"KHAI HÓA VĂN MINH"!!!
(ĐC sưu tầm trên NET)
80 Năm Thực Dân Pháp Đô Hộ Việt Nam – Khai Sáng Văn Minh Hay Thụt Lùi Đất Nước
Thời Thực dân Pháp xâm lược (1858-1930)
Ngày
1/9/1858, liên quân Pháp - Tây Ban Nha nổ súng tấn công cửa biển Đà
Nẵng, mở đầu cuộc xâm lược của thực dân phương Tây ở Việt Nam, uy hiếp
cửa ngõ phía Nam của kinh đô Huế, đe dọa sự tồn vong của triều đình nhà
Nguyễn.
Tàu chiến Pháp tấn công vào cửa Thuận An năm 1883
Những biến đổi trong đời sống chính trị - kinh tế - xã hội ở Thừa Thiên Huế (1858 – 1883)
Triều đình nhà Nguyễn (vua Tự Đức) một
mặt đưa quân vào Đà Nẵng chống đỡ, một mặt tích cực tiến hành công tác
tổ chức phòng thủ các cửa ải, cửa biển trên đất Thừa Thiên và kinh đô
Huế, tổ chức tập trận nhằm đảm bảo sức chống đỡ của kinh đô một khi quân
Pháp tiến đánh.
Trong bối cảnh ấy, quân và dân Thừa Thiên ra sức, đồng lòng chống giặc. Từ Huế 2.000 Cấm binh, 200 lính Vũ lâm, 400 lính các vệ ở Hải Vân quan vào Đà Nẵng đánh Pháp. Ngoài ra, triều đình Huế còn lệnh cho quan phủ Thừa Thiên chiêu mộ binh lính lập quân Chiến tâm. Tháng 12/1858, quân Chiến tâm được đổi thành vệ Nghĩa dũng, tăng cường vào Quảng Nam đánh giặc.
Sau 18 tháng tiến công vào Đà Nẵng nhưng không đạt mục tiêu tiến sâu vào nội địa, ngày 23/3/1860, liên quân Pháp - Tây Ban Nha phải rút hết lực lượng đưa quân vào tiến đánh phía Nam.
Tuy đuổi được quân Pháp - Tây Ban Nha ra khỏi Đà Nẵng, nhưng sau đó quan quân triều đình không phát huy được sức mạnh giữ nước ở mặt trận phía Nam, nên từ năm 1860 đến 1862, các tỉnh Gia Định, Biên Hòa, Định Tường và Vĩnh Long lần lượt thất thủ. Trước sức ép của quân Pháp, triều đình Huế đã đồng ý ký hiệp ước Nhâm Tuất (1862) với 12 khoản, cắt ba tỉnh miền Đông Nam kỳ (Gia Định, Biên Hòa, Định Tường) và quần đảo Côn Lôn cho Pháp.
Trong bối cảnh ấy, quân và dân Thừa Thiên ra sức, đồng lòng chống giặc. Từ Huế 2.000 Cấm binh, 200 lính Vũ lâm, 400 lính các vệ ở Hải Vân quan vào Đà Nẵng đánh Pháp. Ngoài ra, triều đình Huế còn lệnh cho quan phủ Thừa Thiên chiêu mộ binh lính lập quân Chiến tâm. Tháng 12/1858, quân Chiến tâm được đổi thành vệ Nghĩa dũng, tăng cường vào Quảng Nam đánh giặc.
Sau 18 tháng tiến công vào Đà Nẵng nhưng không đạt mục tiêu tiến sâu vào nội địa, ngày 23/3/1860, liên quân Pháp - Tây Ban Nha phải rút hết lực lượng đưa quân vào tiến đánh phía Nam.
Tuy đuổi được quân Pháp - Tây Ban Nha ra khỏi Đà Nẵng, nhưng sau đó quan quân triều đình không phát huy được sức mạnh giữ nước ở mặt trận phía Nam, nên từ năm 1860 đến 1862, các tỉnh Gia Định, Biên Hòa, Định Tường và Vĩnh Long lần lượt thất thủ. Trước sức ép của quân Pháp, triều đình Huế đã đồng ý ký hiệp ước Nhâm Tuất (1862) với 12 khoản, cắt ba tỉnh miền Đông Nam kỳ (Gia Định, Biên Hòa, Định Tường) và quần đảo Côn Lôn cho Pháp.
Nhân dân Thừa Thiên Huế cũng như nhân
dân cả nước vô cùng phản đối sự nhân nhượng, cắt đất cho giặc của triều
đình nhà Nguyễn. Nguy cơ mất nước đang trở thành mối đe dọa hết sức nặng
nề.
Việc mất 3 tỉnh miền đông Nam Kỳ đã phô bày sự yếu kém về nhiều mặt của đất nước và năng lực hạn chế của triều Nguyễn. Trong bối cảnh đó, những người Việt Nam có tri thức và tâm huyết cứu nước rất muốn thực hiện việc canh tân đất nước nhằm tạo thực lực, đẩy mạnh tự cường đưa đất nước thoát khỏi nạn ngoại xâm.
Huế với vị trí là Kinh đô của cả nước, mặc nhiên trở thành trung tâm của trào lưu canh tân đất nước - nơi những nhà cải cách khắp đất nước cũng như ở tại địa phương tập trung để bàn luận, trao đổi tân thư, soạn thảo và dâng các bản kiến nghị cách tân lên triều đình Huế. Các bản kiến nghị đề cập canh tân đến nhiều lĩnh vực: kinh tế, chính trị, quân sự, quốc phòng, pháp luật, văn hóa giáo dục... Thành phần đề xướng trào lưu cải cách khá đa dạng từ người Thiên chúa giáo, người có học bình thường, nho sĩ, người đỗ đạt, quan lại bị cách chức..., Ở Thừa Thiên Huế nổi bật có Đặng Huy Trứ và Nguyễn Lộ Trạch.
Tuy nhiên, triều đình Huế đã không thực hiện cải cách trên quy mô lớn, rất rụt rè và mang tính thăm dò, tiến hành cải cách rời rạc, cấp thời, chiếu lệ và không triệt để. Hệ quả là cả trào lưu canh tân và công cuộc cải cách của triều đình Huế đi đến thất bại hoàn toàn.
Sự biến động về chính trị kéo theo những biến đổi về kinh tế, văn hóa, giáo dục ở Thừa Thiên Huế.
Về kinh tế, triểu đình khuyến khích phát triển nông nghiệp, khai hoang, trị thủy nhằm đẩy mạnh sản xuất, tích trữ lúa gạo tại chỗ đối phó với tình trạng không thể vận chuyển lúa gạo từ trong Nam ra (năm 1860, Pháp đánh chiếm miền Nam). Đầu tư vào một số ngành nghề như trồng dâu nuôi tằm, công nghiệp khai khoáng. Nhà nước còn chú trọng đến giao thông vận tải, phát triển thương nghiệp, thương càng Bao Vinh của Huế thời bấy giờ đã được Dutreuil de Rhins ghi lại trong sách Vương quốc An Nam và người An Nam như sau: “Nhiều thuyền An Nam và Tàu chen chật trên sông hẹp và sâu. Dưới các lớp chiếu và lớp lá đậy các khoang thuyền là các loại hàng rẻ tiền là tiêu, lụa, ngà voi, đường, quế, đậu khấu, sa nhân chàm, thuốc lá, trà, thuốc phiện lậu, vải, đồ sành, các thứ mỹ nghệ bằng ngà voi, bằng bạc, bằng đồng đen, vũ khí, bàn ghế được chạm trổ hoặc cẩn xà cừ”.
Về văn hóa, giáo dục, bên cạnh sự phát triển của Nho học truyền thống, lối học thực dụng bắt đầu được nhà nước chú trọng, nhà nước khuyến khích học ngoại ngữ, kỹ thuật phương Tây, xuất dương du học. Tuyển dụng võ quan bằng cách mở khoa thi Tiến sĩ võ. Xây dựng đền thờ, tổ chức cúng tế cho những tấm gương trung hiếu tiết nghĩa, ghi nhớ những người bỏ mình vì việc nước.
Tuy nhiên, đời sống của nhân dân Thừa Thiên Huế thời kỳ này vẫn không khá hơn, dịch bệnh bùng phát liên tục, thiên tai xảy ra liên miên kèm theo mất mùa đói kém khiến cho loạn lạc, cướp bóc hoành hành. Lại thêm nạn quan lại và một số hoàng thân ỷ thế bức hiếp hãm hại nhân dân, đặc biệt là thái độ bạc nhược, thỏa hiệp của triều Nguyễn trước thực dân Pháp kể từ hiệp ước 1862, nên làn sóng chống đối triều đình Huế ngày càng dâng cao, tạo nên nhiều cuộc khởi nghĩa trong cả nước, mà đỉnh cao của phong trào chống đối triều Nguyễn trong giai đoạn này là cuộc khởi nghĩa “Chày Vôi” do Đoàn Hữu Trưng lãnh đạo trên đất Thừa Thiên Huế.
Sau Hiệp ước Nhâm Tuất (1862), triều đình Huế lại tiếp tiếp tục sai lầm khi dùng chính sách ngoại giao nhằm lấy lại ba tỉnh miền Đông Nam Bộ, thái độ ôn hòa của triều Nguyễn trong vấn đề giữ nước là một trong những nguyên nhân thúc đẩy thực dân Pháp mở rộng chiếm đóng lãnh thổ. Năm 1867, thực dân Pháp chiếm ba tỉnh miền Tây là Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên mà triều đình Huế gần như không có phản ứng quân sự nào.
Vừa bị thực dân Pháp gây áp lực ở miền Nam, triều đình Huế còn phải đối phó với các cuộc khởi nghĩa nông dân, các toán giặc cướp người Hoa ở Bắc Kỳ và đã phải cầu viện nhà Thanh sang dẹp loạn. Chính sự rối loạn ở miền Bắc đã tạo điều kiện cho thực dân Pháp đem quân ra Hà Nội can thiệp, và thực hiện đánh chiếm Bắc kỳ lần thứ nhất năm 1873. Vì nhiều lý do không cho phép đánh chiếm bằng quân sự vào lúc này, cộng với các cuộc thương thuyết của triều Nguyễn, thực dân Pháp đi đến ký kết với triều đình Huế Hiệp ước Giáp Tuất (15/3/1874). Từ sau Hiệp ước Giáp Tuất, triều đình Huế buộc phải công nhận chủ quyền của Pháp ở toàn bộ các tỉnh miền Nam và càng bị ràng buộc nhiều hơn về mặt ngoại giao vào thực dân Pháp.
Ý đồ mở rộng địa bàn đánh chiếm và áp lực ngoại giao ngày càng nặng nề của thực dân Pháp đã uy hiếp ngay cả vùng đất kinh đô Huế, buộc triều đình Huế phải tăng cường phòng bị để bảo vệ sự sống còn của mình.
Chính sách hòa hoãn, thương thuyết qua con đường ngoại giao của triều đình Huế không thể ngăn thực dân Pháp tấn công Bắc Kỳ lần thứ hai. Ngày 25/1/1882 chúng tấn công Hà Nội. Hà Thành thất thủ. Thừa thế chúng đánh chiếm Sơn Tây, Bắc Ninh, Thái Nguyên, Tuyên Quang.
Việc mất 3 tỉnh miền đông Nam Kỳ đã phô bày sự yếu kém về nhiều mặt của đất nước và năng lực hạn chế của triều Nguyễn. Trong bối cảnh đó, những người Việt Nam có tri thức và tâm huyết cứu nước rất muốn thực hiện việc canh tân đất nước nhằm tạo thực lực, đẩy mạnh tự cường đưa đất nước thoát khỏi nạn ngoại xâm.
Huế với vị trí là Kinh đô của cả nước, mặc nhiên trở thành trung tâm của trào lưu canh tân đất nước - nơi những nhà cải cách khắp đất nước cũng như ở tại địa phương tập trung để bàn luận, trao đổi tân thư, soạn thảo và dâng các bản kiến nghị cách tân lên triều đình Huế. Các bản kiến nghị đề cập canh tân đến nhiều lĩnh vực: kinh tế, chính trị, quân sự, quốc phòng, pháp luật, văn hóa giáo dục... Thành phần đề xướng trào lưu cải cách khá đa dạng từ người Thiên chúa giáo, người có học bình thường, nho sĩ, người đỗ đạt, quan lại bị cách chức..., Ở Thừa Thiên Huế nổi bật có Đặng Huy Trứ và Nguyễn Lộ Trạch.
Tuy nhiên, triều đình Huế đã không thực hiện cải cách trên quy mô lớn, rất rụt rè và mang tính thăm dò, tiến hành cải cách rời rạc, cấp thời, chiếu lệ và không triệt để. Hệ quả là cả trào lưu canh tân và công cuộc cải cách của triều đình Huế đi đến thất bại hoàn toàn.
Sự biến động về chính trị kéo theo những biến đổi về kinh tế, văn hóa, giáo dục ở Thừa Thiên Huế.
Về kinh tế, triểu đình khuyến khích phát triển nông nghiệp, khai hoang, trị thủy nhằm đẩy mạnh sản xuất, tích trữ lúa gạo tại chỗ đối phó với tình trạng không thể vận chuyển lúa gạo từ trong Nam ra (năm 1860, Pháp đánh chiếm miền Nam). Đầu tư vào một số ngành nghề như trồng dâu nuôi tằm, công nghiệp khai khoáng. Nhà nước còn chú trọng đến giao thông vận tải, phát triển thương nghiệp, thương càng Bao Vinh của Huế thời bấy giờ đã được Dutreuil de Rhins ghi lại trong sách Vương quốc An Nam và người An Nam như sau: “Nhiều thuyền An Nam và Tàu chen chật trên sông hẹp và sâu. Dưới các lớp chiếu và lớp lá đậy các khoang thuyền là các loại hàng rẻ tiền là tiêu, lụa, ngà voi, đường, quế, đậu khấu, sa nhân chàm, thuốc lá, trà, thuốc phiện lậu, vải, đồ sành, các thứ mỹ nghệ bằng ngà voi, bằng bạc, bằng đồng đen, vũ khí, bàn ghế được chạm trổ hoặc cẩn xà cừ”.
Về văn hóa, giáo dục, bên cạnh sự phát triển của Nho học truyền thống, lối học thực dụng bắt đầu được nhà nước chú trọng, nhà nước khuyến khích học ngoại ngữ, kỹ thuật phương Tây, xuất dương du học. Tuyển dụng võ quan bằng cách mở khoa thi Tiến sĩ võ. Xây dựng đền thờ, tổ chức cúng tế cho những tấm gương trung hiếu tiết nghĩa, ghi nhớ những người bỏ mình vì việc nước.
Tuy nhiên, đời sống của nhân dân Thừa Thiên Huế thời kỳ này vẫn không khá hơn, dịch bệnh bùng phát liên tục, thiên tai xảy ra liên miên kèm theo mất mùa đói kém khiến cho loạn lạc, cướp bóc hoành hành. Lại thêm nạn quan lại và một số hoàng thân ỷ thế bức hiếp hãm hại nhân dân, đặc biệt là thái độ bạc nhược, thỏa hiệp của triều Nguyễn trước thực dân Pháp kể từ hiệp ước 1862, nên làn sóng chống đối triều đình Huế ngày càng dâng cao, tạo nên nhiều cuộc khởi nghĩa trong cả nước, mà đỉnh cao của phong trào chống đối triều Nguyễn trong giai đoạn này là cuộc khởi nghĩa “Chày Vôi” do Đoàn Hữu Trưng lãnh đạo trên đất Thừa Thiên Huế.
Sau Hiệp ước Nhâm Tuất (1862), triều đình Huế lại tiếp tiếp tục sai lầm khi dùng chính sách ngoại giao nhằm lấy lại ba tỉnh miền Đông Nam Bộ, thái độ ôn hòa của triều Nguyễn trong vấn đề giữ nước là một trong những nguyên nhân thúc đẩy thực dân Pháp mở rộng chiếm đóng lãnh thổ. Năm 1867, thực dân Pháp chiếm ba tỉnh miền Tây là Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên mà triều đình Huế gần như không có phản ứng quân sự nào.
Vừa bị thực dân Pháp gây áp lực ở miền Nam, triều đình Huế còn phải đối phó với các cuộc khởi nghĩa nông dân, các toán giặc cướp người Hoa ở Bắc Kỳ và đã phải cầu viện nhà Thanh sang dẹp loạn. Chính sự rối loạn ở miền Bắc đã tạo điều kiện cho thực dân Pháp đem quân ra Hà Nội can thiệp, và thực hiện đánh chiếm Bắc kỳ lần thứ nhất năm 1873. Vì nhiều lý do không cho phép đánh chiếm bằng quân sự vào lúc này, cộng với các cuộc thương thuyết của triều Nguyễn, thực dân Pháp đi đến ký kết với triều đình Huế Hiệp ước Giáp Tuất (15/3/1874). Từ sau Hiệp ước Giáp Tuất, triều đình Huế buộc phải công nhận chủ quyền của Pháp ở toàn bộ các tỉnh miền Nam và càng bị ràng buộc nhiều hơn về mặt ngoại giao vào thực dân Pháp.
Ý đồ mở rộng địa bàn đánh chiếm và áp lực ngoại giao ngày càng nặng nề của thực dân Pháp đã uy hiếp ngay cả vùng đất kinh đô Huế, buộc triều đình Huế phải tăng cường phòng bị để bảo vệ sự sống còn của mình.
Chính sách hòa hoãn, thương thuyết qua con đường ngoại giao của triều đình Huế không thể ngăn thực dân Pháp tấn công Bắc Kỳ lần thứ hai. Ngày 25/1/1882 chúng tấn công Hà Nội. Hà Thành thất thủ. Thừa thế chúng đánh chiếm Sơn Tây, Bắc Ninh, Thái Nguyên, Tuyên Quang.
Sau khi thành Hà Nội thất thủ, nhiều
quan lại ủng hộ Tôn Thất Thuyết xin đánh Pháp nhưng vua Tự Đức và đình
thần trong Cơ Mật viện không đồng ý mà tiếp tục duy trì chính sách
thương lượng để xin lại thành Hà Nội.
Ngày 27/3/1883, thành Nam Định rơi vào tay Pháp, triều đình Huế bắt đầu thay đổi thái độ, tăng cường phòng bị ở cảng Thuận An cùng kinh đô và chủ trương tiến quân đánh Pháp ở Bắc Kỳ. Khí thế chống Pháp sôi sục của triều đình và nhân dân Huế đã khiến cho đặc phái viên của Pháp là Rheinart hoảng sợ cuốn cờ rút chạy vào Gia Định. Quân Pháp ở Hà Nội bị công kích liên tục và đại bại trong trận cầu Giấy ngày 19/5/1883. Thống đốc Pháp ở Nam Kỳ trục xuất phái đoàn thương thuyết của triều đình Huế, chính phủ Pháp quyết định tăng cường quân đội để nắm lấy bằng được Bắc Kỳ.
Giữa lúc vận nước đang đứng ở bờ vực thẳm thì triều đình Huế đã diễn ra việc phế lập. Tự Ðức mất ngày 19/7/1883. Phái chủ hòa trong triều đình muốn lập Thụy quốc công Dục Ðức. Phái chủ chiến Tôn Thất Thuyết cầm đầu đưa Lãng quốc công Hồng Dật lên ngôi lấy niên hiệu Hiệp Hòa.
Việc đưa vua Hiệp Hòa lên ngôi là hành động có tính toán của triều đình Huế, ở buổi ban đầu, vua Hiệp Hòa thỏa mãn một số yếu cầu về công cuộc chống Pháp mà phái chủ chiến mong muốn. Nhưng quyền lực thực sự chưa lọt vào tay những người chủ chiến, bởi vua hiệp Hòa vẫn là người nắm quyền quyết định và có chính kiến riêng của mình. Đó chính là tiền đề dẫn đến những biến động chính trị trong nội bộ triều đình Huế ở giai đoạn sau.
Ngày 27/3/1883, thành Nam Định rơi vào tay Pháp, triều đình Huế bắt đầu thay đổi thái độ, tăng cường phòng bị ở cảng Thuận An cùng kinh đô và chủ trương tiến quân đánh Pháp ở Bắc Kỳ. Khí thế chống Pháp sôi sục của triều đình và nhân dân Huế đã khiến cho đặc phái viên của Pháp là Rheinart hoảng sợ cuốn cờ rút chạy vào Gia Định. Quân Pháp ở Hà Nội bị công kích liên tục và đại bại trong trận cầu Giấy ngày 19/5/1883. Thống đốc Pháp ở Nam Kỳ trục xuất phái đoàn thương thuyết của triều đình Huế, chính phủ Pháp quyết định tăng cường quân đội để nắm lấy bằng được Bắc Kỳ.
Giữa lúc vận nước đang đứng ở bờ vực thẳm thì triều đình Huế đã diễn ra việc phế lập. Tự Ðức mất ngày 19/7/1883. Phái chủ hòa trong triều đình muốn lập Thụy quốc công Dục Ðức. Phái chủ chiến Tôn Thất Thuyết cầm đầu đưa Lãng quốc công Hồng Dật lên ngôi lấy niên hiệu Hiệp Hòa.
Việc đưa vua Hiệp Hòa lên ngôi là hành động có tính toán của triều đình Huế, ở buổi ban đầu, vua Hiệp Hòa thỏa mãn một số yếu cầu về công cuộc chống Pháp mà phái chủ chiến mong muốn. Nhưng quyền lực thực sự chưa lọt vào tay những người chủ chiến, bởi vua hiệp Hòa vẫn là người nắm quyền quyết định và có chính kiến riêng của mình. Đó chính là tiền đề dẫn đến những biến động chính trị trong nội bộ triều đình Huế ở giai đoạn sau.
Công cuộc chống Pháp, bảo vệ độc lập dân tộc ở Thừa Thiên Huế (1883 – 1885)
Thực dân Pháp đánh hơi thấy ngay sự hỗn
loạn của việc phế lập trong triều, lại giữa lúc viện binh của chúng sang
đầy đủ, chúng muốn đánh một đòn quyết định để chấm dứt chiến tranh xâm
lược. Ðoán được mưu đồ của giặc, phái chủ chiến đã tăng cường phòng thủ
cửa bể Thuận An, và đắp vật cản trên sông Hương. Hệ thống phòng thủ ở
Thuận An bấy giờ có tất cả 13 pháo đài, hai cửa đặt hai pháo đài chính.
Trước cửa sông Hương có đặt thêm nhiều đại bác.
Sáng 17/8/1883 địch từ Ðà Nẵng rầm rộ kéo ra Thuận An với lực lượng gồm 8 tàu chiến và 800 quân (600 lính thủy quân lục chiến, 100 lính tập và 100 phu). Từ soái hạm Le Bayard, tướng Pháp Courbet gửi tối hậu thư buộc triều đình Huế giao toàn bộ hệ thống phòng thủ cửa biển Thuận An không điều kiện trong vòng 24 giờ. Bị từ chối, 16h30 ngày 18/8/1883 thực dân Pháp bắt đầu nã pháo vào đồn binh ta. Quân triều đình cũng bắn trả lại. Hai bên giao tranh đến 20h mới ngừng.
Ngày 19/8/1883, thời tiết xấu và biển động gây bất lợi cho quân Pháp. Nhân cơ hội đó các khẩu đội pháo của quân triều đình đã tấn công trước, tạo thế áp đảo quân Pháp, tàu chiến Pháp chỉ bắn trả chứ không chủ động tấn công. Quân triều đình có thêm thời gian củng cố các công sự chiến đấu và bổ sung pháo thủ.
Nhưng do sức mạnh áp đảo về quân sự, nên sáng ngày 20/3/1883 quân Pháp đã tổ chức lại quân đội và bắn pháo cho tới chiều, rồi cho hơn 1.000 quân đổ bộ. Các đồn binh lần lượt thất thủ, đến tối quân Pháp chiếm được Thuận An.
Các quan đồn trú Thuận An là Lê Sỹ, Lê Chuẩn đều tử trận, Lâm Hoàng và Nguyễn Trung đã tự vẫn.
Trong trận đánh bảo vệ cửa ngõ Kinh đô Huế ở cửa Thuận An, lực lượng quân Triều đình hy sinh đến hàng trăm người, tập trung chủ yếu ở trận phòng thủ Trấn Hải. Những chiến sĩ phòng vệ Thuận An đã nằm xuống trong giờ phút cuối cùng của nền độc lập dân tộc dưới thời nhà Nguyễn, trong tư thế của những người anh hùng quyết tâm chống Pháp, đem thân mình đền nợ nước.
Nghe tin Thuận An thất thủ, vua Hiệp Hòa vô cùng lo sợ đã vội vã cử người đến xin đình chiến và buộc những người chủ chiến rút khỏi các đồn binh và nhổ vật cản trên sông Hương. Quyết định nghị hòa của vua Hiệp Hòa tạo ra sự bất mãn trong hàng ngũ quan quân chủ chiến, nhưng họ đành bất lực. Tôn Thất Thuyết phản ứng bằng cách đem cờ và Ngự bài binh sự trả lại cho nhà vua, còn Ông ích Khiêm thì hậm hực triệt quân bản bộ (chừng 700 người).
Thuận An thất thủ, triều đình Huế phải ký vào hòa ước Harmand ngày 25/8/1883, gồm 27 điều khoản công nhận sự bảo hộ của Pháp trên toàn cõi Việt Nam, và người Pháp có quyền kiểm soát về mặt ngoại giao của triều đình. Việt Nam chính thức chia làm ba kỳ với ba chế độ lệ thuộc khác nhau.
Với bản hiệp định này, thực dân Pháp những mong nhân dân ta hạ khí giới đầu hàng chúng. Nhưng, nhân dân cả nước vẫn không buông vũ khí, ngay trong triều đình Tôn Thất Thuyết và phái chủ chiến vẫn nung nấu ý chí đánh Pháp.
Chấp nhận ký hiệp ước Harmand, vua Hiệp Hòa đã đi chệnh đường lối giữ nước của những người chủ chiến và nguyện vọng của nhân dân, nên đã bị phế truất sau 4 tháng trên ngai vàng. Chủ trương hòa nghị và đầu hàng của vua Hiệp Hòa đã suýt biến triều đình Huế thành guồng máy cai trị thân Pháp, nhưng nỗ lực của Tôn Thất Thuyết và phái chủ chiến đã kịp thời chặn đứng nguy cơ đó.
Vua Kiến Phúc lên ngôi ngày 2/12/1883, tạo điều kiện cho phái chủ chiến củng cố thế lực, tăng cường sức mạnh quân sự ở các tỉnh và kinh đô, củng cố và xây dựng hệ thống sơn phòng ở các tỉnh miền Trung và các tỉnh phía Bắc. Việc chuẩn bị chống Pháp dưới triều vua Kiến Phúc tuy chưa tạo được sự thay đổi đáng kể trong tương quan lực lượng giữa thực dân Pháp và nhân dân Việt Nam, nhưng dẫu sao đó cũng là tiền đề hết sức cơ bản và thuận lợi, khẳng định lập trường chống Pháp của phái chủ chiến và triều đình Huế trước nhân dân.
Phản ứng cứng rắn của phái chủ chiến dưới thời vua Kiến Phúc, đã đưa đến tình trạng đối đầu gay gắt giữa triều đình với đại diện của thực dân Pháp. Để giảm bớt sự đối đầu đó, chính phủ Pháp phải đưa ra chủ trương sửa đổi một số nội dung của hiệp ước Harmand. Công sứ Pháp ở Trung Quốc là Patenôtre và Rheinart đến Huế, triều đình cử Thượng thư bộ Hộ Phạm Thận Duật làm Toàn quyền, Tham trị Bộ Công Tôn Thất Phan làm phó để thương thuyết.
Ngày 6/6/1884, hai bên ký vào Hiệp ước Patennôtre gồm 19 điều khoản. Hiệp ước đánh dấu sự công nhận địa vị thống trị của thực dân Pháp tại Việt Nam, chủ quyền của triều đình Huế chuẩn bị mất vào tay thực dân Pháp, giai đoạn độc lập của triều đình phong kiến nhà Nguyễn sắp đến hồi kết thúc. Tuy nhiên, phái chủ chiến dưới thời vua Kiến Phúc đã tận dụng mọi khả năng để đấu tranh đến cùng. Chính sự đấu tranh quyết liệt của phái chủ chiến đã dẫn đến kết quả ranh giới Trung kỳ kéo đến tận đất Biên Hòa trong Nam và giáp đất Ninh Bình ở ngoài Bắc. Triều đình Huế chỉ thừa nhận Pháp là người bảo trợ chứ không phải được quyền bảo hộ.
Quyền lực của phái chủ chiến trong triều đình Huế dưới thời Kiến Phúc đang diễn biến thuận lợi thì vào đêm 31/7/1884, sau vài tháng lâm bệnh nhà vua đã qua đời.
Ngày 2/8/1884, Ưng Lịch lên ngôi lấy niên hiệu Hàm Nghi. Việc lên ngôi tuy được che đậy dưới danh nghĩa là có di chiếu của vua Kiến Phúc, nhưng thực chất là xuất phát từ chủ trương của phái chủ chiến, đứng đầu là Phụ chính đại thần, kiêm Thương thư bộ Binh Tôn Thất Thuyết. Hành động đó vấp phải sự phản ứng quyết liệt của ngườ Pháp và cũng không tránh khỏi sự đả kích của các phần tử thân Pháp trong nội bộ Hoàng tộc. Nhưng trước sự cứng rắn của phái chủ chiến, phía Pháp buộc phải chấp nhận.
Dựa vào thắng lợi đạt được qua việc giữ vững ngôi vị của vua Hàm Nghi, Tôn Thất Thuyết và phái chủ chiến một mặt đẩy mạnh công tác chuẩn bị lực lượng quân sự, trấn áp những phần tử thân Pháp trong triều đình, kích động tinh thần chống Pháp, mặt khác lại ra sức đấu tranh với Pháp để đòi hỏi chủ quyền của triều đình, tìm cách trì hoãn việc thi hành Hiệp định Patenôtre.
Mâu thuẫn giữa phái chủ chiến và phía Pháp không ngừng căng thẳng, chính phủ Pháp quyết định cử Trung tướng Ruossel de Cuorcy sang Việt Nam với những quyền hành hết sức rộng rãi để đối phó với thái độ cứng rắn của triều đình vua Hàm Nghi. Tôn Thất Thuyết và những người cộng sự của ông trong triều đình cũng ý thức được cuộc đối đầu với Pháp sắp sửa bùng nổ.
De Cuorcy sau khi nắm rõ tình hình tại Việt Nam đã quyết định chọn Huế làm điểm mở đầu cho kế hoạch bình định của mình.
Ngày 2/7/1885, De Cuorcy đã mang 3 đại đội bộ binh, 01 phân đội lính bộ truy kích, 01 đội kèn, tổng cộng 19 sỹ quan, 1.024 lính và 2 tàu chiến đến cảng Thuận An - Huế. Ngày 3/7/1885, De Courcy yêu cầu hội kiến với các Thượng thư của Triều đình Huế và Cơ Mật viện để bàn chi tiết lễ chuyển giao hiệp ước Patenôtre, đồng thời nhân cơ hội này để bắt Tôn Thất Thuyết. Nhưng âm mưu của De Courcy bị lộ, Tôn Thất Thuyết cáo ốm không có mặt. Do âm mưu bắt Tôn Thất Thuyết không thành, De Courcy liền đưa yêu sách trắng trợn là đòi triều đình Huế nội trong ba ngày phải nộp tiền chiến phí. Sự khiêu khích của Pháp đối với triều đình Hàm Nghi đã đến cực điểm. Không thể ngồi khoanh tay chịu nhục, Tôn Thất Thuyết quyết định hành động. ông đã chủ động tấn công trước không cho địch khởi hấn.
Nửa đêm ngày 4 tháng 7 năm 1885, ông mật chia quân doanh làm hai đạo. Một đạo do Tôn Thất Lệ, em ruột ông chỉ huy vượt sông Hương đánh úp Tòa Sứ Pháp. Còn ông sẽ chỉ huy đạo thứ hai đánh úp doanh trại Pháp ở trấn Bình Ðài (Mang Cá). Một giờ sáng ngày 5 tháng 7 năm 1885 Tôn Thất Thuyết hạ lệnh nổ súng vào Trấn Bình Ðài.
Tiếng đại bác nổ vang trời dậy đất. Quân giặc ở Bình Ðài phút đầu vô cùng hoảng hốt, nhưng sau chúng đã củng cố lại được và cố thủ đợi trời sáng. Thấy đồn giặc không một phản ứng, những người chủ chiến tưởng chúng đã chết nên chuyển làn bắn qua bên kia sông, yểm trợ cho đạo quân Tôn Thất Lệ tấn công Tòa Sứ.
Quân ta đã bất ngờ tấn công vào nhượng địa Pháp, đánh nhau giáp lá cà với địch. Quân Pháp vô cùng hoảng loạn. Chúng tập trung toàn bộ lực lượng để bảo vệ kho đạn và bưu điện. De Courcy khẩn thiết xin viện binh từ ngoài Hải Phòng vào.
Ðến gần sáng, quân Pháp củng cố được đội ngũ và phản kích trở lại. Cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt ở trong Thành nội. 9 giờ sáng ngày 5/7/1885, Hoàng thành thất thủ, quân Pháp hoàn toàn làm chủ tình thế. Hữu quân đô thống Hồ Văn Hiến và Nguyễn Văn Tường rước vua Hàm Nghi và ba quân rút ra khỏi kinh thành ở cửa Tây Nam. Hậu quân bảo vệ xa giá là Tôn Thất Thuyết. Quân hộ tống xa giá gặp bộ phận đón của Tôn Thất Lệ ở Trường Thi (La Chữ) tổng cộng có hơn 100 người.
Chiếm được Kinh thành, quân Pháp ra sức đốt phá, cướp bóc, bắn giết. Tất cả các của quý trong Hoàng cung đều bị vét sạch. Bộ Binh và Bộ Lại của Tôn Thất Thuyết bị đốt phá tan hoang.
Tuy chiếm được Kinh thành, nhưng đây không phải là mục đích của thực dân Pháp. Cho nên, "sự thật là sau khi thắng trận, ông (chỉ De Courcy -TG) bối rối vô cùng vì cuộc đổ máu ngày 5 tháng 7 đã biến đổi tất cả ở xứ An Nam. Vị vua trẻ tuổi đã rời bỏ kinh thành, ở Huế không còn chính phủ, chính quyền, không còn ai có thể thi hành điều ước liên kết mà ta đã ký kết với xứ An Nam".
Ngược lại, Tôn Thất Thuyết tuy thất bại trong việc tiêu diệt quân Pháp ở Kinh thành, nhưng lại làm cho điều sợ hãi nhất của thực dân Pháp biến thành sự thật - dưới danh nghĩa vua Hàm Nghi ông đã tổ chức một cuộc kháng chiến chống Pháp rộng lớn trên cả nước với tên gọi phong trào Cần Vương.
Từ ngày 18/8/1883 đến ngày 5/7/1885, là giai đoạn nhân dân Thừa Thiên Huế và triều đình nhà Nguyễn trực tiếp đối đầu với lực lượng quân đội xâm lược Pháp ngay trên đất kinh đô Huế. Tuy chỉ rất ngắn ngủi về mặt thời gian, song đây là giai đoạn kết thúc sự tồn vong của nền độc lập dân tộc nói chung, của Thừa Thiên Huế nói riêng vào cuối thế kỷ XIX.
Sáng 17/8/1883 địch từ Ðà Nẵng rầm rộ kéo ra Thuận An với lực lượng gồm 8 tàu chiến và 800 quân (600 lính thủy quân lục chiến, 100 lính tập và 100 phu). Từ soái hạm Le Bayard, tướng Pháp Courbet gửi tối hậu thư buộc triều đình Huế giao toàn bộ hệ thống phòng thủ cửa biển Thuận An không điều kiện trong vòng 24 giờ. Bị từ chối, 16h30 ngày 18/8/1883 thực dân Pháp bắt đầu nã pháo vào đồn binh ta. Quân triều đình cũng bắn trả lại. Hai bên giao tranh đến 20h mới ngừng.
Ngày 19/8/1883, thời tiết xấu và biển động gây bất lợi cho quân Pháp. Nhân cơ hội đó các khẩu đội pháo của quân triều đình đã tấn công trước, tạo thế áp đảo quân Pháp, tàu chiến Pháp chỉ bắn trả chứ không chủ động tấn công. Quân triều đình có thêm thời gian củng cố các công sự chiến đấu và bổ sung pháo thủ.
Nhưng do sức mạnh áp đảo về quân sự, nên sáng ngày 20/3/1883 quân Pháp đã tổ chức lại quân đội và bắn pháo cho tới chiều, rồi cho hơn 1.000 quân đổ bộ. Các đồn binh lần lượt thất thủ, đến tối quân Pháp chiếm được Thuận An.
Các quan đồn trú Thuận An là Lê Sỹ, Lê Chuẩn đều tử trận, Lâm Hoàng và Nguyễn Trung đã tự vẫn.
Trong trận đánh bảo vệ cửa ngõ Kinh đô Huế ở cửa Thuận An, lực lượng quân Triều đình hy sinh đến hàng trăm người, tập trung chủ yếu ở trận phòng thủ Trấn Hải. Những chiến sĩ phòng vệ Thuận An đã nằm xuống trong giờ phút cuối cùng của nền độc lập dân tộc dưới thời nhà Nguyễn, trong tư thế của những người anh hùng quyết tâm chống Pháp, đem thân mình đền nợ nước.
Nghe tin Thuận An thất thủ, vua Hiệp Hòa vô cùng lo sợ đã vội vã cử người đến xin đình chiến và buộc những người chủ chiến rút khỏi các đồn binh và nhổ vật cản trên sông Hương. Quyết định nghị hòa của vua Hiệp Hòa tạo ra sự bất mãn trong hàng ngũ quan quân chủ chiến, nhưng họ đành bất lực. Tôn Thất Thuyết phản ứng bằng cách đem cờ và Ngự bài binh sự trả lại cho nhà vua, còn Ông ích Khiêm thì hậm hực triệt quân bản bộ (chừng 700 người).
Thuận An thất thủ, triều đình Huế phải ký vào hòa ước Harmand ngày 25/8/1883, gồm 27 điều khoản công nhận sự bảo hộ của Pháp trên toàn cõi Việt Nam, và người Pháp có quyền kiểm soát về mặt ngoại giao của triều đình. Việt Nam chính thức chia làm ba kỳ với ba chế độ lệ thuộc khác nhau.
Với bản hiệp định này, thực dân Pháp những mong nhân dân ta hạ khí giới đầu hàng chúng. Nhưng, nhân dân cả nước vẫn không buông vũ khí, ngay trong triều đình Tôn Thất Thuyết và phái chủ chiến vẫn nung nấu ý chí đánh Pháp.
Chấp nhận ký hiệp ước Harmand, vua Hiệp Hòa đã đi chệnh đường lối giữ nước của những người chủ chiến và nguyện vọng của nhân dân, nên đã bị phế truất sau 4 tháng trên ngai vàng. Chủ trương hòa nghị và đầu hàng của vua Hiệp Hòa đã suýt biến triều đình Huế thành guồng máy cai trị thân Pháp, nhưng nỗ lực của Tôn Thất Thuyết và phái chủ chiến đã kịp thời chặn đứng nguy cơ đó.
Vua Kiến Phúc lên ngôi ngày 2/12/1883, tạo điều kiện cho phái chủ chiến củng cố thế lực, tăng cường sức mạnh quân sự ở các tỉnh và kinh đô, củng cố và xây dựng hệ thống sơn phòng ở các tỉnh miền Trung và các tỉnh phía Bắc. Việc chuẩn bị chống Pháp dưới triều vua Kiến Phúc tuy chưa tạo được sự thay đổi đáng kể trong tương quan lực lượng giữa thực dân Pháp và nhân dân Việt Nam, nhưng dẫu sao đó cũng là tiền đề hết sức cơ bản và thuận lợi, khẳng định lập trường chống Pháp của phái chủ chiến và triều đình Huế trước nhân dân.
Phản ứng cứng rắn của phái chủ chiến dưới thời vua Kiến Phúc, đã đưa đến tình trạng đối đầu gay gắt giữa triều đình với đại diện của thực dân Pháp. Để giảm bớt sự đối đầu đó, chính phủ Pháp phải đưa ra chủ trương sửa đổi một số nội dung của hiệp ước Harmand. Công sứ Pháp ở Trung Quốc là Patenôtre và Rheinart đến Huế, triều đình cử Thượng thư bộ Hộ Phạm Thận Duật làm Toàn quyền, Tham trị Bộ Công Tôn Thất Phan làm phó để thương thuyết.
Ngày 6/6/1884, hai bên ký vào Hiệp ước Patennôtre gồm 19 điều khoản. Hiệp ước đánh dấu sự công nhận địa vị thống trị của thực dân Pháp tại Việt Nam, chủ quyền của triều đình Huế chuẩn bị mất vào tay thực dân Pháp, giai đoạn độc lập của triều đình phong kiến nhà Nguyễn sắp đến hồi kết thúc. Tuy nhiên, phái chủ chiến dưới thời vua Kiến Phúc đã tận dụng mọi khả năng để đấu tranh đến cùng. Chính sự đấu tranh quyết liệt của phái chủ chiến đã dẫn đến kết quả ranh giới Trung kỳ kéo đến tận đất Biên Hòa trong Nam và giáp đất Ninh Bình ở ngoài Bắc. Triều đình Huế chỉ thừa nhận Pháp là người bảo trợ chứ không phải được quyền bảo hộ.
Quyền lực của phái chủ chiến trong triều đình Huế dưới thời Kiến Phúc đang diễn biến thuận lợi thì vào đêm 31/7/1884, sau vài tháng lâm bệnh nhà vua đã qua đời.
Ngày 2/8/1884, Ưng Lịch lên ngôi lấy niên hiệu Hàm Nghi. Việc lên ngôi tuy được che đậy dưới danh nghĩa là có di chiếu của vua Kiến Phúc, nhưng thực chất là xuất phát từ chủ trương của phái chủ chiến, đứng đầu là Phụ chính đại thần, kiêm Thương thư bộ Binh Tôn Thất Thuyết. Hành động đó vấp phải sự phản ứng quyết liệt của ngườ Pháp và cũng không tránh khỏi sự đả kích của các phần tử thân Pháp trong nội bộ Hoàng tộc. Nhưng trước sự cứng rắn của phái chủ chiến, phía Pháp buộc phải chấp nhận.
Dựa vào thắng lợi đạt được qua việc giữ vững ngôi vị của vua Hàm Nghi, Tôn Thất Thuyết và phái chủ chiến một mặt đẩy mạnh công tác chuẩn bị lực lượng quân sự, trấn áp những phần tử thân Pháp trong triều đình, kích động tinh thần chống Pháp, mặt khác lại ra sức đấu tranh với Pháp để đòi hỏi chủ quyền của triều đình, tìm cách trì hoãn việc thi hành Hiệp định Patenôtre.
Mâu thuẫn giữa phái chủ chiến và phía Pháp không ngừng căng thẳng, chính phủ Pháp quyết định cử Trung tướng Ruossel de Cuorcy sang Việt Nam với những quyền hành hết sức rộng rãi để đối phó với thái độ cứng rắn của triều đình vua Hàm Nghi. Tôn Thất Thuyết và những người cộng sự của ông trong triều đình cũng ý thức được cuộc đối đầu với Pháp sắp sửa bùng nổ.
De Cuorcy sau khi nắm rõ tình hình tại Việt Nam đã quyết định chọn Huế làm điểm mở đầu cho kế hoạch bình định của mình.
Ngày 2/7/1885, De Cuorcy đã mang 3 đại đội bộ binh, 01 phân đội lính bộ truy kích, 01 đội kèn, tổng cộng 19 sỹ quan, 1.024 lính và 2 tàu chiến đến cảng Thuận An - Huế. Ngày 3/7/1885, De Courcy yêu cầu hội kiến với các Thượng thư của Triều đình Huế và Cơ Mật viện để bàn chi tiết lễ chuyển giao hiệp ước Patenôtre, đồng thời nhân cơ hội này để bắt Tôn Thất Thuyết. Nhưng âm mưu của De Courcy bị lộ, Tôn Thất Thuyết cáo ốm không có mặt. Do âm mưu bắt Tôn Thất Thuyết không thành, De Courcy liền đưa yêu sách trắng trợn là đòi triều đình Huế nội trong ba ngày phải nộp tiền chiến phí. Sự khiêu khích của Pháp đối với triều đình Hàm Nghi đã đến cực điểm. Không thể ngồi khoanh tay chịu nhục, Tôn Thất Thuyết quyết định hành động. ông đã chủ động tấn công trước không cho địch khởi hấn.
Nửa đêm ngày 4 tháng 7 năm 1885, ông mật chia quân doanh làm hai đạo. Một đạo do Tôn Thất Lệ, em ruột ông chỉ huy vượt sông Hương đánh úp Tòa Sứ Pháp. Còn ông sẽ chỉ huy đạo thứ hai đánh úp doanh trại Pháp ở trấn Bình Ðài (Mang Cá). Một giờ sáng ngày 5 tháng 7 năm 1885 Tôn Thất Thuyết hạ lệnh nổ súng vào Trấn Bình Ðài.
Tiếng đại bác nổ vang trời dậy đất. Quân giặc ở Bình Ðài phút đầu vô cùng hoảng hốt, nhưng sau chúng đã củng cố lại được và cố thủ đợi trời sáng. Thấy đồn giặc không một phản ứng, những người chủ chiến tưởng chúng đã chết nên chuyển làn bắn qua bên kia sông, yểm trợ cho đạo quân Tôn Thất Lệ tấn công Tòa Sứ.
Quân ta đã bất ngờ tấn công vào nhượng địa Pháp, đánh nhau giáp lá cà với địch. Quân Pháp vô cùng hoảng loạn. Chúng tập trung toàn bộ lực lượng để bảo vệ kho đạn và bưu điện. De Courcy khẩn thiết xin viện binh từ ngoài Hải Phòng vào.
Ðến gần sáng, quân Pháp củng cố được đội ngũ và phản kích trở lại. Cuộc chiến đấu diễn ra ác liệt ở trong Thành nội. 9 giờ sáng ngày 5/7/1885, Hoàng thành thất thủ, quân Pháp hoàn toàn làm chủ tình thế. Hữu quân đô thống Hồ Văn Hiến và Nguyễn Văn Tường rước vua Hàm Nghi và ba quân rút ra khỏi kinh thành ở cửa Tây Nam. Hậu quân bảo vệ xa giá là Tôn Thất Thuyết. Quân hộ tống xa giá gặp bộ phận đón của Tôn Thất Lệ ở Trường Thi (La Chữ) tổng cộng có hơn 100 người.
Chiếm được Kinh thành, quân Pháp ra sức đốt phá, cướp bóc, bắn giết. Tất cả các của quý trong Hoàng cung đều bị vét sạch. Bộ Binh và Bộ Lại của Tôn Thất Thuyết bị đốt phá tan hoang.
Tuy chiếm được Kinh thành, nhưng đây không phải là mục đích của thực dân Pháp. Cho nên, "sự thật là sau khi thắng trận, ông (chỉ De Courcy -TG) bối rối vô cùng vì cuộc đổ máu ngày 5 tháng 7 đã biến đổi tất cả ở xứ An Nam. Vị vua trẻ tuổi đã rời bỏ kinh thành, ở Huế không còn chính phủ, chính quyền, không còn ai có thể thi hành điều ước liên kết mà ta đã ký kết với xứ An Nam".
Ngược lại, Tôn Thất Thuyết tuy thất bại trong việc tiêu diệt quân Pháp ở Kinh thành, nhưng lại làm cho điều sợ hãi nhất của thực dân Pháp biến thành sự thật - dưới danh nghĩa vua Hàm Nghi ông đã tổ chức một cuộc kháng chiến chống Pháp rộng lớn trên cả nước với tên gọi phong trào Cần Vương.
Từ ngày 18/8/1883 đến ngày 5/7/1885, là giai đoạn nhân dân Thừa Thiên Huế và triều đình nhà Nguyễn trực tiếp đối đầu với lực lượng quân đội xâm lược Pháp ngay trên đất kinh đô Huế. Tuy chỉ rất ngắn ngủi về mặt thời gian, song đây là giai đoạn kết thúc sự tồn vong của nền độc lập dân tộc nói chung, của Thừa Thiên Huế nói riêng vào cuối thế kỷ XIX.
(Còn nữa)
Thời Thực dân Pháp xâm lược (1858-1930) (tiếp)
Sau
sự kiện Kinh đô thất thủ ngày 23/5 năm Ất Dậu (5/7/1885), Tôn Thất
Thuyết hộ giá vua Hàm Nghi tới Sơn phòng Tân Sở Quảng Trị. Tại đây ngày
2/6 năm Ất Dậu (13/7/1885) vua Hàm Nghi đã hạ dụ Cần Vương kêu gọi nhân
dân kháng Pháp. Và sau đó ngày 11/8 năm Hàm Nghi thứ nhất (19/9/1885),
tại núi Ấu Sơn, huyện Hương Sơn thuộc Sơn Phòng Hà Tĩnh, vua Hàm Nghi hạ
dụ Cần Vương lần thứ hai.
Thừa Thiên Huế đấu tranh chống Thực dân Pháp (1885 - 1916)
Sau khi hai bản dụ Cần Vương được phát
đi, một phong trào vũ trang khởi nghĩa chống Pháp đã bùng nổ mạnh mẽ
khắp Trung Kỳ và Bắc Kỳ (Phong trào Cần vương), kéo dài từ 1885 đến
1898.
Không thể đưa vua Hàm Nghi trở lại Huế,
hoảng sợ trước phong trào Cần vương kháng Pháp đang lên cao, thực dân
Pháp quyết định lập vua mới thay vua Hàm Nghi. Ngày 19/9/1885, Hoàng tử
Chánh Mông - Ưng Đường chính thức ngồi lên ngai vàng ở điện Thái Hòa với
niên hiệu Đồng Khánh.
Đồng Khánh lên ngôi là một ông vua bù
nhìn chịu sự điều khiển của thực dân Pháp, ngay lập tức đã ra tay tiêu
diệt phái chủ chiến mà đứng đầu là Tôn Thất Thuyết, Trần Xuân Soạn và
Nguyễn Văn Tường bằng cách tước hết quan tước, tịch thu gia sản, ra sức
truy lùng, nếu bắt được thì cho xử chém ngay.
Hưởng ứng dụ Cần Vương, tại Thừa Thiên
đã diễn ra cuộc khởi nghĩa của Đặng Huy Cát (8/1885) tập hợp nghĩa sỹ
của hai huyện Hương Trà, Quảng Điền ngăn chặn việc bắt lính của triều
đình, bắt giam phái viên của huyện Quảng Điền, tập kích vào huyện nha
Quảng Điền. Do lực lượng khởi nghĩa không nhiều lại thiếu kế hoạch cụ
thể nên nhanh chóng thất bại.
Ngày 01/11/1888, vua Hàm Nghi bị bắt,
ngày 22/11/1888 nhà vua bị đưa về đến cửa Thuận An. Ngày 25/11/1888, nhà
vua bị đưa xuống tàu đi Lăng Cô để từ đó chuyển vào Sài Gòn. Ngày
13/12/1888, vua Hàm Nghi bị đưa xuống tàu mang tên Biên Hòa vượt đại
dương đến châu Phi. Ngày 13/1/1889, nhà vua đặt chân đến Algérie, bắt
đầu cuộc sống lưu đày của mình. Nhà vua yêu nước qua đời ở đây vào năm
1943.
Phong trào Cần Vương tan rã trong thập
niên 90 trên khắp đất nước đã gieo vào lòng tầng lớp sĩ phu tư tưởng u
hoài, thất vọng, nhưng các cuộc đấu tranh cứu nước theo tư tưởng dân chủ
lại mở ra do những trí thức nho học tiến bộ lãnh đạo.
Với vị trí là kinh đô của cả nước, Thừa
Thiên Huế những năm đầu thế kỷ XX là nơi hội tụ của nhiều luồng tư tưởng
yêu nước tiến bộ, các phong trào yêu nước cũng diễn ra không ngớt và
nhiều nhà yêu nước nổi tiếng đã có mặt ở đây như: Phan Bội Châu, Phan
Chu Trinh, Trần Quý Cáp, Huỳnh Thúc Kháng... Các hoạt động của các nhà
yêu nước đã góp phần làm cho nhân dân ý thức được thân phận bị áp bức mà
đứng dậy tham gia các đấu tranh hưởng ứng các phong trào Duy Tân, Đông
Du và tiêu biểu nhất là cuộc đấu tranh chống thuế diễn ra rầm rộ trên 9
tỉnh miền Trung, trong đó có Thừa Thiên Huế vào tháng 4/1908.
Đặc biệt, giai đoạn này Thừa Thiên Huế
còn là nơi gắn bó với thời niên thiếu của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong
những năm tháng Người cùng gia đình sống, học tập và tham gia các hoạt
động tại đây qua hai giai đoạn 1895 – 1901; 1906 – 1909.
Tiếp nối truyền thống đấu tranh liên tục
của nhân dân ta, tổ chức cách mạng duy nhất ở Việt Nam đầu thế kỷ này
là Quang Phục hội đã tiến hành một cuộc khởi nghĩa quy mô ở miền Nam
Trung Kỳ và ở Huế năm 1916.
Thừa Thiên Huế tiếp tục đấu tranh chống Thực dân, phong kiến và vận động thành lập Đảng Cộng sản (1916 - 1930)
Thừa Thiên Huế là nơi tập trung cao nhất
sự câu kết giữa thực dân Pháp và phong kiến Nam triều. Sau cuộc khởi
nghĩa năm 1916 ở Huế thất bại, các thế lực thống trị càng củng cố bộ máy
cai trị chặt chẽ hơn. Vua Duy Tân - vị vua yêu nước tham gia cuộc khởi
nghĩa Thái Phiên - Trần Cao Vân bị đưa đi đày tại đảo Réunion, thực dân
Pháp tiếp tục lập những ông vua bù nhìn lên ngôi: Khải Định (1916 -
1925); Bảo Đại (1926 - 1945). Thực dân Pháp tiến hành thâu tóm quyền
lực, sáp nhập ngân sách Nam triều vào ngân sách Trung kỳ của Pháp, Khâm
sứ Pháp chủ tọa các cuộc họp của Hội đồng Thượng thư. Như vậy quyền hành
đã nằm hoàn toàn trong tay Pháp, biến vua quan nhà Nguyễn thành công cụ
thừa hành của chúng.
Năm 1926, Toàn quyền Đông Dương cho
chuyển Hội đồng Tư vấn Trung Kỳ thành Viện Nhân dân đại biểu Trung Kỳ,
với bộ mặt dân chủ giả hiệu Viện Nhân dân đại biểu Trung kỳ chỉ là công
cụ để thực dân Pháp thực hiện chính sách cai trị.
Năm 12/12/1929, Toàn quyền Đông Dương ra
nghị định nâng cấp Huế lên thành phố. Đứng đầu là viên Đốc lý do công
sứ Thừa Thiên kiêm nhiệm. Bộ máy cai trị cấp tỉnh và thành phố đều do
người Pháp nắm giữ với sự câu kết chặt chẽ của quan lại Nam triều.
Tòa Khâm sứ và Công sứ Pháp chi phối mọi
hoạt động của triều đình Huế và phủ Thừa Thiên. Trong lĩnh vực cai trị
người Pháp luôn giữ vai trò chỉ huy, quan lại Nam triều chỉ thừa hành.
Trong thời kỳ này kinh tế - xã hội Thừa
Thiên Huế có một số đặc trưng sau: Hoạt động kinh tế chủ yếu là nông
nghiệp. Công thương nghiệp chưa phát triển, chỉ có một vài ngành phát
triển như in ấn, vật liệu xây dựng. Huế chưa trở thành trung tâm kinh tế
của miền Trung. Tình hình phân hóa xã hội sâu sắc và phức tạp hơn nhiều
nơi khác, ngoài các thứ dân sĩ - nông - công - thương, Thừa Thiên Huế
có cả khu phố Tây cho cư dân Pháp và phủ, thự cho hàng nghìn quan lại,
gia đình Hoàng tộc.
Tình hình kinh tế - xã hội đã ảnh hưởng sâu sắc đến cuộc vận động cách mạng giải phóng dân tộc ở Thừa Thiên Huế.
Trong giai đoạn này, Thừa Thiên Huế bắt
đầu tiếp thu con đường cứu nước theo cách mạng vô sản, tạo nên những
chuyển biến mới trong đấu tranh.
Qua các con đường bí mật từ Pháp, Quảng
Châu (Trung Quốc), ảnh hưởng của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa tháng
Mười Nga đã lan rộng trong nhân dân ta. Ở Thừa Thiên Huế xuất hiện nhiều
tác phẩm của Mác, Ăng ghen như: “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”, “Tư bản
luận” cùng nhiều bài viết ca ngợi thắng lợi của cách mạng tháng Mười
Nga. Hoạt động của đồng chí Nguyễn Ái Quốc ở nước ngoài, cùng với những
tác phẩm của Người như: “Bản án chế độ thực dân Pháp”, báo “La Paria”
cũng tác động rất sâu sắc tới nhận thức tư tưởng của thanh niên trí thức
Huế, hướng dẫn họ tham gia vào các hoạt động cách mạng.
Trong thời gian này phong trào đọc sách
báo tiến bộ phát triển ở nhiều nơi trong tỉnh. Nhóm học sinh yêu nước ở
Huế đã lấy hiệu sách “Mai Ký” ở Bến Ngự làm nơi liên lạc trao đổi sách
báo. Ở các vùng nông thôn như Truồi (Phú Lộc), Phú Vang, Hương Thủy cũng
có nhóm đọc sách. Qua nghiên cứu sách báo tiến bộ, thanh niên trí thức
Thừa Thiên Huế dần dần tiếp cận với co sở lý luận của chủ nghĩa Mác -
Lênin, nhận thức về mục tiêu và con đường đấu tranh giải phóng dân tộc
được nâng lên một bước.
Một số phong trào đấu tranh ở Thừa Thiên Huế trong thời kỳ này:
Năm 1925, cụ Phan Bội Châu bị bắt ở
Thượng Hải, thực dân Pháp đưa cụ về giam tại Hỏa Lò, Hà Nội. Trên cả
nước nói chung, Thừa Thiên Huế nói riêng đã bùng phát phong trào đòi thả
tự do cho cụ Phan Bội Châu. Trước áp lực mạnh mẽ của quần chúng, ngày
24/12/1925 bản án được hủy bỏ, chính quyền thực dân đưa cụ về giam lỏng ở
Huế.
Ngày 24/3/1926 nhà chí sỹ Phan Chu Trinh
qua đời tại Sài Gòn. Nhiều cuộc truy điệu để tang cụ Phan Chu Trinh
được tổ chức ở Huế để tuyên truyền về lòng yêu nước thu hút nhân dân
tham gia.
Phong trào đấu tranh của các tầng lớp
nhân dân Thừa Thiên Huế tiếp tục phát triển trong những năm 1926 -
1927, dưới các khẩu hiệu chống áp bức vương quyền, học sinh tiếp tục bãi
khóa chống chính sách giáo dục hà khắc. Như phong trào bãi khóa của
trường Kỹ nghệ Thực hành, trường Quốc Học, phong trào đấu tranh của anh
em phu kéo xe...
Phong trào yêu nước còn diễn ra sôi nổi
trên lĩnh vực báo chí và nghị trường. Trong Viện dân biểu Trung Kỳ đã có
đại biểu của nhân dân: Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn Đăng Quế... mặc dù
quyền lực bị hạn chế nhưng đã trở thành diễn đàn đấu tranh giữa lực
lượng yêu nước tiến bộ chống lại thực dân phong kiến.
Trong những năm 1925 - 1927, nhiều trào
lưu tiến bộ từ bên ngoài tác động vào Việt Nam. Hoạt động của Việt Nam
thanh niên cách mạng đồng chí Hội (Hội Việt Nam cách mạng thanh niên) do
Nguyễn Ái Quốc sáng lập đã truyền bá tư tưởng yêu nước, cách mạng, thúc
đẩy phong trào trong nước phát triển theo hướng mới.
Phong trào yêu nước phát triển mạnh, ý
thức chính trị giác ngộ của quần chúng được nâng cao. Đòi hỏi phải có
chính đảng đứng ra lãnh đạo tổ chức. Trước yêu cầu cấp bách của phong
trào cách mạng, các tổ chức tiền thân của Đảng lần lượt ra đời trong cả
nước và ở Thừa Thiên Huế.
Tháng 6/1925 tổ chức Việt Nam Thanh niên
cách mạng đồng chí hội (Hội Việt Nam cách mạng thanh niên) được đồng
chí Nguyễn Ái Quốc sáng lập ở Quảng Châu - Trung Quốc. Tháng 1/1927, Hội
tổ chức cơ quan chỉ đạo ở Trung Kỳ (Kỳ bộ Trung Kỳ) và từ tháng 3/1927
mới phát triển rộng ra các tỉnh. Tháng 7/1927 Tỉnh bộ lâm thời Thanh
niên ở Huế được thành lập do đồng chí Nguyễn Đức Tịnh làm Bí thư.
Sau phong trào bãi khóa 1927, Tân Việt
mới gây dựng cơ sở tương đối vững chắc ở Huế. Nhóm Tân Việt đầu tiên ở
Huế gồm: Đào Duy Anh, Võ Liêm Sơn, Trần Hữu Duẫn, Phạm Văn Đại, Nguyễn
Chí Diểu, Nguyễn Khoa Văn, Nguyễn Hoàng. Trong đợt khủng bố của thực dân
Pháp năm 1927, hầu hết cán bộ của Tổng bộ và kỳ bộ Tân Việt bị bắt.
Đảng Tân Việt ở Huế cho đến tháng 7,8/1929 hầu như tan rã.
Năm 1929 là năm đánh dấu sự chuyển biến
mạnh mẽ trong cách mạng Việt Nam nói chung và Thừa Thiên Huế nói riêng.
Kết quả của sự truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin đã đưa đến sự chuyển biến
rõ rệt về tư tưởng, tổ chức và phong trào cách mạng, xuất hiện xu hướng
chuyển sang cộng sản và nhu cầu thành lập Đảng cộng sản để lãnh đạo sự
nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc.
Ở Thừa Thiên Huế cũng diễn ra quá trình vận động thành lập Đảng cộng sản.
Tháng 7/1929 Tỉnh bộ Đông Dương cộng sản
đảng được thành lập. Tháng 4/1929, đồng chí Lê Viết Lượng phái viên của
Đông Dương cộng sản Liên Đoàn đến Huế để cải tổ Tỉnh bộ Tân Việt Thừa
Thiên Huế thành lập Tỉnh bộ Đông Dương cộng sản Liên Đoàn, nhưng phải
đến năm 1930 Tỉnh ủy lâm thời Đông Dương cộng sản Liên Đoàn mới được
thành lập ở Huế.
Sự ra đời của hai tổ chức cộng sản ở Huế
đã có tác động tích cực đến phong trào cách mạng trong toàn tỉnh. Ở các
huyện nông thôn Thừa Thiên Huế có sự chuyển biến rõ rệt, các đồng chí
đảng viên luôn bám sát cơ sở, vận động quần chúng tham gia hoạt động
cách mạng.
Sau Hội nghị ở Hương Cảng (từ 3 đến
7/2/1930) hợp nhất các tổ chức tổ chức cộng sản thành Đảng cộng sản Việt
Nam, tại các địa phương trong cả nước, công việc hợp nhất các tổ chức
cộng sản được tiến hành khẩn trương. Tại Thừa Thiên Huế tháng 3/1930
đồng chí Nguyễn Phong Sắc ủy viên Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam, Bí
thư Xứ ủy Trung Kỳ đến Huế để vận động thống nhất các tổ chức cộng sản ở
Thừa Thiên Huế. Chủ trương này được Đảng bộ Đông Dương cộng sản Đảng,
Đông Dương cộng sản Liên đoàn nhất trí tán thành.
Tháng 4/1930, Hội nghị hợp nhất Tỉnh
Đảng bộ Thừa Thiên đã họp bàn và tuyên bố thống nhất hai tổ chức cộng
sản thành Tỉnh Đảng bộ Đảng cộng sản Việt Nam tỉnh Thừa Thiên do đồng
chí Lê Viết Lượng làm Bí thư. Sau Hội nghị hợp nhất tỉnh Đảng bộ, các
chi bộ Đảng được thành lập ở khắp nơi trong Tỉnh.
Tỉnh Đảng bộ Thừa Thiên ra đời là một sự
kiện chính trị có ý nghĩa quan trọng đối với phong trào cách mạng tỉnh
nhà, là nhân tố quyết định đưa phong trào đấu tranh lên đỉnh cao góp
phần cùng nhân dân cả nước đánh đổ chế độ thực dân phong kiến, hoàn
thành sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc.
Bản viết tay lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Bác
Chiều 15/12, kỷ niệm 70 năm ngày ra
lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, Bảo tàng Hồ Chí Minh tổ chức triển
lãm “Chủ tịch Hồ Chí Minh – Hành trình kháng chiến chống thực dân Pháp
xâm lược (1946-2954).
XEM CLIP:
Play
Triển
lãm được chia hai phần chính: Mở đầu, người xe nghe lại băng ghi âm
“lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Ông Vũ Mạnh Hà, Giám đốc Bảo tàng Hồ Chí Minh phát biểu khai mạc triển lãm
Phần
hai là triển lãm hành trình kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược,
với gần 200 ảnh, tài liệu, hiện vật triển lãm giới thiệu đến người xem
hoàn cảnh lịch sử dẫn đến sự ra đời của Lời kêu gọi toàn quốc kháng
chiến;
Hành trình kháng chiến chống thực dân
Pháp đầy khó khăn, gian khổ của Đảng, Chính phủ và nhân dân ta dưới sự
lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh để đi đến chiến thắng Điện Biên Phủ
năm 1954.
Trong số 200 tư liệu ảnh, hiện vật quý giá, phải kể đến bản viết tay lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Một số hình ảnh tại triển lãm:
Ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập tại quảng trường Ba Đình
Toàn cảnh gian phòng triển lãm
Triển lãm đưa người xem sống lại thời kì cả nước đoàn kết một lòng chống thực dân, giải phóng dân tộc khỏi ách đô hộ
Bản viết tay lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Nhiều người ôn lại lịch sử qua tấm bản đồ các nước Đông Dương và Việt Nam
Một số người chụp lại những tư liệu quý để lưu niệm
Bức tượng Bác Hồ đi chiến dịch được đặt trang trọng trong gian trưng bày triển lãm
Bác Hồ trên đường đi chiến dịch Biên giới 1950
Bộ đội tham gia chiến dịch Biên giới nghe đọc lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế, đặc biệt là nhân dân Pháp
Bút tích của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Chiến thắng Điện Biên Phủ đặt dấu chấm hết cho sự đô hộ của thực dân Pháp tại Việt Nam
Nhân dân vui mừng chào đón Chủ tịch Hồ Chí Minh và đoàn lãnh đạo Trung ương Đảng, Chính phủ trở về Thủ đô năm 1955
Quốc ca và Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Đoàn Bổng
Nhận xét
Đăng nhận xét