Thứ Tư, 22 tháng 5, 2019

CÂU CHUYỆN TÌNH BÁO 261

(ĐC sưu tầm trên NET)
 
Cuộc đấu tranh triệt phá “PHẢN ĐỘNG" gay cấn nhất lịch sử Việt Nam
Đại tá Tống Xuân Nhuận sinh ra ở vùng quê nghèo tỉnh Thanh Hóa. Hơn 50 năm đấu tranh cách mạng ông từng trải qua nhiều vị trí quan trọng của ngành công an. Được nhân dân và đồng đội trân trọng bởi là người kiên trung luôn hết mình với công việc có nhiều cống hiến xuất sắc vào công tác đấu tranh bảo vệ an ninh trật tự của đất nước. Trong sự nghiệp của mình ông ghi dấu ấn với rất nhiều chiến công mà tiêu biểu nhất là cuộc chiến tranh chống phản động Đảng cách mạng quốc gia Việt Nam do tên Lường Mạnh Huân cầm đầu. Vào giai đoạn này Đại tá Tống Xuân Nhuận trực tiết là người tham gia đấu tranh trinh sát nằm gai nếm mật cùng anh em đồng đội phá án.  

'Chuyên án thế kỷ' của lực lượng an ninh

(Pháp luật) - Mặc dù đã hơn nửa thế kỷ trôi qua song chuyên án C30 mãi là bài học cho sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia. Trước một cơ quan tình báo có tiềm lực và dạn dày kinh nghiệm nhất của thế kỷ 20, lực lượng an ninh Việt Nam đã bóc gỡ toàn bộ mạng lưới gián điệp cài lại, làm thất bại âm mưu hậu chiến của địch.

Một chiến dịch phản gián
Nhắc đến chuyên án C30, nguyên Ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Công an Trần Đông, cho biết đó là cuộc đấu trí của lực lượng an ninh nhân dân với bọn phản động từ những năm 1950, khi ấy ông là Phó ban chuyên án (mảng Hải Phòng). Đây là một chiến dịch phản gián, bởi chuyên án lớn, lại diễn ra trong một thời gian dài tại ba địa bàn trọng điểm gồm Hà Nội, Hải Phòng và Nam Định. Ta huy động lực lượng, sử dụng đồng bộ các biện pháp nghiệp vụ. Ngày đó, những cán bộ chiến sĩ có phẩm chất cách mạng, bản lĩnh và trình độ chiến đấu, đã sớm được điều vào nội thành. Một số đồng chí được phái vào các tổ chức cấp cao của địch ở miền Nam. Ngay từ tháng 8/1954, lực lượng an ninh Việt Nam đã phát hiện tình báo Mỹ tuyển người đi đào tạo điệp viên rồi tung trở lại miền Bắc, nhằm thực hiện âm mưu hậu chiến lâu dài. Suốt hơn bốn năm, Ban chuyên án đã sử dụng số điệp viên và phương tiện của địch, khéo léo điều khiển trung tâm chỉ huy gián điệp tại Sài Gòn mà địch không hề biết. Ngày 11/11/1958, lực lượng an ninh Việt Nam đồng loạt phá án, bắt 12 đối tượng chủ chốt, khai quật tám kho vũ khí và điện đài, thu hồi hàng trăm quả mìn được ngụy trang dưới dạng các bánh than chạy đầu máy xe lửa mà chúng trà trộn vào ga Hải Phòng định gây nổ.
Ga Hải Phòng, nơi bọn gián điệp đặt mìn hòng phá hoại.
Chuyên án được thực hiện hết sức bí mật, cho đến ngày 4/4/1959, khi TAND thành phố Hà Nội đưa mười bị can ra xét xử công khai thì bọn chỉ huy tình báo ở Sài Gòn mới biết tổ chức gián điệp do Trần Minh Châu (tức Cập) cầm đầu mà chúng dựng lên đã bị xóa sổ. Chuyên án C30 kết thúc, góp phần củng cố, phát triển kinh tế miền Bắc, làm thất bại âm mưu mở rộng chiến tranh của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai. C30 là một chiến dịch phản gián, đánh dấu mốc son trong lịch sử vẻ vang của lực lượng an ninh Việt Nam.
Dùng dinh cơ lót ổ địch, tấm lòng cao cả của một người dân Hà Nội
Người có tấm lòng vàng, trở thành cơ sở bí mật của Công an Hà Nội thời kỳ ấy là ông Lê Hưng, ở số 54 Hàng Đào, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội, một thương gia làm nghề bán lụa tơ tằm. Năm 1945, tham gia giành chính quyền ở huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên, sau đó công tác trong ủy ban cách mạng lâm thời huyện được một thời gian thì ông Hưng bị địch bắt, nhưng vì không có căn cứ nên được trả tự do. Thời kỳ Pháp tạm chiếm Hà Nội, gia đình ông mở cửa hàng buôn bán tơ lụa tại số 54 Hàng Đào. Làm ăn giữ được chữ “tín” nên cửa hàng của người thương gia cách mạng nhanh phát đạt. Ông quan hệ rộng với tầng lớp trung lưu và được giới tiểu thương kính trọng. Tại Hà Nội, tình cờ ông Lê Hưng gặp lại một người bạn cũ tên là Trang giác ngộ, từ đây ông càng tích cực tham gia kháng chiến. Ông tâm sự: “Tôi thấy đất nước bị đô hộ, ai cũng muốn đánh đuổi giặc Pháp, giành tự do độc lập. Nhiều đồng chí đã hy sinh thân mình, thì với tôi, tiền tài cũng không bằng tự do độc lập cho đất nước, dù gian nan, hy sinh, tôi cũng đi theo cách mạng đến cùng”. Đến năm 1952, qua đồng chí Lê Toàn, tổ trưởng trinh sát nội thành Hà Nội vận động, người thương gia yêu nước đã trở thành cơ sở bí mật của Công an Hà Nội. Ông còn tình nguyện sử dụng ngôi nhà 54 Hàng Đào làm địa điểm liên lạc của cán bộ. Sau này, khi đấu tranh chuyên án C30, lực lượng an ninh đã “lót ổ” sẵn để địch chọn làm hộp thư và địa điểm liên lạc của đường dây gián điệp. Khôn khéo hoạt động, thương gia Lê Hưng không những che mắt được gián điệp Mỹ, mà ông còn được chúng chọn làm nhiệm vụ mở tuyến liên lạc và tiếp tế bằng con đường mới từ Hải Phòng qua Hồng Kông về Sài Gòn. Thông qua vỏ bọc buôn bán quốc tế mà chúng cho là bí mật và an toàn nhất, người thương gia Hà thành có tấm lòng cao cả đã góp phần đặc biệt quan trọng để lực lượng an ninh Việt Nam nắm chắc âm mưu của địch, đấu tranh thành công với tổ chức tình báo Mỹ trong chuyên án C30.
Người chiến sỹ hai thập niên sống trong hang ổ địch
Đó là câu chuyện về người cán bộ an ninh Đỗ Văn Kha. Ông từng hoạt động ở nội thành Hà Nội trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp. Sau Hiệp định Giơnevơ về chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Đông Dương, ông Đỗ Văn Kha được ngành công an phái vào một tổ chức gián điệp do Mỹ cài lại sau khi miền Bắc giải phóng. Ngay từ những ngày đầu, ông hóa trang, bám chắc các phần tử địch rồi nhanh chóng trở thành nhân vật tin cậy của đường dây và bộ máy chỉ huy tại miền Nam. Năm 1956, tổ chức nhất trí cho ông vào trung tâm chỉ huy tình báo địch tại Sài Gòn theo yêu cầu của chúng và mang bí số T31. Tại đây, ông nhận chỉ thị cho đường dây điệp viên Mỹ cài lại ở miền Bắc. Những thông tin tối mật chỉ đạo từ trung tâm chỉ huy ở Sài Gòn mà ông Kha nắm được đã báo cáo tổ chức và chuyển hóa thành thành sự điều chỉnh hoạt động của cả đường dây gián điệp địch. Tháng 8-1957, trung tâm chỉ huy tình báo của địch tại Sài Gòn lại yêu cầu T31 vào. Ông linh cảm chuyến đi này lành ít dữ nhiều, bởi trước đó, hai cán bộ của ta đã không qua nổi máy phát hiện nói dối của địch. Quả nhiên, khi vừa qua sông Bến Hải, ông đã bị tình báo Mỹ tại Sài Gòn bắt cóc trước khi chính quyền Ngô Đình Diệm đón tiếp. Sau đó địch “biệt giam” ông tại Đà Lạt ba năm với lý do “chiến sự đang khốc liệt, phải tạm lánh”. Thời gian này, ông đã phải bền gan trải qua những ngày tháng đấu tranh cân não trước biện pháp thử thách xảo quyệt và phương tiện kiểm tra tối tân nhất của Hoa Kỳ. Ông Kha kể lại: “Địch dùng điện tâm đồ và máy chống nói dối kiểm tra, chỉ run một tí là chúng biết ngay. Cứ ba đến năm câu hỏi, bọn chỉ huy tình báo lại đột nhiên lồng vào một câu “thòng” rất ngoắc ngoéo để đánh lừa đối tượng được hỏi. Kinh nghiệm, sự hiểu biết mà tổ chức trang bị trước, đặc biệt sự bình tĩnh, thông minh và ngoan cường đã giúp ông chiến thắng. Sau khi TAND thành phố Hà Nội xét xử công khai mười bị can trong đường dây gián điệp do Trần Minh Châu cầm đầu, địch đưa ông Đỗ Văn Kha ra Côn Đảo. Do năng khiếu ứng xử, ông được tỉnh trưởng Côn Đảo kính nể. Chúng lầm tưởng ông là người của Trần Kim Tuyến (chỉ huy tình báo của chính quyền Ngô Đình Diệm), được đưa ra giám sát mọi hoạt động ở Côn Đảo, nên đã bố trí ông làm công việc phân phối nhu yếu phẩm cho binh sĩ ngụy. Từ vị trí này, trinh sát T31 tiếp tục phát huy thanh thế và đi sâu quan hệ với các sĩ quan. Chỉ một thời gian ngắn, ông quen hết 2.400 binh sĩ cùng gia đình vợ con họ trên đảo. Không đám hiếu, đám hỷ nào mà ông không được mời, qua đó nắm rất nhiều thông tin quan trọng, giúp đỡ được anh em tù chính trị của ta bảo vệ lực lượng. Trong những năm sống tại Côn Đảo, ông Đỗ Văn Kha còn xây dựng được những cơ sở giữ chức vụ quan trọng trong Ban giám thị trại và tranh thủ được linh mục Phạm Gia Thụy. Chính vì vậy, khi Tổng thống Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng quân giải phóng ngày 30-4-1975, ông đã tìm được nơi biệt giam trung tá tình báo Lê Câu. Ông đã cùng linh mục Thụy tập hợp dân chúng trên đảo, giữ ổn định an ninh trật tự, mở cửa trại giam cho anh em tù chính trị, cùng đồng chí Lê Câu và một số cán bộ, tổ chức lãnh đạo giải phóng Côn Đảo. Cuối năm 1975, thiếu tá an ninh Đỗ Văn Kha được trở về quê hương sau hai thập kỷ xa cách và âm thầm chiến đấu trong sào huyệt tình báo Hoa Kỳ tại miền Nam. Với cống hiến to lớn, năm 2001, ông được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Nhất.
Và cuộc truy tìm những quả mìn than
Giữa lúc người dân Hải Phòng phấn khởi lao động sản xuất, hàn gắn vết thương chiến tranh và xây dựng cuộc sống mới sau ngày giải phóng, thì lực lượng an ninh Hải Phòng bước vào cuộc chiến đấu thầm lặng nhưng hết sức căng thẳng, quyết liệt trong chuyên án C30. Ông Nguyễn Văn Điệp, nguyên Đội trưởng Đội trinh sát ngoại tuyến thành phố, một trong những cán bộ Ban chuyên án kể lại: Tin tình báo cho biết, địch cất giấu vũ khí, điện đài tại bốn điểm ở Hải Phòng để chờ thời cơ gây bạo loạn, đón Mỹ ngụy từ miền Nam ra”. Bên cạnh đó, chúng còn dùng “mìn than” để phá hoại đầu máy xe lửa, phá hoại Cảng Hải Phòng, gây tiếng nổ làm mất ổn định an ninh trật tự thành phố.
Nhiệm vụ lúc này đè nặng lên vai 29 trinh sát ngoại tuyến và ba trinh sát nội tuyến được giao phối hợp. Dưới sự chỉ đạo của Ban chuyên án, rất nhiều biện pháp nghiệp vụ đã được thực hiện, nhằm tìm cho ra các điểm cất giấu vũ khí, điện đài song nóng nhất là phải làm sao nhanh chóng phát hiện nơi gài “mìn than”. Sau nhiều ngày đêm trinh sát, lực lượng an ninh đã phát hiện được khu vực chôn cất vũ khí và cài mìn, thì một khó khăn đặt ra là phải kiểm tra, thu hồi thế nào để vừa đảm bảo bí mật cho chuyên án, đồng thời ngăn chặn kịp thời bàn tay tội ác của địch. Tại các địa điểm ngõ Thanh Quan đường Cát Dài và trên đường Nguyễn Đức Cảnh (ngày nay), bằng trí thông minh, trinh sát của ta đã bí mật khai quật được nhiều kho vũ khí, điện đài và cảm hóa thành công hai đối tượng, sử dụng chúng phục vụ cho chuyên án C30, mà các tên cầm đầu như Trần Minh Châu (tức Cập) và Bùi Văn Tiềm không hề hay biết. Hàng trăm quả mìn địch chế tạo nặng 3kg, trông như viên than chạy đầu máy xe lửa, đã được trinh sát tháo gỡ, kịp thời đảm bảo cho những đoàn tàu rời ga an toàn, bảo vệ thành phố cảng mới giải phóng bình yên.

CIA và điệp vụ nghe lén điện thoại tại Nghệ An năm 1972

Trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, miền Bắc vẫn là mục tiêu tối quan trọng đối với Cơ quan Tình báo trung ương Mỹ (CIA). Để theo dõi mọi động thái quân sự, chính trị, ngoại giao của Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa (nay là Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam), dưới đất họ tung ra miền Bắc hàng chục toán biệt kích, ngoài biển là lớp lớp tàu trinh sát thuộc Hạm đội 7, còn trên trời là máy bay do thám U2.

1. Trong suốt cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, tin tức về miền Bắc Việt Nam do các cơ quan tình báo Mỹ như tình báo Lục quân, Hải quân, Không quân, CIA, NSA… thu được rất ít ỏi. Một phần vì quân dân miền Bắc không ngừng nâng cao tinh thần cảnh giác.

Mặt khác, các nhà lãnh đạo Hà Nội hạn chế sử dụng sóng vô tuyến trong thông tin liên lạc đến mức tối đa vì họ biết hệ thống trinh sát điện tử của người Mỹ đặt tại bán đảo Sơn Trà, Đà Nẵng, các trạm thu tin trên đất Lào và các tàu mã thám thuộc hạm đội 7 thường xuyên lảng vảng ở ngoài khơi vịnh Bắc Bộ có thể dễ dàng bắt được tần số của các sóng này, và đội ngũ chuyên viên giải mã của Mỹ đều là những người giỏi.

Vì vậy, phần lớn mệnh lệnh chỉ huy chiến đấu của Quân đội nhân dân, của Lực lượng Công an nhân dân Việt Nam đều thông qua mạng lưới điện thoại hữu tuyến.

Điều này có cái bất lợi là phải rải dây - lắm khi dài cả trăm kilômét, xuyên qua đèo cao, dốc thẳm, rừng già…, đồng thời phải thường xuyên túc trực một đội quân vừa đề phòng biệt kích phá hoại, vừa làm nhiệm vụ bảo trì, sửa chữa, thay thế nếu chẳng may nó bị đứt hoặc hở mạch.



Chiếc trực thăng Hughes 500 số hiệu N351X tại căn cứ PS-44, Pakse, Lào trước ngày xâm nhập tỉnh Nghệ An.
 
 
 
 
 
 
 
Tuy nhiên, ưu điểm do đường dây hữu tuyến mang lại là đối phương khó có thể nghe lén vì nếu muốn nghe lén, người Mỹ phải cử kỹ thuật viên đến tận nơi, sờ tận tay nhưng đó là chuyện không tưởng, chưa kể khi bộc lộ phần lõi bằng đồng hoặc bằng kim loại khác bên trong sợi dây để kết nối thiết bị nghe lén, nó sẽ tạo ra nhiễu - dù chỉ một thời gian rất ngắn nhưng vẫn có thể khiến người trực tổng đài nghi ngờ.

2. Đầu tháng 2/1971, trong một phi vụ do thám trên bầu trời miền Bắc Việt Nam, máy bay U2 đã chụp một loạt ảnh tại một khu vực cách thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An khoảng 46km về phía tây nam.

Phân tích những bức ảnh này, chuyên viên không ảnh ở căn cứ Clark, Philippines nhận thấy có một đường dây điện thoại được mắc trên những thanh ngang, đóng vào những cây cột bằng gỗ cao khoảng 4m, nhìn như những cây thập giá.

Cạnh đó là một con đường đất nhỏ, có lẽ dành cho xe đạp chạy song song với những cột điện thoại. Đường dây ấy kéo dài đến gần con sông Lam rồi đi lên một sườn núi.

Đến đoạn này, con đường đất kết thúc, có lẽ do địa hình quá dốc đối với xe đạp, còn những cột điện thoại thì tiếp tục đi sâu vào trong núi. Tại đây, có một căn nhà nhỏ, xây bằng gạch không tô, nằm ẩn khuất dưới những tán lá. Và do rừng quá rậm rạp nên những bức ảnh không cho biết đường dây điện thoại ấy còn kéo dài đến đâu.

Từ lâu, CIA đã biết Nghệ An là một trong những điểm tập kết người, vũ khí cùng hàng tiếp liệu chi viện cho chiến trường miền Nam bằng cách qua Lào rồi đi vào một tỉnh nằm ở bắc Tây Nguyên là Kon Tum.

Trong hồ sơ "Im lặng số 1 - Những bí mật của cuộc chiến Việt Nam - Quiet One - The Secrets in Vietnam War", báo cáo của sĩ quan do thám điện tử McTunler gửi Lầu Năm Góc đã viết: "Đây chắc chắn là hệ thống thông tin liên lạc, chỉ đạo những cuộc hành quân sang Lào và đây cũng là địa điểm lý tưởng để đặt thiết bị nghe lén".

Liên tục trong suốt tháng 2, máy bay do thám U2 chụp thêm hàng trăm tấm ảnh về đường dây điện thoại.

Qua phân tích, các chuyên viên không ảnh nhận thấy việc tuần tra bảo vệ không tuân theo quy luật nào. Có khi là hai người đàn ông trên một chiếc xe đạp, vai đeo súng trường CKC, sáng sớm chạy đến cạnh con sông Lam thì dừng lại, ở đó khoảng nửa tiếng rồi quay về. Cũng có khi một tốp vài người có vũ trang, từ căn nhà trên sườn núi đi bộ xuống vào buổi chiều.



Biệt kích Lào thực tập lắp đặt thiết bị nghe lén.
Đặc biệt nhất là những tấm ảnh chụp một nhóm kỹ thuật viên sửa chữa đường dây. Họ dùng hai chiếc thang bằng tre chụm vào nhau theo hình chữ V ngược rồi một người trèo lên, còn vài người giữ thăng bằng ở phía dưới.

Các bức ảnh cho thấy những đoạn dây cần sửa chữa đều nằm ở giữa hai cột, bị đứt do nhánh cây rừng rơi xuống hoặc do lâu ngày, dưới tác động của sức nóng mặt trời, lớp nhựa bọc dây lão hóa, bong tróc ra. Khi gió thổi mạnh, hai sợi dây thỉnh thoảng lại chập vào nhau gây đoản mạch.

Thời điểm này, Ngoại trưởng Mỹ là Henry Kissinger đã có những cuộc gặp riêng với đại diện Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa là Cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ và Bộ trưởng Xuân Thủy nên Tổng thống Richard Nixon cũng như Lầu Năm Góc và CIA rất muốn biết các động thái của Quân Giải phóng trên chiến trường miền Nam Việt Nam, nhất là nếu Hiệp định Paris được ký kết. Vì vậy, việc nghe lén điện thoại lại càng thêm cấp thiết.

Theo chuyên gia phân tích của CIA là Dustin Kane thì: "Biết trước được những hành động của đối phương sẽ giúp chúng ta có lợi thế hơn nếu cần phải đánh phủ đầu, cũng như trong đàm phán".

Đến tháng 4/1971, một kế hoạch đã được CIA lập ra. Đó là một tấm pin mặt trời đường kính chỉ 10cm sẽ được lắp vào một đỉnh cột điện thoại để cung cấp năng lượng cho một máy thu, phát sóng cũng chỉ nhỏ bằng nửa bao thuốc lá đặt kế bên. Tất cả đều ngụy trang cho giống với màu sắc cây cột và nếu chỉ nhìn lướt qua, rất khó phát hiện.

Do máy thu, phát sóng nhỏ, công suất yếu, CIA sẽ thiết lập một trạm khuếch đại tín hiệu trên đất Lào rồi từ trạm này, những cuộc đàm thoại nghe lén được sẽ chuyển tiếp về Thái Lan.

Vẫn theo sĩ quan do thám điện tử McTunler: "Kế hoạch hoàn hảo đến nỗi chúng tôi tưởng như việc đặt thiết bị nghe lén sẽ chẳng gặp một trở ngại gì, giống như bạn leo lên nóc nhà mình để dựng một ăng ten thu tín hiệu truyền hình vậy".

Tuy nhiên, làm thế nào để có thể đặt thiết bị nghe lén một cách an toàn, không bị phát hiện? Rút kinh nghiệm những toán biệt kích gửi ra Bắc đều bị bắt hoặc sau khi nhảy xuống đất, mọi liên lạc với trung tâm chỉ huy ở Sài Gòn cũng im luôn nên phương án sử dụng kỹ thuật viên từ lãnh thổ Lào, vượt biên giới bí mật tiếp cận với đường dây điện thoại bị bác ngay từ đầu.

Với phương án một cuộc đột kích chớp nhoáng, bắt cóc một hay vài người dân ở những khu vực xung quanh rồi mua chuộc và huấn luyện họ cách thức cài đặt thiết bị nghe lén cũng bị xem là ảo tưởng bởi lẽ cuộc đột kích ấy chắc chắn không thể giữ bí mật được lâu khi gia đình của những người bị bắt cóc không thấy chồng, cha, anh, họ về, mà thời gian để mua chuộc, dụ dỗ, huấn luyện lại không chỉ một ngày một bữa.

Sau nhiều cuộc họp bàn bạc, tranh luận dựa trên những dữ kiện do nhóm chuyên viên phân tích không ảnh cung cấp, những người đứng đầu CIA chọn phương án tiếp cận đường dây điện thoại bằng trực thăng.



Một bức không ảnh do máy bay U2 chụp con đường đất và các cột điện thoại ở Nghệ An.
Một chiếc trực thăng bay ở chế độ bay treo - nghĩa là đứng yên một chỗ ngay trên cột điện thoại, thả kỹ thuật viên xuống bằng thang dây, lắp đặt thiết bị nghe lén rồi lại bay lên ngay xem ra khả thi.

Tuy nhiên, với những loại trực thăng của Hãng Hàng không Mỹ (Air America) - là hãng hàng không có vỏ bọc dân sự, hoạt động dưới sự chỉ huy trực tiếp của CIA - có thể thực hiện phương án này là Bell 205, H 34, UH thì tiếng ồn do động cơ gây ra quá lớn, ai cũng nghe được trong phạm vi bán kính đến vài kilômét.

Cuối cùng, CIA quyết định chọn loại trực thăng OH6A - Loach để tiến hành việc nghe lén, và kế hoạch nghe lén mang mật danh là "Chính lộ - Main Street".

3. Được Hãng Hughes, Mỹ, chế tạo, trực thăng OH6 có thể đảm nhiệm các chức năng tấn công, hộ vệ và trinh sát. Nó được trang bị động cơ Allison T68-A5A công suất 317 mã lực, trọng lượng rỗng là 696kg, tải trọng tối đa 1.610kg. OH6 có thể bay với vận tốc 282km/giờ và hoạt động trong phạm vi 430km.

Được vũ trang bằng 2 súng máy M60 hoặc 1 đại liên minigun 6 nòng, hoặc 2 đại liên 12,7mm cùng 14 quả rốckét 70mm Hydra và 4 tên lửa chống tăng TOW hay tên lửa Hellfire nên vì thế, OH6 có hỏa lực khá mạnh. Hơn nữa, nó còn được lắp đặt một thiết bị "phun lưới bắt người".

Nếu phát hiện 1 hoặc 2 người đang di chuyển trên một địa hình trống trải và nếu nghi ngờ đó là du kích, phi công sẽ cho máy bay sà sát xuống rồi bấm nút phun lưới.

Tấm lưới làm bằng sợi kelva mảnh như sợi chỉ nhưng sẽ thít chặt vào thân thể người bị bắt, càng giãy giụa nó càng thít chặt hơn, thậm chí cứa đứt da. Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam cùng người dân gọi OH6 là trực thăng "cán gáo" bởi lẽ hình dạng nó giống một quả trứng với cái đuôi mỏng manh, nhìn y như cái gáo múc nước.

Khi đưa vào sử dụng tại chiến trường miền Nam Việt Nam, người Mỹ đã cho in những tờ truyền đơn bằng tiếng Việt, rải xuống những vùng giải phóng, tuyên truyền rằng OH6 có thể "bay thụt lùi rồi dùng cánh quạt đuôi quậy nát những vách nhà bằng tranh hoặc lá dừa nước để phát hiện du kích Việt Cộng ẩn náu bên trong".

Tuy nhiên, đó là chuyện thổi phồng nhằm tạo ra hoang mang tâm lý bởi lẽ bay thụt lùi thì được, nhưng cánh quạt đuôi nếu chém vào những thân tre dùng làm cột nhà sẽ bị cong, thậm chí còn có thể gãy. Khi ấy, việc triệt tiêu mô men xoắn do cánh quạt chính tạo ra sẽ mất, và trực trăng sẽ xoáy trôn ốc trước khi cắm đầu xuống đất.

Trở lại chuyện xâm nhập tỉnh Nghệ An, thời điểm ấy Air America đang sở hữu 2 chiếc trực thăng OH6, nhưng là phiên bản dành cho dân sự, không vũ trang, được định danh là Hughes 500.

Khi quyết định chọn loại máy bay OH6 làm con át chủ bài cho việc cài đặt thiết bị nghe lén điện thoại, CIA lấy cả hai  chiếc Hughes 500 của Air America rồi chuyển cho Hãng Hughes, cấp cho họ 200 nghìn USD, yêu cầu họ làm thế nào để giảm bớt đến mức tối đa tiếng ồn do động cơ gây nên.

Suốt 3 tháng làm việc cật lực, bộ phận chuyên gia của Hughes đã thành công bằng cách thay đổi cấu trúc của cánh quạt, từ 2 lá tăng lên 4 lá, đồng thời lắp đặt thêm một bánh răng có tác dụng làm giảm vận tốc quay của cánh quạt đuôi, bố trí thêm một thùng xăng phụ trong khoang hành khách để kéo dài thời gian hoạt động, ống xả cũng được kéo dài về phía sau với những vách ngăn "lá sách" nhằm giảm tiếng ồn. Sau khi hoàn thành, chiếc Hughes 500 được đặt tên là "Im lặng số 1 - Quiet One".

Tiến hành bay thử, Hãng Hughes chọn một khu ngoại ô giàu có ở thành phố Los Angeles, nơi cư dân không ngớt than phiền về những tiếng động ầm ĩ của trực thăng cảnh sát tuần tra, bay ở độ cao thấp.

Kết quả ngoạn mục đến nỗi trong suốt 7 ngày kể từ lúc tiến hành bay thử, người dân ở khu ngoại ô này đã hỏi nhau, rằng không biết ngân sách thành phố có cắt giảm tiền xăng cho trực thăng tuần tra hay không mà cả tuần lễ chẳng thấy bóng dáng một chiếc nào…

Theo Cao Trí (An Ninh Thế Giới)

Bí mật vụ án gián điệp biệt kích "K50" ở Hà Tĩnh năm 1967-1971 - Bài 1: Sự ra đời của những toán biệt kích

Thứ Sáu, 24/03/2017, 11:44 [GMT+7]
In bài này
.
Toán biệt kích Hadley nhảy từ trực thăng không cờ hiệu, không số hiệu xuống Hà Tĩnh.
Toán biệt kích Hadley nhảy từ trực thăng không cờ hiệu, không số hiệu xuống Hà Tĩnh.
Năm 1959, sau khi đã thanh toán xong các giáo phái chống đối ở miền Nam Việt Nam, đồng thời ban hành Luật 10/59, “đặt Cộng sản ra ngoài vòng pháp luật”, chính quyền Diệm, Nhu dưới sự gợi ý của người Mỹ, đã xây dựng hoàn chỉnh một cơ quan đặc biệt, được thành lập từ năm 1956, núp dưới cái tên rất hiền lành: “Sở Khai thác địa hình”. Thực chất, đây là một đơn vị tình báo tác chiến trực thuộc Phủ Tổng thống, do đại tá Lê Quang Tung làm chỉ huy trưởng.
Sở Khai thác địa hình có một phòng được gọi là Phòng 45 hay Phòng E, chịu trách nhiệm thu thập tin tức về miền Bắc thông qua những người di cư hoặc những kẻ bỏ trốn vào miền Nam sau năm 1954. Ðến năm 1960, hoạt động tình báo được đặc biệt chú trọng hơn nữa, nhất là sau khi Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời. Ðể yểm trợ cho công tác bí mật này, dưới sự chỉ huy trực tiếp của Cơ quan tình báo Trung ương Mỹ (CIA), một bộ phận gọi là Combined Studies (Nghiên cứu tổng hợp) thuộc Tòa Đại sứ Mỹ tại Sài Gòn đã hỗ trợ Sở Khai thác địa hình bằng việc gửi chuyên viên huấn luyện những bài học tình báo căn bản, cung cấp trang thiết bị, tài chính để Phòng 45 hoạt động.
Đầu năm 1963, Sở Khai thác địa hình đổi tên thành Bộ Tư lệnh Lực lượng đặc biệt với hai đơn vị là Liên đoàn 77 và Liên đoàn 31 - trong đó Phòng 45 biến thành Sở Khai thác. Song song với sự cải tổ ấy, Bộ Chỉ huy cố vấn quân sự Mỹ tại miền Nam Việt Nam (MACV) cũng cho ra đời cơ quan MACV - SOG (Studies and Observations Group - Nhóm cố vấn và yểm trợ cho các công tác đặc biệt). Ðến năm 1965, Sở Khai thác đổi tên thành Sở Kỹ thuật - rồi nâng lên thành Nha Kỹ thuật mà mục đích không ngoài việc huấn luyện biệt kích để tung ra miền Bắc.
Trong Nha Kỹ thuật, bộ phận chịu trách nhiệm chính trong việc tung biệt kích ra Bắc là Ðoàn 68. Nó tổ chức và chỉ đạo các toán tình báo hoạt động dài hạn tại miền Bắc bằng cách thiết lập những căn cứ cố định hoặc di động, móc nối dân địa phương để thu thập thông tin tình báo, theo dõi và trinh sát các mục tiêu trọng yếu, các tuyến đường vận chuyển vũ khí, trang thiết bị quân sự nằm dọc theo biên giới Việt Nam - Trung Quốc thuộc các tỉnh Cao Bằng, Hà Giang, Lạng Sơn, Lai Châu, các khu vực là đầu mối của việc chuyển quân vào Nam ở các tỉnh Hà Tĩnh, Quảng Bình rồi báo cáo về Sài Gòn để không quân Mỹ tung ra những cuộc ném bom đánh phá, ngăn chặn.
TOÁN BIỆT KÍCH HADLEY
Trong chiến tranh chống Mỹ, Hà Tĩnh là một trong những địa bàn trọng điểm, bởi quốc lộ 8 bắt nguồn từ Ngã ba Bãi Vọt (nay là TX. Hồng Lĩnh) qua biên giới Việt - Lào rồi xuyên dãy Trường Sơn, nối liền với các nhánh đường mòn Hồ Chí Minh, tạo ra một hành lang tương đối thuận lợi và an toàn cho bộ đội ta chi viện chiến trường miền Nam. Ðể ngăn chặn, người Mỹ ngoài việc sử dụng sức mạnh không quân còn tiến hành một loại chiến tranh khác: “Chiến tranh gián điệp”.
Với đội quân biệt kích hàng ngàn người, chia thành gần 100 toán, từ năm 1960 đến 1968, CIA và Nha Kỹ thuật đã tung ra miền Bắc 54 toán với tổng cộng 342 biệt kích. Trong đó, hàng chục toán xâm nhập bằng đường biển, đường không vào địa bàn Hà Tĩnh từ năm 1961 đến 1968 với mục tiêu là các huyện Kỳ Anh, Cẩm Xuyên, Thạch Hà, Hương Sơn, Hương Khê…
Cuối năm 1966, trong số hàng trăm tên biệt kích ở Trung tâm huấn luyện biệt kích Long Thành, tỉnh Biên Hòa (nay là Ðồng Nai), một nhóm 15 tên được Nha Kỹ thuật chọn riêng, đặt bí danh là “Toán T”. Khi Lê Văn Ngung lên làm trưởng toán, nội bộ có sự mâu thuẫn, một số thành viên không tán thành nên Nha Kỹ thuật tách từ “Toán T” ra 4 người để lập thêm một toán nữa, gọi là “Toán T2” nhằm bổ sung cho “Toán T” khi cần thiết. Vì vậy, “Toán T” chỉ còn 11 người gồm Lê Văn Ngung - toán trưởng; Nguyễn Văn Thương - toán phó; Nguyễn Thế Khoa và Phạm Viết Phúc - điện báo viên cùng 7 người khác là Tùng, Hinh, Lao, Khoan, Tinh, Quy, Trọng.
Khóa huấn luyện “Toán T” do đại úy Pred Caristo, cố vấn Mỹ trực tiếp chỉ huy, phụ trách giảng dạy là đại úy tên Dung, trong đó các biệt kích học cách xâm nhập bằng đường không, cách đặt thiết bị đo chấn động trên đường giao thông để đếm lượng xe qua lại, cách mưu sinh thoát hiểm, cách móc nối dân địa phương, cách khai thác và thu thập thông tin, sử dụng điện đài, chất nổ, sử dụng những loại vũ khí của những nước xã hội chủ nghĩa, cách ăn mặc, nói chuyện sao cho giống như những người dân, bộ đội miền Bắc. Kết thúc khóa học, “Toán T” được Pred Caristo đặt cho bí danh mới là “Hadley”. Các thành viên trong toán lần lượt mang tên theo thứ tự: Hadley 1, Hadley 2…, cho đến Hadley 11.
XÂM NHẬP MIỀN BẮC
Chiều 26-1-1967, dưới sự hộ tống của cố vấn Mỹ Pred Caristo và đại úy Dung, toán Hadley được xe quân sự đưa ra sân bay Tân Sơn Nhất rồi lên chiếc máy bay vận tải C.47, bay đến sân bay Nakhon Phanom, đông bắc Thái Lan. Đại úy Nguyễn Văn Vinh thuộc Nha Kỹ thuật đã chờ sẵn tại đây. Vài phút sau, chúng chuyển sang máy bay trực thăng H34 không số hiệu, không sơn cờ nước nào, do phi công người Đài Loan điều khiển. Sau ngày 30-4-1975, hồ sơ về toán Hadley còn lưu trữ tại Nha Kỹ thuật Sài Gòn cho thấy: 17 giờ ngày 26-1-1967, chiếc trực thăng chở toán Hadley cất cánh từ sân bay Nakhon Phanom, có 1 chiếc khác kèm theo, cả 2 bay ở độ cao dưới 1.000m. Hai máy bay vừa qua vùng biên giới Lào, Việt thì có tiếng súng dưới đất bắn lên. Cho rằng đây chỉ là những loạt đạn hú họa của bộ đội Bắc Việt hoặc của lực lượng Cách mạng Lào (Pathet Lào) mỗi khi thấy máy bay bay thấp, nhưng để đánh lạc hướng, viên phi công lái chiếc trực thăng thứ hai lập tức lượn vòng lại trong lúc chiếc thứ nhất vẫn giữ nguyên lộ trình. Lúc vừa đến tọa độ đã định, chiếc thứ nhất hạ độ cao rất nhanh rồi sà xuống một triền đồi mọc đầy lau sậy. Khi thấy những tên biệt kích cuối cùng trong toán Hadley đã nhảy xuống, viên phi công vội vã kéo mạnh cần lái. Chiếc trực thăng bốc lên trong tư thế gần như đứng thẳng. Lúc trực thăng đã lên cao, Nguyễn Văn Vinh nhìn ra khung cửa kính, tim như ngừng đập vì bên kia đồi, nơi vừa thả toán biệt kích là một con đường đất. Khi thông qua kế hoạch hành quân, trên tấm bản đồ không ảnh chẳng hề có con đường này. Như vậy, họ đã thả toán biệt kích xuống nhầm chỗ! Chiếc thứ hai bay sau cũng phát hiện sự nhầm lẫn đó nên vội báo về Nha Kỹ thuật. Cố vấn Pred Caristo yêu cầu chiếc trực thăng thả toán biệt kích phải quay trở lại, đón toàn bộ lên. Khi trực thăng còn cách mặt đất khoảng 1m, Nguyễn Văn Vinh cùng phi công phụ vội vã nhảy xuống, vừa chạy vừa gọi toán biệt kích. Họ kêu tên từng người nhưng không ai trả lời, tất cả đã biến mất vào rừng. Trở lại Nakhon Phanom, đại úy Vinh ngồi cạnh những thùng lương thực để sẵn sàng tiếp tế cho toán biệt kích. 48 giờ trôi qua, toán Hadley vẫn biệt tăm. Quay về sân bay Đà Nẵng, trong hai ngày kế tiếp, Nguyễn Văn Vinh đi theo chiếc khu trục AD-1 do phi công Sài Gòn cầm lái, 3 lần bay qua điểm hẹn với toán Hadley, hy vọng thấy tấm panô báo nguy hoặc tín hiệu an toàn của nhóm biệt kích song tất cả chỉ là rừng xanh núi thẳm mịt mù.
Thời điểm toán Hadley xâm nhập Hà Tĩnh thì Tết Nguyên đán Ðinh Mùi cũng đang đến gần. Trước đó, Nha Kỹ thuật cho rằng càng gần Tết thì việc bố phòng của ta càng lơi lỏng, ít chú ý tới việc tuần tra. Trong chuyến xâm nhập này, nhiệm vụ của toán Hadley là thu thập tin tức về tuyến đường vận chuyển vũ khí, đạn dược vào Nam, địa điểm đóng quân của bộ đội, kho tàng, bến bãi, cầu phà trên quốc lộ số 8 từ Hà Tĩnh nối với đường 15, đường 81, 12 và 121 của Lào; các trận địa pháo cao xạ, tên lửa phòng không của ta dọc tuyến biên giới; nắm tình hình đời sống kinh tế, xã hội, của cư dân địa phương. Ngoài ra, Hadley còn phải theo dõi tuyến giao thông đường thủy trên sông Ngàn Phố…
Sau khi đổ bộ 10 phút, cả toán di chuyển theo hướng tây bắc. Ði được khoảng 500m, toán trưởng Lê Văn Ngung ra lệnh dừng lại nghỉ ngơi. Mờ sáng, lúc vừa tỉnh dậy, chuẩn bị đến địa điểm theo tọa độ mà Nha kỹ thuật đã chỉ định, nhóm biệt kích bỗng nghe tiếng chó sủa, tiếng người nói chuyện từ xa vọng lại, mỗi lúc một gần hơn. Hốt hoảng, cả bọn cắm đầu chạy vì lúc còn ở trên trực thăng, đại úy Vinh đã phổ biến rằng khu vực mà toán nhảy xuống, trong bán kính 3km không hề có thôn xóm, làng mạc.
Chạy được một lát, khi không còn nghe thấy tiếng người, tiếng chó chúng mới dám dừng lại. Lúc bị bắt, Tùng, một biệt kích khai: “Chúng tôi chọn địa điểm nằm trên một khe suối hiểm trở làm chỗ đóng quân nhưng không dám dựng ăng ten để lên máy báo về trung tâm vì sợ bị lộ”…

Bí mật vụ án gián điệp biệt kích "K50" ở Hà Tĩnh năm 1967-1971 - Bài 2: Trò chơi nghiệp vụ

Thứ Sáu, 31/03/2017, 09:36 [GMT+7]
In bài này

.
Toán Hadley tại căn cứ huấn luyện biệt kích Long Thành.
Toán Hadley tại căn cứ huấn luyện biệt kích Long Thành.
Sau khi bắt giữ được toán biệt kích, bằng biện pháp nghiệp vụ, các lực lượng chức năng của ta đã kiên trì, mềm mỏng nhưng kiên quyết đấu tranh khai thác phương thức hoạt động của đối phương. Thông qua chính các biệt kích bị bắt giữ, ta đã thực hiện thành công hàng ngàn cuộc liên lạc đánh lạc hướng mà địch không hề hay biết.
LỜI KHAI CỦA TOÁN BIỆT KÍCH
Một tiếng rưỡi trước khi toán biệt kích Hadley nhảy ra khỏi trực thăng để xâm nhập Hà Tĩnh, lúc 18 giờ 30 phút ngày 26-1-1967, bộ đội Pathet Lào khi nghe tiếng máy bay lướt sát những ngọn cây thì lập tức bắn lên mấy loạt đạn trong lúc lực lượng Công an vũ trang và dân quân tự vệ của lâm trường Hương Sơn (Hà Tĩnh) cũng đã nhận ra sự xuất hiện bất thường của 2 chiếc trực thăng nên một mặt báo cáo cấp trên, mặt khác tổ chức kiểm tra. Đến 15 giờ ngày 27-1-1967, Công an vũ trang và dân quân tự vệ phát hiện bọn biệt kích. 2 biệt kích Lao, Quy khai khi bị bắt: “Chúng tôi chạy lên một triền đồi, tổ chức phòng ngự bằng cách ném lựu đạn xuống. Cả toán đều mất tinh thần vì biết nếu bị bắt sẽ bị tử hình hoặc tù chung thân về tội gián điệp”. 
Về phía lực lượng truy đuổi, cán bộ, chiếc sĩ Công an vũ trang, dân quân tự vệ vừa bao vây, bắn trả, vừa phát loa gọi hàng. Biết không thể chống lại, 4 trong số 11 tên biệt kích nằm ở tuyến phòng thủ đầu tiên buông súng nhưng với bản chất ngoan cố, lúc bị hỏi về hướng tẩu thoát của đồng bọn, một tên đã cố tình chỉ sai nhằm tạo điều kiện cho toán trưởng Lê Văn Ngung, toán phó Nguyễn Văn Thương cùng 2 điện báo viên là Khoa và Phúc chạy thoát. Cuộc truy đuổi nhóm biệt kích tiếp tục được lực lượng Công an vũ trang khẩn trương tiến hành. Ðến khoảng 15 giờ ngày 4-2, một mũi trinh sát phát hiện những tên còn lại đang ẩn náu tại một thung lũng giữa cánh rừng già sát biên giới Việt - Lào nên tổ chức bao vây. Biết không thoát, nhóm biệt kích đầu hàng. Cả bọn được đưa về Sở chỉ huy dã chiến của ta ở thôn Trung Lĩnh, xã Sơn Lĩnh, huyện Hương Sơn, Hà Tĩnh để khai thác.
Ngay khi dẫn giải toán biệt kích về sở chỉ huy dã chiến, 11 tên bị tách riêng ra nhằm ngăn ngừa chúng thống nhất với nhau về cách khai báo, mỗi tên do 2 cán bộ hỏi cung. Thoạt đầu, nhiều tên im lặng hoặc chỉ trả lời vòng vèo nhưng sau gần 1 tuần, trước thái độ mềm dẻo, cởi mở, ân cần nhưng kiên quyết của cán bộ Ban chuyên án, nhất là khi thấy không bị tra tấn, đánh đập, được cho ăn uống tử tế, ốm đau có thuốc men, nhiều tên bắt đầu “mở miệng”, khai báo rành rọt về phương thức hoạt động, mã số, biệt danh, ký hiệu, ám hiệu an toàn của từng tên, qui ước bảo mật điện đàm, mật mã dịch điện, tín hiệu truyền tin để khi Sài Gòn nhận được bản tin, họ sẽ biết là nhóm biệt kích vẫn an toàn hay đã bị bắt.
Kết thúc khai thác, Ban chuyên án quyết định giữ lại 2 điện báo viên của nhóm Hadley là Nguyễn Thế Khoa và Phan Viết Phúc để phục vụ chuyên án K50. Khoa được đặt bí danh là “Hóa”, Phúc là “Chất”. Riêng toán trưởng, toán phó và 7 tên biệt kích còn lại được đưa vào trại giam Hỏa Lò.
Từ đây, trò chơi nghiệp vụ giữa lực lượng Công an nhân dân và CIA, MACV-SOG cùng Nha Kỹ thuật Sài Gòn bắt đầu, và kéo dài trong suốt 4 năm.
Một số vũ khí của toán biệt kích.
Một số vũ khí của toán biệt kích.
CHUYÊN ÁN K50
Tiến hành trò chơi nghiệp vụ, việc quan trọng phải làm đầu tiên là liên lạc với Trung tâm chỉ huy Nha Kỹ thuật Sài Gòn vì từ khi xâm nhập địa bàn tỉnh Hà Tĩnh đến ngày bị bắt, toán Hadley chưa một lần lên máy. Để bảo đảm bí mật tuyệt đối, không gây cho địch bất cứ một sự nghi ngờ nào, dưới sự chỉ đạo của Ban chuyên án, 2 điện báo viên trong toán Hadley là Hóa và Chất tiến hành các thao tác trên máy vô tuyến. Hóa được phân công gõ “maníp” truyền bản tin đã được mã hóa do Ban chuyên án thực hiện theo bản mật mã Nha Kỹ thuật cung cấp cho toán Hadley, còn Chất quay máy phát điện phục vụ việc phát sóng.
Cuộc liên lạc đầu tiên của toán Hadley với Nha Kỹ thuật Sài Gòn diễn ra vào lúc 9 giờ 15 phút ngày 28-02-1967. Ðây là thời khắc quyết định của chuyên án K50 vì lừa được địch hay không đều phụ thuộc vào cuộc liên lạc này. Để đề phòng Hóa, Chất bí mật báo cho Nha Kỹ thuật biết họ đang truyền tin dưới sự chỉ đạo của ta, việc thao tác máy, quy ước liên lạc được cán bộ nghiệp vụ của Ban chuyên án giám sát chặt chẽ. Sau ít phút lên máy, Hóa báo có điện chuyển đi, Nha Kỹ thuật báo lại là sẵn sàng tiếp nhận. Nội dung bức điện đầu tiên của toán Hadley gửi về là: “Từ khi đổ bộ xuống địa điểm đã định, trong nhiều ngày Hadley bị Việt cộng truy đuổi nên phải chạy, chưa tìm được chỗ nghỉ ngơi, chưa lắp máy liên lạc. Nay thoát khỏi truy lùng an toàn, Hadley chọn tọa độ 48 E Phố Châu lập căn cứ. Thời tiết xấu, mưa nhiều, địa hình hiểm trở, cây rừng rậm rạp, di chuyển khó khăn. Sức khỏe của các biệt kích giảm sút, ăn uống không tốt. H1, H3, H8 bị sốt, H5 ngã chấn thương chân. Trình trung tâm chỉ huấn”.
Cuộc liên lạc diễn ra khoảng 30 phút, thông suốt, an toàn. Điện trả lời, Nha Kỹ thuật Sài Gòn một mặt động viên tinh thần toán Hadley, mặt khác hỏi về việc bị truy đuổi, đã thấy an toàn chưa, có thể hoạt động được chưa? Tình hình an ninh trong vùng và sức khỏe của các biệt kích… Sau này, khi chạy ra nước ngoài, đại tá Ngô Thế Linh, một trong những chỉ huy của Nha Kỹ thuật đã thừa nhận: “Nghiệp vụ của Công an Bắc Việt quá giỏi. Như cùng một bản nhạc chẳng hạn, nhưng mỗi người chơi đàn lại có cách thể hiện khác nhau, không ai giống ai thì nhân viên điện báo gõ manip cũng thế. Sĩ quan nhận tin căn cứ vào cách gõ manip có thể biết được người đang gõ là ai. Chưa kể điện báo viên còn được cung cấp một kỹ thuật bí mật. Chỉ cần đưa kỹ thuật này vào bản tin - chẳng hạn một dấu chấm, hoặc một dấu phẩy ở dòng thứ bao nhiêu là sĩ quan nhận tin sẽ biết ngay rằng họ đang truyền tin dưới sự khống chế của đối phương. Vậy mà trong suốt thời gian từ tháng 2-1967 đến tháng 4-1971, gần 1.500 ngày, mỗi ngày Hadley phải mở máy liên lạc một chiều để nhận điện đến, 2 ngày có một phiên liên lạc hai chiều để chuyển điện đi và nhận điện đến, tổng cộng hơn 1.000 phiên liên lạc một chiều và gần 800 phiên liên lạc hai chiều nhưng chúng ta vẫn không biết họ đã nằm trong tay Cộng sản Bắc Việt”.
VỎ QUÝT DÀY, MÓNG TAY NHỌN
Sau nhiều phiên liên lạc, kiểm tra tính xác thực của những bản tin do toán Hadley truyền về, trung tuần tháng 6-1967, Nha Kỹ thuật Sài Gòn yêu cầu toán Hadley “tiến hành điều tra tuyến đường hành quân vào Nam của bộ đội Bắc Việt”. Họp bàn tính toán, Ban chuyên án quyết định chọn con đường lâm sinh của công nhân đội 8, Lâm trường Hương Sơn và đường mòn của người dân địa phương vẫn thường đi lấy củi ở khu vực Rào Chè để Hadley báo về trung tâm: “Đã phát hiện đường hành quân của bộ đội Bắc Việt; nhưng họ chỉ sử dụng từ khoảng 17 giờ ngày hôm trước đến 4 giờ sáng hôm sau”. Sở dĩ ta chọn thời gian này là để phù hợp với quy luật hành quân của bộ đội.

Bí mật vụ án gián điệp biệt kích "K50" ở Hà Tĩnh năm 1967-1971 - Bài 3: Những chiến thắng giả

Thứ Sáu, 07/04/2017, 09:11 [GMT+7]
In bài này

.
Ra khỏi trực thăng, toán Hadley lủi nhanh vào rừng (ảnh do không quân Mỹ chụp bằng máy hồng ngoại)
Ra khỏi trực thăng, toán Hadley lủi nhanh vào rừng (ảnh do không quân Mỹ chụp bằng máy hồng ngoại)
Với sự giúp sức của các biệt kích bị bắt giữ, ta đã thực hiện thành công những màn đấu trí với địch. Để tạo cho địch niềm tin rằng, toán biệt kích của chúng vẫn hoạt động an toàn, ta đã tạo ra những chiến thắng giả tạo cho chúng.
MÀN KỊCH LỚN
Trước khi Hadley truyền bản tin về, Ban chuyên án đã phối hợp với Lâm trường Hương Sơn (Hà Tĩnh) và chính quyền địa phương, tuyên truyền vận động công nhân, người dân nên đi bằng những đường khác, hoặc không đi vào chiều tối hay mờ sáng để đề phòng địch ném bom. Thượng tá Nguyễn Khánh Toàn nói: “Ðể tạo niềm tin với Nha Kỹ thuật ở Sài Gòn, ta phải tạo ra những tình huống nghiệp vụ cực kỳ phức tạp, mang tính quyết định sự tồn tại của chuyên án. Ðây là sự đấu trí giữa ta và địch để địch tin rằng toán biệt kích Hadley an toàn, hoạt động dưới sự chỉ huy của chúng nhưng lại không để chúng ném bom bắn phá gây thiệt hại cho ta. Có lúc, ta buộc phải hy sinh một vài lợi ích nhỏ để đạt được yêu cầu lớn”.
Tháng 4-1968, Nha Kỹ thuật yêu cầu toán Hadley điều tra các kho tàng, bến bãi nằm trong địa bàn hoạt động của toán. Ðược sự chỉ đạo của Bộ Công an, Hadley gửi tin về Sài Gòn, thông báo đã phát hiện một kho lương thực, thực phẩm, vũ khí đạn dược ở tọa độ X. Thực chất đây là bãi đậu xe vận chuyển gỗ và lán trại của công nhân Ðội 11, Lâm trường Hương Sơn đang chuẩn bị chuyển đi nơi khác. Ðược Ban chuyên án thông báo, Ban Giám đốc Lâm trường lập tức cho Đội 11 nhanh chóng di dời vào ban đêm nhưng vẫn để lại vài chiếc xe chở gỗ đã hư hỏng, một số lán trại, ít thùng đựng xăng, dầu. Vài ngày sau, khu vực này bị máy bay Mỹ bắn phá dữ dội. Những đám cháy do xăng, dầu, lán trại được máy bay trinh sát Mỹ chụp ảnh nên Nha Kỹ thuật lại càng tin tưởng vào nhóm Hadley.
Tháng 3-1971 sau chiến thắng vang dội của quân dân ta ở đường 9 Nam Lào, Nha Kỹ thuật yêu cầu toán Hadley bằng mọi cách phải điều tra, phát hiện “những con đường di chuyển vào Nam của xe tăng Bắc Việt”. Ðây là một yêu cầu cấp bách của địch, nằm ngoài dự đoán của ta vì để đáp ứng đòi hỏi của địch, ta phải có sự dàn dựng công phu, kỹ lưỡng. Dưới sự chỉ đạo của Bộ Công an, Công an Hà Tĩnh, Tỉnh đội Hà Tĩnh và dân quân địa phương đã làm giả một đoạn đường dài gần 2km từ xã Sơn Lĩnh chạy qua khu rừng rậm, xuyên vào dãy Trường Sơn, gần biên giới Lào. Khi làm xong, ban đêm xe xích của lâm trường chạy đi chạy lại nhiều lần để tạo dấu vết như xe tăng di chuyển. Chưa kể ở bìa rừng, nhiều lán trại được dựng lên cùng những thùng đựng xăng dầu và vài chiếc xe ủi đất bánh xích đã hư hỏng nhưng được lắp thêm một số bộ phận bằng gỗ nhìn như xe tăng, ngụy trang một cách hớ hênh để máy bay Mỹ có thể chụp ảnh.
Mọi việc hoàn tất, Ban chuyên án cho toán Hadley liên lạc về Sài Gòn, báo cáo “Toán đã phát hiện đường di chuyển chiến xa Bắc Việt tại tọa độ Z - bản đồ 48E Phố Châu”. Vài ngày sau, trên bầu trời xã Sơn Lĩnh, máy bay trinh sát OV10 xuất hiện, bay lượn quần thảo nhiều vòng. Tiếp theo, máy bay phản lực Mỹ ném bom, bắn phá ác liệt vào đúng những điểm mà ta đã bố trí. Những thùng chứa xăng dầu bốc cháy mù mịt, lán trại tan nát, xe xích giả xe tăng trúng bom nằm ngả nghiêng mỗi nơi một mảnh đã khiến Nha Kỹ thuật, MAGV-SOG và CIA hoàn toàn tin tưởng vào sự hoạt động hữu hiệu của toán Hadley. Chả thế mà trong phiên liên lạc hôm sau, cả toán nhận được điện khen ngợi với lời hứa sẽ được tăng lương, lên chức. Thượng tá Nguyễn Khánh Toàn cho biết: “Trong quá trình đấu tranh, ta đã xử lý thành công hàng trăm tình huống phức tạp khác nhau theo yêu cầu của Sài Gòn. Trong đó khoảng 50% là tình huống giả tạo, chỉ 10% là thật để máy bay địch oanh kích nhưng hạn chế thấp nhất thiệt hại của ta”.
Toán biệt kích T2 cải trang như bộ đội miền Bắc trước lúc xâm nhập Hà Tĩnh để hỗ trợ toán Hadley. (Ảnh của Nha kỹ thuật)
Toán biệt kích T2 cải trang như bộ đội miền Bắc trước lúc xâm nhập Hà Tĩnh để hỗ trợ toán Hadley. (Ảnh của Nha kỹ thuật)
NHỮNG CHUYẾN HÀNG TIẾP TẾ  
Một trong những yếu tố quyết định đến sự tồn tại của các toán biệt kích hoạt động ở miền Bắc là vấn đề tiếp tế. Nó bao gồm lương thực, quần áo, đạn dược, thuốc men, thiết bị liên lạc, nguồn pin dự trữ và các món hàng tâm lý chiến như radio, bật lửa, vải vóc để mua chuộc dân địa phương. Ðặc biệt với toán Hadley, hoạt động tại vùng đất địa đầu giới tuyến thì việc tiếp tế là ưu tiên số một.
Theo quy định, mỗi năm toán Hadley được tiếp tế từ 2 đến 3 lần, mỗi lần từ 7 đến 10 kiện hàng, mỗi kiện nặng trên 100kg. Tuy nhiên, tùy theo yêu cầu và tình hình cụ thể mà số lượng, chủng loại hàng hóa của từng đợt có thay đổi. Ðể bảo đảm bí mật, an toàn, tránh bị phát hiện, việc thả hàng chỉ diễn ra trong khoảng thời gian từ 17 giờ đến 19 giờ, hoặc từ 23 giờ đến 2 giờ sáng vào những ngày có trăng, và Nha Kỹ thuật sẽ báo trước trong các phiên liên lạc định kỳ để toán Hadley chuẩn bị đốt lửa làm tín hiệu. 
Ðể thực hiện việc nhận hàng tiếp tế nhưng không làm cho địch nghi ngờ, Ban chuyên án chuẩn bị kỹ lưỡng địa điểm - gọi là “bãi thả”. Do địa hình hoạt động của toán Hadley “rất hiểm trở” như ta đã chỉ đạo cho điện báo viên báo về Nha Kỹ thuật, đồng thời máy bay địch khi bay trên bầu trời miền Bắc, phi công rất sợ mạng lưới phòng không của ta nên phải bay cao. Vì vậy, Ban chuyên án chọn một sườn đồi làm bãi thả hàng để khi bay từ miền Nam hoặc Thái Lan sang, phi công dễ nhìn thấy. Với diện tích khoảng 400m2, những cây lớn đều được chặt hạ có tính toán vì nếu không, hình ảnh chụp từ máy bay trinh sát sẽ gây nghi ngờ cho Nha Kỹ thuật vì tại sao “trong lòng địch mà lại chuẩn bị được bãi thả hàng lý tưởng như thế”. Toán trưởng Lê Văn Ngung, khai: “Tín hiệu cho máy bay nhận diện bãi thả là 5 đám khói xếp theo hình chữ T theo hướng Nam Bắc nếu là ban ngày, còn ban đêm là 5 quả pháo sáng hoặc 5 đống lửa cũng xếp theo hình chữ T”.
Trong số 11 tên biệt kích thuộc toán Hadley thì 9 tên bị giam giữ tại Hà Nội, Ban chuyên án chỉ để lại 2 điện báo viên là Hóa và Chất nên trinh sát của ta phải đóng giả 9 tên kia. Bằng quần áo, giày, mũ, súng đạn của bọn biệt kích, các trinh sát chặt hạ cây rừng, dọn dẹp bãi thả để nếu máy bay địch chụp ảnh, cũng không thể nghi ngờ. Ngay cả khi đốt lửa hiệu, trinh sát cũng phải thực hiện đúng bài bản vì có thể có những toán biệt kích khác bí mật kiểm tra.
Cuối tháng 8-1967, Ban chuyên án tổ chức đón nhận chuyến hàng tiếp tế đầu tiên. Toán Hadley tập trung tại bãi thả, sẵn sàng nhận hàng. Ðúng giờ G, 5 trinh sát châm lửa vào 5 đống củi. Giây lát, 5 ngọn lửa bùng lên. Từ xa, chiếc C130 nhìn thấy tín hiệu liền hạ thấp độ cao, mở cửa đuôi rồi bay lướt qua bãi. Trong máy bay, nhóm nhân viên kỹ thuật nhanh chóng đẩy những kiện hàng ra rồi phát tín hiệu đã thả hàng xong. Tất cả chỉ diễn ra trong khoảng 15 giây. Khi nhìn thấy hai ngọn đèn xanh, đỏ nhấp nháy từ đuôi máy bay, báo hiệu hàng đã thả hết, mọi người mới thở phào nhẹ nhõm. Lửa được dập tắt, những kiện hàng được thu gom để chuyển về.
Tuy nhiên, không phải lần thả hàng nào cũng diễn ra suôn sẻ. Do thời tiết và tâm lý sợ hãi của phi công, nhiều kiện hàng rơi xa khỏi bãi đáp cả cây số. Có đợt chỉ một vài tiếng là ta thu đủ số hàng nhưng cũng có đợt mất vài ngày - thậm chí cả tháng. Trong hơn 4 năm thực hiện chuyên án K50, Nha Kỹ thuật Sài Gòn đã thực hiện 10 chuyến bay tiếp tế với hàng chục tấn hàng…

Bí mật vụ án gián điệp biệt kích "K50" ở Hà Tĩnh năm 1967-1971 - Bài cuối: Hạ màn

Thứ Sáu, 14/04/2017, 09:55 [GMT+7]
In bài này

.
Một toán biệt kích bị bắt khi xâm nhập miền Bắc.
Một toán biệt kích bị bắt khi xâm nhập miền Bắc.
Cuối năm 1970, sau khi bộ đội Pathet Lào bắt được toán biệt kích T2, lãnh đạo Bộ Công an nhận thấy chuyên án K50 đã đạt yêu cầu, không cần thiết kéo dài thêm nữa nên quyết định cho phá án. Ðể bảo đảm bí mật nghiệp vụ của ta nhằm phục vụ những chuyên án về sau, việc phá án được tính toán thận trọng, tỉ mỉ, chính xác, phù hợp với quy luật hoạt động gián điệp của địch trong bối cảnh lúc đó. 
TOÁN BIỆT KÍCH T2 SA LƯỚI
Cuối năm 1970, Ban chuyên án soạn thảo một bức điện để toán Hadley gửi về Nha Kỹ thuật Sài Gòn với nội dung “Toán trưởng và một số toán viên bị sốt rét ác tính, đã chết. Hoạt động của toán gặp rất nhiều khó khăn, đói rét, yêu cầu trung tâm tiếp tế thêm lương thục, thực phẩm, nhất là thuốc sốt rét”.
Yêu cầu của Hadley lập tức được Nha Kỹ thuật thực hiện. Trong chuyến hàng tiếp tế sau đó, ngoài các kiện hàng theo đề nghị của toán, còn có một kiện gồm 3 thùng được niêm phong cẩn mật. Theo lệnh của Nha Kỹ thuật, 3 thùng này toán Hadley phải chôn ở ba địa điểm gần nhau, sát biên giới Việt, Lào theo tọa độ chỉ định. Khi bóc gỡ ra xem, Ban chuyên án nhận thấy lượng hàng trong mỗi thùng đủ để cho một cá nhân sống khoảng 1 tháng. Như vậy, có khả năng địch sẽ thả thêm người xuống để kiểm tra hoạt động của toán Hadley và 3 thùng lương thực này được chôn giấu nhằm phục vụ cho nhóm sẽ nhảy xuống. Nếu Hadley vẫn an toàn thì nhóm mới xuống sẽ liên lạc và sáp nhập để tăng cường lực lượng, thay thế cho những tên đã chết.
Với nhận định trên, Ban chuyên án cho chôn 3 thùng hàng tại 3 tọa độ theo chỉ thị của Nha Kỹ thuật rồi báo về Sài Gòn, rằng toán Hadley đã thực hiện đúng mệnh lệnh của Trung tâm. Mặt khác, Ban chuyên án bố trí 3 tổ trinh sát bí mật mai phục tại 3 địa điểm chôn hàng để bắt nhóm biệt kích nếu chúng đến lấy. Tuy nhiên, sau gần 2 tháng theo dõi mà không phát hiện gì, ta rút 3 tổ trinh sát về nhưng vẫn bố trí dân quân địa phương canh gác cẩn mật.
 Cuối tháng 11-1970, Bộ đội Pathet Lào bắt được một toán biệt kích gồm 3 tên ở sát biên giới huyện Hương Sơn (Hà Tĩnh). Nhận được tin báo, Ban chuyên án cử trinh sát sang phối hợp với bạn, cùng khai thác 3 tên này - trong đó tên Trần Hiếu Hòa khai: “Khi trung tâm nhận được bức điện của toán Hadley báo cáo toán trưởng Lê Văn Ngung đã chết, tôi cùng 2 biệt kích thuộc toán T2 được cử ra Bắc tăng cường cho toán Hadley. Tôi sẽ thay Ngung làm toán trưởng nhưng do máy bay thả dù sai vị trí, chúng tôi không tìm thấy các kiện hàng do toán Hadley chôn giấu, không liên lạc được với toán Hadley. Trong khi tìm đường rút lui, chúng tôi bị bộ đội Lào bắt giữ”.  
KẾT THÚC
Sau khi bộ đội Pathet Lào bắt gọn toán biệt kích T2, lãnh đạo Bộ Công an nhận thấy chuyên án K50 đã đạt yêu cầu, không cần thiết kéo dài thêm nữa nên Bộ quyết định cho phá án. Ðể bảo đảm bí mật nghiệp vụ của ta nhằm phục vụ những chuyên án về sau, không để địch nghi ngờ, việc phá án được tính toán thận trọng, tỉ mỉ, chính xác, phù hợp với quy luật hoạt động gián điệp của địch trong bối cảnh lúc đó. 
Trong những tháng đầu năm 1971 ta cho toán Hadley liên tục điện về Trung tâm cầu cứu, nội dung một số đã chết do sốt rét ác tính, một số ốm yếu gầy mòn do phải sống giữa rừng thiêng nước độc đã lâu ngày mà vẫn không sao tiếp cận, móc nối được người dân bản xứ như kế hoạch ban đầu; lại thường xuyên phải trốn chạy những cuộc tuần tra của bộ đội Bắc Việt, việc điều tra thu thập tin tức tình báo của toán ngày càng kém hiệu quả…
Đầu tháng 3-1971, sau khi nhận được những bức điện “kể khổ”, Nha Kỹ thuật ra lệnh cho toán Hadley di chuyển theo hướng Tây Nam, rút khỏi biên giới Việt Nam, vào vùng đệm của Lào ẩn náu, bảo toàn lực lượng, chờ sự chi viện. Một tuần sau, Hadley báo cáo về trung tâm, cho biết đã chấp hành mệnh lệnh và đang rút lui sang đất Lào nhưng gặp rất nhiều khó khăn, to  án chỉ mang được một ít lương khô và thường xuyên gặp phải sự tuần tra biên giới rất nghiêm ngặt, tinh thần các biệt kích giảm sút, hoang mang lo lắng. Sau phiên liên lạc này, Ban chuyên án đóng máy, không thực hiện việc gửi tin cho Nha Kỹ thuật ở Sài Gòn nữa. Mọi hoạt động của toán Hadley coi như chấm dứt.
Ðể công khai hóa việc phá án, bảo đảm bí mật nghiệp vụ của ta, Bộ Công an cử một số chuyên gia sang làm việc với Công an Lào, trao đổi thống nhất chủ trương. Tiếp theo, Ðài phát thanh Pathet Lào đưa tin ngày 20-3-1971, quân và dân các thôn bản ở tỉnh Pôlicămxây, Lào, đã bắt được một toán biệt kích của quân đội Việt Nam Cộng Hòa khi chúng thâm nhập vùng biên giới Lào. Sau đó, phía Lào tổ chức trưng bày những bằng chứng về sự xâm nhập của toán Hadley do ta cung cấp. Đến lúc đó, CIA, MACV-SOG và Nha Kỹ thuật vẫn cho là toán Hadley bị bắt khi đang trên đường rút lui sang Lào để chờ trực thăng đón về.
Sau ngày miền Nam giải phóng, hồ sơ tài liệu của địch thu được ở Nha Kỹ thuật cho thấy khi thả toán Hadley xuống Hà Tĩnh, suốt gần 4 năm, CIA, MACV-SOG và Nha Kỹ thuật luôn tin rằng toán Hadley hoạt động rất hiệu quả mặc dù chỉ 2 ngày sau khi nhảy xuống Hà Tĩnh, bộ phận trinh sát điện tử của CIA thu được bản tin của Công an Bắc Việt báo cáo cấp trên, rằng đã phát hiện toán biệt kích gần đèo Nape. Như vậy Hadley đã nằm trong tay Bắc Việt?
Thế nhưng 24 ngày sau, đột ngột Hadley báo cáo về trung tâm là đã chạm trán với quân Bắc Việt và hiện vẫn còn lẩn trốn trong rừng. Bức điện gây tranh cãi dữ dội ở Sài Gòn. Để biết rõ thực hư, MACV-SOG tổ chức toán Voi nhảy dù xuống điều tra. Bốn biệt kích trong toán được trang bị ống nhòm cực mạnh và máy chụp ảnh từ xa. Họ được lệnh nằm lại, chụp ảnh bất cứ người nào đến lấy thùng lương thực thả xuống cho toán Hadley. Điều này sẽ chứng minh toán Hadley vẫn an toàn hay đã bị bắt.
Ngày 18-10-1967, Đại úy Nguyễn Văn Vinh đi theo toán Voi trên chiếc MC130. Đến Hà Tĩnh, toán Voi nhảy ra khỏi máy bay. Vinh dặn toán trưởng toán Voi khi xuống đất phải báo cáo ngay nhưng toán Voi cũng biến mất không tăm tích. Tuy nhiên với những bức điện do toán Hadley gửi về sau đó, cộng với những mục tiêu bị đánh phá do sự chỉ điểm của toán Hadley, cả CIA, MACV-SOG lẫn Nha Kỹ thuật đều tin rằng Hadley tồn tại và hoạt động rất hiệu quả. Khi bộ đội Pathet Lào công bố về việc bắt giữa toán biệt kích Hadley, họ mới vỡ lẽ ra rằng cả toán Voi cũng đã sa lưới.
VŨ CAO
(Theo tư liệu của Thượng tá Nguyễn Khánh Toàn,
cựu cán bộ trinh sát chuyên án “K50”, nguyên Phó trưởng phòng A41, Bộ Công An)

Xét xử cựu công an tội gián điệp, dọa bán tài liệu mật cho nước ngoài

16/04/2018 12:15 GMT+7

TTO - Trốn qua Campuchia đánh bạc và thua sạch túi, Nguyễn Hoàng Dương dọa bán tài liệu mật của Bộ Công an cho đại sứ quán Trung Quốc và các tổ chức, cá nhân nước ngoài để ép cấp trên chuyển tiền đánh bạc tiếp.

Xét xử cựu công an tội gián điệp, dọa bán tài liệu mật cho nước ngoài - Ảnh 1.
Bị cáo Nguyễn Hoàng Dương bị dẫn giải - Ảnh: T.MAI
Ngày 16-4, TAND TP.HCM đã xét xử và tuyên phạt bị cáo Nguyễn Hoàng Dương (33 tuổi) 7 năm tù về tội gián điệp, 1 năm tù về tội cưỡng đoạt tài sản, tổng hợp hình phạt phải chấp hành là 8 năm tù.
Theo cáo trạng, Nguyễn Hoàng Dương nguyên là cán bộ đội 9, phòng 3 Cục kỹ thuật nghiệp vụ I (A70), Bộ Công an.
Dương nghỉ phép từ ngày 29-8 đến ngày 26-9-2016.
Vào khoảng 20h ngày 18-9-2016, Dương đến trụ sở cơ quan tại TP.HCM, đi vào bàn làm việc lấy một đĩa CD sao chép các tài liệu mật được lưu trữ trong máy tính cơ quan và mang sang Campuchia đánh bạc, nếu đánh bạc thua sẽ sử dụng vào mục đích phạm tội.
Sáng 19-9-2016, Dương đi theo đường tiểu ngạch trốn sang Campuchia để đánh bạc và thua hết tiền.
Sau đó, Dương nhắn tin cho em gái xin 5,5 triệu đồng đánh bạc nhưng tiếp tục thua hết. Dương tiếp tục giả mạo giang hồ nhắn tin cho em gái Dương nói đang giữ Dương vì thiếu nợ, nếu muốn thả Dương thì chuyển tiền vào tài khoản. Tuy nhiên, em gái Dương không gửi tiền như yêu cầu mà báo công an.
Những ngày sau đó, Dương nhắn tin cho 1 cán bộ đội 9, A70 và ông Dương Danh Kiểm, đội trưởng đội 9, nói nếu không đưa tiền thì Dương sẽ chết.
Do lo ngại Dương xuất cảnh trái phép có thể đem theo tài liệu mật sẽ ảnh hưởng đến đơn vị nên lãnh đạo của Dương đã chuyển cho Dương 5 triệu đồng. Tuy nhiên Dương không về Việt Nam mà tiếp tục đánh bạc hết số tiền trên.
Từ ngày 25 đến ngày 27-9-2016, Dương chụp hình đĩa CD và nhắn tin cho các cán bộ khác của A70 để buộc ông Kiểm phải tiếp tục chuyển tiền, nếu không Dương sẽ bán các tài liệu mật này cho đại sứ quán Trung Quốc tại Campuchia và các tổ chức, cá nhân nước ngoài hoặc tung lên mạng để mọi người cùng chết với Dương.
Ông Kiểm không chuyển tiền mà báo cáo cho lãnh đạo đơn vị. Trưa 27-9-2016, Dương bị Công an Campuchia bắt giữ và chuyển giao cho A70. Sau đó, Dương được cơ quan cho về nhà làm kiểm điểm.
Tuy nhiên, sau đó Dương bán xe máy đã cầm để sang Campuchia đánh bạc và tiếp tục thua. Trong thời gian này, Dương nhiều lần dùng email, số điện thoại liên lạc với đại sứ quán Trung Quốc tại Campuchia và Đài Châu Á Tự do để bán các tài liệu mật đã sao chép lấy tiền đánh bạc.
Ngày 2-10-2016, Dương đến sòng bạc rút 2 triệu đồng do 1 cán bộ Cục Bảo vệ chính trị II, Tổng cục An ninh, Bộ Công an gửi cho Dương vay. Khi đang rút tiền thì Dương bị Công an Campuchia bắt giao cho Công an Việt Nam. Trên đường đi, Dương đã bẻ đôi chiếc đĩa CD.
Tại tòa Dương khai nhận hành vi phạm tội.
Khởi tố một phó phòng ở Đắk Lắk làm lộ bí mật nhà nước
TTO - Người bị khởi tố là ông Lê Ngọc Sáu - phó phòng Nông nghiệp & Phát triển nông thôn huyện Krông Năng (Đắk Lắk) - vì liên quan vụ lộ đề thi công chức cấp xã của huyện này năm 2016.
TUYẾT MAI

Làm mất tài liệu mật, 1 trung tá công an bị bắt

09/12/2004 08:52 GMT+7

TT - Hôm qua (8-12), Cục Điều tra - Viện Kiểm sát nhân dân tối cao đã thực hiện lệnh bắt bị can đối với trung tá Hoàng Minh Công - đội trưởng đội tổng hợp Công an quận Hải Châu, TP Đà Nẵng - tại nhà riêng ở đường Đào Duy Từ, TP Đà Nẵng về hành vi làm mất tài liệu bí mật của Nhà nước.

Vào tháng 11-1999, Cơ quan CSĐT Công an TP Đà Nẵng đã khởi tố vụ án và bị can đối với ông Phạm Mại - giám đốc Công ty TNHH Việt Trung - về hành vi lợi dụng tín nhiệm để chiếm đoạt tài sản của Nhà nước và công dân. Lúc ấy Hoàng Minh Công với chức danh là thiếu tá - điều tra viên Cơ quan CSĐT Công an TP Đà Nẵng, người trực tiếp thụ lý vụ án. Qua điều tra các cơ quan chức năng đã phát hiện trong hồ sơ lưu trữ liên quan đến vụ án Phạm Mại đã bị mất một số trang tài liệu bí mật liên quan. Đây chính là lý do để Cục Điều tra - VKSND tối cao ra lệnh bắt giam trung tá Hoàng Minh Công.
ADVERTISEMENT
ĐĂNG NAM

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét