Thứ Ba, 28 tháng 5, 2019

CÔ GÁI ĐÁNH ĐÀN (ĐL)


 
Hot girl vô cùng xinh đẹp đánh guitar hát siêu hay
Những điều bạn gái nên làm trước khi lấy chồng

CÔ GÁI ĐÁNH ĐÀN
 

Giữa mênh mang
Thăm thẳm ngút ngàn
Cao hùng sừng sững
Hiện hình cô gái ngồi bên pho tượng
Ôm đàn rải nhạc vào chiều...

Gió uyên áo mang theo
Len lỏi gieo khắp thâm u, thinh lắng
Hiện thực đang dần tắt nắng
Bừng lên cõi hứng khởi siêu linh

Vi vu giai điệu "Lịch sử mối tình"
Kể về ngày xưa chốn "Đồng xanh" bát ngát
Có "Căn nhà ngoại ô" mát rượi "Giàn thiên lý"
Nghe tiếng "Gọi đò", "Em đi trên cỏ non"
Lanh lảnh hối người tìm "Lá diêu bông"
Người trao "Phượng hồng", cho người lẫy hờn "Nỗi buồn hoa phượng"...

Rồi "Hương thầm" cứ tỏa lan "Ở hai đầu nỗi nhớ"
Khắc khoải đợi chờ "Một mai giã từ vũ khí", "Về quê"...

Chiều nay buông mê,
Hả hê những lạc xác cô hồn chiến binh thất vọng
Đã tụ hội chỉnh tề hướng về pho tượng
Lặng nghe cô gái thiện nguyện ru đàn:

-Mãi còn nỗi nhớ niềm thương,
Các chị các anh ơi,
Cùng một giống nòi, đã đành nằm xuống,
Thôi thì...lạc đường trong lòng Tổ Quốc,
Đâu cũng là xứ sở quê hương!                                                        Và ai cũng thân thiết, hiền lương!

Trần Hạnh Thu

 
Còn tuổi nào cho em - phê quá cô giáo ThAnh hÀ ơi ! ( st : Trịnh Công Sơn )
  
Thương tặng những người sống xa xứ... Ca khúc XUÂN XA XỨ - TRIỀU LINH
  
Màu Hoa Đỏ
"..có hàng triệu người vui, mà cũng có hàng triệu người buồn. Đó là vết thương chung của dân tộc, cần được giữ lành thay vì lại tiếp tục làm cho nó thêm rỉ máu...”
                                                                                                  Ông Võ Văn Kiệt đã nói như vậy,

  
Nỗi Buồn Của Mẹ - Cẩm Ly

Đọc lại bài báo ‘triệu người vui, triệu người buồn’

Lịch sử đã đặt nhiều gia đình người dân miền Nam rơi vào hoàn cảnh có người thân vừa ở phía bên này, vừa ở phía bên kia, ngay cả họ hàng tôi cũng như vậy. Vì thế, một sự kiện liên quan đến chiến tranh khi nhắc lại có hàng triệu người vui mà cũng có hàng triệu người buồn. Đó là một vết thương chung của dân tộc cần được giữ lành thay vì lại tiếp tục làm nó thêm rỉ máu.

Cuộc trò chuyện của cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt đăng trên tuần báo Quốc tế số ra ngày 31/3/2005. 

Những đòi hỏi mới của thời cuộc

– Thưa ông, thấm thoắt đã gần 30 năm kể từ ngày tiếp quản Sài Gòn, và ông là một trong số ít các nhà lãnh đạo còn lại từ cuộc kháng chiến đó, ông có suy nghĩ gì về sự kiện này?

– Suy nghĩ của tôi chỉ đơn giản là làm sao để không còn những nhà lãnh đạo phải trưởng thành từ chiến tranh như chúng tôi nữa. Chiến tranh đã qua cách đây ba chục năm. Chúng tôi đã chuyển giao quyền lãnh đạo cho thế hệ kế tiếp. Nói như thế có nghĩa là tôi mong chiến tranh thật sự phải thuộc về quá khứ. Một quá khứ mà chúng ta mong muốn khép lại.
– Thưa ông, “khép lại” là một khái niệm không đơn giản khi làm?
– Không gì là không làm được! “Hòa hiếu”, “khoan dung” là những truyền thống tốt đẹp của người Việt Nam. Người Việt thường chỉ kháng chiến khi có kẻ thù từ bên ngoài. Sau 30 năm qua, tôi nghĩ mọi người Việt Nam chúng ta, cả đôi bên đều nhận thấy khi không còn sự can thiệp từ bên ngoài nữa, chúng ta có thể trở về bên nhau, cùng nhau xây dựng. Và Việt Nam sẽ thêm phát triển khi mọi người Việt dù ở đâu cũng đều ở trong một cộng đồng hòa hợp.
– Chúng ta đã có nhiều nỗ lực để làm điều đó, thưa ông?
– Đôi khi phải nhìn kết quả thay vì nhìn những gì mà chúng ta nghĩ là nỗ lực. Theo tôi, chúng ta vẫn còn biết bao điều cần nói, biết bao việc cần làm.
– Theo ông, bây giờ việc cần làm tiếp là gì?
– Chiến thắng của chúng ta là vĩ đại, nhưng chúng ta cũng đã phải trả giá cho chiến thắng đó bằng cả nỗi đau và nhiều mất mát. Lịch sử đã đặt nhiều gia đình người dân miền Nam rơi vào hoàn cảnh có người thân vừa ở phía bên này, vừa ở phía bên kia, ngay cả họ hàng tôi cũng như vậy. Vì thế, một sự kiện liên quan đến chiến tranh khi nhắc lại có hàng triệu người vui mà cũng có hàng triệu người buồn. Đó là một vết thương chung của dân tộc cần được giữ lành thay vì lại tiếp tục làm nó thêm rỉ máu.
– Thưa ông, để lành được vết thương này phải có sự tham gia của mọi người Việt?
– Đấy là một vấn đề lớn. Chúng ta đang nắm quyền lãnh đạo đất nước, muốn để mọi người Việt cùng chung tay hàn gắn, chung tay tạo dựng thì chúng ta phải thực tâm khoan dung và hòa hợp. Sau 30/4/1975, khi đồng chí Lê Duẩn vào Sài Gòn, vừa xuống thang máy bay đồng chí nắm tay đưa lên cao, giọng đầy cảm xúc, nói: “Đây là thắng lợi của cả dân tộc, không phải của riêng ai”. Sau 30 năm, tôi thấy không phải dễ dàng làm cho mọi người Việt Nam cảm nhận được điều đó.
– Khó khăn nằm ở chỗ nào, thưa ông?
– Hồ Chủ tịch từng mong muốn khi chiến tranh chấm dứt, hòa bình lập lại sẽ đi thăm các nước để cảm ơn bè bạn quốc tế. Sau năm 1975, đồng chí Lê Duẩn và đồng chí Phạm Văn Đồng đã thay mặt Bác làm việc này. Đánh giá cao sự giúp đỡ của bạn bè quốc tế và cảm ơn là việc làm phù hợp đạo lý và truyền thống Việt Nam. Nhưng về đối nội, theo tôi, đã đến lúc ta phải nhìn nhận công lao, sự đóng góp to lớn của các tầng lớp người Việt yêu nước từng sống trong lòng chế độ cũ, hiện ở trong nước hay ở bên ngoài. Bản thân tôi cùng với anh em được giao tiếp quản Sài Gòn năm 1975, một Sài Gòn nguyên vẹn sau một cuộc chiến tranh như vậy, tôi nghĩ không thể không nói đến vai trò của nội các Dương Văn Minh và các lực lượng chính trị đối lập với Mỹ – Thiệu, có quan hệ với chính phủ Dương Văn Minh lúc bấy giờ.
– Ông Minh đã tuyên bố đầu hàng?
– Đại tướng Dương Văn Minh nhậm chức ngày 28/4/1975, ngày mà một nhà quân sự như ông có thể đoán được sự thất thủ của Sài Gòn. Nếu ông Minh để cho các tướng dưới quyền ông “tử thủ”, chúng ta vẫn chiến thắng, nhưng Sài Gòn khó mà nguyên vẹn, và còn biết bao sinh mạng và tài sản của người dân mình nữa. Tôi và Thành ủy do anh Mai Chí Thọ phụ trách, sáng 30-4 khi nghe ông Minh kêu gọi binh lính buông súng để chờ bàn giao chính quyền cho cách mạng, đã thở phào nhẹ nhõm. Phải ở chiến trường, và vào đúng giờ phút ấy, mới cảm nhận được tầm quan trọng của quyết định này.
– Theo ông, từ đâu ông Minh lại có quyết định như vậy?
– Thế thắng của ta trong năm 1975 là không thể cưỡng lại được, tuy nhiên quyết định của ông Minh không chỉ dựa trên tình hình chiến sự mà còn phản ánh những hành động chính trị trước đó của ông. Ông Minh là vị tướng đã đảo chính lật chế độ Ngô Đình Diệm, ông cũng là người sau đó đã không chịu làm vừa lòng Mỹ, khiến người Mỹ phải bật đèn xanh cho Nguyễn Khánh lật đổ ông.
– Và, “lực lượng thứ ba” cũng đóng một vai trò đáng kể, thưa ông?
– Nếu chúng ta không tự khắc phục được những lực cản, không phát huy được nguồn lực bên trong cũng như bên ngoài để có được mức tăng trưởng hai con số trong những năm tới thì khoảng cách của sự tụt hậu so với khu vực, với thế giới là không thể nào thu hẹp được. Tôi muốn lưu ý rằng làm được một chiến thắng kỳ vĩ như 30/4/1975 mà say sưa, như tự mãn nguyện thì cũng đã từng phải trả giá. Thế giới đã đi rất xa, chúng ta phải nhanh chân chứ đừng tự ru ngủ mình để rồi sẽ còn bị bỏ xa hơn nữa.
Sự xuất hiện trở lại trên chính trường của ông Minh chính là kết quả hoạt động tích cực của lực lượng thứ ba, lực lượng những người đấu tranh với Mỹ – Thiệu ngay trong lòng chế độ Sài Gòn. Điều quan trọng tôi muốn nói ở đây là tất cả những ai đã vì lòng yêu nước, thương nòi, bằng nhiều con đường khác nhau, từng đóng góp vào cái chung, và không đòi hỏi gì cho riêng mình thì đều có quyền tự hào về những đóng góp đó và hãy tiếp tục cống hiến nhiều hơn nữa nhằm xây dựng Tổ quốc Việt Nam chúng ta giàu mạnh, văn minh, dân chủ và hạnh phúc.
– Thưa ông, ở thời điểm này nhìn lại, ông có bằng lòng với những gì chúng ta đã làm trong 30 năm qua?
– Chúng ta đều có thể vui mừng khi có một Việt Nam thống nhất, quyết tâm vượt qua nghèo đói và quyết tâm hội nhập như ngày hôm nay. Nhưng nhìn lại quá trình kể từ khi kết thúc chiến tranh thì tôi thấy tiếc. Giá như đổi mới sớm hơn thì chúng ta có thể đã không phải trải qua những năm phải trả giá đắt như giai đoạn 1975-1985.
– Bài học về những năm bỏ lỡ cơ hội này là gì, thưa ông?
– Phải tiếp tục đổi mới nữa và tránh xa sự tự mãn, tránh xa bệnh say sưa thành tích! Trong những năm qua, chúng ta tiếp tục giữ được sự tăng trưởng khá, đó là một thành tựu lớn. Tuy nhiên, tôi muốn lưu ý rằng với một nước mà GDP chỉ mới đạt trên dưới 40 tỉ USD như Việt Nam, mức tăng trưởng 6-7% chưa phải là đã đủ để đáp ứng nhu cầu phát triển trong nước và nhu cầu hội nhập.
– Thưa ông, trong đối ngoại chúng ta nên tiếp tục như thế nào trong giai đoạn tới?
– Những kết quả đối ngoại vừa qua, trong một chừng mực nhất định, đúng là đã góp phần mở đường để giải quyết nhiều khó khăn về kinh tế – xã hội. Sau 20 năm đổi mới, chúng ta đã sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của cộng đồng quốc tế. Nhưng nội dung cụ thể của những khẩu hiệu ấy là gì? Và tới đây, với một thế giới đang thay đổi từng ngày như thế này, chúng ta lựa chọn và xây dựng vai trò và vị trí của mình như thế nào là điều hết sức quan trọng.
Sau sự kiện ngày 11/9/2001, những biến cố ở Trung Đông, những cải tổ chính trị tích cực từ bên trong của các nước ASEAN như Indonesia, sau sự kiện sóng thần tàn phá ở một số nước Đông Nam Á…, tất cả cho thấy thế giới ngày nay đã trở nên gần gũi và liên hệ với nhau hơn, thật sự không còn chỗ thành công lớn cho những nỗ lực đơn độc.
Vị trí đối ngoại của chúng ta, vì thế, không chỉ tùy thuộc vào thế, mà phải tăng tốc thêm lực và khả năng thích ứng với toàn cầu của mình. Ngoại giao tới đây, vì thế, tôi nghĩ phải có vai trò vượt lên phía trước, phải chủ động cảnh báo cho trong nước cả thách thức lẫn cơ hội, kịp thời đáp ứng những đòi hỏi mới của thời cuộc.
Theo BÁO QUỐC TẾ

Nguyên thủ tướng Võ Văn Kiệt: 'Chúng ta đừng ru ngủ mình'

Nhân dịp 30 năm ngày đất nước về một dải, nguyên thủ tướng Võ Văn Kiệt đã có cuộc trao đổi với báo Quốc Tế về những kỷ niệm ngày tiếp quản Sài Gòn và những bức xúc trước thời cuộc. Ông cho rằng chúng ta phải nhanh chân, đừng tự ru ngủ mình...
ongkiet-1348651818_480x0.jpg
Ông Võ Văn Kiệt. Ảnh: Tuổi Trẻ
- Là một trong số ít các nhà lãnh đạo còn lại sau cuộc kháng chiến chống Mỹ, ông suy nghĩ gì về sự kiện này?
- Suy nghĩ của tôi chỉ đơn giản là làm sao để không còn những nhà lãnh đạo phải trưởng thành từ chiến tranh như chúng tôi nữa. Chiến tranh đã qua cách đây hàng chục năm, chúng tôi đã chuyển giao quyền lãnh đạo cho thế hệ kế tiếp. Nói như thế có nghĩa là, tôi mong chiến tranh thực sự phải thuộc về quá khứ - một quá khứ mà chúng ta mong muốn khép lại.
- "Khép lại" là một khái niệm không đơn giản?
- Không gì là không làm được! "Hòa hiếu", "khoan dung" là những truyền thống tốt đẹp của người Việt Nam. Người Việt thường chỉ kháng chiến khi có kẻ thù từ bên ngoài. Sau 30 năm qua, tôi nghĩ mọi người Việt Nam chúng ta, cả đôi bên đều nhận thấy khi không còn sự can thiệp từ bên ngoài nữa, chúng ta có thể trở về bên nhau, cùng nhau xây dựng. Và Việt Nam sẽ thêm phát triển khi mọi người Việt dù ở đâu cũng đều ở trong một cộng đồng hòa hợp.
- Chúng ta đã có nhiều nỗ lực để làm điều đó?
- Đôi khi phải nhìn kết quả thay vì nhìn những gì mà chúng ta nghĩ là nỗ lực. Theo cách mà chúng ta đang làm để kỷ niệm những ngày lịch sử hiện nay, tôi e rằng chúng ta lại đang lặp lại những gì mà chúng ta đã làm trước đó. Lịch sử cũng như cuộc sống, cái đúng, cái sai nói một lần người ta hiểu, nói hai ba lần người ta im lặng, nhắc lại quá mức cần thiết thì có thể gây ra sự phản cảm. Trong khi đó theo tôi, chúng ta vẫn còn biết bao nhiêu điều cần nói, biết bao việc cần làm.
- Theo ông, việc cần làm tiếp hiện nay là gì?
- Chiến thắng của chúng ta là vĩ đại, nhưng chúng ta cũng đã phải trả giá cho chiến thắng đó bằng cả nỗi đau và nhiều sự mất mát. Lịch sử đã đặt nhiều gia đình người dân miền Nam rơi vào hoàn cảnh có người thân vừa ở phía bên này, vừa ở phía bên kia, ngay cả họ hàng tôi cũng như vậy. Vì thế, một sự kiện liên quan đến chiến tranh khi nhắc lại, có hàng triệu người vui, mà cũng có hàng triệu người buồn. Đó là vết thương chung của dân tộc cần được giữ lành thay vì lại tiếp tục làm cho nó thêm rỉ máu.
- Để lành được vết thương này phải có sự tham gia của tất cả người Việt?
- Đấy là một vấn đề lớn. Chúng ta đang nắm quyền lãnh đạo đất nước, muốn để mọi người Việt cùng chung tay hàn gắn, chung tay tạo dựng thì phải thực tâm khoan dung và hòa hợp. Sau 30/4, khi đồng chí Lê Duẩn vào Sài Gòn, vừa xuống thang máy bay, đồng chí nắm tay đưa lên cao, giọng đầy cảm xúc, nói: "Đây là thắng lợi của cả dân tộc, không phải của riêng ai". Sau 30 năm, tôi thấy không phải dễ dàng làm cho mọi người Việt Nam cảm nhận được điều đó.
- Khó khăn nằm ở chỗ nào thưa ông?
- Hồ Chủ tịch từng mong muốn khi chiến tranh chấm dứt, hòa bình lập lại sẽ đi thăm các nước để cảm ơn bè bạn quốc tế. Sau năm 1975, đồng chí Lê Duẩn và đồng chí Phạm Văn Đồng đã thay mặt Bác làm việc này. Đánh giá cao sự giúp đỡ của bạn bè quốc tế và cảm ơn là việc làm phù hợp với đạo lý và truyền thống Việt Nam. Nhưng về đối nội, theo tôi đã đến lúc ta phải nhìn nhận công lao, sự đóng góp to lớn của các tầng lớp người Việt yêu nước từng sống trong lòng chế độ cũ, hiện ở trong nước, hay ở bên ngoài. Bản thân tôi, cùng với anh em được giao tiếp quản Sài Gòn năm 1975, một Sài Gòn nguyên vẹn sau một cuộc chiến tranh như vậy, tôi nghĩ, không thể không nói đến vai trò của nội các Dương Văn Minh và các lực lượng chính trị đối lập với Mỹ - Thiệu có quan hệ với chính phủ Dương Văn Minh lúc bấy giờ.
- Ông Minh đã tuyên bố đầu hàng?
- Đại tướng Dương Văn Minh nhậm chức ngày 28/4/1975, ngày mà một nhà quân sự như ông có thể đoán được sự thất thủ của Sài Gòn. Nếu ông Minh để cho các tướng dưới quyền "tử thủ", chúng ta vẫn chiến thắng, nhưng Sài Gòn khó mà nguyên vẹn và còn biết bao sinh mạng và tài sản của người dân mình nữa. Tôi và Thành ủy do anh Mai Chí Thọ phụ trách, sáng 30/4, khi nghe ông Minh kêu gọi binh lính buông súng để chờ bàn giao chính quyền cho Cách mạng, đã thở phào nhẹ nhõm. Phải ở chiến trường và vào đúng giờ phút ấy, mới cảm nhận được tầm quan trọng của quyết định này.
- Theo ông, từ đâu ông Minh lại có quyết định như vậy?
- Thế thắng của ta trong năm 1975 là không thể cưỡng lại được, tuy nhiên, quyết định của ông Minh không chỉ dựa trên tình hình chiến sự mà còn phản ánh những hành động chính trị trước đó của ông. Ông Minh là vị tướng đã đảo chính lật chế độ Ngô Đình Diệm, ông cũng là người sau đó đã không chịu làm vừa lòng Mỹ, khiến người Mỹ phải bật đèn xanh cho Nguyễn Khánh lật đổ ông.
- Ông đánh giá thế nào về vai trò của "lực lượng thứ ba"?
- Sự xuất hiện trở lại trên chính trường của ông Minh chính là kết quả hoạt động tích cực của lực lượng thứ ba, lực lượng những người đấu tranh với Mỹ - Thiệu ngay trong lòng chế độ Sài Gòn. Điều quan trọng tôi muốn nói ở đây là tất cả những ai đã vì lòng yêu nước, thương nòi, bằng nhiều con đường khác nhau, từng đóng góp vào cái chung và không đòi hỏi gì cho riêng mình thì đều có quyền tự hào về những đóng góp đó và hãy tiếp tục cống hiến nhiều hơn nữa nhằm xây dựng tổ quốc của mọi người Việt Nam chúng ta trong giàu mạnh, văn minh, dân chủ và hạnh phúc.
- Ở thời điểm này nhìn lại, ông có bằng lòng với những gì chúng ta đã làm trong 30 năm qua?
- Chúng ta đều có thể vui mừng khi có một Việt Nam thống nhất, quyết tâm vượt qua nghèo đói và quyết tâm hội nhập như ngày hôm nay. Nhưng, nhìn lại quá trình kể từ khi kết thúc chiến tranh thì tôi thấy tiếc. Giá như đổi mới sớm hơn thì chúng ta có thể đã không phải trải qua những năm trả giá đắt như giai đoạn 1975-1985.
- Ông cho rằng bài học về những năm bỏ lỡ cơ hội này là gì?
- Phải tiếp tục đổi mới nữa và tránh xa sự tự mãn, tránh xa bệnh say sưa thành tích! Trong những năm qua, chúng ta tiếp tục giữ được sự tăng trưởng khá, đó là một thành tựu lớn. Tuy nhiên, tôi muốn lưu ý rằng, với một nước mà GDP chỉ mới đạt trên dưới 40 tỷ USD như Việt Nam, mức tăng trưởng 6-7% chưa phải là đã đủ để đáp ứng nhu cầu phát triển trong nước và nhu cầu hội nhập. Nếu chúng ta không tự khắc phục được những lực cản, không phát huy được nguồn lực bên trong cũng như bên ngoài, để có được mức tăng trưởng hai con số trong những năm tới, thì khoảng cách của sự tụt hậu so với khu vực, so với thế giới là không thể nào thu hẹp được. Tôi muốn lưu ý rằng, làm được một chiến thắng kỳ vĩ như 30/4/1975 mà say sưa, như tự mãn nguyện thì cũng từng phải trả giá. Thế giới đã đi rất xa, chúng ta phải nhanh chân chứ đừng tự ru ngủ mình để rồi sẽ còn bị bỏ xa hơn nữa.
(Theo Quốc Tế)

Hòa hợp dân tộc theo tinh thần cố Thủ tướng Chính phủ Võ Văn Kiệt

Cập nhật lúc 00:00, Thứ Bảy, 27/04/2019 (GMT+7)
30-4 năm nay đã tròn 44 năm đất nước thống nhất. 44 năm đã qua, lịch sử đã đủ độ dài cần thiết để các thế hệ hôm nay nhìn lại cuộc chiến kỳ lạ và đau thương của dân tộc. Cột mốc 30-4 có lẽ vì vậy sẽ không bao giờ phai mờ trong tâm khảm của mỗi người dân đất Việt, bởi lẽ đó là ngày non sông thu về một mối, là ngày mà sự chia ly của biết bao gia đình người Việt được hàn gắn và đoàn tụ.
44 năm đã qua, lại nhớ về tinh thần hòa hợp, hòa giải dân tộc của cố Thủ tướng Chính phủ Võ Văn Kiệt.
Cố Thủ tướng Chính phủ Võ Văn Kiệt
Cố Thủ tướng Chính phủ Võ Văn Kiệt



1. Sinh thời, cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt luôn đau đáu với sự nghiệp hòa hợp dân tộc. Ông đã làm hết sức mình có thể để hàn gắn vết thương chiến tranh, để hòa hợp, hòa giải dân tộc.
Kỷ niệm ngày 30-4, chúng ta lại nghe văng vẳng bên tai những lời tâm huyết của ông Võ Văn Kiệt lúc sinh thời: “Chiến thắng của chúng ta là vĩ đại, nhưng chúng ta cũng đã phải trả giá cho chiến thắng đó bằng cả nỗi đau và nhiều sự mất mát. Lịch sử đã đặt nhiều gia đình người dân miền Nam rơi vào hoàn cảnh có người thân vừa ở phía bên này, vừa ở phía bên kia, ngay cả họ hàng tôi cũng như vậy. Vì thế, một sự kiện liên quan đến chiến tranh khi nhắc lại, có hàng triệu người vui, mà cũng có hàng triệu người buồn. Đó là vết thương chung của dân tộc cần được giữ lành thay vì lại tiếp tục làm cho nó thêm rỉ máu”.
Có lần khi trả lời phỏng vấn, ông Võ Văn Kiệt đã khẳng định: ‘’Kẻ thù của Việt Nam là Pháp trước đây, kẻ thù Việt Nam là Mỹ sau này, kẻ thù Việt Nam là Trung Quốc đánh biên giới phía Bắc, chúng ta cũng khép lại quá khứ được, thì tại sao chúng ta lại không khép lại quá khứ ấy mà lại cứ đố kỵ lẫn nhau”.
Chúng ta đều biết rằng, năm 1966, có một cuộc thảm sát của lính Mỹ trên sông Sài Gòn, trong đó lính Mỹ bắn chìm tàu Thuận Phong, trên con tàu định mệnh ấy, vợ, con trai và con gái của ông Võ Văn Kiệt đã bị giết hại và tới nay vẫn chưa tìm được hài cốt.
Thấu hiểu nỗi đau từ chính người trong cuộc nên ông hiểu  rằng “khép lại” là một việc không hề dễ dàng. Thế nhưng, ông cho rằng: “Không gì là không làm được! Hòa hiếu, khoan dung” là những truyền thống tốt đẹp của người Việt Nam. Người Việt thường chỉ kháng chiến khi có kẻ thù từ bên ngoài. Sau 30 năm qua, tôi nghĩ mọi người Việt Nam chúng ta, cả đôi bên đều nhận thấy khi không còn sự can thiệp từ bên ngoài nữa, chúng ta có thể trở về bên nhau, cùng nhau xây dựng. Và Việt Nam sẽ thêm phát triển khi mọi người Việt dù ở đâu cũng đều ở trong một cộng đồng hòa hợp”.
2. Trong 30 năm ròng rã chiến tranh ấy, kẻ thù đã gây ra không biết bao nhiêu đau thương tang tóc cho dân tộc này. Thế nhưng, những đau thương về da thịt có thể ở nhiều nơi đã lành, chỉ có những nỗi đau trong lòng vẫn còn đâu đó. Ngay trong gia đình ông Võ Văn Kiệt cũng có những người cháu ở phía quân đội Sài Gòn.
Ông Dương Văn Minh, Tổng thống cuối cùng của chế độ Sài Gòn có người em ruột là Đại tá Quân đội nhân dân Việt Nam. Ông Trần Văn Hương, Tổng thống chế độ Sài Gòn có con trai là Đại úy Quân đội nhân dân Việt Nam và đã từng tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ... Nguyên Phó chủ tịch nước Nguyễn Thị Bình trong hồi ký của mình cho biết trên 90% gia đình ở miền Nam có cả người ở phía bên này và phía bên kia. Đó là nỗi đau quá lớn của dân tộc này.
Sau ngày 30-4, vừa xuống thang máy bay ở Sân bay Tân Sơn Nhất, Tổng Bí thư Lê Duẩn đã nắm tay đưa lên cao, giọng đầy cảm xúc, nói: “Đây là thắng lợi của cả dân tộc, không phải của riêng ai”. 44 năm đã trôi qua, có bao nhiêu người, nhất là những người có trách nhiệm hiểu trọn vẹn câu nói đặc biệt này của ông Lê Duẩn.
Cũng vậy, tối 2-5-1975, tại Dinh Độc Lập, trong buổi tiếp và trao trả tự do cho ông Dương Văn Minh và toàn bộ nội các cuối cùng của Sài Gòn, Thượng tướng Trần Văn Trà, Chủ tịch Ủy ban Quân quản TP.Sài Gòn - Gia Định, Tư lệnh kiêm Chính ủy Quân khu 7 đã phát biểu rằng đây là chiến thắng của toàn dân tộc Việt, đây là niềm hãnh diện chung của tất cả nhân dân Việt Nam chúng ta.
3. 44 năm qua, chúng ta đã làm được rất nhiều chuyện để hàn gắn nỗi đau này của dân tộc. Nghị quyết 36-NQ/TW ngày 26-3-2004 của Bộ Chính trị; Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 16-6-2008 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc đều đã khẳng định “Xóa bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử do quá khứ hay thành phần giai cấp; xây dựng tinh thần cởi mở, tôn trọng, thông cảm, tin cậy lẫn nhau, cùng hướng tới tương lai”.
Trong cuốn hồi ký Tổ quốc trên hết, Đại tướng, nguyên Chủ tịch nước Lê Đức Anh cho rằng từ chiến thắng vĩ đại mùa Xuân 1975 đã đủ độ dài cho phép chúng ta có điều kiện nhìn lại mọi sự vật, hiện tượng đã diễn ra ngày càng rõ ràng, đầy đủ, chính xác hơn. Để giải quyết đồng loạt, rộng khắp, kịp thời và thật sự tạo nên đại thắng, phải thấy rõ vai trò tiến công và nổi dậy của lực lượng tại chỗ, của lực lượng chính trị quần chúng, trong đó có cả lực lượng của những người bị bắt buộc đứng trong hàng ngũ của địch, có cả cơ sở của cách mạng nằm trong hàng ngũ địch…
Phát biểu tại Đại hội MTTQ Việt Nam lần thứ VIII, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Xóa bỏ mặc cảm, định kiến về quá khứ, thành phần giai cấp, chấp nhận những điểm khác nhau không trái với lợi ích chung của dân tộc”.
Tại chương trình giao lưu nghệ thuật “Xuân quê hương 2015 - Tổ quốc vinh quang” năm 2015, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang khẳng định: “Không có lý do gì để còn bất kỳ ai trong cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài còn định kiến, mặc cảm về quá khứ mà cản trở sự củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam”.
Đại hội lần thứ XII của Đảng một lần nữa khẳng định các quan điểm, chủ trương về đoàn kết, hòa hợp dân tộc: “Lấy mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” làm điểm tương đồng; tôn trọng những điểm khác biệt không trái với lợi ích chung của quốc gia - dân tộc; đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, khoan dung để tập hợp, đoàn kết mọi người Việt Nam ở trong và ngoài nước”…
Lúc sinh thời, ông Võ Văn Kiệt cho biết khi nghe ông Dương Văn Minh ra lệnh ngừng bắn, ông và ông Năm Xuân (Mai Chí Thọ) đã “thở phào nhẹ nhõm” và cho biết rằng chỉ những ai trực tiếp có mặt ở chiến trường trong thời điểm ấy mới cảm nhận hết được giá trị của lời tuyên bố ngừng bắn này của Tổng thống Dương Văn Minh.
Chính phủ cuối cùng của chế độ Sài Gòn do ông Dương Văn Minh đứng đầu tất cả đều thuộc thành phần thứ 3. Họ không có bất cứ liên hệ gì với chính phủ Nguyễn Văn Thiệu. Cụ Nguyễn Văn Huyền, một trí thức Công giáo, bạn của luật sư Nguyễn Hữu Thọ là Phó tổng thống đặc trách hòa đàm, GS.Vũ Văn Mẫu, người đã cạo trọc đầu phản đối chính sách đàn áp tôn giáo của chế độ Ngô Đình Diệm làm Thủ tướng (cả 2 vị đều có những người ruột thịt là những người đứng khác chiến tuyến); Bộ trưởng Quốc phòng là một giáo sư đại học (GS.Bùi Tường Huân); Quyền Tổng tham mưu trưởng Nguyễn Hữu Hạnh là cơ sở binh vận của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam; Giám đốc Nha Cảnh sát đô thành Sài Gòn là một đảng viên cộng sản (thẩm phán Triệu Quốc Mạnh); Tổng trưởng thông tin Lý Quý Chung (nhà báo Chánh Trinh) là một dân biểu đối lập của chế độ Nguyễn Văn Thiệu; các tổng, bộ trưởng, quốc vụ khanh: Dương Văn Ba, Trần Ngọc Liễng, Trần Thúc Linh, Châu Tâm Luân… đều là những người yêu nước và sau này họ đều có đóng góp xứng đáng trong chế độ mới…
Thế nhưng, vẫn còn đó không ít cá nhân người Việt ở nước ngoài vẫn chứa đầy hận thù, hậm hực, chửi bới, mạt sát Nhà nước Việt Nam. Dường như đó không thể và không phải là hành động sáng suốt trong bối cảnh hiện nay.
Đất nước đang đứng trước những thử thách, khó khăn, nguy hiểm từ bên ngoài, đây là lúc cần nhất sự đồng lòng, đoàn kết nhất trí của tất cả người Việt trong và ngoài nước…
Vũ Trung Kiên
  
Hát Trên Những Xác Người (Trịnh Công Sơn) - Khánh Ly

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét