Dai Chung la su suy ngam cua toi ve cuoc doi, xa hoi, nhan sinh
CÂU CHUYỆN LỊCH SỬ 80
Nhận đường liên kết
Facebook
X
Pinterest
Email
Ứng dụng khác
-
(ĐC sưu tầm trên NET)
Vụ Tru Di Cửu Tộc Lớn Nhất Thế Kỷ XIV Của HỒ QUÝ LY Gây Căm Phẫn Nhất Lịch Sử
Vụ Tru Di Cửu Tộc Lớn Nhất Thế Kỷ XIV Của HỒ QUÝ LY
Nội dung: Trước khi soán ngôi nhà Trần, lập nên nhà Hồ, Hồ Quý Ly đã
thao túng quyền lực trong triều đình nhà Trần suốt nhiều năm, gây ra
nhiều hận thù, oán thán. Trong đó đặc biệt phải kể đến những vụ thanh
trừng dã man các đối thủ chính trị cản bước mình, độc ác không kém gì
màn trả thù Tây Sơn của Gia Long Nguyễn Ánh sau này.
HỒ QUÝ LY – Chính Sách Đối Ngoại Thâm Hiểm Sau Khi Lên Ngôi, Không Ngại Thịt Sứ Giả Nhà Minh TQ
Hồ Qúy Ly - Nhìn Lại 3 Công 6 Tội || Lịch Sử Có Nên Đổ Tội Lên Đầu Hồ Qúy Ly Hay Ca Tụng Qúa Đáng
Trong sự nghiệp đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, thời nào
cũng xuất hiện những anh hùng, hào kiệt. Từ Bà Trưng, Bà Triệu đến Ngô
Quyền, Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê
Lợi, Nguyễn Trãi, Quang Trung đến chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Những vị
hào kiệt ấy và biết bao anh hùng, chiến sĩ đã làm rạng rỡ cho đất nước
và dân tộc ta. Trong lịch sử dân tộc, có những người vì lẽ này hay lý do
khác mà hậu thế chưa đánh giá đúng mức và công bằng tài năng và trí tuệ
của họ, trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hồ Quý Ly là một
người như thế. Vì vậy mặc dù Triều Hồ đã qua hơn 6 thế kỷ, nhưng có rất
nhiều bí ẩn chưa có lời giải đáp thuyết phục về sự nghiệp, nhân cách của
một con người như ông. Điều này cũng cần được nhìn nhận lại thật khách
quan công bằng trên một từ duy mới.
Tây Sơn có phá mồ các chúa Nguyễn?
Tây Sơn, cụ thể là vua Quang Trung đã cho người đào lăng mộ 8 đời chúa
Nguyễn và đời thứ 9 là mộ cha Nguyễn Ánh cho vứt xuống sông vào năm
1792, chính sử nhà Nguyễn từ Đại Nam Thực Lục lẫn Đại Nam Liệt Truyện
đều ghi lại:
''Sau Huệ đánh trận hay thua (tướng lĩnh không diệt
được Nguyễn Ánh ở Gia Định), người ta đều nói các lăng liệt thánh (lăng
các chúa Nguyễn) khí tốt nghi ngút, nghiệp đế tất dấy. Huệ bực tức, sai
đồ đảng đào các lăng, mở lấy hài cốt quăng xuống vực.''
Tuy
nhiên, đến bây giờ vẫn còn rất nhiều người không tin Tây Sơn là thủ phạm
đã phá hủy các lăng chúa Nguyễn, thậm chí có người còn nói ''Nếu Quang
Trung cho phá lăng các chúa Nguyễn thì sao bây giờ ở Huế vẫn còn các
lăng chúa Nguyễn?'' hoặc ''Chuyện phá lăng không tin được lời chính sử
nhà Nguyễn ghi lại, biết đâu là do Nguyễn Ánh bịa để bôi nhọ Tây Sơn''
Việc Tây Sơn quật mồ mả của các chúa Nguyễn có thật hay không? Hãy thử phân tích xem.
Xưa nay việc bảo vệ tông miếu là rất quan trọng đối với các hoàng triều
vì theo sự "mê tín" của các vua thì tông miếu, lăng tẩm bị tàn phá
không chỉ là mất "thiên uy" mà còn làm giảm sự hưng thịnh, "tuổi thọ"
của đương triều, phá hủy ''long mạch'', ''phúc thọ'' của dòng tộc, dĩ
nhiên các sử quan nhà Nguyễn sẽ không dại gì "nói không thành có", vì
như thế là báng bổ tổ tiên hoàng đế, có mười cái đầu cũng không dám ghi
chép bậy. Huống chi các sử quan nhà Nguyễn chép chính sử hoặc là lờ đi
hoặc là không ghi, chứ không có chuyện ghi chép vào chính sử việc giả
dối, bịa đặt, thậm chí họ còn từng khen Quang Trung trong chính sử.
Các lăng mộ chúa Nguyễn đã bị phá hoại là sự thật, tất cả được xây dựng
lại vào năm 1802 lúc Gia Long chiếm được Phú Xuân, và đều xây theo 1
lối kiến trúc duy nhất, quy mô các lăng tương tự nhau.
Với trường hợp bị "phá thật" như vậy thì chỉ có hai khả năng là quân Trịnh hoặc quân Tây Sơn phá.
Trịnh và Nguyễn vốn có tình thông gia, tuy có đối địch nhưng cũng không
nỡ cạn tàu ráo máng. Bằng chứng là sau này Nguyễn Ánh lên ngôi tỏ ra
khá hậu đãi hậu duệ chúa Trịnh. Tướng Trịnh Hoàng Ngũ Phúc chỉ huy quân
Trịnh vào chiếm Phú Xuân năm 1775 là người kinh nghiệm, uy danh, cẩn
trọng, tất không làm việc quá đáng đó. Hơn nữa quân Trịnh khi chiếm Phú
Xuân cũng không hạ lệnh truy tìm, tàn sát hoàng tộc chúa Nguyễn còn sót ở
Phú Xuân. Đặt trường hợp nếu quân Trịnh là kẻ phá mồ các chúa thì
Nguyễn Ánh liệu có để yên cho họ Trịnh sau khi ông lên ngôi vua? Nguyễn
Ánh là người ân oán phân minh, vậy mà lúc lên ngôi Nguyễn Ánh tỏ ra cư
xử tử tế với họ Trịnh chứ không hề có hành động trả thù nào, thậm chí
đến cả Hoàng Ngũ Phúc, ông cũng không trừng phạt gia tộc hay đào mộ gì
cả.
Chưa kể đến ngoài các lăng mộ của các chúa Nguyễn bị phá
hoại, còn có mộ cha của Nguyễn Ánh là hoàng tử Nguyễn Phúc Luân cũng bị
đào lên vứt xương xuống sông, nếu là quân Trịnh phá mộ thì cũng chỉ phá
mộ các chúa Nguyễn_kẻ thù của các chúa Trịnh mà thôi, tại sao lại phá cả
mộ của cha Nguyễn Ánh trong khi quân Trịnh chiếm Phú Xuân 10 năm, mà
trong thời gian 10 năm này Nguyễn Ánh và quân Trịnh chưa hề đụng độ nhau
mà chỉ lo đánh kẻ thù lớn nhất của mình là quân Tây Sơn, vậy thì cớ gì
quân Trịnh lại cho quật cả mồ cha của Nguyễn Ánh? Ta có thể thấy quân
Trịnh hoàn toàn không có khả năng phá mồ các Chúa Nguyễn, vậy thủ phạm
chỉ còn Tây Sơn chứ không ai khác.
Quân Tây Sơn đa số chỉ huy
chẳng có dây mơ rễ má gì với phe Nguyễn, lại truy cùng sát tận tôn tộc
chúa Nguyễn, giết từ chúa đến Đông Cung, tôn thất... trong cuốn hồi ký
Narrative of a voyage to Cochin China của thương nhân người Anh tên là
Charles Chapman đến Nam Hà 1777-1778 có ghi lại cách Tây Sơn đối xử với
tôn thất họ Nguyễn như sau:
"Có 1 người họ hàng xa của vương tộc
ẩn náu được trong vùng do Bắc Hà kiểm soát. Viên quan (của Tây Sơn) có
quen với ông ta, liền giả vờ gọi ông đến để che chở. Người đàn ông tội
nghiệp này đã đem theo vợ con cùng cả gia đình rất đông người đến. Khi
đến cảng Đà Nẵng, ông đi tàu đến trước, để vợ con lại trên thuyền. Viên
quan nhanh nhảu đón ông ấy, đưa về nhà, nhưng chưa qua cổng, ông đã bị
lính bắt giữ, ngay lập tức bị chém bay đầu. Sau đó, viên quan này lên
thuyền đi đến chỗ vợ con hoàng thân. Ngay khi vừa lên thuyền, ông ta đã
cho trói tất cả phụ nữ và trẻ em lại ném xuống sông, lấy tất cả tài sản
của họ."
Tây Sơn còn có "thành tích" phá bia tiến sĩ đốt Quốc Tử
Giám ở Thăng Long, lại có thói quen cướp bóc, vụ phá lăng miếu mồ mả
chúa Nguyễn đem so cũng chỉ tương đương là một vụ đập phá thôi, đốt chùa
phá tượng còn làm được, thì đập mồ đào mả việc gì phải chùn tay?
Nhất là khi dân chúng Nam Hà bấy giờ tương truyền Nguyễn Ánh mới là
chân mệnh thiên tử, Nguyễn Huệ và Nguyễn Ánh là kẻ thù không đội trời
chung, Nguyễn Huệ lại sắp tập hơp lực lượng vào Gia Định ''diệt gọn''
Nguyễn Ánh, nên việc phá lăng mộ các chúa, vứt xương hủy ''long mạch''
để tuyệt đường thoát của Nguyễn Ánh là chuyện dễ hiểu vì 4 lần đánh Gia
Định, Nguyễn Huệ chưa từng diệt được Nguyễn Ánh.
Chính Nguyễn Ánh
cũng đã nói ''Trẫm vì chín đời mà trả thù'' trong lễ hiến phù tổ tiên,
cho dù có hận Tây Sơn đến mấy thì Nguyễn Ánh cũng không thể nào đem tổ
tiên của mình ra để lừa gạt được vì đó là động chạm đến nguồn cội tối kỵ
mà bất cứ hoàng đế nào cũng đều không dám phạm húy kỵ chạm đến.
Cho nên ta có thể thấy tất cả đầu mâu của việc phá mồ chúa Nguyễn đều
chĩa về phía Tây Sơn, cho dù có yêu thích Tây Sơn như thế nào cũng không
thể phủ nhận việc Nguyễn Huệ từng phá mồ các chúa Nguyễn cũng như những
mặt trái của Tây Sơn mà người ta ít dám nhắc đến.
Người ta chỉ
thích nhắc đến chuyện Gia Long trả thù Tây Sơn ra sao, lại không nhắc
đến chuyện Tây Sơn đã hại họ Nguyễn Phúc như thế nào, thói đời thật đáng
buồn thay. Nguồn: Đặng Phương Nhi #Ruka
Mùa đông năm Nhâm Tuất (1802) xa giá vua
Gia Long từ Thăng Long trở về Phú Xuân và tổ chức lễ Hiến phù, “tận pháp
trừng trị” vua quan Tây Sơn.
Địa điểm tổ chức lễ Hiến phù, nay thuộc vị trí công viên Nguyễn Văn Trỗi, Huế
Ảnh: B.N.L
Sau khi tạm ổn định tình hình, ngày 2.5 năm Nhâm Tuất (12.6.1802)
Nguyễn vương Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi lấy niên hiệu Gia Long nguyên niên
ở Kinh thành Phú Xuân và sau đó đưa đại quân ra bắc để tiêu diệt vua
Tây Sơn.
Ngày 23.6 năm Nhâm Tuất (1802) vua Gia Long vào thành Thăng Long và
vài tháng sau bắt sống vua Tây Sơn Nguyễn Quang Toản ở rừng Phượng
Nhãn, sau đó đưa về Phú Xuân tổ chức lễ Hiến phù.
Đại Nam thực lục chính biên chép: “Tháng 11, Nhâm Tuất
(1802) làm lễ tuyên cáo võ công. Ngày quý dậu (6.11 âm lịch, nhằm ngày
30.11.1802) tế thiên địa thần kỳ. Ngày giáp tuất (7.11 âm lịch, nhằm
ngày 1.12.1802) hiến phù ở Thái miếu... Sai Nguyễn Văn Khiêm là đô thống
chế dinh Túc trực và Nguyễn Đăng Hựu làm tham tri hình bộ áp dẫn Nguyễn
Quang Toản và em là Quang Duy, Quang Thiệu, Quang Bàn ra ngoài cửa
thành, xử án lăng trì cho 5 voi xé xác (dùng 5 con voi chia buộc vào đầu
và hai tay hai chân, rồi cho voi xé, đó là một thứ cực hình), đem hài
cốt của Nguyễn Văn Nhạc và Nguyễn Văn Huệ giã nát rồi vứt đi, còn xương
đầu lâu của Nhạc, Huệ, Toản và mộc chủ của vợ chồng Huệ thì đều giam ở
Nhà đồ ngoại (năm Minh Mệnh thứ 2 đổi giam vào ngục thất cấm cố mãi
mãi). Còn đồ đảng là bọn Trần Quang Diệu, Võ Văn Dũng đều xử trị hết
phép, bêu đầu cho mọi người biết”.
Tương truyền quảng trường, nơi tổ chức lễ Hiến phù, nằm trước từ
đường Dũng Triết Vương, phía tây thành Phú Xuân. Khu vực này về sau có
Tôn Nhân Phủ, Khâm Thiên Giám, Bộ Học và một phần của công viên Bao Viên
sau đổi tên thành công viên Nguyễn Văn Trỗi (TP.Huế) hiện nay.
Để không còn sinh phúc
Việc vua Gia Long trả thù nhà Tây Sơn và đưa “hoa cái” của 3 vị vua
vào giam trong ngục thất được lý giải và mô tả qua bức thư của giáo sĩ
Bissachèrre, như sau:
“Tôi xin khởi sự với các việc về vua trẻ Tây Sơn. Trước hết người
ta đã bắt vua đó mục kích một cảnh tượng đau lòng. Hài cốt của cha mẹ
vua chết đã mười, mười hai năm nay, cùng hài cốt những người bà con gần
của vua đều bị quật lên. Người ta sắp các xương của Quang Trung, cha vua
và các xương của mẹ vua... rồi người ta theo lệ bề ngoài chém cổ để làm
sỉ nhục, và nhất là để các xương đó không còn sinh phúc cho con cháu,
theo tục mê tín của người trong xứ. Rồi tất cả xương được dồn vào trong
một cái giỏ lớn để binh sĩ đến tiểu tiện vào. Xong, người ta nghiền
xương thành bột, bỏ vào một giỏ khác đặt trước vua trẻ Tây Sơn để làm
cho vua đó đau khổ.
Bấy giờ người ta dọn cho vua một bữa tiệc khá long trọng, chiếu
theo tục trong xứ đối với những kẻ sắp bị tử hình. Em vua (tức Quang
Thiệu) can đảm hơn vua, thấy vua ăn thì trách và bởi vì mâm người ta dọn
đồ ăn bưng tới đó có những đặc điểm có ý tôn trọng chức vua, nên ông
nói: “Nhà mình thiếu gì mâm, cần gì phải ăn mâm mướn”.
Ăn xong, người ta nhét giẻ vào miệng vua và nhiều người khác để họ
khỏi chửi mắng vua mới, đoạn trói chân tay vào bốn voi để cho voi xé.
Một con voi đã kéo nát đùi và lòi gân vua ra, nhưng vua còn quay về cái
giỏ chứa xương cha mẹ vua. Lý Hình dùng một con dao để phanh các phần
còn dính lại với nhau ra làm bốn phần, cộng với cái đùi đã xé ra nữa là
năm. Người ta đem bêu các phần đó lên, ở đầu một cái cọc cao, tại năm
chợ đông người hơn trong đô thành. Các cọc đó được canh giữ ngày đêm và
người ta dọa phạt nặng những ai làm mất đi; nhưng phải để vậy cho thối
ra hoặc cho quạ ăn...”.
Theo chính sử, vua Gia Long sau khi có những thao tác “tận pháp
trừng trị” lên hài cốt của Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ và thân xác của
Nguyễn Quang Toản, đã chừa lại ba “hoa cái” của 3 “tiếm vương” Nguyễn
Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Quang Toản, bỏ vào 3 cái vò (nên người ta quen
gọi là Ông Vò), đậy nắp kỹ, niêm khằng, quấn xích sắt, chú bùa để giam
vĩnh viễn tội phạm trong Nhà đồ ngoại (sau đổi thành Vũ Khố) vào tháng
11 năm Nhâm Tuất (1802).
Vậy Vũ Khố ở đâu? Đại Nam nhất thống chí chép: “Vũ Khố. Ở
địa phần phường Liêm Năng về phía tây kinh thành. Phía trước có một công
trường và một sở chi thu, phía sau có 10 kho. Lệ đặt một viên thị lang
trông coi, thuộc viên có lang trung, viên ngoại lang, chủ sự, tư vụ và
thơ lại thuộc ty. Trước gọi là Ngoại đồ gia, năm Minh Mệnh thứ 1 đổi tên
hiện nay; phía bắc là sở Vũ Khố đốc công, quan chức có viên giám đốc;
từ viên ngoại lang trở xuống thì do bộ Công thống lãnh”.
Theo những mô tả trong sử sách thì địa điểm Vũ Khố nay thuộc khuôn
viên Trường đại học Nông Lâm, Đại học Huế. Di vật của Vũ Khố chỉ còn cái
giếng cổ ở trung tâm của trường, dưới gốc cổ thụ và một viên đá kê cột
nằm trước cổng trường.
Mạnh Đức
Theo cuốn “ Nhà Tây Sơn “ của nhà văn Quách Tấn,
thì vua Gia Long đã bắt Quang Toản tiểu tiện vào “ Hoa cái “ vua Quang
Trung. Các sử gia hoài nghi, không lẽ Quang Toản lại bạc nhược đến mức
vậy, đằng nào thì cũng không thể thoát án tử khi đã rơi vào tay binh Gia
Long. Các sử gia đưa ra giả thiết cho rằng lăng mộ của Quang Trung là
ngụy tạo, thi hài nằm trong mộ là giả. Chính vì lẽ đó mà Quang Toản dễ
dàng thực hiện những yêu cầu của Gia Long. Trước đó Quang Trung đã cho
khai quật mồ mả cha của vua Gia Long để làm nhục. Là người cơ trí ắt hẳn
Quang Trung lo ngại việc sẽ bị trừng phạt, báo thù của Gia Long, cho
nên trước khi lâm chung đã lo trước việc lập lăng mộ giả cho mình là
điều rất có lý. Bởi lẽ đó cái gọi là “ Hoa Cái “ của vua Quang Trung (
và của Nhạc Đế ) như trong bài viết, chưa hẳn là đích thực. Ngoài ra
cũng theo Quách Tấn thì danh tướng Đại tư đồ Võ Văn Dũng không bị bắt,
mà đào thoát được và sống ẩn dật ở vùng sơn cước hẻo lánh.
Vì sao vua Gia Long trả thù tàn khốc nhà Tây Sơn?
Vua Gia Long vốn không phải là
con người hiếu sát, ngay cả việc đối với họ Trịnh, hai bên đánh nhau
ròng rã 45 năm trời, vậy mà khi đã lấy được nước (1802), vẫn đối xử tốt
với con cháu họ Trịnh chứ đâu đến cạn tàu ráo máng như với Tây Sơn?
Đôi nét lịch sử
Sau
25 năm chiến đấu kiên trì và gian khổ, ngày mồng 3 tháng 5 năm Tân Dậu
(13/6/1801) Nguyễn Vương (vua Gia Long) tái chiếm kinh đô cũ Phú Xuân,
đuổi vua tôi Cảnh Thịnh chạy dài ra Bắc. Một năm sau, ngày mồng 2 tháng 5
năm Nhâm Tuất (1/6/1802), tuy chưa chính thức lên ngôi hoàng đế (1)
nhưng theo lời đề nghị của bầy tôi, vua ban hành niên hiệu Gia Long, mở
ra một triều đại mới của nhà Nguyễn.
Lăng Gia Long
Vào
đầu thế kỷ XX, vua Khải Định đã chọn ngày này (mồng 2 tháng Năm âm
lịch) làm ngày quốc khánh của nước Đại Nam, đặt tên là ngày Hưng quốc
khánh niệm. Những ai ở lứa tuổi trên 70 ở Trung kỳ, từng cắp sách đến
trường có thể còn nhớ đôi chút về ngày này, nhất là ở Huế. Đó là ngày
mừng đất nước thống nhất. Niên hiệu Gia Long bao hàm trong ý nghĩa đó -
vua muốn nói ông là người đã đi từ Gia Định thành tới Thăng Long thành
để thống nhất đất nước (Võ Hương-An, Thăng Long và Gia Long).
Ngay
sau khi chiếm lại Phú Xuân và trong khi vua Cảnh Thịnh của Tây Sơn đang
còn làm chủ ở miền Bắc thì Nguyễn Vương đã cho “Phá hủy mộ giặc Tây Sơn
Nguyễn Văn Huệ, bổ săng, phơi thây, bêu đầu ở chợ” (Thực lục I,
tr.473).
Sau khi chiếm được Bắc Hà,
bắt được trọn gói vua tôi, anh em vua Cảnh Thịnh, hoàn thành cuộc thống
nhất đất nước từ Nam chí Bắc, vua Gia Long khải hoàn về kinh. Ngày Giáp
Tuất tháng 11 năm Gia Long thứ 1 (7 tháng 11 Nhâm Tuất, 1/12/1802) vua
đem tù binh ra làm lễ hiến phù ở Thái Miếu. Hiến phù là lễ trình diện tù
binh trước bàn thờ tổ tiên, và Thái Miếu là nơi thờ 9 đời chúa Nguyễn.
Sau
lễ, “Sai Nguyễn Văn Khiêm là Đô thống chế dinh Túc trực, Nguyễn Đăng
Hựu là Tham tri Hình bộ áp dẫn Nguyễn Quang Toản [vua Cảnh Thịnh] và em
là Quang Duy, Quang Thiệu, Quang Bàn ra ngoài cửa thành, xử án lăng trì,
cho 5 voi xé xác, đem hài cốt của Nguyễn Văn Nhạc và Nguyễn Văn Huệ giã
nát rồi vất đi, còn xương đầu lâu của Nhạc, Huệ, Toản và mộc chủ [bài
vị] của vợ chồng Huệ thì đều giam ở Nhà đồ Ngoại [Ngoại Đồ Gia, cơ quan
chế tạo của triều đình, sau gọi là Võ Khố] (năm Minh Mệnh thứ 2 đổi giam
vào ngục thất cấm cố mãi mãi). Còn đồ đảng là bọn Trần Quang Diệu, Võ
Văn Dũng đều xử trị hết phép, bêu đầu cho mọi người biết. Xuống chiếu bố
cáo trong ngoài" (Thực lục I, tr.531).
Tranh minh họa cảnh hành hình nữ tướng Bùi Thị Xuân và gia đình.
Trong
chiếu bố cáo cho toàn dân được rõ về lễ hiến phù ngày 7 háng 11 Nhâm
tuất, có câu mở đầu: “Trẫm nghe, vì chín đời mà trả thù là nghĩa lớn
kinh Xuân Thu…” và kết thúc bằng câu “Nhạc Huệ trời đã giết rồi, cũng
đem phanh xác tan xương, để trả thù cho Miếu Xã, rửa hận cho thần nhân”
(Thực lục I, tr.532,533).
Theo tài
liệu của Bissachère, trước khi nhận lãnh cái chết thảm khốc, anh em vua
Cảnh Thịnh còn bị bắt phải chứng kiến cảnh lính tráng tiểu tiện vào sọt
đựng hài cốt của cha (Nguyễn Huệ) và bác (Nguyễn Nhạc) (theo hồi ký của
Bissachère) trước khi hài cốt bị đem “giã nát rồi vất đi”.
Phẩm bình của lịch sử
Tại
miền Nam trước 1975, có hai bộ thông sử tiếng Việt thông dụng là Việt
Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim và Việt Sử Toàn Thư của Phạm Văn Sơn.
Viết về vua Gia Long, cả hai bộ sử đều giống nhau ở một điểm: có phê
phán sự hẹp lượng của vua Gia Long qua việc giết hại công thần (vụ án
Nguyễn Văn Thành và vụ án Đặng Trần Thường), có kể rõ việc hành hình trả
thù Tây Sơn nhưng hoàn toàn không bình luận, phê phán gì đến sự “quá
tay” trong việc này. Tại sao?
Hoa
Bằng, tác giả Quang Trung, Anh hùng dân tộc (Nxb Bốn Phương, Saigon,
1953) khi kết luận thiên biên khảo đầu tiên bằng tiếng Việt về đề tài
này đã ngậm ngùi viết: “Vậy mà Nã Phá Luân [Napoléon I] được gởi nắm
xương trong đền Invalides để cho người sau hoài niệm, viếng thăm; còn
Quang Trung: mả phải đào, xương phải tán, dòng dõi bị chu di, sự nghiệp
liệt liệt oanh oanh gói tròn trong một chữ ‘Ngụy’”.
Tượng hoàng tử Quang Đức, con trai vua Quang Trung
Nhà
viết sử Trần Gia Phụng trong Nhà Tây Sơn (Nxb Non Nước, Toronto, 2005)
cũng đã có lời bình phẩm nhẹ nhàng nhưng nghiêm khắc: “Cuộc trả thù được
vua Gia Long xem là ‘nghĩa lớn Kinh Xuân Thu’ nhưng hành hạ di cốt địch
thủ trước mắt con cái họ trái hẳn với đạo lý cổ truyền của dân tộc”
(tr.240).
Phê bình mạnh tay, mạnh mẽ hơn có Quách Giao:
Nhà
Nguyễn đối với nhà Tây Sơn vô cùng khắc nghiệt. Quật mả Vua Thái Ðức,
Vua Quang Trung, chém giết dòng họ, tướng tá nhà Tây Sơn đến thế, Nguyễn
Phúc Ánh chưa cho là đủ, còn truyền đào mồ mả của cha ông hai nhà anh
hùng áo vải và của những người đã theo nhà Tây Sơn và đã chết trước khi
non sông đổi chủ.
Còn đối với Nhà
Tây Sơn thì Nguyễn Phúc Ánh chém tất cả dòng họ, từ Vua Bửu Hưng [Cảnh
Thịnh], cho tới một em bé mới sanh mà đã lọt vào ngục thất. Lại truyền
đào mả Vua Thái Ðức và Vua Quang Trung, nghiền xương đổ xuống bể. Còn sọ
thì đem xiềng nơi ngục thất trong Hoàng Cung để làm lọ đi tiểu.
Ðể
nhổ cỏ cho sạch gốc, Nguyễn Phúc Ánh sức mọi nơi truy tầm những bà con
gần xa của họ Nguyễn Tây Sơn, và những Tướng Tá của Tây Sơn còn trốn
tránh nơi sơn dã. Hai người con Vua Thái Ðức là Văn Ðức, Văn Lương và
cháu nội, con Nguyễn Bảo, là Văn Ðẩu, nương náu nơi Mộ Ðiểu, vùng An
Khê.
Vua tôi Nhà Nguyễn biết nhưng
sợ người Thượng, không dám đến bắt. Mãi đến năm Minh Mạng thứ 12 (1832)
thấy tình thế đã yên, ba chú cháu mới đem nhau về thăm quê cũ ở Kiên Mỹ.
Bọn bất lương đi mật báo. Quân Nhà Nguyễn đến vây bắt giải về Phú Xuân
giết chết.
Ngót 150 năm, Nhà Nguyễn
cố làm cho người người quên Nhà Tây Sơn. Những người yêu nước vẫn luôn
nhớ đến Nhà Tây Sơn, ngọn bút yêu nước vẫn chép đi chép lại, vẫn tìm tòi
trong nơi khuất tịch những tài liệu còn dấu cất, để viết về Nhà Tây
Sơn.
Và tiếng Anh hùng Áo Vải, Anh
Hùng Dân Tộc mãi còn vang, khi nhẹ nhàng, khi mạnh mẽ, trên đất nước
Việt Nam, từ Nam chí Bắc. Còn Nhà Nguyễn đã làm được gì?
Có
người bảo rằng đã thống nhất Bắc Nam. Ðó là quên rằng chính Nhà Tây Sơn
đã thống nhất Bắc Nam, rồi Nguyễn Phúc Ánh đánh chiếm trên tay Ðông
Ðịnh Vương và Cảnh Thịnh. Sau bao phen bể nổi dâu chìm Nhà Nguyễn còn để
lại tiếng Rước voi, cõng rắn.
Trăm năm bia đá thời mòn/ Nghìn năm bia miệng mãi còn trơ trơ.
Anh hùng áo vải Quang Trung - Nguyễn Huệ thống nhất đất nước, dẹp trừ ngoại xâm.
Trong
văn hóa phương Tây, đánh nhau là đánh nhau nhưng không có chuyện trả
thù kẻ chiến bại một cách tàn nhẫn, nhất là đối với người đã chết. Do
đó, khi bắt gặp hành động “dã man” này của vua Gia Long, Stanley Karnow,
tác giả tiếng tăm bộ sử VietNam, A History (Penguin Book, 1984) đã
viết:
“Ông ta tỏ ra chẳng khoan
dung chút nào đối với kẻ thù đã chiến bại, dù đã chết hay còn sống. Binh
sĩ của ông đã quật xương cốt của một cặp vợ chồng cầm đầu Tây Sơn đã
chết [Nguyễn Huệ], tiểu tiện vào xương cốt đó trước sự chứng kiến của
con cái họ và những người này sau đó tay chân bị trói vào 4 con voi và
xé nát.” (p.65)
Nếu Nhà Tây Sơn
không có Quang Trung Nguyễn Huệ với chiến thắng quân Thanh và quân Xiêm
vang dội trong lịch sử thì hành động “vì 9 đời mà trả thù” của vua Gia
Long chưa chắc đã bị búa rìu dư luận nhiều như đã xảy ra.
Ngoài
việc ghi chép khá rõ ràng của Quốc Sử Quán Nhà Nguyễn thì hồi ký sống
động của giáo sĩ De la Bissachère về việc hành hình trả thù của vua Gia
Long đối với anh em và vua tôi Cảnh Thịnh (2), đã gây tác động tâm lý
không nhỏ trong giới sử học Đông Tây (Thực ra ông này không chứng kiến
cuộc hành hình mà chỉ nghe ai đó kể lại).
Nguyễn Ánh đã quật mồ Nguyễn Huệ sau khi dẹp nhà Tây Sơn.
Thử
đi vào mạng lưới toàn cầu, gõ mấy từ khóa như Gia Long, Tây Sơn, Nguyễn
Huệ, thì tha hồ đọc công luận phẩm bình, đa số đều chê Gia Long về việc
này. Điều này cũng dễ hiễu thôi vì hào quang chiến thắng quân Xiêm và
quân Thanh của vua Quang Trung rực rỡ quá, đã che mất sự thật thê thảm ở
bên trong.
Thêm vào đó, với mấy
chục năm lịch sử triều Nguyễn do Gia Long khai sáng, đã bị miệt thị thậm
tệ, đã ảnh hưởng không ít trên sự nhận thức của người đọc, nhất là giới
trẻ. Mặc dầu ngày nay gió đã đổi chiều, đã bắt đầu có sự chuyển biến
trong nhận thức về sự nghiệp của Nhà Nguyễn (3) nhưng không thiếu chi
người vẫn tư duy trong nếp cũ.
Câu hỏi đặt ra
Các
sách sử Việt Nam viết về hành vi “tàn ác” trả thù Tây Sơn của vua Gia
Long đều lấy tài liệu từ các bộ chánh sử của Nhà Nguyễn (Đại Nam Thục
lục đệ nhất kỷ, Đại Nam Liệt Truyện ), trước khi biết đến các chi tiết
khác do nguồn sử liệu Tây phương cung cấp. Sử thần Nhà Nguyễn trong Quốc
Sử Quán đã không giấu diếm gì cả, viết trắng chuyện này ra cho hậu thế
cùng biết, người sau chỉ lặp lại, chỉ thêm lời bình phẩm nặng nể mà
không có bớt.
Riêng người viết,
trong niềm ngưỡng mộ chiến thắng oanh liệt hào hùng của vua Quang Trung
trước quân Xiêm và quân Thanh xâm lăng, ban đầu thì cũng đồng ý với
những bình phẩm chê trách hành động của vua Gia Long đối với Tây Sơn là
thái quá, tàn nhẫn, nhưng sau đó, khi được biết những nguồn tin khác,
không khỏi đắn đo tự hỏi và tìm lời giải đáp.
Thành Gia Định, nơi chúa Nguyễn chạy vào ẩn náu khi bị Tây Sơn đánh.
Vua
Gia Long vốn không phải là con người hiếu sát (4)[1] .Ngay cả việc đối
với họ Trịnh, hai bên đánh nhau ròng rã 45 năm trời, vậy mà khi đã lấy
được nước (1802), vẫn đối xử tốt với con cháu họ Trịnh chứ đâu đến cạn
tàu ráo máng như với Tây Sơn?
Sau
khi làm chủ Bắc hà, vua “Sai chọn người dòng dõi họ Trịnh để giữ việc
thờ cúng họ Trịnh. Trước là khi đại giá Bắc phạt, người họ Trịnh ai ai
cũng sợ bị giết. Vua thấu rõ tâm tình, xuống chiếu dụ rằng: ‘Tiên đế ta
với họ Trịnh vốn là nghĩa thông gia. Trung gian Nam Bắc chia đôi, dần
nên ngăn cách, đó là việc đã qua của người trước, không nên nói nữa.
Ngày nay, trong ngoài một nhà, nghĩ lại mối tình thích thuộc bao đời,
thương người còn sống, nhớ người đã mất, nên lấy tình hậu mà đối xử. Vậy
nên cùng báo cho nhau, họp chọn lấy một người trưởng họ, giữ việc thờ
cúng để giữ tình nghĩa đời đời” (Thực lục I, tr.508).
Vậy
là Trịnh Tư được giao lo việc thờ cúng, họ Trịnh được cấp 500 mẫu ruộng
để lấy huê lợi cúng tế hàng năm, 247 người họ Trịnh được xét tha thuế
dinh và miễn binh dao (đi lính và chịu sưu dịch).
Ai
cũng biết La Sơn Phu tử Nguyễn Thiếp, được coi như một Gia Cát Lượng
của vua Quang Trung, một cố vấn tối cao, được vua quan trên dưới đều
kính nể (4 lần vua khẩn khoản mời ra giúp, cuối cùng nhận chức Viện
trưởng Viện Sùng Chính năm 1790, giúp vua chấn chỉnh việc giáo dục, văn
hóa, giúp vua chọn đất Nghệ An làm Phượng Hoàng trung đô…).
Nguyễn Ánh không phải người bạ đâu giết đó, nhưng lại diệt nhà Tây Sơn đến từng người.
Khi
Nguyễn Vương tái chiếm Phú Xuân, ông đang ở Huế giúp vua Cảnh Thịnh
nhưng không chạy theo khi vua đào thoát (hay chạy theo không kịp?) và
dường như không bị bị bắt mà chỉ quản thúc tại gia, dù phía Nguyễn Vương
biết rõ lý lịch, sau đó Nguyễn Vương đã ra lệnh:
“Thả
xử sĩ ở Nghệ An là Nguyễn Thiếp về. Thiếp là người xã Nguyệt Áo huyện
La Sơn, đậu Hương tiến đời Lê, làm quan huyện Thanh Chương, bỏ quan về
nhà. Khi nhà Lê mất, theo lời mời của Nguyễn Quang Toản mà ở lại Phú
Xuân. Tới nay vào yết kiến, xin trở về làng. Vua [Nguyễn Vương] dụ rằng
‘Khanh là người tuổi tác, đạo đức, rất được người ta trông cậy. Sau khi
trở về núi nên khéo léo đào tạo lấy nhiều học trò để ra sức phò giúp
thịnh triều, khỏi phụ tấm lòng rất mực mến lão kính hiền của ta.’ [người
viết in đậm]. Bèn sai quan quân đưa về" (Thực lục I,tr.445).
Lại
năm 1803, phái đoàn do vua Cảnh Thịnh phái đi sứ Nhà Thanh (gồm Lê Đức
Thận, Nguyễn Đăng Sở và Vũ Duy Nghi) bị trả về nước, bị quan Bắc thành
bắt giải về Kinh, vua Gia Long tha hết cho về quê. Lại khi Bộ Hình tâu
xin vua định đoạt số phận của người vợ lẽ Nguyễn Nhạc cùng 2 người em họ
tên Đại và Vạn bị bắt thì vua nói: “Vợ lẽ Nhạc là một người đàn bà
thôi. Bọn Đại tuy là thân đảng của giặc Nhạc mà không dự binh quyền, nay
Nhạc chết rồi, giết đi thì có ích gì?” (Thực lục I, tr.544).
Những
chứng dẫn nho nhỏ đó cho thấy vua Gia Long là con người phải chăng, tùy
theo người, theo trường hợp mà có quyết định tha hay phạt, chứ không
phải bạ đâu giết đó, thà giết lầm hơn bỏ sót. Vậy tại sao giết Tây Sơn
chưa đủ, phải hành hạ mới hả, kể cả nắm xương khô. Thù chi mà dữ vậy?
Sự thật là đây
Về
chuyện vua Gia Long trả thù Tây Sơn, nhà viết sử Trần Gia Phụng đã đi
xa hơn các học giả đi trước khi lần đầu tiên ông phân tích chính xác
rằng:
“Không kể cá nhân ông bị quân
đội Tây Sơn truy đuổi nhiều lần suýt chết, vua Gia Long thâm thù nhà
Tây Sơn vì ba việc chính: thứ nhất, năm 1777 Định Vương Nguyễn Phúc
Thuần [chú ruột vua Gia Long], Tân Chính Vương Nguyễn Phúc Dương [em chú
bác ruột] và Nguyễn Phúc Đồng [anh ruột] bị quân Tây Sơn bắt giết ở Gia
Định. Thứ nhì, hai người em [ruột] của Gia Long là Nguyễn Phúc Mân và
Nguyễn Phúc Thiển bị chết về tay quân Tây Sơn năm 1783. Thứ ba, vua
Quang Trung cho quật mộ của Nguyễn Phúc Côn (phụ thân của Gia Long), đem
hài cốt đổ xuống sông năm 1790” (Việt Sử Đại Cương, Tập 2, tr.445).
Chừng
đó nợ máu nghe đã nặng (5 người cật ruột), nhất là món nợ thứ 3, nhẹ
vật chất mà nặng tâm linh và đạo đức, ít người biết. Nhưng kể vậy cũng
chưa đủ.
Nguyễn Huệ đã quật mồ 8 đời chúa Nguyễn và cả thân phụ vua Gia Long.
Khi
đọc câu mở đầu của chiếu bố cáo lễ hiến phù: “Trẫm nghe, vì chín đời mà
trả thù là nghĩa lớn kinh Xuân Thu…” * (Thực lục I, tr.532) tôi không
khỏi mỉm cười một mình với ý nghĩ: thiệt mấy ông đời xưa văn chương lớn
lối quá, cái chi cũng lôi điển tích với sách vở ra, tô vẽ cho long
trọng. Nhưng sau đó, khi đọc kỹ Thực lục mới biết mấy chữ vì 9 đời mà
trả thù mang một ý nghĩa rất thực, rất cụ thể, bên cạnh màu sắc điển
tích văn chương tô điểm.
* “Xuân
Thu, Công Dương truyện: Trang công năm thứ 4 chép: Tề Tướng công giết
nước Kỷ, vì ông tổ xa đời là Ai công mà phục thù, đời gọi là mối thù 9
đời” (Chú thích của dịch giả Thực lục I, tr.532).
Ngày
13/6/1801, Nguyễn Vương (vua Gia Long) tái chiếm kinh đô Phú Xuân, nơi
ông đã vội vã ra đi khi mới 13 tuổi (ta), và ròng rã 27 năm mơ ước được
trở về. Tuy đã làm chủ được Phú Xuân nhưng lực lượng hùng hậu của Tây
Sơn Cảnh Thịnh vẫn còn ở bên kia lũy Trường Dục (Quảng Bình), vậy mà đến
đầu tháng 8 năm đó đã lo sửa sang lăng mộ tổ tiên và cấp tốc hoàn tất
ngay trong tháng.
Sao việc này lại
làm gấp rút còn hơn cả công tác sửa sang thành trì, xây đồn đắp luỹ để
phòng chống Tây Sơn? Xin đọc kỹ đoạn ghi chép của Thực lục sau đây, có
thể thấy được lý do thúc đẩy (những chữ in đậm là do người viết, chữ ghi
giữa hai ngoặc đứng [x] là chú giải của người viết):
“Tháng 9, ngày Ất hợi [ 9/8/1801], sửa lại sơn lăng.
Trước
kia giặc Tây Sơn Nguyễn Văn Huệ tham bạo vô lễ, nghe nói chỗ đất phía
sau lăng Kim Ngọc (tức lăng Trường Mậu) [lăng của chúa Ninh Nguyễn Phúc
Thái] rất tốt, định đem hài cốt vợ táng ở đó. Hôm đào huyệt, bỗng có hai
con cọp ở bụi rậm nhảy ra, gầm thét vồ cắn, quân giặc sợ chạy. Huệ
ghét, không muốn chôn nữa. Sau Huệ đánh trận hay thua, người ta đều nói
các lăng liệt thánh [các chúa Nguyễn] khí tốt nghi ngút, nghiệp đế tất
dấy.
Huệ bực tức, sai đồ đảng đào
các lăng, mở lấy hài cốt quăng xuống vực. Lăng Hoàng Khảo ở Cư Hóa [lăng
Cơ Thánh của Nguyễn Phúc Côn, thân sinh vua Gia Long] Huệ cũng sai Đô
đốc Nguyễn Văn Ngũ đào vứt hài cốt xuống vực ở trước lăng. Nhà Ngũ ở xã
Kim Long bỗng phát hỏa. Ngũ trông thấy ngọn lửa chạy về. Người xã Cư Hóa
là Nguyễn Ngọc Huyên cùng với con là Ngọc Hồ, Ngọc Đoài ban đêm lặn
xuống nước lấy vụng hài cốt ấy đem giấu một nơi. Đến nay, Huyên đem việc
tâu lên.
Nguyễn Huệ.
Vua
thương xót vô cùng, thân đến xem chỗ ấy, thì vực đã bồi cát mấy chục
trượng. Tức thì sai chọn ngày lành làm lễ cáo và an táng lại. Các lăng
đều theo nền cũ mà xây cao lên. Ngày Kỷ hợi [1/11/1801], vua thân đến tế
cáo, nghẹn ngào sa lệ, bầy tôi đều khóc cả. Sai đổi xã Cư Hóa làm xã Cư
Chính, cho dân miễn dao dịch làm hộ lăng. Cho Huyên làm Cai đội (năm
Minh Mệnh thứ 11[1830] phong An Ninh
bá, lập đền thờ ở núi Cư Chính) con là Ngọc Hồ, Ngọc Đoài tòng quân ở
Bình Định cũng được gọi về hậu thưởng cho” (Thực lục I, tr.466).
Gạt
ra ngoài những chi tiết hoa lá cành như hai con cọp trong bụi rậm nhảy
ra, đang đào mả thì nhà cháy, v.v., đoạn sử ngắn ngủi do Thực lục ghi
lại tiết lộ hai điều quan trọng mà ít người biết đến hoặc biết mà vì một
lý do nào đó đã lơ đi hoặc chỉ phớt nhẹ nói qua:
-
Thứ nhất, Quang Trung Nguyễn Huệ đã đào hết lăng tẩm của 8 đời chúa
Nguyễn tại Thừa Thiên, lấy hài cốt ném xuống sông. Việc này cộng với
việc giết chết vị chúa thứ 9 là Định Vương Nguyễn Phúc Thuần tại Long
Xuyên năm 1777 thì quả nhiên vua Gia Long tính sổ 9 đời không sai chậy
chút nào. Vì vậy có thể nói được rằng chữ 9 đời có một ý nghĩa rất cụ
thể.
Kinh thành Huế.
Đây là 8 đời chúa Nguyễn:
1.Chúa Tiên Nguyễn Hoàng (1558-1613);
2.Chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên (1613-1635);
3.Chúa Thượng Nguyễn Phúc Lan (1635-1648);
4.Chúa Hiền Nguyễn Phúc Tần (1648-1687)
5.Chúa Ngãi Nguyễn Phúc Thái (1687-1691);
6.Chúa Minh Nguyễn Phúc Chu (1691-1725);
7.Chúa Ninh Nguyễn Phúc Thụ (1725-1738);
8.Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát (1738-1765);
Về
ông tổ Nguyễn Kim, có lẽ vì không biết đích xác mộ phần nẳm ở đâu trong
cái bát ngát của núi Triệu Tường ở Thanh Hóa, nên vua Quang Trung đành
phải cho qua mà không tính sổ.
Tám
đời chúa Nguyễn này không có hận thù gì với anh em Tây Sơn, đã có công
rất lớn đối với dân tộc và đất nước khi kế tục nhau mở nước về phương
Nam, đến tận Cà Mau, Châu Đốc, cống hiến cho tổ quốc non một nửa nước,
trài dài từ Phú Yên trở vào Nam, với đất đai trù phú, nguồn lợi dồi dào,
rộng hơn lãnh thổ nam tiến của các triều Lý, Trần, Hồ và Hậu Lê cộng
lại. Không có sự nghiệp này thì hậu thế ngày nay lấy chi để khoe với thế
giới rằng “nước ta hình cong như chữ S” với “rừng vàng biển bạc”?!
- Thứ hai: Phần mộ của ông Nguyễn Phúc Côn, thân sinh vua Gia Long cũng bị quật lên và hài cốt ném xuống sông.
Ông
Nguyễn Phúc Côn là con thứ hai của Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát, mất năm
1765, khi con là Nguyễn Phúc Ánh đang còn bé. Khi vua Gia Long lên ngôi
Hoàng đế (1806) mới truy tôn cha làm Hưng Tổ Hiếu Khang Hoàng Đế, chứ
cho đến khi chết dưới tay quyền thần Trương Phúc Loan, ông chẳng làm vua
làm chúa gì. Chỉ vì con ông là Nguyễn Phúc Ánh dám chống lại Tây Sơn mà
ông đã không được ngủ yên, lâm vào cảnh con làm cha chịu!
Nguyễn Ánh bị Nguyễn Huệ giết chết anh em trai, quật mồ cha.
Nguyễn Phúc Tộc Thế Phả cho biết thêm một chi tiết khác:
“Theo
truyền thuyết, khi Tây Sơn khai quật hài cốt đức Hưng Tổ ném xuống sông
thì một hôm Nguyễn Ngọc Huyên bỏ lưới bắt cá, sau ba lần đều thấy cái
sọ nằm trong lưới. Huyên cho là sọ của một vị nào anh linh nên kiếm nơi
an táng tử tế. Khi vua Gia Long lên ngôi, đi tìm lại hài cốt của thân
phụ, nghe người làng tường thuật, ngài cho đòi Ngọc Huyên bảo chỉ chỗ.
Khi đào được sọ lên, vua chích huyết ở tay mình cho giọt vào sọ, sọ liền
hút những giọt huyết này (lối thử này cho biết mối liên hệ cốt nhục
giữa hai người)" (tr.193).
Thực lục
có nói khi Nguyễn Ngọc Huyên chết thì được lập đền thờ và phong làm An
Ninh bá. Ở thượng lưu sông Hương có một ngôi miếu, tục gọi là miếu Ông
Chài, chính là miếu ông Huyên vậy.
Trong
văn hóa Việt Nam, phận làm con cháu là phải lo gìn giữ mồ mả tiên tổ
cha ông. Do đó chúng ta thông cảm với vua Gia Long chỉ trong 2 tháng sau
khi tái chiếm Phú Xuân đã vội vã hoàn tất việc tu sửa lăng mộ bởi khi
đã biết tình trạng lăng mộ bị phá tanh banh thê thảm như thế thì không
một ai có thể chờ đợi được nữa.
Một số nhà nghiên cứu nhận định Nguyễn Ánh trả thù nhà Tây Sơn là "có vay, có trả".
Trong
lịch sử Việt Nam, việc tranh giành quyền lực dẫn đến những hành động
giết hại nhau tàn nhẫn không phải là hiếm. Điển hình, để cướp ngôi nhà
Lý, Trần Thủ Độ không ngần ngại dồn Lý Huệ Tông vào chỗ chết, với ý đồ
nhổ cỏ tận gốc, mặc dù Huệ Tông đã biết thân phận, bỏ ngai vàng, vào tu ở
chùa Chân Giáo. Đã thế, Trần Thủ Độ còn bày mưu sập bẫy tôn thất Nhà Lý
chôn sống trọn gói (may mà Hoàng tử Lý Long Tường nhanh chân thoát qua
tị nạn ở Cao Ly, trở thành thuỷ tổ họ Lý của xứ Đại Hàn ngày nay).
Nhưng
có lẽ trong cuộc tranh chấp quyền lực chưa có ai trong lịch sử phải trả
cái giá 5 mạng người ruột thịt và 9 ngôi mộ cha ông tiên tổ tanh banh
với xương cốt không biết đâu tìm như trường hợp vua Gia Long trong khi
đối đầu với Tây Sơn để phục hồi cơ nghiệp của ông cha đã tốn công xây
dựng.
Ở đời, có vay thì có trả. Nợ
nào cũng có tính lãi suất, chỉ có khác là nặng hay nhẹ, không hình thức
này cũng hình thức khác. Nếu Quang Trung Nguyễn Huệ không tạo nhân ác
thì có thể đã không gặp quả ác. Hận thù luôn luôn vẫy gọi thù hận là
chuyện thường của thế gian, huống chi lại có yếu tố tranh giành quyền
lực trong đó, tham lam và sân hận hẳn phải bốc lên ngùn ngụt.
Phải chăng nên thử tự đặt mình vào địa vị của vua Gia Long để có nhiều thông cảm và có lời phẩm bình phải chăng hơn.
Một vài cảm nghĩ
Là
hậu thế, có lẽ không mấy ai vui khi biết sự thật của tấn thảm kịch
Nguyễn Quang Trung và Nguyễn Gia Long. Cả hai, đối với chúng ta, đều có
chỗ đáng tôn vinh lẫn chỗ bất cập. Riêng ngưởi viết, từ tấn thảm kịch
lịch sử này, học hỏi được một đôi điều, xin gọi là chia sẻ.
1/
Qua việc điện thư của bạn bè và thân hữu gởi đến tới tấp kèm chuyện
“Một ngày lễ Vu lan sầu thảm” của Tịnh Thuỷ, tôi nhận ra rằng té ra loại
“lịch sử tiểu thuyết” dễ đi vào lòng người hơn là chính sử khô khan.
Đồng ý khi tiểu thuyết hóa lịch sử thì tha hồ cho trí tưởng tượng vẽ vời
nhưng cái căn bản của nó xin đừng đổi trắng thay đen.
Vợ chồng danh tướng Trần Quang Diệu - Bùi Thị Xuân bị vua Gia Long hành hình.
Thực
lục ghi rõ vụ hành hình vua tôi anh em Cảnh Thịnh diễn ra ngày giáp
tuất tháng 11 năm Gia Long thứ 1 tức ngày 7 tháng 11 Nhâm Tuất,
1/12/1802. Làm chi có ngày Vu Lan trong đó? Có lẽ tác giả muốn gây ấn
tượng cho ngưởi đọc về sự tàn ác khó dung tha của vua Gia Long nên mới
lựa một ngày như thế. Tội nghiệp cho vua! Vua chỉ dự lễ hiến phù, không
dự cuộc hành hình, chỉ sai quan thi hành, nên cuộc đối thoại tay đôi
giữa vua và bà Bùi Thị Xuân cũng chỉ là cơ hội bày ra để mạt sát thoải
mái. Tội nghiệp.
2/ Việc cải táng
mộ ông Nguyễn Phúc Côn có thể hiểu được, vì tìm được hài cốt và hài cốt
này đã được vua Gia Long xác tín rằng đó là di cốt của người đã sinh
thành ra ông. Nhưng với 8 chúa thì sao? Sử nói Các lăng đều theo nền cũ
mà xây cao lên. Đồng ý là xây lên cao, làm cho to lớn đẹp đẽ hơn xưa,
nhưng hài cốt không tìm thấy thì chôn cái gì trong đó? Chẳng lẽ chỉ là
một ngôi mộ trống không? Một cái mả gió?
Trong
một dịp về thăm Huế sau 7 năm “đi học làm người tốt” (!), tôi được biết
sau năm 1975, do đói quá, người ta đã làm bậy. Việc đào trộm mồ mả lăng
tẩm giới quyền quí đã xảy ra với ý đồ tìm vàng bạc châu báu tùy táng.
Người bạn kể cho nghe (tôi chưa có cơ hội kiểm chứng) khi cụ Vương Hồng
Sển, nhà sưu tập đồ cổ nổi tiếng của Miền Nam, biết được kẻ gian đã kiếm
được nữ trang trong lăng Hoàng Thái Hậu Từ Dũ (vợ vua Thiệu Trị, mẹ vua
Tự Đức) và đem bán thì cụ đã kêu trời.
Chân dung Nguyễn Ánh trong thời gian lưu lạc ở Xiêm La. (Ảnh: Wikimedia)
Dưới
cái nhìn cơm áo của kẻ trộm, đó là vàng, tính theo thời giá của chỉ và
lượng. Dưới cái nhìn của cụ Vương, đó là đổ cổ vô giá của quốc gia!
Nhưng đó không phải là chi tiết tôi quan tâm, vì bảo vật quốc gia người
ta bán ra nước ngoài nhiều rồi. Chi tiết lý thú mà tôi nghe được đã giúp
tôi hiểu biết thêm và lý giải thắc mắc nêu trên. Chi tiết đó là, bọn kẻ
trộm, khi đào đến quan tài của một ông chúa nào đó đã không thấy hài
cốt mà chỉ thấy hình người ta bằng gỗ! Điều này xác nhận giả thiết mà
tôi đã nghĩ trong đầu nhưng không biết cách nào để kiểm chứng, ấy là tục
chiêu hồn nạp táng.
“Chiêu hồn nạp táng" là gì?
“Trong
gia phả các họ rất chú trọng mục: Mộ táng ở đâu. Trong mục này có một
số trường hợp ghi chú: “Chiêu hồn nạp táng”. Đó là những ngôi mộ không
có tử thi, hài cốt, mộ người chết trận, chết đuối hay do thú dữ vồ…
không tìm được tử thi. Thân nhân làm hình nhân và làm lễ an táng theo
như lễ an táng thông thường.
Được
nghe các cụ kể lại rằng: chất liệu làm hình nhân, có địa phương dùng cây
núc nác (còn gọi là sò đo thuyền, mộc hồ điệp, nam hoàng bá, bạch ngọc
nhi). Núc nác là loại gỗ mềm và xốp, dễ tạo hình, chôn dưới đất lâu
hoai, lại dễ kiếm vì mọc ở nhiều nơi. Có địa phương dùng bùn lấy ở giữa
dòng sông, có địa phương dùng mùn đào ở giữa ngã tư đường cái.
Hình
nhân được đẽo gọt hoặc nhào nặn thô sơ, có đầu mình chân tay là được
(vì đa số không phải là nghệ nhân). Kích thước của hình nhân khoảng
30-40 cm chiều dài. Thi hài tượng trưng đó cũng được khâm liệm, đưa vào
áo quan làm bằng gỗ vàng tâm, kích thước nhỏ bé, hoặc đưa vào tiểu sành.
Nguyễn Ánh 2 lần bị Nguyễn Huệ đánh phải chạy sang Xiêm La.
Trên
hình nhân có phủ lên linh vị viết trên giấy kim tuyến, nội dung giống
như linh vị đặt ở bàn thờ. Trước khi làm lễ an táng có mời thầy cúng làm
bùa ấn phù phép để vong hồn nhập vào hình nhân. Lễ an táng và các lễ
các lễ khác cũng tiến hành như tang lễ thông thường.
3/ Hình như có một nhà tư tưởng nào đó đã nói: “Làm thầy thuốc lầm thì chết một người; làm thầy địa lý lầm thì giết một họ; làm chính trị lầm thì giết một nước, làm làm văn hóa lầm giết cả một đời”.
Dưới
ảnh hưởng của môn phong thủy Trung Hoa, người Việt từ vua cho chí dân
đều tin rằng âm phần tổ tiên có ảnh hưởng trực tiếp đến sinh mệnh và
tương lai của con cháu. Bởi vậy ai cũng mong muốn tìm cho được một huyệt
mả tốt để được kết phát, để con cháu được hưởng phước vinh hoa phú quí
dài lâu. Bởi vậy, để tận diệt kẻ thù không gì bằng triệt long mạch, phá
huyệt mộ, đào mả cha ông nhà người ta lên.
Làm
thế thì chắc chắn con cháu không thể nào ngóc đầu lên được, lấy gì mà
chống trả. Quang Trung Nguyễn Huệ, ngoài việc sử dụng binh lực đánh
Nguyễn Vương chạy dài ra biển, trốn qua đến Xiêm La hai lần, vẫn không
quên sử dụng chiêu thức này để hỗ trợ. Và để cho chắc ăn, thà phá lầm
hơn bỏ sót, đã không những quật mồ thân sinh vua Gia Long là huyết thống
trực hệ mà còn quật mồ cả 8 đời chúa Nguyễn xa lắc. Thật là một sự tính
toán chu đáo.
Tuy toan tính chu
đáo như vậy nhưng Nhà Tây Sơn Nguyễn Huệ chỉ tồn tại có 14 năm
(1788-1802, 1788 là năm vua Quang Trung đăng quang trước khi ra Bắc phá
quân Thanh), trong khi Nguyễn Vương, mặc dầu bị đánh trúng tử huyệt
(theo quan niệm phong thủy) nhưng sau 25 năm bền bĩ chiến đấu nhọc nhằn,
đã thống nhất đất nước, phục hưng được cơ nghiệp tổ tiên, lập ra triều
đại mới, tồn tại 143 năm (1802-1945).
Vậy
là thế nào? Chẳng lẽ phong thủy hoàn tòan là một thứ tin mê tín dị
đoan? Không, không thể vì vậy mà kết luận phong thủy một cách hồ đổ như
thế được. Cái nước Mỹ của khoa học kỹ thuật tiến bộ nhất thế giới này
cũng đang chạy theo Feng Shui (Phong thủy) của nền văn minh cổ Trung
Hoa, có thua chi Việt Nam xưa và nay đâu, có điều họ chú trọng đến dương
cơ hơn âm phần. Như vậy phải có một yếu tố gì khác làm cho độc chiêu do
vua Quang Trung phát ra đã không có hiệu quả. Tôi chợt nhớ đến chữ Đức
trong câu ca dao: Người trồng cây hạnh người chơi/ Ta trồng cây đức để
đời về sau.
Trong 8 đời chúa
Nguyễn, không thấy ông nào làm điều gì thất đức. Ông nào cũng lo làm cho
dân giàu nước mạnh. Lịch sử cuộc nam tiến đi từ Phú Yên đến Cà Mau-Châu
Đốc chứng minh điều đó. Hậu thế đã được thừa hưởng biết bao phúc lợi từ
sự nghiệp nam tiến đó!
Có 3 ông
chúa mang danh hiệu khác người: Chúa Sãi, chúa Hiền, chúa Ngãi. Nghe nôm
na và thân tình biết mấy. Nếu cai trị mà không được dân thương mến và
biết ơn thì làm chi có những cách gọi kém vương giả nhưng giàu tình cảm
như thế?
Tượng Chúa Tiên Nguyễn Hoàng. (ảnh: Hội nhà văn TPHCM)
Có
đến 4 ông chúa, ngoài tên và vương hiệu, lại tự xưng là đạo nhân, như
Thiên Túng đạo nhân (chúa Minh Nguyễn Phúc Chu), Vân Tuyền đạo nhân
(chúa Ninh Nguyễn Phúc Thụ) hay Từ Tế đạo nhân (Võ Vương Nguyễn Phúc
Khoát), Khánh Phủ đạo nhân (Định Vương Nguyễn Phúc Thuần). Đó cũng là
một nét đặc biệt.
Nhiều ông chúa
xây chùa (chúa Tiên lập chùa Thiên Mụ, Long Hưng, Bảo Châu, Kính Thiên;
chúa Hiền lập chùa Túy Vân) hay trùng tu chùa, đúc chuông, thỉnh sư
giảng Pháp (chúa Minh).
Có lẽ nhờ
biết tu nhân tích đức mà Đức năng thắng số, Số bất cập đức nên tai qua
nạn khỏi, như câu tục ngữ mà ông bà xưa thường nói để dạy khôn cho con
cháu: Trời hại mới lo, người hại như phấn nhồi. Đó là nói nôm na, cho có
vẻ chính xác và minh triết hơn thì đấy chính là nhân quả nghiệp báo.
Theo thiển ý, có lẽ hiểu theo cách này mới giải thích được chỗ bất cập
của phong thuỷ.
Chú thích:
(1) Mãi đến mùa hạ năm 1806 (Bính Dần) vua mới chính thức làm lễ lên ngôi Hoàng đế tại điện Thái Hoà.
(2)
Có thể xem: La Relation sur le Tonkin et la Cochinchine, hồi ký của
Bissachère viết năm 1807 do Charles B. Maybon biên tập và xuất bản năm
1920, từ trang 118 đến trang 120 trong
https://archive.org/stream/larelationsurlet00labi#page/n1/mode/2up
(3)
Ngày 18 và 19/10/2008 tại Thanh Hóa có một cuộc hội thảo “Đánh giá lại
chúa Nguyễn và Vương triều Nguyễn” được phóng viên ghi nhận là “một hội
thảo lịch sử”, có lẽ vì phải chuẩn bị tài liệu đến 20 năm và tỉnh Thanh
Hóa đã tài trợ gần một tỉ đồng VN để tổ chức, Có hai nhận xét quan trọng
được ghi nhận:
“Theo GS
Văn Tạo, nguyên Viện trưởng Viện Sử học, cần có nhận thức mới về nhà
Nguyễn trong lịch sử dân tộc trên tinh thần “công minh lịch sử”.
“Tổng
kết hội thảo, GS Phan Huy Lê, Chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam
khẳng định: Cuộc hội thảo lần này đã nhận được sự hưởng ứng rộng rãi
không chỉ của giới khoa học mà còn của dư luận xã hội,
chứng tỏ những nhận thức trước đây về vai trò của chúa Nguyễn và vương
triều Nguyễn trong lịch sử dân tộc theo hướng phê phán và phủ định đã
không còn thỏa đáng nữa”
(https://thethaovanhoa.vn/133N20081020034945468T0/danh-gia-lai-chua-nguyen-va-vuong-trieu-nguyen-mot-hoi-thao-lich-su.htm
(4)
Vua Gia Long có một thanh gươm mang tên Qui Y. Sử ghi rằng thanh gươm
này có tính ưa giết người (hiếu sát), Tối hôm nào gươm tự động thoát ra
khỏi vỏ thì hôm sau thế nào cũng có người phạm tội bị chém bằng thanh
gươm đó. Vua Gia Long ghét tính hiếu sát của gươm bèn đem qui y cửa Phật
và đặt tên là Qui Y (Quốc Triều Chánh Biên Toát Yếu).
Nguồn: Nhà nghiên cứu lịch sử Võ Hương An (Khamphahue.com.vn)
MIỀN TÂY HOANG DẠI Ước gì một lần về thuở ấy miến Tây Sống lầy lội những tháng ngày hoang dại Súng cặp kè hông, nhong nhong lưng ngựa Phóng khoáng thảo nguyên, đạn nổ ì đùng Ta sẽ về, rủ em gái theo cùng Đem tình yêu vào vòng đấu súng Và ngã xuống trong một lần anh dũng Để mai này định nghĩa lại...thằng khùng! Đã khùng rồi thì xá chi anh hùng Của một thời tìm vàng sôi động Người người xô bồ tìm giàu sang cuộc sống Để lại điêu tàn, bắn giết mênh mông! Ta ước thế nghe có rùng rợn không? Trần Hạnh Thu NHẠC HUYỀN THOẠI CAO BỒI VIỄN TÂY
(ĐC sưu tầm trên NET) Bản tin 113 online cập nhật ngày 2/5: Truy tố 254 bị can bị trong đại án sai phạm lĩnh vực đăng kiểm 🔴 TRỰC TIẾP: Thời sự quốc tế 3/5 | Nga tuyên bố khai hỏa Iskander, hủy diệt hai pháo HIMARS Ukraine Tin tức thời sự mới nhất hôm nay | Bản tin sáng ngày 5-3-2024 MỘT CÕI ĐI VỀ (Sáng Tác: Trịnh Công Sơn) - KHÁNH LY OFFICIAL Miễn nhiệm chức vụ Chủ tịch Quốc hội đối với ông Vương Đình Huệ 9 giờ trước Khoảnh khắc tên lửa Nga công kích pháo HIMARS Ukraine 12 giờ trước Mong muốn Campuchia chia sẻ thông tin về Dự án kênh đào Funan Techo 10 giờ trước Gần 50 người chết trong vụ sập đường cao tốc ở Trung Quốc 10 giờ trước Lý do xuất khẩu của Trung Quốc sang Nga bất ngờ sụt giảm 8 giờ trước Ukraine nói Nga sản xuất tên lửa Zircon 'nhanh bất thường' 6 giờ trước Hàng chục nghìn người Gruzia tiến hành biểu tình lớn nhất từ trước tới nay 16 giờ trước Video 'rừng người' xem phương tiện chiến đấu bị Nga tịch thu ở chiến trường Ukraine 16 giờ trước U23 In...
I Only Want to Be with You - Dusty Springfield (Cover by Emily Linge) VẪN THẾ MÀ! Anh vẫn thế, trước sau vẫn thế mà Nhìn anh này, đừng nhìn phía trời xa Vẫn ngày ngày ra ngóng chờ trước của Đợi Nàng Thơ về tác hợp thi ca Tâm hồn anh có cửa đâu mà khóa Mà phải cùng em mở cánh cửa tâm hồn Anh tìm mãi nào thấy đâu ô cửa Toang hoác tứ bề, thông thống càn khôn* Còn trái tim anh vẫn êm đềm, yên ả Vẫn yêu quê hương, tổ quốc, con người Miền nhiệt đới khi thấy tim băng giá Chắc chắn là anh đã ngoẻo tự lâu rồi! Trần Hạnh Thu CT: * Trời đất
Nhận xét
Đăng nhận xét