Thứ Sáu, 10 tháng 5, 2019
CÂU CHUYỆN TÌNH BÁO 257/0
Truyện tình báo Điệp viên giữa sa mạc lửa - P21
Truyện tình báo Điệp viên giữa sa mạc lửa - P22
Kamufliaz - Chiến dịch ngụy trang táo bạo của KGB
Hồng Sơn |
Ngày 1-8-1985, quan chức đứng đầu bộ phận phản gián Gadner Hathaway tại Langley (trụ sở của Cục tình báo trung ương Mỹ - CIA) nhận được một bức điện khẩn từ chi nhánh của tình báo Mỹ tại Italy. Nội dung bức điện cho biết ngay sáng hôm đó, đại tá Vitaly Sergeyevich Yurchenko đã có mặt tại đại sứ quán Mỹ ở Rome với mong muốn hợp tác với Washington.
Khỏi phải nói Hathaway đã mừng tới mức độ nào khi cương vị hiện tại của nhân vật đào tẩu này là hết sức ấn tượng – Phó chỉ huy ban 1 (ban phụ trách nước Mỹ) của Tổng cục I (tình báo đối ngoại của KGB), là nơi chuyên triển khai các chiến dịch tình báo trên lãnh thổ Mỹ và Canada. Kể từ thời của đại tá Penkovski, người Mỹ chưa bao giờ bắt được “con cá vàng” cỡ bự như vậy.Tuy nhiên, CIA không thể biết được rằng, đó chỉ là điểm mở đầu cho một chiến dịch ngụy trang hết sức mạo hiểm của KGB nhằm che giấu siêu điệp viên Aldrich Ames của mình tại Langley…
Kế hoạch “Lỗ hống sạch”
Cũng ngay trong chiều tối hôm đó, Hathaway nhận thêm một bức điện nữa từ Rome. Trong đó Yurchenko cho biết, 6 tháng trước tại Vienna, có một người Mỹ đã liên hệ với chi nhánh KGB tại đây, cung cấp tên tuổi của một số công dân Xôviết đang làm việc cho Mỹ.
Dù chưa làm việc trực tiếp với nguồn tin này, nhưng Yurchenko biết được nhân vật này từng có thời gian làm việc cho CIA và bất ngờ bị sa thải ngay trước chuyến công tác tới Moscow.
Hathaway thật ra vào thời điểm đó đã biết được, nhân vật được nhắc tới không ai khác chính là Edward Lee Howard. Ông ta nhấc điện thoại gọi điện trực tiếp cho Giám đốc CIA William Casey để báo về tin mừng này.
Vitaly Sergeyevich Yurchenko.
Trong khi các nhà ngoại giao Mỹ thuần túy lại không hề nằm trong tầm ngắm. Thực tế cho thấy trước khi bất cứ nhân viên CIA nào đặt chân tới Moscow, KGB đều đã nắm được đầy đủ thông tin về nhân vật này, chủ yếu bằng cách rà soát những công việc anh ta đã làm trước đây tại nhiều quốc gia trên khắp thế giới.
Ý tưởng về kế hoạch “Lỗ hổng sạch” của Hathaway ra đời từ thời điểm đó, mục tiêu là lôi kéo các điệp viên có “vỏ bọc sạch”, tức là có độ tuổi dưới 30, từ trước chưa từng làm việc cho cơ quan tình báo ở nước ngoài.
Theo dự kiến của Hathaway, những điệp viên loại này cần phải hoạt động như một bóng ma: xuất hiện nhanh chóng tại địa điểm vào đúng thời gian cần thiết và cũng nhanh chóng rút lui. Chân tướng thực sự của họ chỉ có Langley và đại sứ của Mỹ tại Moscow biết đến. Kế hoạch “Lỗ hổng sạch” nhanh chóng được phê chuẩn với người tiên phong là viên sĩ quan trẻ Edward Lee Howard.
Để có thể đảm trách được với những khó khăn sẽ phải đương đầu tại Moscow, Howard được thông tin khá chi tiết về các chiến dịch tình báo Mỹ đang triển khai tại đây.
Howard tuy nhiên đã không thể tới được Moscow – tại đợt sát hạch qua máy kiểm tra nói dối vào tháng 4-1983, anh ta bị phát hiện đã cố tình giấu giếm về việc sử dụng các loại thuốc an thần trong quá khứ, cũng như về tật nghiện rượu của mình.
Việc không được cử tới Moscow và sau đó là quyết định sa thải không rõ lý do chỉ một tháng sau đó đã khiến giấc mơ trở thành “anh hùng dân tộc” của Howard tan vỡ.
Tháng 8-1983, lãnh sự của Liên Xô tại Washington nhận được đơn xin cấp visa du lịch của Howard, trong đó có kẹp một lá thư với yêu cầu gặp đại diện của KGB để cung cấp một số thông tin mật.
Nhưng do đề xuất gặp gỡ của anh ta ngay tại khu đồi Capitol là khá nguy hiểm, nên KGB đã khước từ vì lo ngại đây có thể là một cái bẫy của Cục Điều tra liên bang Mỹ (FBI). Một năm sau, trước những nỗ lực của Howard tìm cách liên lạc, trung tâm đã chấp thuận đề xuất tiếp xúc với anh ta. Một biến cố bất ngờ đã khiến cuộc gặp không thể diễn ra nhanh chóng.
Tháng 2-1984, trong một cuộc cãi cọ tại quán bar, Howard đã rút súng bắn lên trần nhà. Hậu quả là anh ta phải ra tòa, nhận bản án 5 năm tù treo cùng quyết định cấm xuất cảnh. Howard chuyển tới sống tại Santa Fe, tạm hài lòng với vai trò chuyên gia kinh tế tại Nghị viện bang New Mexico.
Sau khi điệp viên KGB tìm ra địa chỉ mới của Howard, anh ta rất nhanh chóng nhận lời mời hợp tác. Ngày 21-9-1984, Howard lén bay sang Vienna, tới lãnh sự quán Xôviết tại đây để gặp gỡ đại diện KGB.
Anh ta tiết lộ nhiều thông tin quý giá về kế hoạch “Lỗ hổng sạch” cũng như những điệp viên đầu tiên tham gia chương trình trên đang hoạt động tại Moscow. Howard nhận được khoản tiền thưởng hậu hĩnh 150 ngàn đôla. Dù Howard chỉ cho đây là một “thương vụ nhất thời”, nhưng Moscow lại đánh giá khác. KGB vẫn liên tục giám sát anh ta với hy vọng có thể tiếp tục khai thác.
Sau khi nhận được thông báo từ Giám đốc CIA như đã nói ở trên, FBI đã tổ chức theo dõi Howard rất sát sao nhằm tìm kiếm bằng chứng để bắt giữ anh ta. Do không thể tìm ra chứng cớ, ba nhân viên FBI đã trực tiếp thẩm vấn Howard trong suốt 8 giờ liên tục.
Cựu nhân viên CIA vẫn khăng khăng phủ nhận tất cả. Một ngày sau, anh ta lẻn vào lãnh sự quán Xô Viết tại New York, từ đây được bí mật đưa tới Đan Mạch và Phần Lan, trước khi an toàn đặt chân tới Moscow.
Những tiết lộ của “cá vàng”
Quay trở lại với vụ của Yurchenko. Anh ta được đưa từ Italy tới Mỹ trên một chiếc máy bay vận tải quân sự. Theo chỉ thị của chính Giám đốc CIA, Yurchenko được nhận một khoản tiền lương suốt đời vào khoảng 70 ngàn đôla mỗi năm. Kèm theo đó là quyền sử dụng một biệt thự hai tầng tại khu vực ngoại ô Washington.
Cáo trạng truy nã Edward Lee Howard của FBI.
Tiếp đó là tiết lộ về một loại “bụi gián điệp” được phản gián Xô viết bí mật rắc lên quần áo các nhà ngoại giao Mỹ và bên trong xe hơi của họ để có thể xác định những công dân Liên Xô đã từng tiếp xúc.
Yurchenko tiết lộ cho người Mỹ về kế hoạch của KGB triển khai những hòm thư và kho vũ khí bí mật trên lãnh thổ các nước Tây Âu để sử dụng trong những trường hợp khẩn cấp.
Yurchenko cho biết, chi nhánh KGB tại Washington vào tháng 1-1980 từng tiếp xúc với một người Mỹ có bộ râu màu hung, người tự giới thiệu là một chuyên gia phân tích của Cơ quan An ninh quốc gia (NSA). Chỉ nhờ thông tin trên, CIA cùng FBI đã rà soát tổng cộng 580 trường hợp trước khi xác định đó là Ronald William Pelton.
Cũng như Howard, Pelton vào tháng 10-1979 đã không thể vượt qua được cuộc thử nghiệm trên máy phát hiện nói dối liên quan đến những câu hỏi về sử dụng ma túy. Hậu quả là anh ta bị giáng chức, tước khả năng được tiếp cận thông tin mật, lương bổng giảm xuống một nửa.
Khó khăn về tiền bạc đã thúc đẩy Pelton bước chân vào đại sứ quán Liên Xô tại Washington, đề xuất khả năng cung cấp thông tin mật.
Nhờ Pelton, Moscow biết được về chiến dịch siêu bí mật “Ivy Bells” của CIA nhằm lấy cắp thông tin qua đường cáp biển dưới đáy biển Okhot. Ngoài ra, anh ta còn cung cấp dữ liệu về 5 hệ thống do thám điện tử khác của Mỹ cùng 60 trang tài liệu mật khác. Qua thông tin có được từ Yurchenko, Pelton nhanh chóng bị bắt giữ.
Trong phiên tòa xét xử vào ngày 18-6-1986, Pelton bị phán quyết tội danh hoạt động gián điệp cho Liên Xô với mức án tù chung thân. Cũng cần nói thêm, cả Howard và Pelton đều có cơ hội chạy sang Moscow theo các kế hoạch bảo vệ cộng tác viên của KGB.
Nhưng Pelton đã tỏ ra do dự khi nhận được sự cảnh báo của KGB, không tới nơi hẹn như đã định. Qua một loạt những thông tin quan trọng do Yurchenko cung cấp, CIA đã đặt trọn niềm tin vào nhân vật này. Họ không thể ngờ rằng, đó chỉ là một cái bẫy được vạch sẵn trong khuôn khổ chiến dịch “Kamufliaz”…
Cuộc chạy trốn bất ngờ
Trưa ngày 2-11-1985, Yurchenko cùng với nhân viên trẻ của CIA là Tom Hennen – người luôn tháp tùng Yurchenko để ngăn chặn nguy cơ KGB có thể trả đũa – có mặt tại nhà hàng Au Pieddu Cochon nổi tiếng về món ăn Pháp tại một khu sang trọng của Washington.
Cần nói thêm, tại nhà hàng này cho tới nay vẫn còn một tấm biển đề dòng chữ: “Nơi đây vào ngày 2-11-1985 đã diễn ra bữa ăn cuối cùng của Vitaly Yurchenko”…
Sau khi giải quyết xong món tráng miệng, Yurchenko lấy cớ ra ngoài hít thở không khí trong lành. Vài phút sau, khi cảm thấy có gì đó bất thường, Hennen chạy bổ đi tìm đối tượng cần bảo vệ của mình, nhưng khi hiểu ra thì đã muộn.
Yurchenko sau khi hoàn thành sứ mạng “kẻ đào tẩu” của mình đã quay trở lại để thực hiện giai đoạn hai – đó là vạch trần và đả kích hoạt động của CIA.
Một cuộc họp báo được tổ chức ngay sau đó vào ngày 4-11-1985 trong khuôn viên đại sứ quán Liên Xô tại Washington đã thu hút được sự tham gia của đông đảo các phóng viên Mỹ và quốc tế. Họ muốn tận mặt chứng kiến và tìm hiểu: tại sao một nhân viên KGB từng chạy sang với người Mỹ 3 tháng trước đó lại quyết định quay trở lại với đồng đội.
Trước đầy đủ các phóng viên, Yurchenko khẳng định, anh ta bị CIA bắt cóc tại Rome. Trong 3 tháng qua, anh đã bị nhân viên CIA chích ma túy nhằm bẻ gãy ý chí và tìm cách để khai thác những bí mật quốc gia.
Yurchenko còn tố cáo về việc anh ta bị CIA tìm cách ép buộc để thừa nhận mình đã phản bội tổ quốc trước công luận nước Mỹ - cụ thể là bắt ký một hợp đồng với điều khoản được nhận 1 triệu đôla nếu đồng ý làm điều này. Cuối cùng, Yurchenko bày tỏ mong muốn được sớm quay trở về Liên Xô.
Sự kiện trên là một đòn giáng mạnh vào uy tín của CIA, cũng như là một cú sốc thực sự đối với giới chức lãnh đạo tại cơ quan này. Họ chỉ biết triển khai một chiến dịch quy mô trên báo chí nhằm bôi nhọ Yurchenko – công bố những bức ảnh có vẻ khá thân thiện giữa anh ta và các quan chức CIA cũng như FBI, mô tả chi tiết một số bí mật do anh ta cung cấp…
Chiến dịch đánh lạc hướng tinh vi
Câu hỏi đặt ra là: tại sao KGB lại phải dày công chuẩn bị một chiến dịch hết sức tinh vi như trên? Chiến dịch “Kamufliaz” thật ra có mục đích chính nhằm che chắn cho siêu điệp viên Aldrich Ames.
Cho tới thời điểm Yurchenko có mặt tại trụ sở của CIA, Ames đã cung cấp cho KGB thông tin về hàng chục sĩ quan kỳ cựu của KGB và GRU (Cơ quan tình báo quân đội) đang bí mật làm việc cho Mỹ.
Nhờ sự giúp đỡ của Ames, Liên Xô đã kịp thời phong tỏa những kênh thông tin rò rỉ có tầm quan trọng đặc biệt sống còn đối với an ninh đất nước. Mục tiêu chính đặt ra là phải bằng mọi giá bảo vệ nguồn tin đặc biệt quan trọng trên.
KGB đã rất kỳ công để chuẩn bị những thông tin quan trọng để Yurchenko có thể chuyển cho CIA, trong đó có cả hai điệp viên về cơ bản đã không còn có thể khai thác. Washington đã phải mất nhiều thời gian, công sức để tập trung kiểm chứng những gì Yurchenko đã khai báo, chưa kể những nỗ lực cứu vớt chút danh dự sau cuộc chạy trốn đầy bất ngờ của anh ta.
Tổng thống Reagan khi đó cũng phải lên tiếng về vụ việc của Yurchenko: “Tôi cho rằng, bất cứ người Mỹ nào cũng phải đặt câu hỏi về hành động của con người đó, khi anh ta không biết vì sao lại quay trở lại Nga, khi đáng ra có thể sống yên ổn tại Mỹ”.
Dù thế nào, thành công của chiến dịch “Kamufliaz” với vai trò đặc biệt của Yurchenko chính là lôi kéo cả CIA và FBI vào một “cuộc chơi vô bổ” trong một thời gian dài nhằm xác minh những thông tin của anh ta, cũng như khắc phục hậu quả từ vụ trốn chạy sau đó.
Tình báo Mỹ đã bị xao nhãng trong một thời gian đáng kể trước khi có thể phát hiện ra siêu điệp viên Aldrich Ames của Moscow.
Vitaly Sergeyevich Yurchenko sau khi trở về nước đã được trao tặng danh hiệu “Nhân viên danh dự của Cơ quan An ninh quốc gia”, phần thưởng cao quý nhất của KGB. Còn Edward Lee Howard, trước khi Liên Xô tan rã đã chuyển tới sống tại Hungary theo lệnh của Phó chủ tịch KGB Vadim Bakatin.
Dưới áp lực của Mỹ, Hungary đã trục xuất Howard sang Thụy Điển, nơi anh ta bị bắt giữ vào tháng 8-1992 vì nghi ngờ hoạt động gián điệp. Bị trục xuất trở lại Nga một tháng sau đó, Howard lao vào kinh doanh bằng cách mở một công ty bảo hiểm nhỏ. Ông này qua đời tại Moscow vào năm 2006 vì chứng bệnh xơ gan.
Trùm cải trang CIA tiết lộ bí quyết nhà nghề
Bà Jonna Mendez, cựu giám đốc cải trang của
Cục Tình báo trung ương Mỹ (CIA), vừa tiết lộ với Wired một số bí quyết
cải trang từ đơn giản đến phức tạp dành cho tình báo, gián điệp nhưng
người bình thường cũng có thể làm được phần nào.
Với vai trò giám đốc cải trang, tôi quan
tâm chủ yếu tới vấn đề bảo vệ con người, bảo vệ các sĩ quan tình báo của
chúng tôi - những người sắp phải bước vào những tình huống có thể gặp
nguy hiểm. Nhưng quan trọng hơn là bảo vệ những người nước ngoài mà
chúng tôi gặp gỡ - những người thường phải đánh liều cả mạng sống.Bà Jonna Mendez từng gắn bó với CIA 27 năm. Bên cạnh là chồng bà - Tony Mendez. Ông là cựu nhân viên CIA, chính là người được miêu tả trong phim tình báo Argo nổi tiếng. Ảnh: Washington Post.
Và vì thế, bạn cần đeo, mặc, đội cái gì đó mà chúng tôi gọi là cải trang hạng nhẹ. Cải trang nhẹ có thể đơn giản là đội tóc giả. Có thể chỉ là một chút râu ria, một đôi kính, không phải là cái gì ghê gớm.
Còn cải trang hạng nặng thì phức tạp hơn. Đó là khi bạn phải tiếp xúc gần, riêng tư trong một khoảng thời gian dài; người nói chuyện với bạn sẽ không biết được là bạn đã cải trang, cứ tưởng mặt bạn là nguyên bản.
Một trong những điều diễn ra khi tôi làm giám đốc cải trang của CIA là việc thực hiện chương trình nghiên cứu sâu quy mô lớn về hệ thống cải trang hạng nặng đời mới. Về cơ bản, đó là những chiếc mặt nạ mà mọi người luôn tò mò. Nếu chúng tôi sử dụng mặt nạ, đó chỉ là sự khởi đầu. Tôi từng đeo mặt nạ khi gặp Tổng thống George H.W. Bush trong Phòng Bầu dục, báo cáo ông ấy rồi gỡ mặt nạ ra và tiết lộ với ông ấy về việc cải trang của mình.
Khi bạn cải trang thì ý tưởng chung là bạn sắp gặp ai đó và người này sẽ viết bản ghi chú về bạn. Chúng tôi muốn mọi chi tiết trong bản ghi chú miêu tả về bạn đều sai sự thực hết.
Nếu bạn là đàn ông thì cần thay đổi vẻ bề ngoài, bắt đầu từ phía trên. Và thứ đầu tiên đập vào mắt là tóc. Nếu bạn tóc xoăn thì duỗi thẳng nó. Nếu tóc đen thì có thể làm cho nó sáng màu. Nếu còn trẻ thì có thể điểm vài sợi bạc. Nếu già thì có thể che những chỗ tóc bạc đi. Nếu khuôn mặt màu râu nhẵn nhụi thì có thể đính một chút râu ria vào. Nếu phải đi đâu đó lâu, bạn có thể phải nuôi một ít râu.
Chúng tôi còn tạo ra đồ giả dùng cho một số trường hợp. Bạn có thể thực sự thay đổi xương gò má. Bạn có thể làm má to lên, trán rộng ra. Bạn cũng có thể làm điều đó với mũi. Những cái đó chúng tôi gọi là mặt tiền nha khoa.
Thực sự, chúng tôi có thể thay đổi hình dáng khuôn mặt bạn với mặt tiền nha khoa phù hợp. Có mảnh vật liệu mảnh chúng tôi gọi là miếng ốp, dùng để tăng độ dày của lợi. Và khi ốp vào lợi nó làm thay đổi nét khuôn mặt bạn.
Và còn món đồ nữa là vòm miệng nhân tạo. Chúng có thể làm thay đổi cách phát âm của bạn. Chúng có thể khiến bạn nói ngọng một chút. Chúng rất hữu dụng.
Chúng tôi phát hiện ra rằng, người ta thường coi những người đàn ông trông già nua ít nguy hiểm hơn so với người trông trẻ trung hơn. Vì vậy, chúng tôi thích cải trang thành người trông già cả hơn.
Với phụ nữ, bạn có thể làm được nhiều điều hơn xét về mặt cải trang. Bạn có thể tiến thêm một bước là biến một phụ nữ thành đàn ông, trong khi rất khó để biến một người đàn ông thành phụ nữ.
Điều mà chúng tôi làm là luôn thêm vào. Chúng tôi có thể khiến bạn cao hơn, nặng cân hơn, già hơn nhưng không làm ngược lại được.
Bạn trở thành người mà bước vào thang máy cùng với mọi người mà khi bước ra không ai thực sự nhớ đến bạn, rằng bạn đã từng ở trong thang máy với họ. Đó là một mục tiêu thiết kế của các phòng thí nghiệm cải trang tại CIA.
Cải trang khi chỉ đơn giản là về hình dáng, đặc điểm khuôn mặt mà còn về cách ăn mặc, cách thể hiện bản thân trong môi trường công cộng.
Người Mỹ thường không nhớ về những thứ khiến họ nổi bật trong đám đông người nước ngoài. Điều này có ý nghĩa với nhân viên tình báo khi đi ra ngoài.
Xét về hành vi, cách cư xử, có nhiều hành động nhỏ tiết lộ chúng ta thực sự là ai. Về cách ăn, người châu Âu dùng tay trái cầm nĩa, và không chuyển nĩa sang tay phải rồi lại sang tay trái (tay phải cắt thịt bò bít-tết, tay trái xiên thịt đưa lên miệng). Còn người Mỹ thì liên tục bỏ dao xuống, chuyển dĩa sang tay phải. Nói chung là liên tục bỏ dao xuống, chuyển nĩa từ tay nọ sang tay kia (tay phải cắt thịt, bỏ dao xuống, chuyển dĩa từ tay trái sang tay phải, xiên thịt đưa lên miệng, rồi lại cầm dao lên…).
Về cách hút thuốc, người Mỹ cầm điếu thuốc giữa hai ngón tay trỏ và giữa. Người châu Âu có xu hướng cầm bằng ngón cái và ngón trỏ.
Khi người Mỹ đứng, họ có xu hướng trụ bằng một chân, hoặc chân trái hoặc chân phải. Người châu Âu họ đứng thẳng, không dựa lên cái gì cả. Trọng lượng cơ thể họ phân bổ đều trên hai bàn chân.
Thay đổi cách bạn đi đứng đòi hỏi chỉnh sửa một số thứ bạn vẫn quen làm. Vì vậy, bạn cần một số đồ phụ trợ để bạn bước đi kiểu khác. Bạn không thể nói: “Có gì đâu, giờ tôi sẽ đi cà nhắc”.
Để thay đổi dáng đi, tôi sẽ bỏ một viên đá, viên sỏi nhỏ trong giầy của mình. Chỉ là một vật nhỏ để khiến ngón chân tôi khó chịu. Và nó khiến tôi thay đổi cách đi dù tôi có muốn hay không.
Bạn có thể cuốn băng quanh đầu gối. Những thứ hạn chế vận động sẽ khiến bạn thay đổi cách đi.
Cải trang có thể áp dụng với bạn và cuộc sống hằng ngày của bạn xét về việc đi lại khắp thế giới và giữ cho mình an toàn.
Và nếu bạn muốn an toàn thì chả có gì sai khi ghé vào một cửa hàng địa phương và mua vài bộ đồ người bản địa thường mặc.
Nếu bạn hút thuốc lá, hãy dùng thuốc lá địa phương. Ngoài ra, bạn luôn có thể bổ sung cặp kính, chiếc mũ…
Bạn chỉ cần loại bỏ những dấu ấn, đặc điểm Mỹ mà chúng ta mang theo người theo nhiều cách mà chúng ta không để ý.
Chúng ta biết rằng, nhiều việc chúng ta làm là vô thức và khó thay đổi. Bạn có thể nhờ một người bạn chu đáo quan sát cung cách đi đứng, nói cười, trò chuyện của mình để tìm ra những nét khu biệt bạn với người khác. Từ đó bạn sẽ dễ thay đổi chúng hơn.
Bạn phải có khả năng thay đổi vẻ bề ngoài một cách bí mật, nhanh chóng, nhất là khi đang trên phố. Bạn sử dụng đám đông như là một chiếc mặt nạ. Khi làm điều này, bạn đo lường bằng số bước đi. Bạn mường tượng mình sẽ trở thành ai. Bạn bước vào cửa hàng quần áo hiệu GAP, bạn có 37 giây để bước ra với sự thay đổi mà bạn muốn.
Mục tiêu của thay đổi nhanh chóng là biến mất. Nếu bạn bị bám đuôi và họ phát hiện ra rằng, bạn biến mất thì bạn không muốn họ nghĩ rằng bạn đã trốn thoát. Bạn muốn họ nghĩ rằng, họ đã lạc mất bạn. Đó là lỗi của họ.
Hòa nhập vào môi trường xung quanh đòi hỏi nhận thức nhanh về tình huống. Bạn phải biết được mình đang ở đâu, thuộc cộng đồng nào để có thay đổi phù hợp mà không ai nghi ngờ.
Theo Thái An
Tiền phong
Người kiến tạo “thời kỳ trăng mật” giữa tình báo Mỹ và Liên Xô
14:32 30/01/2018Theo các nhà nghiên cứu lịch sử tình báo, trước Thế chiến thứ II, nước Mỹ chưa có cơ quan tình báo thống nhất. Khi nước Mỹ sửa soạn tham chiến, Tổng thống Roosevelt quyết định thành lập cơ quan tình báo trung ương thống lĩnh tất cả các cơ quan tình báo hiện hữu.
Trong cuốn sách “Hoạt động tình báo - chìa khóa phòng vệ”, Donovan nhớ lại lời Tổng thống Roosevelt đã nói với ông vào ngày hôm đó: “Anh bắt đầu hoàn toàn từ đầu là rất tốt. Bởi vì nước Mỹ chưa có cái gọi là một cơ quan tình báo đúng nghĩa”.
Mối quan hệ giữa “Bill Hoang dã” và cha đẻ của điệp viên 007
William J.Donovan sinh trưởng trong một gia đình công chức người Ireland theo Thiên chúa giáo tại thành phố Buffalo. Từng là một luật sư và có thời gian tham gia Thế chiến thứ I, William Donovan bắt đầu hoạt động tình báo từ năm 1919 ở vùng Siberia, nơi ông đi hưởng tuần trăng mật với vợ.
Trợ lý tin cậy hàng đầu của ông là nữ đầu bếp Julia Child. Do OSS chú trọng việc cần tuyển dụng các nhà trí thức và những người giỏi nhất thuộc các lĩnh vực nên OSS bị đọc trại từ “Office Strategies Service” thành “Oh So Social”, hiểu nôm na là “xã hội hóa” cơ quan tình báo này.
Ông William J.Donovan tại văn phòng của OSS. |
Nhưng bất chấp lệnh của tổng thống gửi tất cả các cơ quan chính phủ yêu cầu cung cấp cho Donovan thông tin mang tính chiến lược và chiến thuật, viên đại tá đã vấp phải sự chống đối ra mặt, sự không thông hiểu, sự ghen ghét của những người đại diện cho quyền lợi cục bộ của các cơ quan và họ đã dùng đủ cách cản trở khiến công việc của ông gần như không thể thực hiện nổi.
Thông tin do Ngoại Vụ viện, Quân đội và Hạm đội Hải quân cung cấp cho ông chẳng thể sử dụng vào mục đích gì. Những người có kinh nghiệm hoạt động tình báo trước yêu cầu đề nghị chuyển sang làm việc cho Donovan đều từ chối. Cánh tình báo quân sự miễn cưỡng chia sẻ thông tin, họ vin vào chuyện bẻ khóa mật mã từng bị Bộ Ngoại giao Mỹ cấm từ năm 1929, do Ngoại trưởng Henry Stimson nhận định “người lịch sự thì không xem thư người khác”.
Khi đó William Donovan bèn chuyển hướng hành động và mời làm việc toàn những người ngoài cuộc, chưa hề hoạt động tình báo bao giờ như nhân viên các công ty, nhân viên các ngân hàng, luật sư, giáo sư các trường đại học, thậm chí là các linh mục.
Tháng 6-1942, theo lệnh của Tổng thống Roosevelt, Cục Thông tin quân sự được thành lập, còn sau đó là Cục Chiến lược do Donovan đứng đầu. Có ba nhiệm vụ được đặt ra cho ông là: tiếp tục thu thập những thông tin khoa học phi chính thức; tiến hành tuyên truyền phá hoại; hoạt động phá hoại (có sự phối hợp của quân đội).
Lúc lập OSS, “Bill hoang dã” cũng tư vấn các bậc thầy chiến tranh tình báo Anh như Ian Fleming (cha đẻ nhân vật tiểu thuyết James Bond 007) lúc đó là sĩ quan ngành tình báo hải quân Hoàng gia Anh. Vì lẽ đó, có thể nói nhà văn này cũng là cha đẻ OSS cùng Donovan. Trong Thế chiến II, Fleming là trợ lý của John Godfrey, chỉ huy Cục Tình báo hải quân và cũng là mẫu hình cho nhân vật M chỉ huy của 007. Một phần nhiệm vụ của Fleming là quan hệ chuyên môn với “Bill hoang dã”.
Ian Fleming còn viết “đề cương” 72 trang để giúp Donovan lập OSS, trong đó định nghĩa “một điệp viên bí mật phải được huấn luyện kỹ năng quan sát, phân tích và đánh giá, tuyệt đối kín miệng, tỉnh táo, xem nhiệm vụ là trên hết, giỏi ngoại ngữ và dày dạn kinh nghiệm sống, tuổi từ 40 đến 50”. Hiện tập đề cương này vẫn được trưng bày tại Bảo tàng chiến tranh ở London.
Ngoài ra, Ian Fleming cũng giúp OSS huấn luyện điệp viên ở Canada, theo lời William Stephenson, một chuyên gia tình báo Canada và có mật danh Intrepid. Một thông tin khác kể “Bill hoang dã” trả ơn Fleming bằng món quà tặng là khẩu súng colt. Trong khi đó, nhiều nguồn tư liệu cho biết, nhân vật Felix Leiter, điệp viên CIA là bạn thân của James Bond trong các tập truyện 007 chính là dựa theo hình mẫu của “Bill hoang dã”.
Cơ quan tình báo hợp tác với thành phần “ngoại đạo”
William Donovan nhanh chóng xây dựng được một cơ quan tình báo riêng rất mạnh, hoạt động lấn át cả những tổ chức tình báo khác, từ đó OSS nhận được nguồn kinh phí dồi dào. Lúc này Donovan đã có thể mời những chuyên gia cao cấp, nhà khoa học, giáo sư trong tất cả các lĩnh vực khoa học hiện đại, các nhà văn, nhà báo, nghệ sĩ, các chuyên viên kỹ thuật, thợ lành nghề và thậm chí cả những tên lừa đảo chuyên nghiệp và những tay “anh chị” trong thế giới ngầm... làm việc cho mình.
Một lớp huấn luyện các điệp viên OSS. |
OSS có tài khoản riêng, từ quỹ khẩn cấp của Tổng thống Roosevelt nên không phải báo cáo tài chính với Quốc hội Mỹ. Trong thời chiến, OSS tiêu số tiền khoảng 135 triệu USD, tức hơn 1 tỷ USD vào thời buổi hiện tại. Một trong những thành tựu lớn của họ trong Thế chiến 2 là xâm nhập vào Đức, huấn luyện khoảng 200 điệp viên - hầu hết là tù nhân chống phát xít - hoạt động tình báo.
Bên cạnh đó là hoạt động thu thập thông tin về các kế hoạch quân sự, chiến tranh du kích, hỗ trợ và huấn luyện các lực lượng vũ trang kháng chiến, bẻ khóa mật mã. Các chiến dịch tâm lý của họ gồm rải truyền đơn, “xào nấu thông tin” hay tạo tin giả để đánh lừa và làm suy yếu ý chí chiến đấu như “tung tin đồn nhảm” về sức khỏe, chứng điên của Hitler.
Từ năm 1943-1945, William Donovan đã tổ chức thành công các chiến dịch tung gián điệp vào hậu phương của đối thủ ở Pháp, Italy, Miến Điện, Thái Lan, Algérie và các nước khác. Cuối năm 1943, Tổng thống Roosevelt đã tán thành đề nghị của William Donovan về việc bắt đầu hợp tác với tình báo Liên Xô. Trước Giáng sinh năm 1943, William Donovan bay sang Moskva.
Ngày 25-12, ông cùng với đại sứ Harriman được Ngoại trưởng Molotov tiếp. Donovan trình bày cặn kẽ về OSS, về các nhiệm vụ, chức năng và hoạt động cụ thể của OSS ở hàng loạt các nước, trong đó có các nước vùng Balkan. Sau đó Donovan gặp gỡ với người đứng đầu cơ quan tình báo nước ngoài Fitin. Kết quả các cuộc đàm phán được trình lên Stalin. Stalin đồng ý việc trao đổi đại diện và hoạt động hợp tác của cơ quan tình báo Xôviết với Cục Chiến lược của Mỹ.
Trở về Mỹ, Donovan gửi đến tất cả các phòng ban chỉ thị về việc: “Cục chiến lược có thể cung cấp cho Nga thông tin tình báo giá trị, hữu ích cho đất nước đang tiến hành cuộc chiến tranh chống Đức”.
Trong thời kỳ “trăng mật” giữa hai cơ quan tình báo Mỹ- Liên Xô, phía Mỹ đã cung cấp những thông tin chính trị và quân sự đặc biệt có giá trị gồm: tin về tình hình tại Đức và các nước bị chiếm đóng, các bản tổng hợp tin tình báo về các vấn đề riêng rẽ, bản tổng kết phân tích khả năng của nền công nghiệp Đức; đánh giá tình hình trong giới lãnh đạo quốc xã của Đức, thông tin về tình hình Hungary, Rumani và Bungary.
Trong thời gian diễn ra các cuộc đàm phán, Donovan phát biểu nguyện vọng muốn trao đổi tài liệu về máy móc kỹ thuật cho hoạt động phá hoại, nhưng ông chỉ cung cấp được một cuốn danh mục có ảnh minh họa loại vũ khí và máy chuyên dụng nhưng cũng khiến các chuyên gia quan tâm.
Về phần mình, tình báo Liên Xô đã chuyển cho đối tác các báo cáo về tình hình quân đội Đức, tình trạng vũ trang, đánh giá tương lai chính trị của nước Đức; thông tin về các nhà máy hóa chất bí mật tại Đức và Ba Lan chuyên sản xuất chất độc; về nhà máy ngầm ở Svinemunde; về trạm thử nghiệm tên lửa tại Merzeburg; về tình hình Bungary với đánh giá tình thế chính trị bên trong nước này…
Năm 1944 - đầu năm 1945, tình báo Xôviết đã giúp đỡ các đồng nghiệp Mỹ rất nhiều trong việc làm sáng tỏ số phận của một số nhóm điệp viên Mỹ nhảy dù xuống Tiệp Khắc và của những phi công lái máy bay đã bị giết ở đó. Toàn bộ những thông tin do tình báo Liên Xô cung cấp được phía Mỹ đánh giá rất cao.
Những kẻ phá bĩnh
Đột nhiên, ngày 16-3-1944 từ Mỹ có một bức điện do Roosevelt gửi yêu cầu tạm hoãn vô thời hạn việc trao đổi các đoàn đại biểu. Quyết định đó được thông qua theo yêu cầu khẩn khoản của Giám đốc FBI là E. Hoover, người cho rằng mục đích “kết giao hữu hảo” của Ủy ban An ninh Quốc gia Liên Xô (KGB) là thâm nhập vào các cơ quan nhà nước của Mỹ.
William Donovan thực sự tức giận vì sự can thiệp của Hoover nhưng tổng thống không thay đổi quyết định. Mặc dù vậy, cuộc tiếp xúc giữa hai cơ quan tình báo vẫn được ấn định, nhưng chỉ thông qua người lãnh đạo phái đoàn đại diện quân sự của Mỹ tại Liên Xô.
Tháng 7-1944, sau khi Thế chiến thứ II kết thúc, William Donovan thông báo cho Fitin về việc chỉ huy mạng lưới tình báo ở các nước vùng Balkan là Huttle đã bị bắt giữ tại Áo vì đây là kẻ “mong muốn gây bất đồng giữa Liên Xô và Mỹ, sẵn sàng chuyển giao toàn bộ phần còn lại của mạng lưới tình báo đang tồn tại cho Mỹ để sử dụng chống người Nga”. Donovan đề xuất việc thảo luận các giải pháp phối hợp nhằm xóa bỏ mạng lưới của Huttle và thông báo đã giao nhiệm vụ này cho trợ lý của mình là Allen Dulles.
Donovan không ngờ mình đã “giao trứng cho ác” vì trong thời gian đó, Allen Dulles cùng với chỉ huy cơ quan tình báo của quân đội đã tiến hành những cuộc thương lượng với người đứng đầu cơ quan tình báo của Hitler ở mặt trận phía Đông - tướng Gehlen - về các hoạt động phối hợp chống người Nga.
Chống lại đề xuất của Donovan còn có cả nhóm liên minh chỉ huy các bộ tham mưu. Họ cho rằng nhất thiết phải “thảo luận vấn đề nên hay không nên hợp tác với các sĩ quan Đức không thuộc đảng Quốc xã để thu thập tin tức tình báo về tiềm lực và các dự định của người Nga”. Từ đây, hoạt động hợp tác giữa tình báo Liên Xô và Mỹ xem như kết thúc.
William Donovan còn lại một mình đơn độc. Tổng thống Roosevelt mất ngày 12-4-1945, tổng thống kế nhiệm Harry Truman lại là người giữ lập trường chống Liên Xô kịch liệt. William Donovan đành bùi ngùi viết trong một bức thư thể hiện sự ủng hộ cá nhân gửi Fitin rằng: “Tôi tin tưởng thành công đã đạt được bấy lâu trong sự nghiệp chung của chúng ta chứng tỏ chúng ta có thể là những đồng minh trong các hoạt động hợp tác, ít ra là trong lĩnh vực tình báo”.
Sau khi đế quốc Nhật đầu hàng Đồng minh, ngày 20-9-1945, Tổng thống Truman ra lệnh giải tán Cục Chiến lược. Tướng Donovan xin từ chức và trở về với nghề luật sư ở thành phố New York. Hoạt động tình báo thời kỳ này lại được trao về dưới sự điều khiển của các chủ nhân cũ của nó là Ngoại Vụ viện và Bộ Quốc phòng.
Gần 2 năm sau, vào ngày 15-9-1947, Tổng thống Truman ban hành Đạo luật An ninh Quốc gia và lại một lần nữa thống nhất ngành tình báo làm một, chính thức đặt bước khởi đầu cho việc thành lập Cục Tình báo Trung ương Mỹ CIA.
Bản thân William Donovan khi nhớ về quãng thời gian xông xáo cùng OSS, ông cũng nhận ra rằng “Làm tình báo không là một việc hay, cũng chẳng có phương pháp điển hình nào, không có bom hủy diệt hoặc khí độc. Chúng ta đối diện một địch thủ tin rằng một trong những vũ khí chủ đạo là khủng bố. Nhưng chúng ta cũng dùng khủng bố để chống lại địch thủ ấy”.
Quang Hiếu (tổng hợp)
“Nghệ thuật biến hình” ấn tượng của đặc vụ CIA
Dân trí Một cựu nhân viên CIA,
người từng giữ vị trí trưởng bộ phận cải trang, đã hé lộ về những phương
pháp thay đổi thân phận được sử dụng khi các mật vụ CIA làm nhiệm vụ.
Theo bà Jonna Mendez, cựu trưởng bộ phận cải trang của Cục Tình báo Liên bang CIA, phương pháp cải trang của các đặc vụ cơ quan này không quá phức tạp nhưng lại đạt được hiệu quả khá tốt nhờ vào sự nghiên cứu một cách tinh vi hành động và tâm lý.
Với những cuộc tiếp cận ngắn để tìm kiếm thông tin, thông thường các đặc vụ sẽ dùng tóc giả hoặc tóc nối để biến mình thành người khác. Theo bà Mendez, “cơn ác mộng” với các đặc vụ khi gặp gỡ những đối tượng điều tra ở nơi công cộng chính là việc họ có thể bị lộ tẩy bất cứ lúc nào.
“Nếu bạn đang tác nghiệp ở châu Âu, và bạn đang gặp một đối tượng trong quán café, điều bạn quan ngại nhất chính là người hàng xóm của bạn bước vào nơi này và nói “chào Bill” trong khi danh phận lúc này của bạn không phải là Bill”, bà Mendez nói.
Tuy nhiên, trong những trường hợp các điệp viên phải tiếp xúc lâu dài với đối tượng một cách thân thiết để khai thác thông tin, việc thay đổi kiểu tóc vẫn gặp nhiều rủi ro. Và CIA có một công cụ đặc biệt đó chính là các mặt nạ thay đổi hình dạng giống như trên phim ảnh.
Bà Mendez kể rằng bà từng thuyết trình về dự án nghiên cứu loại mặt nạ biến hình trước cựu Tổng thống George H.W. Bush khi đang đeo chính sản phẩm này. Theo cựu quan chức CIA, ông Bush đã hoàn toàn không nhận ra người trước mặt ông đang cải trang thành người khác.
“Với phụ nữ, bạn có nhiều phương án cải trang hơn. Bạn có thể biến phụ nữ thành đàn ông. Gần như là không tưởng nếu bạn cố biến đàn ông thành phụ nữ. Chúng tôi có thể làm cho bạn cao lên, nặng hơn hay già đi”, bà Mendez nói.
Tuy nhiên, thay đổi nhận diện chỉ là một trong những bước nhỏ để tiến tới thành công. Để có thể thực hiện nhiệm vụ hiệu quả, các đặc vụ cần có một chiến lược kín kẽ từ cách hành động, cách nói, phát âm, biểu cảm, câu chuyện và tính liên kết chặt chẽ, không sơ hở trong từng động thái.
Đơn cử như mỗi quốc gia, mỗi công dân lại có phong cách và thói quen khác nhau. Khi ăn uống, người châu Âu thường dùng dĩa bằng tay trái, trong khi người Mỹ lại không có xu hướng sử dụng một tay cố định. Cách ăn mặc, cách nói chuyện, đi đứng của mỗi người là khác nhau và các điệp viên thường phải sống với nhân vật mình biến thành để mọi hoạt động tự nhiên hơn.
Điều thú vị hơn cả là đôi khi để giống thật nhất có thể các điệp viên CIA sẽ dùng sự trợ giúp từ các vật dụng bên ngoài. Đơn cử như nếu một người muốn thật sự bước đi tập tễnh, không có gì thuyết phục hơn là người này nên nhét 1 hòn đá nhỏ vào bên trong giày.
Ngoài ra, bà Mendez cho biết các đặc vụ CIA còn phải học cách “biến hình” nhanh . Toàn bộ quá trình thay đồ, đổi phong cách thường chỉ diễn ra trong vòng chưa đầy 40 giây. Đây là kĩ năng đặc biệt quan trọng được sử dụng để “cắt đuôi” những người theo dõi trên đường phố và biến mình trở thành một con người khác.
Đức Hoàng
Theo Sputnik
CIA có nữ giám đốc đầu tiên trong lịch sử
Dân trí Thượng viện Mỹ ngày 17/5 đã thông qua đề cử của Tổng thống Mỹ Donald Trump về việc bổ nhiệm bà Gina Haspel làm giám đốc Cục Tình báo Trung ương (CIA), đánh dấu lần đầu tiên trong lịch sử Mỹ một phụ nữ đảm nhận vị trí này.
Theo BBC, Thượng viện Mỹ ngày 17/5 đã biểu quyết với tỷ lệ 54-45 thông qua đề cử bà Gina Haspel làm giám đốc CIA thay thế ông Mike Pompeo, người mới được bổ nhiệm thành Ngoại trưởng Mỹ.
Trước khi chính thức nhậm chức, bà Haspel đã giữ chức Phó Giám đốc CIA. Trong 30 năm công tác tại cơ quan tình báo hàng đầu nước Mỹ, bà Haspel đã nhiều lần nắm giữ các vị trí lãnh đạo cấp cao tại các cơ quan quan trọng như Cục Bí mật Quốc gia hay Trung tâm chống khủng bố. Đây cũng là lần đầu tiên cơ quan tình báo hàng đầu nước Mỹ có một nữ giám đốc.
Bà Haspel là một nhân vật chính trị nhận được nhiều phản ứng trái chiều do vai trò của bà trong những chương trình gây tranh cãi của chính phủ Mỹ, trong đó có việc bà từng điều hành một nhà tù của Mỹ ở Thái Lan - nơi giam giữ các nghi phạm khủng bố của tổ chức al-Qaeda hồi năm 2002. Đây cũng là nhà tù bị nghi ngờ áp dụng nhiều hình thức tra khảo cực hình đối với các tù nhân, trong đó có “trấn nước” - biện pháp tra tấn sử dụng vải che mặt nghi phạm và liên tục dội nước khiến nghi phạm có cảm giác sắp chết ngạt.
Trước đó, Thượng nghị sĩ kỳ cựu John McCain của đảng Cộng hòa đã bày tỏ quan điểm công khai phản đối việc bổ nhiệm bà Haspel.
Thượng nghị sĩ bang Virginia Mark Warner cho biết bà Haspel đã tuyên bố rằng CIA không bao giờ nên sử dụng cái gọi là “kỹ thuật thẩm vấn nâng cao” và cam kết rằng bà sẽ không bao giờ chỉ đạo sử dụng những biện pháp như vậy ngay cả khi tổng thống yêu cầu.
Nhưng ông Abd al-Rahim al-Nashiri, một người từng bị nghi có liên quan tới al-Qaeda và bị thẩm vấn ở nhà tù do bà Haspel điều hành, cho biết ông và nhiều nghi phạm đã phải chịu cảnh sống khắc nghiệt, bị ngược đãi và đánh đập.
Theo BBC, vào năm 2005, bà Haspel được cho là đã ra lệnh tiêu hủy 92 băng video ghi lại cảnh “thẩm vấn” ông al-Nashiri và một nghi phạm khác, Abu Zubaydah.
Theo báo cáo của Thượng viện năm 2014, dường như có khoảng 119 người đã bị áp dụng những biện pháp tra tấn như vậy.
Đức Hoàng
Theo BBC
CIA khó xử vì gặp dàn tướng tình báo Nga
Giám đốc CIA Mike Pompeo nói ông chỉ bàn với
lãnh đạo tình báo Nga chuyện hợp tác chống khủng bố, không bàn chuyện
trừng phạt.
Giám đốc Cơ quan Tình báo nước ngoài của
Nga (SVR) Sergei Naryshkin và Giám đốc Cơ quan An ninh Liên bang Nga
(FSB) Alexander Bortnikov vừa qua đã đến Mỹ và gặp gỡ Giám đốc Cục Tình
báo Trung ương (CIA) Mike Pompeo cùng Giám đốc Tình báo quốc gia Mỹ Dan
Coats. Đi cùng hai lãnh đạo tình báo Nga còn có Giám đốc Cơ quan Tình
báo quân sự Nga (GRU) Igor Korobov nhưng không rõ có gặp các quan chức
phía Mỹ hay không.Cuộc gặp “thượng đỉnh tình báo” này đã được Đại sứ Nga tại Mỹ Anatoly Antonov tiết lộ ngày 30-1 gây nên nhiều ý kiến trái chiều.
Cuộc gặp gây tranh cãi
Thông tin được tiết lộ giữa thời điểm các cáo buộc Nga can thiệp cuộc bầu cử tổng thống Mỹ năm 2016 vẫn còn nóng hổi. SVR chính là cơ quan tình báo bị phía Mỹ cáo buộc có vai trò chính trong vụ việc. Chưa hết, thông tin xuất hiện chỉ vài ngày sau khi chính phủ Mỹ quyết định không trừng phạt Nga theo tinh thần Luật Đối phó các kẻ thù nước ngoài thông qua trừng phạt (CAATSA). Luật này được Tổng thống Donald Trump thông qua giữa năm 2017, thống nhất trừng phạt Nga can thiệp bầu cử.
Tên ông Naryshkin có trong danh sách được Mỹ chuẩn bị cho bước trừng phạt này. Trước đó ông Naryshkin đã bị Mỹ trừng phạt, cấm đến Mỹ từ năm 2014 quanh vấn đề Nga can thiệp xung đột Ukraine. Khi được hỏi tại sao lãnh đạo SVR được nhập cảnh bất chấp lệnh trừng phạt, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Mỹ Heather Nauert khẳng định quyết định này phục vụ quyền lợi an ninh quốc gia.
Giám đốc CIA lên tiếng
Ngày 1-2, trong một lá thư gửi đến lãnh đạo phe thiểu số Dân chủ tại Thượng viện Chuck Schumer, Giám đốc CIA Mike Pompeo đã lên tiếng bảo vệ tính cần thiết của cuộc gặp. Theo ông Pompeo, các quan chức tình báo Mỹ gặp những đối tác phía Nga cũng vì cùng lý do như những người tiền nhiệm là nhằm “giữ gìn sự an toàn cho người Mỹ”. Tuy nhiên, ông không nói cụ thể đã gặp những nhân vật nào.
Ông Pompeo cho biết các bên đã bàn về hợp tác chống khủng bố , cụ thể là việc CIA đã giúp Nga phá âm mưu khủng bố tại TP St. Petersburg. Ngoài ra, hai bên còn bàn về an ninh hàng không, ngăn chặn các tay súng nước ngoài xâm nhập Mỹ và Nga. Vấn đề trừng phạt không được bàn luận. Ông Pompeo cũng cho biết khi gặp phía Nga ông và các đồng nghiệp đã “né tránh các vấn đề hóc búa mà Mỹ và Nga không chia sẻ quyền lợi”. Trước đó, Văn phòng Giám đốc Tình báo quốc gia Mỹ khẳng định bất kỳ sự tiếp xúc nào với các cơ quan tình báo nước ngoài đều được thực hiện phù hợp với luật pháp Mỹ và được tham vấn với các bộ, ngành liên quan.
Thượng nghị sĩ đảng Dân chủ vẫn tiếp tục chờ phản hồi của ông Dan Coats về chi tiết các cuộc gặp vào ngày 9-2 tới.
Hợp tác tình báo Nga-Mỹ thiếu niềm tin
Bản thân Đại sứ Nga Antonov cũng nói cuộc gặp bàn về khả năng hợp tác chống khủng bố giữa Nga và Mỹ. Ông Antonov cho rằng thông qua các cuộc gặp này tình báo hai nước muốn cho thấy liên hệ giữa các cơ quan đặc biệt vẫn được duy trì ngay cả trong thời điểm khó khăn nhất. Theo ông, quan hệ giữa các cơ quan tình báo Nga và Mỹ rất sâu sắc và sẽ còn tiếp tục trong tương lai.
Lời ông Antonov có vẻ phù hợp với lời ông Andrew Weiss, Phó Chủ tịch Quỹ Vì hòa bình quốc tế Carnegie Endowment giám sát nghiên cứu về Nga. Ông Weiss cũng đánh giá rằng tình báo Mỹ và tình báo Nga có lịch sử hợp tác rất lâu dài. Đỉnh điểm của hợp tác tình báo Mỹ-Nga là sau vụ tấn công khủng bố ngày 11-9-2001 ở Mỹ. Tuy nhiên, theo ông Weiss, bản chất sự hợp tác luôn hiện diện sự thiếu niềm tin cũng như bất đồng quan điểm về chống khủng bố giữa hai bên. Nói cách khác, quan hệ giữa các cơ quan tình báo hai nước thực chất là trong thế đối đầu. Ông nhận định môi trường chính trị hiện tại ở Mỹ càng làm cho sự hợp tác này khó khăn hơn. Các quan chức tình báo Mỹ phải cân nhắc cả yếu tố chính trị trong giao dịch với các đồng nghiệp Nga. Thành phần bên ngoài cộng đồng tình báo sẽ khó hiểu được một khi các quan chức tình báo Mỹ quyết định liên hệ với phía Nga.
Hãng tin Reuters dẫn lời một quan chức tình báo Mỹ giấu tên
cáo buộc Nga đã cố tình tiết lộ thông tin để gây xào xáo nội bộ Mỹ. Động
thái này cũng có thể nhằm củng cố hình ảnh Nga không bị quốc tế cô lập.
Đến ngày 1-2, Đại sứ quán Nga ở Mỹ vẫn chưa đưa ra bình luận chính
thức.
Trong khi đó, trang tin Sputnik ngày 1-2 cho rằng chuyện các lãnh đạo tình báo Nga đến Mỹ và gặp những người đồng cấp Mỹ là một điều rất bình thường nhưng lại bị truyền thông Mỹ phóng đại. Các cuộc gặp giữa các tướng tình báo nước ngoài, thậm chí từ các nước đối đầu nhau phần lớn diễn ra bí mật nhưng vẫn được duy trì. Tờ The Washington Post cho biết ông Pompeo từng có cuộc gặp với các lãnh đạo tình báo Nga trong chuyến công du tháng 5-2017.
__________________________
Theo ông Andrew Weiss, Phó Chủ tịch Quỹ Vì hòa bình quốc tế Carnegie Endowment, với hành động tiết lộ thông tin cuộc gặp, chính phủ Nga rõ ràng muốn cho mọi người thấy Mỹ vẫn cởi mở với Nga trong lĩnh vực tình báo. Tuy nhiên, theo ông, Nga đã tự tin thái quá khi mối quan hệ chính trị giữa hai nước vẫn còn nhiều sóng gió.
Trong khi đó, trang tin Sputnik ngày 1-2 cho rằng chuyện các lãnh đạo tình báo Nga đến Mỹ và gặp những người đồng cấp Mỹ là một điều rất bình thường nhưng lại bị truyền thông Mỹ phóng đại. Các cuộc gặp giữa các tướng tình báo nước ngoài, thậm chí từ các nước đối đầu nhau phần lớn diễn ra bí mật nhưng vẫn được duy trì. Tờ The Washington Post cho biết ông Pompeo từng có cuộc gặp với các lãnh đạo tình báo Nga trong chuyến công du tháng 5-2017.
__________________________
Theo ông Andrew Weiss, Phó Chủ tịch Quỹ Vì hòa bình quốc tế Carnegie Endowment, với hành động tiết lộ thông tin cuộc gặp, chính phủ Nga rõ ràng muốn cho mọi người thấy Mỹ vẫn cởi mở với Nga trong lĩnh vực tình báo. Tuy nhiên, theo ông, Nga đã tự tin thái quá khi mối quan hệ chính trị giữa hai nước vẫn còn nhiều sóng gió.
Theo Thiên Ân
Pháp luật TP.HCM
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét