CHUYỆN ÍT BIẾT 70
(ĐC sưu tầm trên NET)
Điều tra thác loạn giữa Sài Gòn - Tập 1
Cận cảnh thác loạn giữa Sài Gòn (P.2)
Thác loạn giữa trung tâm Sài Gòn - Tập 3: Còn bí ẩn gì? | Phóng sự điều tra
Bất ngờ về chốn ăn chơi khét tiếng ở Hà Nội đầy gái đẹp, thuốc phiện
25/10/2019
04:30
GMT+7
Những
năm 30 của thế kỷ 20, phố Khâm Thiên (Đống Đa, Hà Nội) nổi tiếng là
chốn ăn chơi, ngập ngụa trong thuốc phiện, gái đẹp, sòng bạc.
Chốn ăn chơi khét tiếng
Khâm Thiên (Đống Đa) - một trong những con phố nổi tiếng của Hà Nội, dài khoảng 1,2km, chạy từ đường Lê Duẩn đến Ô Chợ Dừa.
Những
năm 30 của thế kỷ trước, Khâm Thiên được ví như chốn ăn chơi khét
tiếng với các tiệm cô đầu, vũ trường, sòng bạc, nhà thổ (quán mại dâm -
pv).
Mọi lề lối, đạo đức phong kiến truyền thống đều
bị xóa nhòa, khách đến đây chủ yếu vung tiền, đắm mình trong những thú
ăn chơi, trác táng. Nhiều người ‘đốt’ cả gia sản để tận hưởng giây phút
hoan lạc nhất thời.
Nhà văn Nguyễn Ngọc Tiến - người
từng nhận giải thưởng ‘Vì tình yêu Hà Nội năm 2012’, được ví như ‘nhà Hà
Nội học’ đã có nhiều tác phẩm khảo cứu viết về khu phố này.
Nhà văn Nguyễn Ngọc Tiến. |
Ông cho biết: ‘Sự phồn thịnh của Khâm Thiên bắt đầu từ năm 1930 kéo dài đến năm 1945 nhờ hát cô đầu và vũ trường.
Các
tiệm hát, sòng bạc chủ yếu ở ngoài mặt đường, còn phía bên trong ngõ
ngách là xóm ổ chuột, nơi ngụ cư của người dân lao động, bần cùng.
Trên
một đoạn phố chưa đầy 800m, có tới 40 nhà hát với trên 200 con hát, 5
tiệm khiêu vũ với khoảng dăm chục gái nhảy và có hai nhà cho thuê buồng.
Các chủ nhà hát đa phần đều xuất thân từ cô đầu hay nhân tình của các
quan lại cao cấp thời bấy giờ’.
Nhà văn Nguyễn Ngọc
Tiến chia sẻ, một thứ được bán nhan nhản trong các tiệm hát lúc ấy là
thuốc phiện. Nội thất bên trong thường có tràng kỷ, tủ chè. Đặc biệt,
không thể thiếu chiếc sập để khách ngả bàn đèn, nằm hút thuốc phiện.
Ban
ngày, các nhà hát đóng cửa im ỉm nhưng đến chập choạng tối, hàng loạt
cánh cửa mở ra, đèn bật sáng trưng như bước vào một thế giới khác.
Phố Khâm Thiên ngày nay. |
Tiệm
cô đầu nổi tiếng nhất có lẽ phải kể đến tiệm cô Đốc Sao (Hưng Yên) ở số
96 Khâm Thiên. Người phụ nữ này sở hữu thân hình mập mạp, da trắng và
đôi mắt ướt át, khuôn mặt đa tình. Có người từng nhận xét, nhìn cô Đốc
Sao là nghĩ đến chiếc giường.
Xuất thân là gái quê nhưng nhờ ngoại hình đó, cô Đốc Sao lọt vào mắt của rất nhiều vị quan cả tây, ta và các công tử nhà giàu.
Cô
Đốc Sao lấy bác sĩ người Hoa tên Lưu Nam Sao (Lầu Màn Sầu). Cô khá tinh
đời trong việc câu kéo khách, các cô gái được Đốc Sao tuyển chọn thường
ở độ tuổi 15 - 16 tuổi, có nhan sắc.
Sau khi tuyển, các cô gái đó được Đốc Sao thuê thầy dạy vài câu tiếng Pháp, thuộc thêm đôi ba bài hát phục vụ khách.
Ngoài
ra, Đốc Sao dạy các cô đào cách uốn éo, liếc mắt đưa tình, trang điểm,
chải chuốt bắt mắt. Quan điểm của Đốc Sao là hát có thể không hay nhưng
phải biết nghệ thuật quyến rũ đàn ông.
Mỗi
khi ra đường, các cô đầu nhà Đốc Sao có xe tay đưa đón, vừa để tăng
phần sang trọng vừa tiện cho bà chủ kiểm soát. Nhờ đó, khách tìm đến nhà
cô Đốc Sao đông nườm nượp.
Mối tình của vua Bảo Đại với vũ nữ nổi tiếng Hà thành
Sau
này, cô Đốc Sao đi đầu trong phong trào khiêu vũ khi mở sàn nhảy ngay
trong các tiệm hát. Thời điểm đó, cô Đốc Sao quan hệ tư tình với một
người đàn ông du học bên Pháp về.
Nhân tình hướng dẫn
cô Đốc và các đào nhảy, ăn mặc váy vóc hở da thịt, uống rượu và hút
thuốc lá thơm theo lối phương tây. Từ đây, khái niệm ‘nhảy đầm’, ‘vũ nữ’
hay được nhắc đến. Sau mỗi điệu nhảy, các vũ nữ được khách boa thêm
tiền.
Năm 1936 -1938, các sàn khiêu vũ lần lượt được
mở ra tại Khâm Thiên. Giai đoạn 1946 - 1954, một loạt các sàn khiêu vũ
được mở ra trên các con phố khác như Rex Dancing của cai thầu Trần Văn
Chi trên phố Bà Triệu…
Ít ai biết, sàn khiêu vũ Rex cũng là nơi hay lui tới của vũ nữ đẹp nức tiếng Hà thành - Lý Lệ Hà.
Vua Bảo Đại. Ảnh: Tư liệu |
Nhà
văn Nguyễn Ngọc Tiến kể: ‘Theo nhiều tài liệu, Lý Lệ Hà quê gốc Hải
Phòng, sớm dấn thân vào chốn ‘buôn phấn, bán hương’. Vì muốn kiếm được
nhiều tiền hơn, Lý Lệ Hà về sinh sống ở Khâm Thiên, xây dựng tên tuổi.
Người
ta vẫn truyền tai nhau về vẻ đẹp cuốn hút, đầy ma mị của cô. Mỗi bước
nhảy, Lệ Hà khiến bao công tử mê mệt. Cùng với cô Đốc Sao, Lệ Hà trở
thành vũ nữ nổi tiếng bậc nhất'.
Trong một cuộc thi
hoa khôi, Lệ Hà giành danh hiệu cao nhất, danh tiếng của vũ nữ lên một
tầm cao mới. Tất nhiên, để mời cô nhảy, các công tử, quan lại và kẻ có
máu mặt phải chi số tiền không nhỏ. Cô cũng trải qua nhiều mối tình với
doanh nhân, trí thức, thương gia’.
Mặc dù được nhiều
người săn đón, cưng chiều nhưng trái tim Lý Lệ Hà chỉ thực sự rung động
khi gặp vua Bảo Đại - lúc này đang sống ở Hà Nội. Cô vữ nữ nhanh chóng
khiến vua Bảo Đại say mê, đổ gục chỉ trong một lần gặp mặt.
Suốt
thời gian đó, hai người chung sống cùng nhau. Đêm đêm họ lui tới các
nơi ăn chơi, tiệm nhảy, phung phí tiền bạc để hưởng thụ cuộc sống xa
hoa.
Chuyện tình của vũ nữ Lý Lệ Hà và cựu hoàng Bảo
Đại rầm rộ xuất hiện trên các mặt báo vào những năm 1940 khiến Nam
Phương hoàng hậu, thứ phi Mộng Điệp vô cùng đau lòng.
Sau
năm 1946, Lý Lệ Hà cùng vua Bảo Đại sống lưu vong ở Hồng Kông (Trung
Quốc). Nàng vũ nữ xinh đẹp dốc hết tài sản, tiền bạc, nuôi người tình.
Sâu
sắc, chân tình là vậy nhưng cuối cùng, vua Bảo Đại sớm bỏ rơi Lệ Hà,
đến với mối tình mới. Đau khổ vì bị phụ bạc, Lệ Hà lên tàu sang Pháp,
sống cuộc đời bình lặng cho đến khi mất.
Trai gái 2 làng cạnh nhau không được kết hôn vì lời nguyền trăm năm
Hai ngôi làng nằm cạnh nhau, thuận lợi về mặt địa lý nhưng trải qua hàng trăm năm, các cặp trai gái ....
Diệu Bình
Napoléon Bonaparte được sinh ra trên
đảo Corsica bé nhỏ, liên tục bị nước lớn xâm chiếm, bị Ý bán lại cho
Pháp. Cư dân trên đảo Corsica bị xem là tiện dân, thấp hèn hơn cả nô lệ
La Mã. Người Corsica cam chịu số phận của họ là tù đày và chiến tranh.
Napoléon Bonaparte: 'Cà phê làm cho tôi thức tỉnh và mạnh mẽ phi thường'
Napoléon Bonaparte (15.8.1769 - 5.5.1821)
là một trong những thiên tài quân sự kiệt xuất nhất lịch sử thế giới.
Với những nỗ lực xây dựng một xã hội tiến bộ, ông được tôn vinh là 'Nhà
Khai Sáng trên yên ngựa'.
Người
Nhật đã định hình Trà đạo thành đạo lý của dân tộc, một nghệ thuật sống
được truyền tải qua việc thưởng lãm một tách trà. Trong khi đó, Việt
Nam - một cường quốc cà phê nhất nhì thế giới, có hạt cà phê Robusta
ngon nhất thế giới, có một bề dày lịch sử văn hóa thưởng lãm cà phê hàng
trăm năm, nhưng đến nay, giá trị cà phê Việt Nam vẫn thuộc phân khúc
thấp, chủ yếu xuất thô và chưa được định hình đúng vị thế vốn có của
ngành, của quốc gia.
Với
mong muốn đưa ngành cà phê Việt Nam lên một tầm cao mới, nâng cao giá
trị cà phê không chỉ là một thức uống thông thường mà còn ở tầm mức cà
phê văn hóa, cà phê nghệ thuật, cà phê tinh thần… đến cà phê triết đạo,
xứng đáng với vị thế của cường quốc cà phê của thế giới - Tập đoàn Trung
Nguyên Legend đã dành thời gian và tâm huyết trong nhiều năm để nghiên
cứu lịch sử, văn hóa, nghệ thuật…của cà phê trong mọi lĩnh vực của đời
sống để cà phê trở thành “Cà Phê Triết Đạo”.
Trong
suốt hành trình sáng tạo và phát triển của Trung Nguyên Legend thì tinh
thần dấn thân phụng sự cộng đồng luôn là hạt nhân xuyên suốt bằng nhiều
chương trình hành động để Kiến tạo khát vọng lớn, Chí hướng lớn cho
quốc gia; để xây dựng vị thế mới cho ngành cà phê Việt Nam trên bản đồ
cà phê thế giới và trên Hành trình này, Trung Nguyên Legend mong muốn
cùng chung tay với các nhà hoạch định sách lược quốc gia để Việt Nam sớm
trở thành quốc gia hùng mạnh và ảnh hưởng toàn diện thế giới!
Người Nhật đã làm được!
Người Việt mình cũng làm được và làm tốt hơn!
Nhưng, Napoléon thì hoàn toàn khác biệt.
Từ khi còn là một đứa trẻ, ông đã bộc lộ tính cách kiên cường, không
bao giờ chấp nhận thua kém bất cứ ai. Đặc biệt, thay vì tham gia các trò
chơi như bạn cùng trang lứa, ông đọc sách và tìm hiểu tiểu sử các danh
vĩ nhân. Thói quen đọc sách ảnh hưởng mạnh mẽ đến tính cách của Napoléon
Bonaparte. Ông sớm nhìn thấy những bất công xã hội, lòng thù hận, tự ti
dân tộc… dẫn tới nỗi thống khổ của con người. Từ lúc đó ông đã khát
khao trở thành người kiến thiết nước Pháp và xây dựng một liên bang các
dân tộc tự do với một chính quyền cấp tiến.
Khát vọng mãnh liệt đó trở thành nguồn
năng lượng vô hạn để Napoléon bất chấp mọi khinh miệt, áp lực khác biệt
giai cấp, miệt mài học tập và rèn luyện để được tham gia vào quân đội
Pháp. 16 tuổi, Napoléon là người Corsica đầu tiên tốt nghiệp Học viện
Quân sự École Militaire.
Trong suốt thời gian là lính pháo binh,
Napoléon say mê lĩnh hội kiến thức và học bất cứ điều gì có thể. Ông
nghiên cứu nghệ thuật quân sự lẫn tư duy chiến thuật của những nhà lãnh
đạo vĩ đại: Leonidas I (vua của dân tộc chiến binh Sparta), Alexander
Đại đế (vua đế quốc Macedonia, từng chinh phục nửa thế giới), Julius
Caesar (một trong những lãnh tụ vĩ đại nhất đế chế La Mã), Marcus
Porcius Cato Uticensis (nhà hùng biện nổi tiếng thời La Mã)…
Napoléon
Bonaparte thường đọc đến khuya, đôi khi là gần sáng. Chính vì thế, thức
uống yêu thích nhất của Napoléon là cà phê. Ban đầu, ông uống 2 tách cà
phê vào buổi sáng và sau bữa tối. Theo thời gian, tình yêu của Napoléon
dành cho cà phê ngày càng tăng lên và ông uống cà phê vào mọi lúc có
thể. Napoléon Bonaparte tin rằng uống cà phê có thể vực dậy tinh thần,
tăng cường sự tập trung, trí tuệ, sáng tạo, đồng thời có thể tiếp thêm
sinh lực thể chất. Napoléon Bonaparte từng tuyên bố “Cà phê làm cho tôi thức tỉnh và mạnh mẽ phi thường”.
Thực tế, Napoléon Bonaparte là nhà lãnh
đạo quân sự dũng cảm và sáng tạo với những chiến thuật biến hóa hiệu
quả. 24 tuổi, Napoléon đang là sĩ quan pháo binh, chưa từng chỉ huy trực
tiếp trên chiến trường nhưng đã chủ động nhận nhiệm vụ vô cùng mạo
hiểm: dẫn quân chống lại liên minh Anh, Tây Ban Nha, Phổ, Áo, Ý trong
cuộc vây hãm Toulon. Trận hải chiến này, Pháp gần như không có cơ hội
chiến thắng khi đương đầu với lực lượng hải quân mạnh nhất thế đương
thời. Napoléon đã vận dụng kiến thức quân khí, những hiểu biết về địa lý
và kỹ năng thuyết phục nhân tâm đã học trước đó, vạch nên một kế hoạch
tác chiến hoàn hảo, nhanh chóng đánh bại liên minh hùng hậu gấp bội.
Trận Toulon khởi đầu cho hàng loạt trận
chiến làm thay đổi hoàn toàn lịch sử châu Âu, trong đó có những trận
kinh điển như Austerlitz (1805) chinh phục liên quân Nga - Áo, Chiến
dịch Italy (1796-1797), cuộc viễn chinh Ai Cập (1798-1799), trận
Jena-Auerstedt (1806) đánh bại Phổ - một trong bốn đế quốc lớn mạnh nhất
thế giới lúc bấy giờ…
Những chiến thuật sáng tạo của Napoléon
góp phần quan trọng vào sự hình thành, phát triển của bộ môn khoa học
quân sự, đặt nền tảng cho học thuyết quân sự cận đại. Đồng thời đưa
Napoléon bước lên đỉnh cao chính trị. 35 tuổi, Napoléon đăng quang Hoàng
đế Pháp, lên ngôi vua Ý, chúa tể Liên bang Sông Rhein.
Trong suốt những năm chinh chiến,
Napoléon luôn nung nấu khát vọng xây dựng một xã hội tiến bộ. Napoléon
thường xuyên đến quán cà phê Café Procope – nơi gặp gỡ của giới tri thức
khai sáng đương thời như Voltaire, Diderot, Rousseau, D’Alembert… Tại
đây, ông tiếp cận những lý tưởng tiến bộ về tinh thần bác ái, khoan
dung, tình huynh đệ, ước vọng một chính phủ hiến pháp…
Dựa trên nền tảng của những học thuyết
khai sáng được tiếp cận từ quán cà phê, Napoléon đã thực hiện hàng loạt
cuộc cải cách làm thay đổi toàn nước Pháp và châu Âu. Napoléon là vị
hoàng đế đầu tiên của châu Âu thực hiện chính sách hòa hợp tôn giáo, ban
hành bộ luật Napoléon nhằm mở rộng nhân quyền.
Đặc biệt, Napoléon nhận thấy rõ tầm quan
trọng của giáo dục trong công cuộc xây dựng xã hội mới. Ông cho rằng
hiện tại và tương lai đều phụ thuộc vào giáo dục, phải hun đúc được một
thế hệ công dân tích cực “có tư duy đúng đắn”. Napoléon tập hợp những
nhà khoa học nghiên cứu và định chuẩn lại hệ thống giáo dục từ cấp tiểu
học đến đại học. Ông cho xây dựng trường học đại chúng và lập nên hệ
thống trường học giáo dục chuyên biệt như École Normale Supérieure (đại
học sư phạm), École Polytechnique (đại học Bách khoa), Grandes Écoles
(tổ chức đào tạo cấp cao), các học viện nghiên cứu… Trong bài diễn văn
kết nạp học viên vào Học viện Pháp năm 1797, Napoléon nhấn mạnh “Sức mạnh thực sự của Cộng hoà Pháp nằm ở chỗ bất cứ một tư tưởng mới nào cũng phải thuộc về chúng ta”.
Những trường học này đã đào tạo lớp nhân
tài cho nền quân sự, công nghiệp và hành chính của Pháp. Đến thế kỷ 19,
một lớp người mới đã thành hình với những sáng kiến khoa học ứng dụng
giúp cho Pháp trở thành quốc gia hùng cường, ảnh hưởng trên toàn châu
Âu, Paris phát triển trở thành trung tâm của nền văn minh phương Tây.
Sử gia Andrew Roberts đã gọi Napoléon
Bonaparte là “Nhà Khai Sáng trên yên ngựa”, ông mang tự do, tinh thần
khai phóng dân tộc đến những vùng đất mà ông chinh phục. Những cải cách
của ông là “dự án cách mạng” khuyến khích phát triển xã hội tiến bộ, đẩy
nhanh sự kết thúc của chế độ phong kiến, xác lập chủ nghĩa dân tộc và
chủ nghĩa quốc gia... Chính tinh thần này đã tạo ra một khối toàn kết
dân tộc Pháp, thổi bùng lên lý tưởng dân tộc tại Đức, Ý, Hà Lan, Thụy
Sĩ...
Các nhà nghiên cứu đều cho rằng Napoléon
Bonaparte là một nhà quân sự, chính trị kiệt xuất, một trong những vĩ
nhân làm thay đổi lịch sử thế giới. Những thành công tột bậc đó có được
nhờ quá trình học hỏi và sáng tạo liên tục. Napoléon Bonaparte là người
ứng dụng, sáng tạo và hoàn thiện những học thuyết, tư tưởng của những
nhân vật ảnh hưởng trong lịch sử. Trong các chiến thuật quân sự của ông
là bóng dáng của Alexander đại đế, Julius Caesar vĩ đại… Trong những cải
cách xã hội của ông có tư tưởng tự do tôn giáo của Voltaire và “Khế ước
xã hội” của Rousseau. Trong bộ luật Napoléon tác động đến hệ thống luật
dân sự thế giới là tư tưởng của cuộc Cách mạng Pháp và Luật La Mã…
Napoléon Bonaparte là minh chứng cho
thấy, một người xuất thân từ đảo Corsica nhỏ bé cũng có thể thay đổi thế
giới. Chính khát vọng vĩ đại tạo nên con người vĩ đại, chính quá trình
học tập, ứng dụng và sáng tạo không ngừng sẽ dẫn lối đến thành công.
Boris Shteifon. Nguồn: rbth.com
Những người Nga gốc Do Thái trở thành tướng Đức Quốc xã
Lê Ngọc |
Lẽ ra những người này phải kết thúc cuộc đời trong trại tập trung nhưng họ lại chiếm được các vị trí cao trong lực lượng vũ trang của Đức Quốc xã.
Con lai
Không phải tất cả người Do Thái được gửi đến các trại tập trung ở Holocaust đều chết ở đó. Hàng chục nghìn người đã chiến đấu cho Đức trong Thế chiến II, và thậm chí còn được tặng thưởng. Những đứa con lai (như Đức Quốc xã gọi những người có gốc Do Thái lai người gốc Aryan) được phép phục vụ, nhưng chính thức bị cấm được thăng tiến. Tuy nhiên, trong thực tế, điều đó phụ thuộc vào việc cá nhân đó có lợi cho chế độ hay không.
Đã
có hàng chục người là con lai chỉ huy các sư đoàn và quân đoàn trong
quân đội. Về Nguyên soái không quân Erhard Milch, có cha là người Do
Thái, Herman Goering (một trong những nhân vật quyền lực nhất của Đức
Quốc xã) - người đánh giá cao Milch, nói: Tôi sẽ quyết định ai là người
Do Thái và ai không.
Tình cảnh của những người con lai của Đức và Đông Âu rất khác nhau. Trong các vùng lãnh thổ bị chiếm đóng của Ba Lan và Liên Xô, người Đức không quan tâm đến tỷ lệ phần trăm máu của người Do Thái, tất cả những người có nguồn gốc Do Thái lai được xếp là người Do Thái, và tất cả đều chờ đợi số phận khủng khiếp như nhau. Tuy nhiên, một số người Nga gốc Do Thái không chỉ tránh được cảnh ngộ này mà còn leo được lên các vị trí cao trong quân đội Đức.
Tướng Balkan
Sau sự sụp đổ của đội quân Bạch vệ, Boris Shteifon - cựu đại tá quân đội Đế chế Nga và là cựu chiến binh Nội chiến Nga tìm được nơi ẩn náu ở Balkan - nơi ông viết hồi ký và trở thành một giáo sư khoa học quân sự. Shteifon chứng kiến việc Đức Quốc xã thôn tính Nam Tư năm 1941.
Ở tuổi 59, Shteifon không có ý định quay lại sự nghiệp quân sự của mình, nhưng sự xuất hiện của Đức Quốc xã đã làm đảo lộn các tính toán của ông. Những người cộng sản Nam Tư dưới thời Josip Broz Tito đã kiên cường kháng chiến chống quân xâm lược, nhưng khi chiến đấu với quân Đức, họ cũng thường giết cả những tàn quân Bạch vệ.
Để chống lại phong trào du kích của Tito, Đức đã lập ra Quân đoàn bảo vệ Nga (RPC), chiêu mộ những người Nga di cư sống ở Nam Tư tham gia. Với số lượng khoảng 11.000, đây là một trong những đơn vị người nước ngoài lớn nhất của quân đội Đức. Ngoài việc săn lùng những người cộng sản, quân đoàn đã bảo đảm liên lạc và thực hiện các hoạt động thanh trừng. Về sau, chính RPC đã đụng độ trực tiếp với Hồng quân đang thắng thế, như một cuộc khởi nghĩa nhỏ của Nội chiến Nga.
Shteifon được đề nghị giữ chức Tư lệnh RPC và được chấp nhận. Người Đức biết rất rõ rằng Shteifon là con trai của một người Do Thái bị đồng hóa, nhưng đã chọn cách nhắm mắt làm ngơ. Theo nhà nghiên cứu Ilya Kuksin, với các sĩ quan Đức, Shteifon là một nhà quân sự chuyên nghiệp cao cấp và có tinh thần chống cộng. Họ cho rằng, mẹ Shteifon là người Nga và chính ông đã được rửa tội, là đủ.
Trung tướng Shteifon chỉ huy RPC cho đến những ngày cuối cùng của cuộc chiến, và chết vì một cơn đau tim vào ngày 30/4/1945. Quân đoàn đã đột nhập vào Áo và đầu hàng quân Anh. Bất chấp yêu cầu của Liên Xô, RPC đã không được bàn giao cho Moscow, vì hầu hết binh sĩ đơn vị này chưa bao giờ là công dân Liên Xô.
Làm việc cho hai cơ quan tình báo
Vị
tướng tương lai của Đức Quốc xã - Boris Holmston-Smyslovsky xuất thân
từ một gia đình quý tộc gốc Do Thái. Trải qua thời kỳ khó khăn của WWI
và Nội chiến Nga, giống như hàng nghìn sĩ quan Nga khác, ông bị lưu đày.
Nhưng trong khi đa số tàn quân Bạch vệ mong muốn trả thù những người
Bolshevik chỉ đứng về phía người Đức trong chiến tranh,
Holmston-Smyslovsky đã gia nhập quân đội Đức sớm hơn nhiều, trước khi
Hitler lên nắm quyền.
Năm
1928-1932, Holmston-Smyslovsky được huấn luyện chuyên môn tình báo tại
Tổng hành dinh Reichswehr Truppenamt. Các mối quan hệ có được đã tạo
điều kiện cho Holmston-Smyslovsky với nguồn gốc Do Thái leo vào hàng ngủ
chỉ huy cơ quan tình báo quân đội Đức mà không gặp vấn đề gì.
Năm
1943, người đứng đầu cơ quan tình báo quân đội Đức - Đô đốc Wilhelm
Canaris - đã đích thân can thiệp khi Holmston-Smyslovsky bị bắt vì tội
phản quốc - công khai phản đối kế hoạch của người đứng đầu RPC Vlasov
chiến đấu trên mặt trận phía Tây - Holmston-Smyslovsky tin rằng người
Nga chỉ nên tiến hành chiến tranh chống lại những người Bolshevik.
Trong suốt chiến tranh, Holmston-Smyslovsky đã tổ chức và thực hiện các hoạt động trinh sát và phá hoại hậu phương Liên Xô, tìm và tiêu diệt các phân đội du kích. Để làm những nhiệm vụ này, Holmston-Smyslovsky được giao chỉ huy đội quân 10.000 người Nga, được đổi tên vào cuối chiến tranh là Quân đội Quốc gia Nga thứ nhất.
Vào tháng 5/1945, Holmston-Smyslovsky đã dẫn tàn quân của quân đội mình (vài trăm người) đến Liechtenstein. Chính phủ của quốc gia nhỏ bé này đã từ chối dẫn độ họ về Liên Xô, bác bỏ các cáo buộc về tội ác chiến tranh của Liên Xô do thiếu bằng chứng.
Holmston-Smyslovsky tiếp tục các hoạt động tình báo của mình, lần này là để phục vụ Mỹ. Holmston-Smyslovsky cũng là cố vấn cho Bộ Tổng Tham mưu các lực lượng vũ trang của Cộng hòa Liên bang Đức, và cho Tổng thống Argentina Juan Peron. Holmston-Smyslovsky qua đời năm 1988, ở tuổi 90, tại Liechtenstein./.
Không phải tất cả người Do Thái được gửi đến các trại tập trung ở Holocaust đều chết ở đó. Hàng chục nghìn người đã chiến đấu cho Đức trong Thế chiến II, và thậm chí còn được tặng thưởng. Những đứa con lai (như Đức Quốc xã gọi những người có gốc Do Thái lai người gốc Aryan) được phép phục vụ, nhưng chính thức bị cấm được thăng tiến. Tuy nhiên, trong thực tế, điều đó phụ thuộc vào việc cá nhân đó có lợi cho chế độ hay không.
Tình cảnh của những người con lai của Đức và Đông Âu rất khác nhau. Trong các vùng lãnh thổ bị chiếm đóng của Ba Lan và Liên Xô, người Đức không quan tâm đến tỷ lệ phần trăm máu của người Do Thái, tất cả những người có nguồn gốc Do Thái lai được xếp là người Do Thái, và tất cả đều chờ đợi số phận khủng khiếp như nhau. Tuy nhiên, một số người Nga gốc Do Thái không chỉ tránh được cảnh ngộ này mà còn leo được lên các vị trí cao trong quân đội Đức.
Tướng Balkan
Sau sự sụp đổ của đội quân Bạch vệ, Boris Shteifon - cựu đại tá quân đội Đế chế Nga và là cựu chiến binh Nội chiến Nga tìm được nơi ẩn náu ở Balkan - nơi ông viết hồi ký và trở thành một giáo sư khoa học quân sự. Shteifon chứng kiến việc Đức Quốc xã thôn tính Nam Tư năm 1941.
Ở tuổi 59, Shteifon không có ý định quay lại sự nghiệp quân sự của mình, nhưng sự xuất hiện của Đức Quốc xã đã làm đảo lộn các tính toán của ông. Những người cộng sản Nam Tư dưới thời Josip Broz Tito đã kiên cường kháng chiến chống quân xâm lược, nhưng khi chiến đấu với quân Đức, họ cũng thường giết cả những tàn quân Bạch vệ.
Để chống lại phong trào du kích của Tito, Đức đã lập ra Quân đoàn bảo vệ Nga (RPC), chiêu mộ những người Nga di cư sống ở Nam Tư tham gia. Với số lượng khoảng 11.000, đây là một trong những đơn vị người nước ngoài lớn nhất của quân đội Đức. Ngoài việc săn lùng những người cộng sản, quân đoàn đã bảo đảm liên lạc và thực hiện các hoạt động thanh trừng. Về sau, chính RPC đã đụng độ trực tiếp với Hồng quân đang thắng thế, như một cuộc khởi nghĩa nhỏ của Nội chiến Nga.
Shteifon được đề nghị giữ chức Tư lệnh RPC và được chấp nhận. Người Đức biết rất rõ rằng Shteifon là con trai của một người Do Thái bị đồng hóa, nhưng đã chọn cách nhắm mắt làm ngơ. Theo nhà nghiên cứu Ilya Kuksin, với các sĩ quan Đức, Shteifon là một nhà quân sự chuyên nghiệp cao cấp và có tinh thần chống cộng. Họ cho rằng, mẹ Shteifon là người Nga và chính ông đã được rửa tội, là đủ.
Trung tướng Shteifon chỉ huy RPC cho đến những ngày cuối cùng của cuộc chiến, và chết vì một cơn đau tim vào ngày 30/4/1945. Quân đoàn đã đột nhập vào Áo và đầu hàng quân Anh. Bất chấp yêu cầu của Liên Xô, RPC đã không được bàn giao cho Moscow, vì hầu hết binh sĩ đơn vị này chưa bao giờ là công dân Liên Xô.
Làm việc cho hai cơ quan tình báo
Trong suốt chiến tranh, Holmston-Smyslovsky đã tổ chức và thực hiện các hoạt động trinh sát và phá hoại hậu phương Liên Xô, tìm và tiêu diệt các phân đội du kích. Để làm những nhiệm vụ này, Holmston-Smyslovsky được giao chỉ huy đội quân 10.000 người Nga, được đổi tên vào cuối chiến tranh là Quân đội Quốc gia Nga thứ nhất.
Vào tháng 5/1945, Holmston-Smyslovsky đã dẫn tàn quân của quân đội mình (vài trăm người) đến Liechtenstein. Chính phủ của quốc gia nhỏ bé này đã từ chối dẫn độ họ về Liên Xô, bác bỏ các cáo buộc về tội ác chiến tranh của Liên Xô do thiếu bằng chứng.
Holmston-Smyslovsky tiếp tục các hoạt động tình báo của mình, lần này là để phục vụ Mỹ. Holmston-Smyslovsky cũng là cố vấn cho Bộ Tổng Tham mưu các lực lượng vũ trang của Cộng hòa Liên bang Đức, và cho Tổng thống Argentina Juan Peron. Holmston-Smyslovsky qua đời năm 1988, ở tuổi 90, tại Liechtenstein./.
theo VOV
Nhận xét
Đăng nhận xét