binh chủng xe đạp thồ” hoạt động trên suốt chiều dài gần 1.500km. Lực lượng xe đạp thồ được biên chế thành từng đoàn theo địa phương, mỗi đoàn có nhiều trung đội, mỗi trung đội từ 30 - 40 xe, chia thành các nhóm khoảng 5 xe để hỗ trợ nhau khi qua đèo, vượt dốc cao. Đội quân xe đạp thồ xuất hiện ở Điện Biên là một sự kỳ diệu chưa từng có trong lịch sử.
Thời gian qua đi, cuộc sống thay đổi, nhưng ký ức về trận đánh Điện Biên Phủ hào hứng, những ngày tháng cùng đồng đội "khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt" chưa bao giời phai trong tâm trí những người đã đi qua lịch sử.
Tại hội thảo khoa học "Chiến thắng Điện Biên Phủ - Giá trị lịch sử và hiện thực” vừa qua, cựu chiến binh Nguyễn Hữu Chấp (Đại đội 290, Tiểu đoàn 166, Trung đoàn 209, Đại Đoàn 312) đã xúc động chia sẻ về những giây phút vào sinh ra tử, trải qua thử thách của chiến tranh, đối diện với kẻ thù, với cái chết nhưng các chiến sĩ Điện Biên không nao núng, khiếp sợ.
Ông cho biết, Đại đoàn 312 được Bộ chỉ huy mặt trận chọn tấn công vào cứ điểm Him Lam mở màn chiến dịch. Ông vẫn nhớ như in lời chỉ huy dặn "quyết tâm đánh thắng trận đầu, không để trận đánh kéo dài sang ngày hôm sau". Ông cùng đồng đội viết quyết tâm thư, sẵn sàng xung phong hoàn thành nhiệm vụ trong ngày 13/3/1954.
Đúng 0h, từ Tà Lèng, Đại đoàn 312 của ông hành quân, đến gần sáng thì đến cánh đồng quanh cứ điểm. Chỉ sau hơn 5 giờ chiến đấu, Đại đoàn đã hoàn toàn làm chủ được trung tâm đề kháng Him Lam, tạo sức lan tỏa nhanh chóng đối với bộ đội trên tất cả mặt trận.
Bài học còn nguyên giá trị
Chiến thắng Điện Biên Phủ đã kết thúc 9 năm kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược của quân và dân Việt Nam. Chiến thắng ấy mãi là mốc son chói lọi, một bản hùng ca thời đại Hồ Chí Minh. 65 năm đã trôi qua, từ cánh đồng Mường Thanh lịch sử những bài học của thắng lợi chiến dịch Điện Biên Phủ đến nay vẫn còn nguyên giá trị.
Như PSG.TS Nguyễn Mạnh Hà - nguyên Viện trưởng Viện Lịch sử Đảng chỉ ra, đó là bài học về tập hợp và xây dựng sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân để chiến thắng kẻ thù. Sau nữa là bài học về phát huy tinh thần độc lập tự chủ, tự lực tự cường và sáng tạo, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong giải quyết những vấn đề có tính chiến lược sống còn của đất nước.
Cùng với đó, là sự nhạy bén nắm bắt tình hình, sớm phát hiện và nhận thức thời cơ, quyết đoán, sáng tạo trong thay đổi chủ trương, phương châm cho phù hợp với thực tế nhằm đạt kết quả cao nhất, giành thắng lợi cuối cùng... Đặc biệt là bài học về phát huy cao độ lòng yêu nước, ý chí quyết chiến, quyết thắng, khắc phục mọi khó khăn gian khổ, hy sinh để hoàn thành nhiệm vụ tưởng chừng không thể thực hiện được, góp phần vào thắng lợi chung.
Theo PSG.TS Nguyễn Mạnh Hà, những bài học từ chiến thắng vẫn có giá trị thời sự trong cuộc sống hôm nay. Như bài học để tập hợp các lực lượng của toàn dân tộc, phát huy cao nhất sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân đang ngày càng có ý nghĩa quan trọng và cấp thiết nhằm thực hiện được các mục tiêu trong xây dựng đất nước.
65 năm đã trôi qua nhưng chiến thắng Điện Biên Phủ của quân và dân Việt Nam vẫn mãi là chiến thắng có một không hai trong lịch sử quân sự thế giới. Theo Thiếu tướng, TS Nguyễn Hoàng Nhiên - Viện trưởng Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, những bài học kinh nghiệm từ chiến công “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” cần được vận dụng, phát huy giá trị và tiếp tục nghiên cứu, vận dụng cho phù hợp với hoàn cảnh mới, thời đại mới.
"Thắng lợi Điện Biên Phủ là kết quả hợp thành của nhiều nhân tố, trong đó sự lãnh đạo đúng đắn, tài tình, sáng suốt của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhân tố mang ý nghĩa quyết định. Nhân tố chính trị - tinh thần giữ vai trò quan trọng, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt, quy tụ, tập hợp, nhân lên sức mạnh của các lực lượng tham gia chiến dịch, xây dựng cho cán bộ, chiến sĩ, dân công, thanh niên xung phong tinh thần quyết chiến, quyết thắng, quyết tâm khắc phục mọi khó khăn, để giành thắng lợi hoàn toàn cho chiến dịch. " - Thượng tướng Nguyễn Trọng Nghĩa - (Ủy viên T.Ư Đảng, Ủy viên Quân ủy T.Ư, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị QĐND Việt Nam)

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

TT&HĐ I - 9/d

MUÔN MẶT ĐỜI THƯỜNG III/104

NGẬM SẦU (ĐL)