Dai Chung la su suy ngam cua toi ve cuoc doi, xa hoi, nhan sinh
CÂU CHUYỆN TÌNH BÁO 257/0
Nhận đường liên kết
Facebook
X
Pinterest
Email
Ứng dụng khác
-
(ĐC sưu tầm trên NET)
Truyện tình báo Điệp viên giữa sa mạc lửa - P21
Truyện tình báo Điệp viên giữa sa mạc lửa - P22
Kamufliaz - Chiến dịch ngụy trang táo bạo của KGB
Hồng Sơn |
Ngày 1-8-1985, quan chức đứng đầu bộ phận phản gián
Gadner Hathaway tại Langley (trụ sở của Cục tình báo trung ương Mỹ -
CIA) nhận được một bức điện khẩn từ chi nhánh của tình báo Mỹ tại Italy.
Nội dung bức điện cho biết ngay sáng hôm đó, đại tá Vitaly Sergeyevich
Yurchenko đã có mặt tại đại sứ quán Mỹ ở Rome với mong muốn hợp tác với
Washington.
Khỏi phải nói Hathaway đã mừng tới mức độ nào khi
cương vị hiện tại của nhân vật đào tẩu này là hết sức ấn tượng – Phó
chỉ huy ban 1 (ban phụ trách nước Mỹ) của Tổng cục I (tình báo đối ngoại
của KGB),
là nơi chuyên triển khai các chiến dịch tình báo trên lãnh thổ Mỹ và
Canada. Kể từ thời của đại tá Penkovski, người Mỹ chưa bao giờ bắt được
“con cá vàng” cỡ bự như vậy.
Tuy nhiên, CIA không thể biết
được rằng, đó chỉ là điểm mở đầu cho một chiến dịch ngụy trang hết sức
mạo hiểm của KGB nhằm che giấu siêu điệp viên Aldrich Ames của mình tại
Langley… Kế hoạch “Lỗ hống sạch”
Cũng ngay trong
chiều tối hôm đó, Hathaway nhận thêm một bức điện nữa từ Rome. Trong đó
Yurchenko cho biết, 6 tháng trước tại Vienna, có một người Mỹ đã liên hệ
với chi nhánh KGB tại đây, cung cấp tên tuổi của một số công dân Xôviết
đang làm việc cho Mỹ.
Dù chưa làm việc trực tiếp với nguồn tin
này, nhưng Yurchenko biết được nhân vật này từng có thời gian làm việc
cho CIA và bất ngờ bị sa thải ngay trước chuyến công tác tới Moscow.
Hathaway
thật ra vào thời điểm đó đã biết được, nhân vật được nhắc tới không ai
khác chính là Edward Lee Howard. Ông ta nhấc điện thoại gọi điện trực
tiếp cho Giám đốc CIA William Casey để báo về tin mừng này.
Vitaly Sergeyevich Yurchenko.
Quay
trở lại thời điểm năm 1977, Hathaway, khi đó đang lãnh đạo chi nhánh
của CIA tại Moscow, nhận thấy rằng, tất cả các điệp viên của ông ta mỗi
khi rời khỏi đại sứ quán đều không thể thoát được sự theo dõi của phản
gián Xôviết.
Trong khi các nhà ngoại giao Mỹ thuần túy lại không
hề nằm trong tầm ngắm. Thực tế cho thấy trước khi bất cứ nhân viên CIA
nào đặt chân tới Moscow, KGB đều đã nắm được đầy đủ thông tin về nhân
vật này, chủ yếu bằng cách rà soát những công việc anh ta đã làm trước
đây tại nhiều quốc gia trên khắp thế giới.
Ý tưởng về kế hoạch
“Lỗ hổng sạch” của Hathaway ra đời từ thời điểm đó, mục tiêu là lôi kéo
các điệp viên có “vỏ bọc sạch”, tức là có độ tuổi dưới 30, từ trước
chưa từng làm việc cho cơ quan tình báo ở nước ngoài.
Theo dự
kiến của Hathaway, những điệp viên loại này cần phải hoạt động như một
bóng ma: xuất hiện nhanh chóng tại địa điểm vào đúng thời gian cần thiết
và cũng nhanh chóng rút lui. Chân tướng thực sự của họ chỉ có Langley
và đại sứ của Mỹ tại Moscow biết đến. Kế hoạch “Lỗ hổng sạch” nhanh
chóng được phê chuẩn với người tiên phong là viên sĩ quan trẻ Edward Lee
Howard.
Để có thể đảm trách được với những khó khăn sẽ phải đương
đầu tại Moscow, Howard được thông tin khá chi tiết về các chiến dịch
tình báo Mỹ đang triển khai tại đây.
Howard tuy nhiên đã không
thể tới được Moscow – tại đợt sát hạch qua máy kiểm tra nói dối vào
tháng 4-1983, anh ta bị phát hiện đã cố tình giấu giếm về việc sử dụng
các loại thuốc an thần trong quá khứ, cũng như về tật nghiện rượu của
mình.
Việc không được cử tới Moscow và sau đó là quyết định sa
thải không rõ lý do chỉ một tháng sau đó đã khiến giấc mơ trở thành “anh
hùng dân tộc” của Howard tan vỡ.
Tháng 8-1983, lãnh sự của Liên
Xô tại Washington nhận được đơn xin cấp visa du lịch của Howard, trong
đó có kẹp một lá thư với yêu cầu gặp đại diện của KGB để cung cấp một số
thông tin mật.
Nhưng do đề xuất gặp gỡ của anh ta ngay tại khu
đồi Capitol là khá nguy hiểm, nên KGB đã khước từ vì lo ngại đây có thể
là một cái bẫy của Cục Điều tra liên bang Mỹ (FBI). Một năm sau, trước
những nỗ lực của Howard tìm cách liên lạc, trung tâm đã chấp thuận đề
xuất tiếp xúc với anh ta. Một biến cố bất ngờ đã khiến cuộc gặp không
thể diễn ra nhanh chóng.
Tháng 2-1984, trong một cuộc cãi cọ tại
quán bar, Howard đã rút súng bắn lên trần nhà. Hậu quả là anh ta phải ra
tòa, nhận bản án 5 năm tù treo cùng quyết định cấm xuất cảnh. Howard
chuyển tới sống tại Santa Fe, tạm hài lòng với vai trò chuyên gia kinh
tế tại Nghị viện bang New Mexico.
Sau khi điệp viên KGB tìm ra địa
chỉ mới của Howard, anh ta rất nhanh chóng nhận lời mời hợp tác. Ngày
21-9-1984, Howard lén bay sang Vienna, tới lãnh sự quán Xôviết tại đây
để gặp gỡ đại diện KGB.
Anh ta tiết lộ nhiều thông tin quý giá về
kế hoạch “Lỗ hổng sạch” cũng như những điệp viên đầu tiên tham gia
chương trình trên đang hoạt động tại Moscow. Howard nhận được khoản tiền
thưởng hậu hĩnh 150 ngàn đôla. Dù Howard chỉ cho đây là một “thương vụ
nhất thời”, nhưng Moscow lại đánh giá khác. KGB vẫn liên tục giám sát
anh ta với hy vọng có thể tiếp tục khai thác.
Sau khi nhận được
thông báo từ Giám đốc CIA như đã nói ở trên, FBI đã tổ chức theo dõi
Howard rất sát sao nhằm tìm kiếm bằng chứng để bắt giữ anh ta. Do không
thể tìm ra chứng cớ, ba nhân viên FBI đã trực tiếp thẩm vấn Howard trong
suốt 8 giờ liên tục.
Cựu nhân viên CIA vẫn khăng khăng phủ nhận
tất cả. Một ngày sau, anh ta lẻn vào lãnh sự quán Xô Viết tại New York,
từ đây được bí mật đưa tới Đan Mạch và Phần Lan, trước khi an toàn đặt
chân tới Moscow. Những tiết lộ của “cá vàng”
Quay trở
lại với vụ của Yurchenko. Anh ta được đưa từ Italy tới Mỹ trên một
chiếc máy bay vận tải quân sự. Theo chỉ thị của chính Giám đốc CIA,
Yurchenko được nhận một khoản tiền lương suốt đời vào khoảng 70 ngàn
đôla mỗi năm. Kèm theo đó là quyền sử dụng một biệt thự hai tầng tại khu
vực ngoại ô Washington.
Cáo trạng truy nã Edward Lee Howard của FBI.
Người
Mỹ đã nhận được “cơn mưa thông tin” có giá trị từ Yurchenko. Anh ta kể
chi tiết về quá trình Tổng cục I điều tra về các nguyên nhân phản bội
của Oleg Gordievski.
Tiếp đó là tiết lộ về một loại “bụi gián
điệp” được phản gián Xô viết bí mật rắc lên quần áo các nhà ngoại giao
Mỹ và bên trong xe hơi của họ để có thể xác định những công dân Liên Xô
đã từng tiếp xúc.
Yurchenko tiết lộ cho người Mỹ về kế hoạch của
KGB triển khai những hòm thư và kho vũ khí bí mật trên lãnh thổ các nước
Tây Âu để sử dụng trong những trường hợp khẩn cấp.
Yurchenko
cho biết, chi nhánh KGB tại Washington vào tháng 1-1980 từng tiếp xúc
với một người Mỹ có bộ râu màu hung, người tự giới thiệu là một chuyên
gia phân tích của Cơ quan An ninh quốc gia (NSA). Chỉ nhờ thông tin
trên, CIA cùng FBI đã rà soát tổng cộng 580 trường hợp trước khi xác
định đó là Ronald William Pelton.
Cũng như Howard, Pelton vào
tháng 10-1979 đã không thể vượt qua được cuộc thử nghiệm trên máy phát
hiện nói dối liên quan đến những câu hỏi về sử dụng ma túy. Hậu quả là
anh ta bị giáng chức, tước khả năng được tiếp cận thông tin mật, lương
bổng giảm xuống một nửa.
Khó khăn về tiền bạc đã thúc đẩy Pelton
bước chân vào đại sứ quán Liên Xô tại Washington, đề xuất khả năng cung
cấp thông tin mật.
Nhờ Pelton, Moscow biết được về chiến dịch siêu
bí mật “Ivy Bells” của CIA nhằm lấy cắp thông tin qua đường cáp biển
dưới đáy biển Okhot. Ngoài ra, anh ta còn cung cấp dữ liệu về 5 hệ thống
do thám điện tử khác của Mỹ cùng 60 trang tài liệu mật khác. Qua thông
tin có được từ Yurchenko, Pelton nhanh chóng bị bắt giữ.
Trong
phiên tòa xét xử vào ngày 18-6-1986, Pelton bị phán quyết tội danh hoạt
động gián điệp cho Liên Xô với mức án tù chung thân. Cũng cần nói thêm,
cả Howard và Pelton đều có cơ hội chạy sang Moscow theo các kế hoạch bảo
vệ cộng tác viên của KGB.
Nhưng Pelton đã tỏ ra do dự khi nhận
được sự cảnh báo của KGB, không tới nơi hẹn như đã định. Qua một loạt
những thông tin quan trọng do Yurchenko cung cấp, CIA đã đặt trọn niềm
tin vào nhân vật này. Họ không thể ngờ rằng, đó chỉ là một cái bẫy được
vạch sẵn trong khuôn khổ chiến dịch “Kamufliaz”… Cuộc chạy trốn bất ngờ
Trưa
ngày 2-11-1985, Yurchenko cùng với nhân viên trẻ của CIA là Tom Hennen –
người luôn tháp tùng Yurchenko để ngăn chặn nguy cơ KGB có thể trả đũa –
có mặt tại nhà hàng Au Pieddu Cochon nổi tiếng về món ăn Pháp tại một
khu sang trọng của Washington.
Cần nói thêm, tại nhà hàng này cho
tới nay vẫn còn một tấm biển đề dòng chữ: “Nơi đây vào ngày 2-11-1985
đã diễn ra bữa ăn cuối cùng của Vitaly Yurchenko”…
Sau khi giải
quyết xong món tráng miệng, Yurchenko lấy cớ ra ngoài hít thở không khí
trong lành. Vài phút sau, khi cảm thấy có gì đó bất thường, Hennen chạy
bổ đi tìm đối tượng cần bảo vệ của mình, nhưng khi hiểu ra thì đã muộn.
Yurchenko
sau khi hoàn thành sứ mạng “kẻ đào tẩu” của mình đã quay trở lại để
thực hiện giai đoạn hai – đó là vạch trần và đả kích hoạt động của CIA.
Một
cuộc họp báo được tổ chức ngay sau đó vào ngày 4-11-1985 trong khuôn
viên đại sứ quán Liên Xô tại Washington đã thu hút được sự tham gia của
đông đảo các phóng viên Mỹ và quốc tế. Họ muốn tận mặt chứng kiến và tìm
hiểu: tại sao một nhân viên KGB từng chạy sang với người Mỹ 3 tháng
trước đó lại quyết định quay trở lại với đồng đội.
Trước đầy đủ
các phóng viên, Yurchenko khẳng định, anh ta bị CIA bắt cóc tại Rome.
Trong 3 tháng qua, anh đã bị nhân viên CIA chích ma túy nhằm bẻ gãy ý
chí và tìm cách để khai thác những bí mật quốc gia.
Yurchenko còn
tố cáo về việc anh ta bị CIA tìm cách ép buộc để thừa nhận mình đã phản
bội tổ quốc trước công luận nước Mỹ - cụ thể là bắt ký một hợp đồng với
điều khoản được nhận 1 triệu đôla nếu đồng ý làm điều này. Cuối cùng,
Yurchenko bày tỏ mong muốn được sớm quay trở về Liên Xô.
Sự kiện
trên là một đòn giáng mạnh vào uy tín của CIA, cũng như là một cú sốc
thực sự đối với giới chức lãnh đạo tại cơ quan này. Họ chỉ biết triển
khai một chiến dịch quy mô trên báo chí nhằm bôi nhọ Yurchenko – công bố
những bức ảnh có vẻ khá thân thiện giữa anh ta và các quan chức CIA
cũng như FBI, mô tả chi tiết một số bí mật do anh ta cung cấp… Chiến dịch đánh lạc hướng tinh vi
Câu
hỏi đặt ra là: tại sao KGB lại phải dày công chuẩn bị một chiến dịch
hết sức tinh vi như trên? Chiến dịch “Kamufliaz” thật ra có mục đích
chính nhằm che chắn cho siêu điệp viên Aldrich Ames.
Cho tới thời
điểm Yurchenko có mặt tại trụ sở của CIA, Ames đã cung cấp cho KGB thông
tin về hàng chục sĩ quan kỳ cựu của KGB và GRU (Cơ quan tình báo quân
đội) đang bí mật làm việc cho Mỹ.
Nhờ sự giúp đỡ của Ames, Liên
Xô đã kịp thời phong tỏa những kênh thông tin rò rỉ có tầm quan trọng
đặc biệt sống còn đối với an ninh đất nước. Mục tiêu chính đặt ra là
phải bằng mọi giá bảo vệ nguồn tin đặc biệt quan trọng trên.
KGB
đã rất kỳ công để chuẩn bị những thông tin quan trọng để Yurchenko có
thể chuyển cho CIA, trong đó có cả hai điệp viên về cơ bản đã không còn
có thể khai thác. Washington đã phải mất nhiều thời gian, công sức để
tập trung kiểm chứng những gì Yurchenko đã khai báo, chưa kể những nỗ
lực cứu vớt chút danh dự sau cuộc chạy trốn đầy bất ngờ của anh ta.
Tổng
thống Reagan khi đó cũng phải lên tiếng về vụ việc của Yurchenko: “Tôi
cho rằng, bất cứ người Mỹ nào cũng phải đặt câu hỏi về hành động của con
người đó, khi anh ta không biết vì sao lại quay trở lại Nga, khi đáng
ra có thể sống yên ổn tại Mỹ”.
Dù thế nào, thành công của chiến
dịch “Kamufliaz” với vai trò đặc biệt của Yurchenko chính là lôi kéo cả
CIA và FBI vào một “cuộc chơi vô bổ” trong một thời gian dài nhằm xác
minh những thông tin của anh ta, cũng như khắc phục hậu quả từ vụ trốn
chạy sau đó.
Tình báo Mỹ đã bị xao nhãng trong một thời gian đáng kể trước khi có thể phát hiện ra siêu điệp viên Aldrich Ames của Moscow.
Vitaly
Sergeyevich Yurchenko sau khi trở về nước đã được trao tặng danh hiệu
“Nhân viên danh dự của Cơ quan An ninh quốc gia”, phần thưởng cao quý
nhất của KGB. Còn Edward Lee Howard, trước khi Liên Xô tan rã đã chuyển
tới sống tại Hungary theo lệnh của Phó chủ tịch KGB Vadim Bakatin.
Dưới
áp lực của Mỹ, Hungary đã trục xuất Howard sang Thụy Điển, nơi anh ta
bị bắt giữ vào tháng 8-1992 vì nghi ngờ hoạt động gián điệp. Bị trục
xuất trở lại Nga một tháng sau đó, Howard lao vào kinh doanh bằng cách
mở một công ty bảo hiểm nhỏ. Ông này qua đời tại Moscow vào năm 2006 vì
chứng bệnh xơ gan.
Trùm cải trang CIA tiết lộ bí quyết nhà nghề
Bà Jonna Mendez, cựu giám đốc cải trang của
Cục Tình báo trung ương Mỹ (CIA), vừa tiết lộ với Wired một số bí quyết
cải trang từ đơn giản đến phức tạp dành cho tình báo, gián điệp nhưng
người bình thường cũng có thể làm được phần nào.
Với vai trò giám đốc cải trang, tôi quan
tâm chủ yếu tới vấn đề bảo vệ con người, bảo vệ các sĩ quan tình báo của
chúng tôi - những người sắp phải bước vào những tình huống có thể gặp
nguy hiểm. Nhưng quan trọng hơn là bảo vệ những người nước ngoài mà
chúng tôi gặp gỡ - những người thường phải đánh liều cả mạng sống.
Bà Jonna Mendez từng gắn bó với CIA 27 năm. Bên cạnh
là chồng bà - Tony Mendez. Ông là cựu nhân viên CIA, chính là người được
miêu tả trong phim tình báo Argo nổi tiếng. Ảnh: Washington Post.
Nếu bạn đang làm việc ở châu Âu và gặp một nguồn tin bí mật ở quán
café thì mối quan tâm lớn nhất của bạn có thể là người hàng xóm của mình
có thể bước vào quán đúng thời điểm đó và nói “Chào Bill” trong khi bạn
không phải là Bill. Và việc tình cờ gặp người quen là một vấn đề.
Và vì thế, bạn cần đeo, mặc, đội cái gì đó mà chúng tôi gọi là cải
trang hạng nhẹ. Cải trang nhẹ có thể đơn giản là đội tóc giả. Có thể chỉ
là một chút râu ria, một đôi kính, không phải là cái gì ghê gớm.
Còn cải trang hạng nặng thì phức tạp hơn. Đó là khi bạn phải tiếp xúc
gần, riêng tư trong một khoảng thời gian dài; người nói chuyện với bạn
sẽ không biết được là bạn đã cải trang, cứ tưởng mặt bạn là nguyên bản.
Một trong những điều diễn ra khi tôi làm giám đốc cải trang của CIA
là việc thực hiện chương trình nghiên cứu sâu quy mô lớn về hệ thống cải
trang hạng nặng đời mới. Về cơ bản, đó là những chiếc mặt nạ mà mọi
người luôn tò mò. Nếu chúng tôi sử dụng mặt nạ, đó chỉ là sự khởi đầu.
Tôi từng đeo mặt nạ khi gặp Tổng thống George H.W. Bush trong Phòng Bầu
dục, báo cáo ông ấy rồi gỡ mặt nạ ra và tiết lộ với ông ấy về việc cải
trang của mình.
Khi bạn cải trang thì ý tưởng chung là bạn sắp gặp ai đó và người này
sẽ viết bản ghi chú về bạn. Chúng tôi muốn mọi chi tiết trong bản ghi
chú miêu tả về bạn đều sai sự thực hết.
Nếu bạn là đàn ông thì cần thay đổi vẻ bề ngoài, bắt đầu từ phía
trên. Và thứ đầu tiên đập vào mắt là tóc. Nếu bạn tóc xoăn thì duỗi
thẳng nó. Nếu tóc đen thì có thể làm cho nó sáng màu. Nếu còn trẻ thì có
thể điểm vài sợi bạc. Nếu già thì có thể che những chỗ tóc bạc đi. Nếu
khuôn mặt màu râu nhẵn nhụi thì có thể đính một chút râu ria vào. Nếu
phải đi đâu đó lâu, bạn có thể phải nuôi một ít râu.
Chúng tôi còn tạo ra đồ giả dùng cho một số trường hợp. Bạn có thể
thực sự thay đổi xương gò má. Bạn có thể làm má to lên, trán rộng ra.
Bạn cũng có thể làm điều đó với mũi. Những cái đó chúng tôi gọi là mặt
tiền nha khoa.
Thực sự, chúng tôi có thể thay đổi hình dáng khuôn mặt bạn với mặt
tiền nha khoa phù hợp. Có mảnh vật liệu mảnh chúng tôi gọi là miếng ốp,
dùng để tăng độ dày của lợi. Và khi ốp vào lợi nó làm thay đổi nét khuôn
mặt bạn.
Và còn món đồ nữa là vòm miệng nhân tạo. Chúng có thể làm thay đổi
cách phát âm của bạn. Chúng có thể khiến bạn nói ngọng một chút. Chúng
rất hữu dụng.
Chúng tôi phát hiện ra rằng, người ta thường coi những người đàn ông
trông già nua ít nguy hiểm hơn so với người trông trẻ trung hơn. Vì vậy,
chúng tôi thích cải trang thành người trông già cả hơn.
Với phụ nữ, bạn có thể làm được nhiều điều hơn xét về mặt cải trang.
Bạn có thể tiến thêm một bước là biến một phụ nữ thành đàn ông, trong
khi rất khó để biến một người đàn ông thành phụ nữ.
Điều mà chúng tôi làm là luôn thêm vào. Chúng tôi có thể khiến bạn
cao hơn, nặng cân hơn, già hơn nhưng không làm ngược lại được.
Bạn trở thành người mà bước vào thang máy cùng với mọi người mà khi
bước ra không ai thực sự nhớ đến bạn, rằng bạn đã từng ở trong thang máy
với họ. Đó là một mục tiêu thiết kế của các phòng thí nghiệm cải trang
tại CIA.
Cải trang khi chỉ đơn giản là về hình dáng, đặc điểm khuôn mặt mà còn
về cách ăn mặc, cách thể hiện bản thân trong môi trường công cộng.
Người Mỹ thường không nhớ về những thứ khiến họ nổi bật trong đám
đông người nước ngoài. Điều này có ý nghĩa với nhân viên tình báo khi đi
ra ngoài.
Xét về hành vi, cách cư xử, có nhiều hành động nhỏ tiết lộ chúng ta
thực sự là ai. Về cách ăn, người châu Âu dùng tay trái cầm nĩa, và không
chuyển nĩa sang tay phải rồi lại sang tay trái (tay phải cắt thịt bò
bít-tết, tay trái xiên thịt đưa lên miệng). Còn người Mỹ thì liên tục bỏ
dao xuống, chuyển dĩa sang tay phải. Nói chung là liên tục bỏ dao
xuống, chuyển nĩa từ tay nọ sang tay kia (tay phải cắt thịt, bỏ dao
xuống, chuyển dĩa từ tay trái sang tay phải, xiên thịt đưa lên miệng,
rồi lại cầm dao lên…).
Về cách hút thuốc, người Mỹ cầm điếu thuốc giữa hai ngón tay trỏ và
giữa. Người châu Âu có xu hướng cầm bằng ngón cái và ngón trỏ.
Khi người Mỹ đứng, họ có xu hướng trụ bằng một chân, hoặc chân trái
hoặc chân phải. Người châu Âu họ đứng thẳng, không dựa lên cái gì cả.
Trọng lượng cơ thể họ phân bổ đều trên hai bàn chân.
Thay đổi cách bạn đi đứng đòi hỏi chỉnh sửa một số thứ bạn vẫn quen
làm. Vì vậy, bạn cần một số đồ phụ trợ để bạn bước đi kiểu khác. Bạn
không thể nói: “Có gì đâu, giờ tôi sẽ đi cà nhắc”.
Để thay đổi dáng đi, tôi sẽ bỏ một viên đá, viên sỏi nhỏ trong giầy
của mình. Chỉ là một vật nhỏ để khiến ngón chân tôi khó chịu. Và nó
khiến tôi thay đổi cách đi dù tôi có muốn hay không.
Bạn có thể cuốn băng quanh đầu gối. Những thứ hạn chế vận động sẽ khiến bạn thay đổi cách đi.
Cải trang có thể áp dụng với bạn và cuộc sống hằng ngày của bạn xét về việc đi lại khắp thế giới và giữ cho mình an toàn.
Hai người này thực sự chỉ là một người mà thôi. Ảnh: Wired.
Tôi lấy Paris làm ví dụ. Bất kỳ khi nào bạn đến gần Nhà thờ Đức bà
Paris hoặc đi trên những cây cầu bắc qua sông Seine đều có các nhóm
người ở đó. Hoặc là họ muốn móc túi bạn hoặc muốn gây rắc rối nào đó. Và
họ tập trung ở những điểm nghẽn này. Và nếu họ nhìn đôi giầy bệt bạn
đi, mũ bóng chày bạn đội và biết được rằng bạn là người Mỹ thì bạn trở
thành một mục tiêu.
Và nếu bạn muốn an toàn thì chả có gì sai khi ghé vào một cửa hàng địa phương và mua vài bộ đồ người bản địa thường mặc.
Nếu bạn hút thuốc lá, hãy dùng thuốc lá địa phương. Ngoài ra, bạn luôn có thể bổ sung cặp kính, chiếc mũ…
Bạn chỉ cần loại bỏ những dấu ấn, đặc điểm Mỹ mà chúng ta mang theo người theo nhiều cách mà chúng ta không để ý.
Chúng ta biết rằng, nhiều việc chúng ta làm là vô thức và khó thay
đổi. Bạn có thể nhờ một người bạn chu đáo quan sát cung cách đi đứng,
nói cười, trò chuyện của mình để tìm ra những nét khu biệt bạn với người
khác. Từ đó bạn sẽ dễ thay đổi chúng hơn.
Bạn phải có khả năng thay đổi vẻ bề ngoài một cách bí mật, nhanh
chóng, nhất là khi đang trên phố. Bạn sử dụng đám đông như là một chiếc
mặt nạ. Khi làm điều này, bạn đo lường bằng số bước đi. Bạn mường tượng
mình sẽ trở thành ai. Bạn bước vào cửa hàng quần áo hiệu GAP, bạn có 37
giây để bước ra với sự thay đổi mà bạn muốn.
Mục tiêu của thay đổi nhanh chóng là biến mất. Nếu bạn bị bám đuôi và
họ phát hiện ra rằng, bạn biến mất thì bạn không muốn họ nghĩ rằng bạn
đã trốn thoát. Bạn muốn họ nghĩ rằng, họ đã lạc mất bạn. Đó là lỗi của
họ.
Hòa nhập vào môi trường xung quanh đòi hỏi nhận thức nhanh về tình
huống. Bạn phải biết được mình đang ở đâu, thuộc cộng đồng nào để có
thay đổi phù hợp mà không ai nghi ngờ.
Theo Thái An
Tiền phong
Người kiến tạo “thời kỳ trăng mật” giữa tình báo Mỹ và Liên Xô
14:32 30/01/2018
Theo các nhà nghiên cứu lịch sử tình báo, trước Thế chiến thứ
II, nước Mỹ chưa có cơ quan tình báo thống nhất. Khi nước Mỹ sửa soạn
tham chiến, Tổng thống Roosevelt quyết định thành lập cơ quan tình báo
trung ương thống lĩnh tất cả các cơ quan tình báo hiện hữu.
Việc này bị giới lãnh đạo nhiều cơ quan tình báo khác nhau chống đối,
đặc biệt là Bộ Hải quân. Nhưng Tổng thống Roosevelt không nao núng.
Ngày 11-7-1941 ông chỉ định Đại tá (sau này là Thiếu tướng William
Joseph Donovan) soạn thảo dự án thành lập tổ chức đó.
Trong cuốn sách “Hoạt động tình báo - chìa khóa phòng vệ”, Donovan
nhớ lại lời Tổng thống Roosevelt đã nói với ông vào ngày hôm đó: “Anh
bắt đầu hoàn toàn từ đầu là rất tốt. Bởi vì nước Mỹ chưa có cái gọi là
một cơ quan tình báo đúng nghĩa”. Mối quan hệ giữa “Bill Hoang dã” và cha đẻ của điệp viên 007
William J.Donovan sinh trưởng trong một gia đình công chức người
Ireland theo Thiên chúa giáo tại thành phố Buffalo. Từng là một luật sư
và có thời gian tham gia Thế chiến thứ I, William Donovan bắt đầu hoạt
động tình báo từ năm 1919 ở vùng Siberia, nơi ông đi hưởng tuần trăng
mật với vợ.
Trợ lý tin cậy hàng đầu của ông là nữ đầu bếp Julia Child. Do OSS chú
trọng việc cần tuyển dụng các nhà trí thức và những người giỏi nhất
thuộc các lĩnh vực nên OSS bị đọc trại từ “Office Strategies Service”
thành “Oh So Social”, hiểu nôm na là “xã hội hóa” cơ quan tình báo này.
Ông William J.Donovan tại văn phòng của OSS.
Còn Wiliam Donovan, với tính cách ưa cầu toàn, rất dễ “nổi điên” với
đồng nghiệp và thuộc cấp nhưng lại có thành tích chiến đấu can đảm, giàu
trí tưởng tượng và cứng rắn nên ông được đặt cho biệt danh “Bill Hoang
dã”. Chức vụ mà Donovan được chỉ định vào ngày 11-7-1941 ban đầu được
gọi là “Người phối hợp cơ quan tình báo”.
Nhưng bất chấp lệnh của tổng thống gửi tất cả các cơ quan chính phủ
yêu cầu cung cấp cho Donovan thông tin mang tính chiến lược và chiến
thuật, viên đại tá đã vấp phải sự chống đối ra mặt, sự không thông hiểu,
sự ghen ghét của những người đại diện cho quyền lợi cục bộ của các cơ
quan và họ đã dùng đủ cách cản trở khiến công việc của ông gần như không
thể thực hiện nổi.
Thông tin do Ngoại Vụ viện, Quân đội và Hạm đội Hải quân cung cấp cho
ông chẳng thể sử dụng vào mục đích gì. Những người có kinh nghiệm hoạt
động tình báo trước yêu cầu đề nghị chuyển sang làm việc cho Donovan đều
từ chối. Cánh tình báo quân sự miễn cưỡng chia sẻ thông tin, họ vin vào
chuyện bẻ khóa mật mã từng bị Bộ Ngoại giao Mỹ cấm từ năm 1929, do
Ngoại trưởng Henry Stimson nhận định “người lịch sự thì không xem thư
người khác”.
Khi đó William Donovan bèn chuyển hướng hành động và mời làm việc
toàn những người ngoài cuộc, chưa hề hoạt động tình báo bao giờ như nhân
viên các công ty, nhân viên các ngân hàng, luật sư, giáo sư các trường
đại học, thậm chí là các linh mục.
Tháng 6-1942, theo lệnh của Tổng thống Roosevelt, Cục Thông tin quân
sự được thành lập, còn sau đó là Cục Chiến lược do Donovan đứng đầu. Có
ba nhiệm vụ được đặt ra cho ông là: tiếp tục thu thập những thông tin
khoa học phi chính thức; tiến hành tuyên truyền phá hoại; hoạt động phá
hoại (có sự phối hợp của quân đội).
Lúc lập OSS, “Bill hoang dã” cũng tư vấn các bậc thầy chiến tranh
tình báo Anh như Ian Fleming (cha đẻ nhân vật tiểu thuyết James Bond
007) lúc đó là sĩ quan ngành tình báo hải quân Hoàng gia Anh. Vì lẽ đó,
có thể nói nhà văn này cũng là cha đẻ OSS cùng Donovan. Trong Thế chiến
II, Fleming là trợ lý của John Godfrey, chỉ huy Cục Tình báo hải quân và
cũng là mẫu hình cho nhân vật M chỉ huy của 007. Một phần nhiệm vụ của
Fleming là quan hệ chuyên môn với “Bill hoang dã”.
Ian Fleming còn viết “đề cương” 72 trang để giúp Donovan lập OSS,
trong đó định nghĩa “một điệp viên bí mật phải được huấn luyện kỹ năng
quan sát, phân tích và đánh giá, tuyệt đối kín miệng, tỉnh táo, xem
nhiệm vụ là trên hết, giỏi ngoại ngữ và dày dạn kinh nghiệm sống, tuổi
từ 40 đến 50”. Hiện tập đề cương này vẫn được trưng bày tại Bảo tàng
chiến tranh ở London.
Ngoài ra, Ian Fleming cũng giúp OSS huấn luyện điệp viên ở Canada,
theo lời William Stephenson, một chuyên gia tình báo Canada và có mật
danh Intrepid. Một thông tin khác kể “Bill hoang dã” trả ơn Fleming bằng
món quà tặng là khẩu súng colt. Trong khi đó, nhiều nguồn tư liệu cho
biết, nhân vật Felix Leiter, điệp viên CIA là bạn thân của James Bond
trong các tập truyện 007 chính là dựa theo hình mẫu của “Bill hoang dã”. Cơ quan tình báo hợp tác với thành phần “ngoại đạo”
William Donovan nhanh chóng xây dựng được một cơ quan tình báo riêng
rất mạnh, hoạt động lấn át cả những tổ chức tình báo khác, từ đó OSS
nhận được nguồn kinh phí dồi dào. Lúc này Donovan đã có thể mời những
chuyên gia cao cấp, nhà khoa học, giáo sư trong tất cả các lĩnh vực khoa
học hiện đại, các nhà văn, nhà báo, nghệ sĩ, các chuyên viên kỹ thuật,
thợ lành nghề và thậm chí cả những tên lừa đảo chuyên nghiệp và những
tay “anh chị” trong thế giới ngầm... làm việc cho mình.
Một lớp huấn luyện các điệp viên OSS.
Điều thú vị là tất cả những con người này không phải là các nhà tình
báo chuyên nghiệp, đã sáng tạo ra những phương pháp hoạt động tình báo
và phá hoại độc đáo của riêng mình, mà những gián điệp chuyên nghiệp
thường bị hạn chế bởi thói quen, nguyên tắc.
OSS có tài khoản riêng, từ quỹ khẩn cấp của Tổng thống Roosevelt nên
không phải báo cáo tài chính với Quốc hội Mỹ. Trong thời chiến, OSS tiêu
số tiền khoảng 135 triệu USD, tức hơn 1 tỷ USD vào thời buổi hiện tại.
Một trong những thành tựu lớn của họ trong Thế chiến 2 là xâm nhập vào
Đức, huấn luyện khoảng 200 điệp viên - hầu hết là tù nhân chống phát xít
- hoạt động tình báo.
Bên cạnh đó là hoạt động thu thập thông tin về các kế hoạch quân sự,
chiến tranh du kích, hỗ trợ và huấn luyện các lực lượng vũ trang kháng
chiến, bẻ khóa mật mã. Các chiến dịch tâm lý của họ gồm rải truyền đơn,
“xào nấu thông tin” hay tạo tin giả để đánh lừa và làm suy yếu ý chí
chiến đấu như “tung tin đồn nhảm” về sức khỏe, chứng điên của Hitler.
Từ năm 1943-1945, William Donovan đã tổ chức thành công các chiến
dịch tung gián điệp vào hậu phương của đối thủ ở Pháp, Italy, Miến Điện,
Thái Lan, Algérie và các nước khác. Cuối năm 1943, Tổng thống Roosevelt
đã tán thành đề nghị của William Donovan về việc bắt đầu hợp tác với
tình báo Liên Xô. Trước Giáng sinh năm 1943, William Donovan bay sang
Moskva.
Ngày 25-12, ông cùng với đại sứ Harriman được Ngoại trưởng Molotov
tiếp. Donovan trình bày cặn kẽ về OSS, về các nhiệm vụ, chức năng và
hoạt động cụ thể của OSS ở hàng loạt các nước, trong đó có các nước vùng
Balkan. Sau đó Donovan gặp gỡ với người đứng đầu cơ quan tình báo nước
ngoài Fitin. Kết quả các cuộc đàm phán được trình lên Stalin. Stalin
đồng ý việc trao đổi đại diện và hoạt động hợp tác của cơ quan tình báo
Xôviết với Cục Chiến lược của Mỹ.
Trở về Mỹ, Donovan gửi đến tất cả các phòng ban chỉ thị về việc: “Cục
chiến lược có thể cung cấp cho Nga thông tin tình báo giá trị, hữu ích
cho đất nước đang tiến hành cuộc chiến tranh chống Đức”.
Trong thời kỳ “trăng mật” giữa hai cơ quan tình báo Mỹ- Liên Xô, phía
Mỹ đã cung cấp những thông tin chính trị và quân sự đặc biệt có giá trị
gồm: tin về tình hình tại Đức và các nước bị chiếm đóng, các bản tổng
hợp tin tình báo về các vấn đề riêng rẽ, bản tổng kết phân tích khả năng
của nền công nghiệp Đức; đánh giá tình hình trong giới lãnh đạo quốc xã
của Đức, thông tin về tình hình Hungary, Rumani và Bungary.
Trong thời gian diễn ra các cuộc đàm phán, Donovan phát biểu nguyện
vọng muốn trao đổi tài liệu về máy móc kỹ thuật cho hoạt động phá hoại,
nhưng ông chỉ cung cấp được một cuốn danh mục có ảnh minh họa loại vũ
khí và máy chuyên dụng nhưng cũng khiến các chuyên gia quan tâm.
Về phần mình, tình báo Liên Xô đã chuyển cho đối tác các báo cáo về
tình hình quân đội Đức, tình trạng vũ trang, đánh giá tương lai chính
trị của nước Đức; thông tin về các nhà máy hóa chất bí mật tại Đức và Ba
Lan chuyên sản xuất chất độc; về nhà máy ngầm ở Svinemunde; về trạm thử
nghiệm tên lửa tại Merzeburg; về tình hình Bungary với đánh giá tình
thế chính trị bên trong nước này…
Năm 1944 - đầu năm 1945, tình báo Xôviết đã giúp đỡ các đồng nghiệp
Mỹ rất nhiều trong việc làm sáng tỏ số phận của một số nhóm điệp viên Mỹ
nhảy dù xuống Tiệp Khắc và của những phi công lái máy bay đã bị giết ở
đó. Toàn bộ những thông tin do tình báo Liên Xô cung cấp được phía Mỹ
đánh giá rất cao. Những kẻ phá bĩnh
Đột nhiên, ngày 16-3-1944 từ Mỹ có một bức điện do Roosevelt gửi yêu
cầu tạm hoãn vô thời hạn việc trao đổi các đoàn đại biểu. Quyết định đó
được thông qua theo yêu cầu khẩn khoản của Giám đốc FBI là E. Hoover,
người cho rằng mục đích “kết giao hữu hảo” của Ủy ban An ninh Quốc gia
Liên Xô (KGB) là thâm nhập vào các cơ quan nhà nước của Mỹ.
William Donovan thực sự tức giận vì sự can thiệp của Hoover nhưng
tổng thống không thay đổi quyết định. Mặc dù vậy, cuộc tiếp xúc giữa hai
cơ quan tình báo vẫn được ấn định, nhưng chỉ thông qua người lãnh đạo
phái đoàn đại diện quân sự của Mỹ tại Liên Xô.
Tháng 7-1944, sau khi Thế chiến thứ II kết thúc, William Donovan
thông báo cho Fitin về việc chỉ huy mạng lưới tình báo ở các nước vùng
Balkan là Huttle đã bị bắt giữ tại Áo vì đây là kẻ “mong muốn gây bất
đồng giữa Liên Xô và Mỹ, sẵn sàng chuyển giao toàn bộ phần còn lại của
mạng lưới tình báo đang tồn tại cho Mỹ để sử dụng chống người Nga”.
Donovan đề xuất việc thảo luận các giải pháp phối hợp nhằm xóa bỏ mạng
lưới của Huttle và thông báo đã giao nhiệm vụ này cho trợ lý của mình là
Allen Dulles.
Donovan không ngờ mình đã “giao trứng cho ác” vì trong thời gian đó,
Allen Dulles cùng với chỉ huy cơ quan tình báo của quân đội đã tiến hành
những cuộc thương lượng với người đứng đầu cơ quan tình báo của Hitler ở
mặt trận phía Đông - tướng Gehlen - về các hoạt động phối hợp chống
người Nga.
Chống lại đề xuất của Donovan còn có cả nhóm liên minh chỉ huy các bộ
tham mưu. Họ cho rằng nhất thiết phải “thảo luận vấn đề nên hay không
nên hợp tác với các sĩ quan Đức không thuộc đảng Quốc xã để thu thập tin
tức tình báo về tiềm lực và các dự định của người Nga”. Từ đây, hoạt
động hợp tác giữa tình báo Liên Xô và Mỹ xem như kết thúc.
William Donovan còn lại một mình đơn độc. Tổng thống Roosevelt mất
ngày 12-4-1945, tổng thống kế nhiệm Harry Truman lại là người giữ lập
trường chống Liên Xô kịch liệt. William Donovan đành bùi ngùi viết trong
một bức thư thể hiện sự ủng hộ cá nhân gửi Fitin rằng: “Tôi tin tưởng
thành công đã đạt được bấy lâu trong sự nghiệp chung của chúng ta chứng
tỏ chúng ta có thể là những đồng minh trong các hoạt động hợp tác, ít ra
là trong lĩnh vực tình báo”.
Sau khi đế quốc Nhật đầu hàng Đồng minh, ngày 20-9-1945, Tổng thống
Truman ra lệnh giải tán Cục Chiến lược. Tướng Donovan xin từ chức và trở
về với nghề luật sư ở thành phố New York. Hoạt động tình báo thời kỳ
này lại được trao về dưới sự điều khiển của các chủ nhân cũ của nó là
Ngoại Vụ viện và Bộ Quốc phòng.
Gần 2 năm sau, vào ngày 15-9-1947, Tổng thống Truman ban hành Đạo
luật An ninh Quốc gia và lại một lần nữa thống nhất ngành tình báo làm
một, chính thức đặt bước khởi đầu cho việc thành lập Cục Tình báo Trung
ương Mỹ CIA.
Bản thân William Donovan khi nhớ về quãng thời gian xông xáo cùng
OSS, ông cũng nhận ra rằng “Làm tình báo không là một việc hay, cũng
chẳng có phương pháp điển hình nào, không có bom hủy diệt hoặc khí độc.
Chúng ta đối diện một địch thủ tin rằng một trong những vũ khí chủ đạo
là khủng bố. Nhưng chúng ta cũng dùng khủng bố để chống lại địch thủ
ấy”. Quang Hiếu (tổng hợp)
“Nghệ thuật biến hình” ấn tượng của đặc vụ CIA
Dân trí Một cựu nhân viên CIA,
người từng giữ vị trí trưởng bộ phận cải trang, đã hé lộ về những phương
pháp thay đổi thân phận được sử dụng khi các mật vụ CIA làm nhiệm vụ.
“Nghệ thuật biến hình" ấn tượng của các đặc vụ tình báo CIA
(Ảnh minh họa: Pixabay)
Theo bà Jonna Mendez, cựu trưởng bộ phận cải trang của Cục Tình báo
Liên bang CIA, phương pháp cải trang của các đặc vụ cơ quan này không
quá phức tạp nhưng lại đạt được hiệu quả khá tốt nhờ vào sự nghiên cứu
một cách tinh vi hành động và tâm lý.
Với những cuộc tiếp cận ngắn để tìm kiếm thông tin, thông thường các
đặc vụ sẽ dùng tóc giả hoặc tóc nối để biến mình thành người khác. Theo
bà Mendez, “cơn ác mộng” với các đặc vụ khi gặp gỡ những đối tượng điều
tra ở nơi công cộng chính là việc họ có thể bị lộ tẩy bất cứ lúc nào.
“Nếu bạn đang tác nghiệp ở châu Âu, và bạn đang gặp một đối tượng
trong quán café, điều bạn quan ngại nhất chính là người hàng xóm của bạn
bước vào nơi này và nói “chào Bill” trong khi danh phận lúc này của bạn
không phải là Bill”, bà Mendez nói.
Tuy nhiên, trong những trường hợp các điệp viên phải tiếp xúc lâu dài
với đối tượng một cách thân thiết để khai thác thông tin, việc thay đổi
kiểu tóc vẫn gặp nhiều rủi ro. Và CIA có một công cụ đặc biệt đó chính
là các mặt nạ thay đổi hình dạng giống như trên phim ảnh.
Bà Mendez kể rằng bà từng thuyết trình về dự án nghiên cứu loại mặt
nạ biến hình trước cựu Tổng thống George H.W. Bush khi đang đeo chính
sản phẩm này. Theo cựu quan chức CIA, ông Bush đã hoàn toàn không nhận
ra người trước mặt ông đang cải trang thành người khác.
“Với phụ nữ, bạn có nhiều phương án cải trang hơn. Bạn có thể biến
phụ nữ thành đàn ông. Gần như là không tưởng nếu bạn cố biến đàn ông
thành phụ nữ. Chúng tôi có thể làm cho bạn cao lên, nặng hơn hay già
đi”, bà Mendez nói.
Tuy nhiên, thay đổi nhận diện chỉ là một trong những bước nhỏ để tiến
tới thành công. Để có thể thực hiện nhiệm vụ hiệu quả, các đặc vụ cần
có một chiến lược kín kẽ từ cách hành động, cách nói, phát âm, biểu cảm,
câu chuyện và tính liên kết chặt chẽ, không sơ hở trong từng động thái.
Đơn cử như mỗi quốc gia, mỗi công dân lại có phong cách và thói quen
khác nhau. Khi ăn uống, người châu Âu thường dùng dĩa bằng tay trái,
trong khi người Mỹ lại không có xu hướng sử dụng một tay cố định. Cách
ăn mặc, cách nói chuyện, đi đứng của mỗi người là khác nhau và các điệp
viên thường phải sống với nhân vật mình biến thành để mọi hoạt động tự
nhiên hơn.
Điều thú vị hơn cả là đôi khi để giống thật nhất có thể các điệp viên
CIA sẽ dùng sự trợ giúp từ các vật dụng bên ngoài. Đơn cử như nếu một
người muốn thật sự bước đi tập tễnh, không có gì thuyết phục hơn là
người này nên nhét 1 hòn đá nhỏ vào bên trong giày.
Ngoài ra, bà Mendez cho biết các đặc vụ CIA còn phải học cách “biến
hình” nhanh . Toàn bộ quá trình thay đồ, đổi phong cách thường chỉ diễn
ra trong vòng chưa đầy 40 giây. Đây là kĩ năng đặc biệt quan trọng được
sử dụng để “cắt đuôi” những người theo dõi trên đường phố và biến mình
trở thành một con người khác.
Dân trí Thượng viện Mỹ ngày
17/5 đã thông qua đề cử của Tổng thống Mỹ Donald Trump về việc bổ nhiệm
bà Gina Haspel làm giám đốc Cục Tình báo Trung ương (CIA), đánh dấu lần
đầu tiên trong lịch sử Mỹ một phụ nữ đảm nhận vị trí này.
Bà Gina Haspel (Ảnh: Getty)
Theo BBC, Thượng viện Mỹ ngày 17/5 đã biểu quyết với tỷ lệ
54-45 thông qua đề cử bà Gina Haspel làm giám đốc CIA thay thế ông Mike
Pompeo, người mới được bổ nhiệm thành Ngoại trưởng Mỹ.
Trước khi chính thức nhậm chức, bà Haspel đã giữ chức Phó Giám đốc
CIA. Trong 30 năm công tác tại cơ quan tình báo hàng đầu nước Mỹ, bà
Haspel đã nhiều lần nắm giữ các vị trí lãnh đạo cấp cao tại các cơ quan
quan trọng như Cục Bí mật Quốc gia hay Trung tâm chống khủng bố. Đây
cũng là lần đầu tiên cơ quan tình báo hàng đầu nước Mỹ có một nữ giám
đốc.
Bà Haspel là một nhân vật chính trị nhận được nhiều phản ứng trái
chiều do vai trò của bà trong những chương trình gây tranh cãi của chính
phủ Mỹ, trong đó có việc bà từng điều hành một nhà tù của Mỹ ở Thái Lan
- nơi giam giữ các nghi phạm khủng bố của tổ chức al-Qaeda hồi năm
2002. Đây cũng là nhà tù bị nghi ngờ áp dụng nhiều hình thức tra khảo
cực hình đối với các tù nhân, trong đó có “trấn nước” - biện pháp tra
tấn sử dụng vải che mặt nghi phạm và liên tục dội nước khiến nghi phạm
có cảm giác sắp chết ngạt.
Trước đó, Thượng nghị sĩ kỳ cựu John McCain của đảng Cộng hòa đã bày tỏ quan điểm công khai phản đối việc bổ nhiệm bà Haspel.
Thượng nghị sĩ bang Virginia Mark Warner cho biết bà Haspel đã tuyên
bố rằng CIA không bao giờ nên sử dụng cái gọi là “kỹ thuật thẩm vấn nâng
cao” và cam kết rằng bà sẽ không bao giờ chỉ đạo sử dụng những biện
pháp như vậy ngay cả khi tổng thống yêu cầu.
Nhưng ông Abd al-Rahim al-Nashiri, một người từng bị nghi có liên
quan tới al-Qaeda và bị thẩm vấn ở nhà tù do bà Haspel điều hành, cho
biết ông và nhiều nghi phạm đã phải chịu cảnh sống khắc nghiệt, bị ngược
đãi và đánh đập.
Theo BBC, vào năm 2005, bà Haspel được cho là đã ra lệnh tiêu
hủy 92 băng video ghi lại cảnh “thẩm vấn” ông al-Nashiri và một nghi
phạm khác, Abu Zubaydah.
Theo báo cáo của Thượng viện năm 2014, dường như có khoảng 119 người đã bị áp dụng những biện pháp tra tấn như vậy.
Giám đốc CIA Mike Pompeo nói ông chỉ bàn với
lãnh đạo tình báo Nga chuyện hợp tác chống khủng bố, không bàn chuyện
trừng phạt.
Giám đốc Cơ quan Tình báo nước ngoài của
Nga (SVR) Sergei Naryshkin và Giám đốc Cơ quan An ninh Liên bang Nga
(FSB) Alexander Bortnikov vừa qua đã đến Mỹ và gặp gỡ Giám đốc Cục Tình
báo Trung ương (CIA) Mike Pompeo cùng Giám đốc Tình báo quốc gia Mỹ Dan
Coats. Đi cùng hai lãnh đạo tình báo Nga còn có Giám đốc Cơ quan Tình
báo quân sự Nga (GRU) Igor Korobov nhưng không rõ có gặp các quan chức
phía Mỹ hay không.
Cuộc gặp “thượng đỉnh tình báo” này đã được Đại sứ Nga tại Mỹ Anatoly Antonov tiết lộ ngày 30-1 gây nên nhiều ý kiến trái chiều. Cuộc gặp gây tranh cãi
Thông tin được tiết lộ giữa thời điểm các cáo buộc Nga can thiệp cuộc
bầu cử tổng thống Mỹ năm 2016 vẫn còn nóng hổi. SVR chính là cơ quan
tình báo bị phía Mỹ cáo buộc có vai trò chính trong vụ việc. Chưa hết,
thông tin xuất hiện chỉ vài ngày sau khi chính phủ Mỹ quyết định không
trừng phạt Nga theo tinh thần Luật Đối phó các kẻ thù nước ngoài thông
qua trừng phạt (CAATSA). Luật này được Tổng thống Donald Trump thông qua
giữa năm 2017, thống nhất trừng phạt Nga can thiệp bầu cử.
Tên ông Naryshkin có trong danh sách được Mỹ chuẩn bị cho bước trừng
phạt này. Trước đó ông Naryshkin đã bị Mỹ trừng phạt, cấm đến Mỹ từ năm
2014 quanh vấn đề Nga can thiệp xung đột Ukraine. Khi được hỏi tại sao
lãnh đạo SVR được nhập cảnh bất chấp lệnh trừng phạt, người phát ngôn Bộ
Ngoại giao Mỹ Heather Nauert khẳng định quyết định này phục vụ quyền
lợi an ninh quốc gia.
Giám đốc Cơ quan Tình báo nước
ngoài Nga Sergey Naryshkin (trái) và Giám đốc Cơ quan An ninh Liên bang
Alexander Bortnikov trong một cuộc gặp của Ủy ban Quân sự-Công nghiệp
tại Nga ngày 19-9-2017. Ảnh: SPUTNIK
Giám đốc CIA lên tiếng
Ngày 1-2, trong một lá thư gửi đến lãnh đạo phe thiểu số Dân chủ tại
Thượng viện Chuck Schumer, Giám đốc CIA Mike Pompeo đã lên tiếng bảo vệ
tính cần thiết của cuộc gặp. Theo ông Pompeo, các quan chức tình báo Mỹ
gặp những đối tác phía Nga cũng vì cùng lý do như những người tiền nhiệm
là nhằm “giữ gìn sự an toàn cho người Mỹ”. Tuy nhiên, ông không nói cụ
thể đã gặp những nhân vật nào.
Ông Pompeo cho biết các bên đã bàn về hợp tác chống khủng bố , cụ thể
là việc CIA đã giúp Nga phá âm mưu khủng bố tại TP St. Petersburg.
Ngoài ra, hai bên còn bàn về an ninh hàng không, ngăn chặn các tay súng
nước ngoài xâm nhập Mỹ và Nga. Vấn đề trừng phạt không được bàn luận.
Ông Pompeo cũng cho biết khi gặp phía Nga ông và các đồng nghiệp đã “né
tránh các vấn đề hóc búa mà Mỹ và Nga không chia sẻ quyền lợi”. Trước
đó, Văn phòng Giám đốc Tình báo quốc gia Mỹ khẳng định bất kỳ sự tiếp
xúc nào với các cơ quan tình báo nước ngoài đều được thực hiện phù hợp
với luật pháp Mỹ và được tham vấn với các bộ, ngành liên quan.
Thượng nghị sĩ đảng Dân chủ vẫn tiếp tục chờ phản hồi của ông Dan Coats về chi tiết các cuộc gặp vào ngày 9-2 tới. Hợp tác tình báo Nga-Mỹ thiếu niềm tin
Bản thân Đại sứ Nga Antonov cũng nói cuộc gặp bàn về khả năng hợp tác
chống khủng bố giữa Nga và Mỹ. Ông Antonov cho rằng thông qua các cuộc
gặp này tình báo hai nước muốn cho thấy liên hệ giữa các cơ quan đặc
biệt vẫn được duy trì ngay cả trong thời điểm khó khăn nhất. Theo ông,
quan hệ giữa các cơ quan tình báo Nga và Mỹ rất sâu sắc và sẽ còn tiếp
tục trong tương lai.
Lời ông Antonov có vẻ phù hợp với lời ông Andrew Weiss, Phó Chủ tịch
Quỹ Vì hòa bình quốc tế Carnegie Endowment giám sát nghiên cứu về Nga.
Ông Weiss cũng đánh giá rằng tình báo Mỹ và tình báo Nga có lịch sử hợp
tác rất lâu dài. Đỉnh điểm của hợp tác tình báo Mỹ-Nga là sau vụ tấn
công khủng bố ngày 11-9-2001 ở Mỹ. Tuy nhiên, theo ông Weiss, bản chất
sự hợp tác luôn hiện diện sự thiếu niềm tin cũng như bất đồng quan điểm
về chống khủng bố giữa hai bên. Nói cách khác, quan hệ giữa các cơ quan
tình báo hai nước thực chất là trong thế đối đầu. Ông nhận định môi
trường chính trị hiện tại ở Mỹ càng làm cho sự hợp tác này khó khăn hơn.
Các quan chức tình báo Mỹ phải cân nhắc cả yếu tố chính trị trong giao
dịch với các đồng nghiệp Nga. Thành phần bên ngoài cộng đồng tình báo sẽ
khó hiểu được một khi các quan chức tình báo Mỹ quyết định liên hệ với
phía Nga.
Hãng tin Reuters dẫn lời một quan chức tình báo Mỹ giấu tên
cáo buộc Nga đã cố tình tiết lộ thông tin để gây xào xáo nội bộ Mỹ. Động
thái này cũng có thể nhằm củng cố hình ảnh Nga không bị quốc tế cô lập.
Đến ngày 1-2, Đại sứ quán Nga ở Mỹ vẫn chưa đưa ra bình luận chính
thức.
Trong khi đó, trang tin Sputnik ngày 1-2 cho rằng chuyện các
lãnh đạo tình báo Nga đến Mỹ và gặp những người đồng cấp Mỹ là một điều
rất bình thường nhưng lại bị truyền thông Mỹ phóng đại. Các cuộc gặp
giữa các tướng tình báo nước ngoài, thậm chí từ các nước đối đầu nhau
phần lớn diễn ra bí mật nhưng vẫn được duy trì. Tờ The Washington Post cho biết ông Pompeo từng có cuộc gặp với các lãnh đạo tình báo Nga trong chuyến công du tháng 5-2017.
__________________________
Theo ông Andrew Weiss, Phó Chủ tịch Quỹ Vì hòa bình quốc tế Carnegie
Endowment, với hành động tiết lộ thông tin cuộc gặp, chính phủ Nga rõ
ràng muốn cho mọi người thấy Mỹ vẫn cởi mở với Nga trong lĩnh vực tình
báo. Tuy nhiên, theo ông, Nga đã tự tin thái quá khi mối quan hệ chính
trị giữa hai nước vẫn còn nhiều sóng gió.
MIỀN TÂY HOANG DẠI Ước gì một lần về thuở ấy miến Tây Sống lầy lội những tháng ngày hoang dại Súng cặp kè hông, nhong nhong lưng ngựa Phóng khoáng thảo nguyên, đạn nổ ì đùng Ta sẽ về, rủ em gái theo cùng Đem tình yêu vào vòng đấu súng Và ngã xuống trong một lần anh dũng Để mai này định nghĩa lại...thằng khùng! Đã khùng rồi thì xá chi anh hùng Của một thời tìm vàng sôi động Người người xô bồ tìm giàu sang cuộc sống Để lại điêu tàn, bắn giết mênh mông! Ta ước thế nghe có rùng rợn không? Trần Hạnh Thu NHẠC HUYỀN THOẠI CAO BỒI VIỄN TÂY
(ĐC sưu tầm trên NET) Bản tin 113 online cập nhật ngày 2/5: Truy tố 254 bị can bị trong đại án sai phạm lĩnh vực đăng kiểm 🔴 TRỰC TIẾP: Thời sự quốc tế 3/5 | Nga tuyên bố khai hỏa Iskander, hủy diệt hai pháo HIMARS Ukraine Tin tức thời sự mới nhất hôm nay | Bản tin sáng ngày 5-3-2024 MỘT CÕI ĐI VỀ (Sáng Tác: Trịnh Công Sơn) - KHÁNH LY OFFICIAL Miễn nhiệm chức vụ Chủ tịch Quốc hội đối với ông Vương Đình Huệ 9 giờ trước Khoảnh khắc tên lửa Nga công kích pháo HIMARS Ukraine 12 giờ trước Mong muốn Campuchia chia sẻ thông tin về Dự án kênh đào Funan Techo 10 giờ trước Gần 50 người chết trong vụ sập đường cao tốc ở Trung Quốc 10 giờ trước Lý do xuất khẩu của Trung Quốc sang Nga bất ngờ sụt giảm 8 giờ trước Ukraine nói Nga sản xuất tên lửa Zircon 'nhanh bất thường' 6 giờ trước Hàng chục nghìn người Gruzia tiến hành biểu tình lớn nhất từ trước tới nay 16 giờ trước Video 'rừng người' xem phương tiện chiến đấu bị Nga tịch thu ở chiến trường Ukraine 16 giờ trước U23 In...
I Only Want to Be with You - Dusty Springfield (Cover by Emily Linge) VẪN THẾ MÀ! Anh vẫn thế, trước sau vẫn thế mà Nhìn anh này, đừng nhìn phía trời xa Vẫn ngày ngày ra ngóng chờ trước của Đợi Nàng Thơ về tác hợp thi ca Tâm hồn anh có cửa đâu mà khóa Mà phải cùng em mở cánh cửa tâm hồn Anh tìm mãi nào thấy đâu ô cửa Toang hoác tứ bề, thông thống càn khôn* Còn trái tim anh vẫn êm đềm, yên ả Vẫn yêu quê hương, tổ quốc, con người Miền nhiệt đới khi thấy tim băng giá Chắc chắn là anh đã ngoẻo tự lâu rồi! Trần Hạnh Thu CT: * Trời đất
Nhận xét
Đăng nhận xét