Theo MINH ĐỨC - NGUYỄN HOÀN
(Tiền Phong)
Công nhân lên chủ tịch dự án 8.000 tỷ: 'Người đặc biệt' trong biệt thự hoành tráng
Trong
số 5 cựu lãnh đạo Tổng công ty thép Việt Nam và Công ty CP Gang thép
Thái Nguyên (TISCO) bị khởi tố, bắt giam ngày 20/4 thì cựu Chủ tịch
TISCO Trần Văn Khâm có “lý lịch” khá đặc biệt.
Bị cách chức vẫn làm bí thư Đảng ủy
Ông
Trần Văn Khâm sinh năm 1961. Ông này gắn bó với gang thép Thái Nguyên
từ 4/1983 với xuất phát điểm là công nhân tiện - Phân xưởng cơ khí -
Xưởng Cơ khí - Công ty Gang thép Thái Nguyên.
Sau đó,
ông Khâm lần lượt trải qua nhiều vị trí khác nhau của Gang thép Thái
Nguyên như Phó Tổng giám đốc TISCO, Chủ tịch hội đồng quản trị kiêm Tổng
giám đốc TISCO, Bí thư đảng ủy TISCO.
Giai đoạn ông
Khâm làm Phó Tổng giám đốc TISCO là từ tháng 11/2007 đến tháng 6/2009.
Đây là giai đoạn dự án gang thép Thái Nguyên mở rộng giai đoạn 2 bắt đầu
được khởi công xây dựng. Hiện đây là 1 trong 12 dự án kém hiệu quả
ngành Công Thương.
|
Ông Trần Văn Khâm. |
Đến
tháng 7 năm 2009, ông Khâm lên làm tổng giám đốc và kiêm luôn chức vụ
chủ tịch HĐQT của doanh nghiệp này cho đến năm 2013. Đây cũng là giai
đoạn dự án này đội vốn khủng, lâm cảnh đắp chiếu, dở dang không lối
thoát.
Cụ thể, từ tháng 6/2012 do thiếu vốn, các nhà
thầu đã dừng thi công, rút người ra khỏi hiện trường và công trình ngưng
trệ từ đó tới nay.
Tháng 5/2013 ông Trần Văn Khâm đã
bị miễn nhiệm tư cách thành viên Hội đồng quản trị, rời khỏi ghế chủ
tịch Hội đồng quản trị. Thay thế ông Khâm là ông Vũ Bá Ổn (khi đó đang
giữ chức Phó Tổng giám đốc Tổng công ty Thép Việt Nam).
Tiếp
đó, hơn hai tháng sau, Hội đồng quản trị TISCO đã ban hành nghị quyết
thông qua chủ trương miễn nhiệm chức danh tổng giám đốc nhiệm kỳ
2014-2019 đối với ông Trần Văn Khâm. Thay thế ông Khâm là ông Hoàng Ngọc
Diệp.
Thế nhưng, dù mất 2 chức, ông Trần Văn Khâm vẫn
được giữ chức Bí thư Đảng ủy TISCO - đứng đầu một Đảng bộ trực thuộc
quản lý của Tỉnh ủy Thái Nguyên.
Thời gian ông Khâm
còn giữ trọng trách ở TISCO, báo chí nhiều lần đưa tin, ngôi biệt thự
nhà ông Khâm được UBND TP Thái Nguyên cấp giấy phép xây dựng công trình
"nhà ở riêng lẻ" ngày 24/4/2012. Giấy phép chỉ rõ tổng diện tích sàn xây
dựng: 420m2, chiều cao công trình: 7m, số tầng được phép xây dựng: 2
tầng.
Tuy nhiên, đến ngày 6/9/2013, UBND phường Trung Thành kiểm tra và phát hiện công trình thi công sai với giấy phép.
Cụ
thể, ngôi biệt thự được xây cao 5 tầng với chiều cao 17,1m, tức vượt 3
tầng, cao hơn 10,1m so với giấy phép được cấp. Ngoài ra, một phần công
trình còn vi phạm lộ giới đường quy hoạch.
UBND phường
Trung Thành lập biên bản vi phạm hành chính, yêu cầu gia đình ông này
dừng ngay việc thi công và khắc phục kịp thời các vi phạm, đồng thời
tháo dỡ toàn phần diện tích xây dựng sai.
Tuy nhiên, tính từ thời điểm đó đến nay hơn 4 năm trôi qua.
Dự án đắp chiếu
Dự
án mở rộng gang thép Thái Nguyên giai đoạn 2 khởi công vào năm 2007 đã
khiến TISCO rẽ sang con đường gập ghềnh khác. Tổng thầu dự án là Tập
đoàn Xây lắp luyện kim Trung Quốc (MCC). Tổng vốn đầu tư khi đó chỉ là
3.800 tỷ đồng.
Nhưng năm 2007, thời điểm triển khai dự
án, cuộc khủng hoảng tài chính 2008-2009 nổ ra. Giá cả vật tư leo
thang, lương tối thiểu tăng nhanh, dự án phải tạm dừng. Đến năm 2009, dự
án tái khởi động thì số vốn đầu tư “đội” hơn 2 lần, lên con số 8.100 tỷ
đồng.
Sau đó, dự án không tiến triển. Đến 2012 dự án bị dừng lại, dở dang nằm đắp chiếu đến tận bây giờ.
Khi
dự án còn đang loay hoay kiếm tiền đầu tư thêm, thì hàng loạt dự án sản
xuất thép của các tập đoàn tư nhân trong nước đã đi vào hoạt động, phôi
thép nhập khẩu giá rẻ tràn vào. Khó khăn chồng chất khó khăn. Trong khi
ấy, dự án giai đoạn 1 ngày càng tỏ ra “hụt hơi” trong cuộc cạnh tranh
khốc liệt.
Trước năm 2013, thị phần thép TISCO chiếm
khoảng 13-15%, dẫn đầu thị phần cả nước. Nhưng từ năm 2013, gió bắt đầu
đổi chiều. Những nhà sản xuất thép như Hòa Phát, Pomina, Posco SS, Vina
Kyoei,... áp dụng “công nghệ mới, hiện đại, chi phí thấp” đã khiến áp
lực cạnh tranh trên thị trường ngày càng gay gắt.
Hệ
quả là “cánh chim đầu đàn” dần mỏi cánh. Thị phần thép TISCO liên tục bị
thu hẹp và giảm từ 15% xuống chỉ còn xấp xỉ 8%, rơi xuống thứ 5 trong
toàn ngành thép.
Hà Duy
Đưa và nhận hối lộ của Phạm Nhật Vũ, Trương Minh Tuấn nhằm bòn rút ngân sách
Hoàng Nhật (Thực hiện) Thứ Năm, ngày 18/04/2019 08:00 AM (GMT+7)
(Dân Việt) Tại
thương vụ MobiFone mua 95% cổ phần AVG, giá thị thương hiệu được đẩy lên
mức rất cao nhằm bòn rút ngân sách. Một trong những nguyên nhân khiến
cho Mobifone chi ra số tiền khủng để mua cổ phần AVG là do hành vi đưa
hối lộ của Phạm Nhật Vũ và nhận hối lộ của Trương Minh Tuấn, Nguyễn Bắc
Son.
Luật sư Nguyễn Thế Truyền, Giám đốc Công ty Luật hợp danh Thiên Thanh, Đoàn Luật sư TP.Hà Nội
Xung quanh thương vụ MobiFone mua 95% cổ phần AVG, ông Phạm Nhật Vũ,
nguyên Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty cổ phần nghe nhìn Toàn Cầu
(AVG), đã bị khởi tố bị can, bắt tạm giam về tội “Đưa hối lộ”. Còn các
ông Nguyễn Bắc Son, Trương Minh Tuấn, Lê Nam Trà, Cao Duy Hải cũng bị
khởi tố bổ sung về tội “Nhận hối lộ”. Trong khi đó, ông Võ Văn Mạnh,
nguyên giám đốc và ông Hoàng Duy Quang, nhân viên Công ty TNHH tư vấn
đầu tư và thẩm định AMAX, doanh nghiệp được MobiFone thuê thẩm định giá
trị AVG, cũng bị khởi tố bị can, bắt tạm giam về tội "Vi phạm quy định
về quản lý và sử dụng vốn đầu tư công gây hậu quả nghiêm trọng" quy định
tại Điều 220 Bộ luật Hình sự năm 2015, vai trò đồng phạm.
Về vấn đề này, Góc nhìn chuyên gia của Dân Việt đã có cuộc trao đổi
với Luật sư Nguyễn Thế Truyền, Giám đốc Công ty Luật hợp danh Thiên
Thanh, Đoàn Luật sư TP.Hà Nội.
Mù mờ định giá AVG
Thưa ông, sau khi 2 cựu lãnh đạo Bộ TTTT là ông Trương Minh Tuấn,
Nguyễn Bắc Son, cùng các cựu lãnh đạo MobiFone như ông Lê Nam Trà, Cao
Duy Hải bị khởi tố bị can, bắt tạm giam vì liên quan tới sai phạm trong
thương vụ MobiFone mua 95% cổ phần AVG và mới nhất, ông Phạm Nhật Vũ,
nguyên Chủ tịch AVG, bị khởi tố vì tội "đưa hối lộ". Những động thái
này nói lên đều gì?
Khi cơ quan cảnh sát điều tra quyết định khởi tố khởi bị can đối với
ông Phạm Nhật Vũ về tội “Đưa hối lộ”, đồng thời, bổ sung Quyết định khởi
tố bị can đối với các ông Nguyễn Bắc Son, Trương Minh Tuấn, Lê Nam Trà,
Cao Duy Hải về tội “Nhận hối lộ” cho thấy, các cơ quan thi hành tố tụng
đang làm việc hết sức quyết liệt nhằm xác định rõ trách nhiệm của các
cá nhân, tổ chức có liên quan trong thương vụ MobiFone mua 95% cổ phần
AVG. Từ đó, xử lý đúng người, đúng vi phạm, đúng pháp luật.
Ông Nguyễn Bắc Son, Trương Minh Tuấn bị khởi tố bổ sung vì tội "nhận hối lộ"
Tôi đánh giá rất cao hành động vừa nêu của các cơ quan thi hành tố
tụng ở khía cạnh không bỏ lọt tội phạm. Bởi trong quá trình điều tra,
làm án các vụ án liên quan tới chức vụ, quyền hạn. Thông thường, họ sẽ
đưa ra xử lý tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiệm trọng, sử dụng
nguồn vốn Nhà nước sai quy định hoặc một số tội danh mang tính chất
chung nhiều hơn, ít khi đi vào hành vi cụ thể. Trong khi hành vi cụ thể
thường thấy đối với nhóm tội phạm này lại liên quan tới đưa và nhận hối
lộ, vì rõ ràng phải nhận được một lợi ích nào đó mới dẫn tới tội danh
“Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng” hoặc “Cố ý làm trái”, “Lợi
dụng chức vụ, quyền hạn để trục lợi”…
Việc khởi tố bị can đối với một số cá nhân trong thương vụ
MobiFone-AVG liên quan tới tội danh “Đưa hối lộ” và “Nhận hối lộ” là một
trong những động thái có thấy hệ thống tư pháp đang làm rất tốt.
Theo kết luận của cơ quan thanh tra, ngay từ lúc bắt đầu, thương
vụ MobiFone mua 95% cổ phần AVG đã không đảm bảo bất kỳ tiêu chuẩn nào
theo quy định pháp lý. Còn dấu hiệu vi phạm xuất hiện ở nhiều giai đoạn
từ lập dự án, báo cáo, thẩm định, đấu thầu, sử dụng nguồn vốn ngân sách
trong kinh doanh. Vì sao thương vụ vẫn diễn ra?
"Tham nhũng trong lĩnh vực đầu tư công, sử dụng nguồn vốn
NSNN đang là thực trạng điều nhức nhối tồn tại trong khu vực kinh tế Nhà
nước. Hàng nghìn tỷ đồng dễ dàng chui tọt qua lỗ kim, để rồi các cá
nhân, tổ chức liên quan, thậm chí cả các Bộ, ngành bị ảnh hưởng cho thấy
chúng ta đang thiếu một cơ chế giám sát độc lập, minh bạch".
|
Điều này cho thấy hoạt động công vụ tại một số cơ quan quản lý Nhà
nước đang có vấn đề. Việc chấn chỉnh các hoạt động công vụ được Tổng Bí
thư thực hiện rất quyết liệt trong những năm vừa qua. Nhiều vụ án liên
quan đến hoạt động công vụ trong việc quản lý, vận hành, sử dụng các đầu
mối của NSNN đã được đưa ra ánh sáng.
Tham nhũng trong lĩnh vực đầu tư công, sử dụng nguồn vốn NSNN đang là
thực trạng điều nhức nhối tồn tại trong khu vực kinh tế Nhà nước. Hàng
nghìn tỷ đồng dễ dàng chui tọt qua lỗ kim, để rồi các cá nhân, tổ chức
liên quan, thậm chí cả các Bộ, ngành bị ảnh hưởng cho thấy chúng ta đang
thiếu một cơ chế giám sát độc lập, minh bạch.
Cơ chế giám sát độc lập sẽ bảo đảm hạn chế thực trạng tuỳ tiện, nhũng
nhiễu trong hệ thống. Quan trọng hơn là hạn chế tham nhũng. Rõ ràng,
pháp luật của chúng ta đã có đầy đủ quy định, hệ thống giám sát của
chúng ta có Quốc hội, Hội đồng Nhân dân, Mặt trận Tổ quốc các cấp. Nhưng
những tiếng nói giám sát đó được đánh giá tới đâu, được quan tâm như
thế nào? Dường như chúng ta chưa có một cơ chế bắt buộc các cơ quan chức
năng phải nghe, tiếp thu và đưa ý kiến giám sát vào bản báo cáo cuối
cùng. Những người quyết định cuối cùng phải được nghe ý kiến từ tất cả
các bên, từ đơn vị lập dự án, đơn vị khảo sát tới đơn vị phản biện. Một
vấn đề luôn có 2 mặt, song trong thương vụ này, chúng ta có lẽ chỉ nghe
những gì có lợi cho mục tiêu công việc mà quên đi việc phải lắng nghe
những ý kiến phản biện.
Từ việc không lắng nghe những ý kiến phản biện đã dẫn tới sai phạm
nối tiếp sai phạm. Bởi người có trách nhiệm quản lý chỉ nghe ý kiến một
chiều, nghe “một bên tai”, qua đó, tự tước đi quyền năng của mình. Họ có
quyền được lắng nghe và phản biện, ký hoặc không ký, phê duyệt hoặc
không phê duyệt. Tuy nhiên, trong thương vụ MobiFone-AVG, có rất nhiều
mối quan hệ và luồng thông tin đưa tới cho người vạch quyết sách không
được đầy đủ.
Phải chăng, bản chất sở hữu Nhà nước, sở hữu toàn dân của khu vực
kinh tế Nhà nước khiến những người đại diện chủ sở hữu sẵn sàng mua đắt
– bán rẻ làm thiệt hại tài sản Nhà nước nhưng lại đem lại lợi ích lớn
cho họ trong khi trách nhiệm lại không rõ ràng, quy định thiếu chặt chẽ?
Vấn đề này liên quan tới hệ tư duy. Sau hàng chục năm phát triển khu
vực kinh tế Nhà nước, đến lúc buộc phải thay đổi theo cơ chế thị trường,
theo xu thế chung. Nhưng những người được quyền ra quyết sách lại lớn
lên trong môi trường Nhà nước, hệ tư duy của họ vẫn mang quan điểm các
DNNN đang phải chịu rất nhiều chế tài về chính trị; quy định công chức,
viên chức; xã hội;… Họ tin rằng những chế tài nêu trên là sự đảm bảo
chắc chắn về mặt pháp lý. Tuy nhiên, trên thực tế, quy định thì có, chế
tài hầu như không được thực thi.
Tiếp đó, khi khu vực kinh tế Nhà nước buộc phải chuyển đổi, đưa kinh
tế thị trường vào trong DNNN thông qua cổ phần hoá, sẽ có một số đối
tượng tranh thủ hệ tư duy để trục lợi. Dễ thấy rất nhiều các DNNN khi
tiến hành cổ phần hoá, việc định giá doanh nghiệp bỏ quên rất nhiều giá
trị mang tính chất thặng dư. Họ chỉ quan tâm tới giá trị tài sản hiện
hữu, mà nhiều khi đối tượng tài sản này cũng không được đánh giá đúng
mức.
Chẳng hạn, một DNNN sở hữu hệ thống dây sản xuất chuyền tốt, tạo ra
nhiều sản phẩm có ích cho xã hội. Nếu tiến hành cổ phần hoá, hệ thống
dây sản xuất có tuổi đời sẽ bị đưa xuống giá trị rất thấp. Nhưng các DN
tư nhân vẫn quan tâm tới cổ phần của DNNN, chủ yếu bởi khối bất động sản
DNNN đang sở hữu.
Một diễn biến ngược trong thương vụ MobiFone-AVG, đó là giá trị cổ
phần AVG được định giá rất cao so với giá trị thực tế. Trong đó, giá trị
thương hiệu AVG được xác định ở mức rất lớn. Giá trị thương hiệu là
loại hình giá trị mới xuất hiện trong tư duy nhà quản lý, nhà kinh doanh
Việt Nam những năm gần đây khi phát hiện ra các tài sản cố định, bất
động sản chỉ mang lại giá trị sử dụng rất cao, chứ không mang lại giá
trị thặng dư về mặt lợi ích kinh tế như giá trị thương hiệu.
Tại thương vụ MobiFone mua 95% cổ phần AVG, giá thị thương hiệu được
đẩy lên mức rất cao nhằm bòn rút ngân sách. Số tiền định giá cho AVG
chênh lệch rất lớn so với thực tế, và số chênh lệch được đưa vào một yếu
tố khá trừu tượng với đa phần công chúng, các nhà kinh tế và các cán
bộ, công chức có trách nhiệm. Rất khó để chúng ta định giá thương hiệu
một cách chính xác, bởi giá trị của thương hiệu được phản ánh với chính
thị trường thương hiệu đó xuất hiện. Một thương hiệu có giá trị ở thị
trường Việt Nam nhưng chưa chắc đã có giá trị tại thị trường quốc tế.
Ngược lại, có những thương hiệu có giá trị với quốc tế nhưng khi về thị
trường Việt Nam lại được định giá rất bình thường. Lợi dụng cái khó và
trừu tượng trong việc định giá thương hiệu, một số cá nhân, tổ chức đã
đưa giá trị AVG lên cao thông qua các yếu tố lợi thế kinh doanh, giá trị
thương hiệu.
Thậm chí, họ còn đưa những yếu tố hành chính vào việc định giá thương
hiệu AVG như giấy phép kết nối vệ tinh nhằm thực hiện việc thu-phát
sóng các kênh truyền hình của AVG. Thực tế đây chỉ là một thủ tục hành
chính, nhưng để thông qua thủ tục hành chính này, doanh nghiệp phải đáp
ứng rát nhiều điều kiện, một trong số đó là họ phải có quan hệ và tiền.
Vậy nên, một phần giá trị của AVG đã được chuyển đổi từ một loại giấy
phép hành chính sang một dạng giá thị vật chất. Điều này không sai,
nhưng trong một số trường hợp đã bị lạm dụng bởi các mối quan hệ thân
hữu và các yếu tố không thể định lượng, chỉ có thể định tính.
Việc AVG chủ động hủy bỏ hợp đồng với MobiFone trước khi Thanh
tra Chính phủ công khai kết luận, nhiều ý kiến cho rằng đây chỉ là biện
pháp nhằm khắc phục hậu quả và có thể được coi là tình tiết giảm nhẹ khi
xem xét trách nhiệm của những người liên quan. Đặc biệt trong bối cảnh
việc khắc phục này chỉ diễn ra sau khi Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo thanh
tra và Ban Bí thư có thông báo chỉ đạo phải làm rõ, còn các hành vi sai
phạm đã hoàn thành từ rất lâu. Quan điểm của ông về vấn đề này?
Ngay từ khi xuất hiện thông tin MobiFone và các cổ đông chuyển nhượng
đã đi tới thống nhất hủy bỏ thỏa thuận chuyển nhượng cổ phần mua bán
AVG sau cuộc họp giữa hai bên, nhiều người cho rằng họ đang cố gắng đưa
câu chuyện từ vấn đề vi phạm trong quản lý NSNN sang vấn đề quan hệ dân
sự, thương mại giữa 2 đơn vị kinh tế. Song họ đã quên rằng MobiFone là
DNNN, dưới quyền quản lý của Bộ Thông tin & Truyền thông (TTTT), mỗi
một đồng tiền được quyết toán, xử lý bằng ngân sách được sử dụng đều
phải tuân theo trình tự, thủ tục, quy định pháp luật nhằm tránh thất.
Đây là tải sản của nhân dân, giao cho một nhóm người quản lý. Nhóm người
này phải tuân thủ đầy đủ quy trình quản lý NSNN. Song nhóm người này đã
không tuân thủ quy định quản lý NSNN, thể hiện qua việc mua AVG với giá
trị rất lớn.
Việc AVG chủ động hủy bỏ hợp đồng với MobiFone về mặt khoa học pháp
lý được coi là hành vi khắc phục hậu quả chứ không có nghĩa hai bên thoả
thuận trao trả nhau tất cả những gì đã giao dịch là quan hệ dân sự hay
kinh doanh thương mại. Trong khoa học pháp lý, câu chuyện này cần được
minh thị rõ ràng rằng, việc thỏa thuận hoàn trả cho nhau những gì đã
trao chính là nội dung của “hợp đồng vô hiệu” bởi những điều cấm của
luật, hay xét dưới góc độ cấu thành tội phạm “nếu có” thì hành vi trao
trả lại chỉ được coi là “tình tiết giảm nhẹ” khi đã có hành vi vi phạm
theo quy định của pháp luật. Tức là, dù anh không có thỏa thuận trả lại
cho nhau những gì đã trao thì chính những chế tài trong pháp lý cũng
buộc anh phải trả lại. Còn hành vi “cố ý làm trái” đã hoàn thành.
Vậy nên, việc các bên có ký biên bản thỏa thuận rằng sẽ trả lại cho
nhau nhằm giảm lỗi đã gây ra, những gì đã trao trong đó có hướng đến các
ý như “không gây thiệt hại” hay việc gây sức ép lên chính các cơ quan
tiến hành xử lý vụ việc với cách đánh tráo khái niệm từ vi phạm pháp
luật hình sự sang giao dịch thương mại nhằm tránh phải chịu hệ quả pháp
lý ngày hôm nay. Song pháp luật chỉ có một, cựu Bộ trưởng Trương Minh
Tuấn, Nguyễn Bắc Son, cựu lãnh đạo MobiFone, và ông Phạm Nhật Vũ đã bị
khởi tố.
Không chỉ vậy, bản thân nhiều Bộ, ngành đưa ra ý kiến phê duyệt dự án
MobiFone mua 95% cổ phần AVG đều phải chịu trách nhiệm vì hành vi của
mình.
Luật vốn phức tạp nhưng không phải tự thân điều luật, mà xuất phát từ
chính những người áp dụng và sử dụng pháp luật. Việc “lách luật” bằng
cách đánh tráo khái niệm hay các quy định pháp luật khác luôn phải được
hiểu chính là hành vi vi phạm pháp luật. Rõ ràng, doanh nghiệp có quyền
làm gì pháp luật không cấm nhưng cũng không có nghĩa được quyền xâm phạm
đến tính nghiêm minh của pháp luật, không được xâm hại đến tính thượng
tôn của pháp luật.
Quan hệ thân hữu và doanh nghiệp sân sau
Việc ông Trương Minh Tuấn, Nguyễn Bắc Son, Phạm Nhật Vũ bị khởi
tố vì tội "nhận hối lộ" và "đưa hối lộ" đã chỉ ra mối quan hệ không minh
bạch giữa những cá nhân giữ chức vụ cao trong chính quyền và các công
ty thân hữu, gồm cả doanh nghiệp nhà nước và tư nhân. Vậy việc mua bán
này có ảnh hưởng như thế nào đối với và lòng tin của phần đông doanh
nghiệp đang hoạt động trên thị trường?
Cái mất lớn nhất mà tất cả đang lo lắng là mất niềm tin. Nếu để trình
trạng này diễn ra, rõ ràng mức độ tham nhũng đang phát triển ở mức cao.
Trước đây, đa phần các giao dịch là bán tài sản công sang phía tư nhân
với mức giá rất rẻ. Đã xuất hiện những dấu hiệu của vi phạm, tham nhũng
trong các thương vụ này.
Song lần này, tài sản công lại được sử dụng để mua cổ phần của một
doanh nghiệp với giá rất đắt, với giá trị cao hơn hàng chục lần so với
giá trị thật. Đang tồn tại một câu chuyện là những cá nhân bên trong khu
vực Nhà nước tìm cách “móc” thật nhiều tiền ngân sách nhất, chuyển ra
cho các cá nhân, tổ chức bên ngoài khu vực Nhà nước và cho những người
chịu trách nhiệm.
Trong một nền kinh tế thị trường, các nhà đầu tư, doanh nghiệp đều
muốn phát triển lành mạnh, trong sạch. Chúng ta phải tạo cho họ niềm tin
về công lý, về việc họ không phải bỏ thêm các chi phí đen, chi phí bôi
trơn, chi phí không chính thức. Hơn nữa, các doanh nghiệp dù của người
Việt Nam hay nước ngoài đều mong muốn được đối xử công bằng. Nếu tồn tại
một vài nhóm doanh nghiệp dù không có năng lực vượt trội, nhưng vẫn dễ
dàng thu về một con số lợi nhuận lớn nhờ các mối quan hệ thân hữu thì rõ
ràng sự bất công trong môi trường kinh doanh đã hiện hữu. Những nhà đầu
tư, những chủ doanh nghiệp mong muốn đóng góp trí tuệ, tài sản cho xã
hội sẽ nản lòng. Từ đó, kéo lùi bước tiến của toàn nền kinh tế.
Thậm chí, gây mất niềm tin của đại đa số người dân khi họ cảm thấy
không được đối xử công bằng. Bởi mọi người cảm thấy họ vẫn sẽ bị các cá
nhân khác vượt xa, dù có làm tốt tới đâu, bởi không có quan hệ thân hữu.
Với những thương vụ lớn như MobiFone mua 95% cổ phần AVG hay các
thương vụ tương tự giữa DNNN và đơn vị kinh tế ngoài Nhà nước, có lẽ
chúng ta cần sự vào cuộc của Quốc hội thông qua việc thành lập một ủy
ban thẩm định, điều tra nhằm đánh giá rủi ro, tính khả thi cũng như làm
rõ thiệt hại để bảo đảm tính khách quan?
"Chúng ta có lập thêm bất kỳ cơ quan nào mà không thay đổi
được tư duy, hành động của bản thân từng cán bộ, viên chức sẽ chỉ gây
tốn kém tiền của của người dân".
|
Tôi cho rằng việc này không cần thiết. Bởi chúng ta đã có rất nhiều
quy định quản lý, nhiều cơ quan giám sát như Uỷ ban Kinh tế của Quốc
hội, Ban Kinh tế Trung ương, Mặt trận Tổ quốc… Bản thân các cơ quan này
đã đủ chức năng và thẩm quyền giám sát. Điều tôi quan tâm là khi đối mặt
với từng vụ việc cụ thể, những người có trách nhiệm sẽ làm như thế nào?
Chúng ta có lập thêm bất kỳ cơ quan nào mà không thay đổi được tư
duy, hành động của bản thân từng cán bộ, viên chức sẽ chỉ gây tốn kém
tiền của của người dân. Bởi khi một cơ quan mới ra đời, phải có đầy đủ
vị trí, phòng, ban chức năng, trụ sở… Song hiệu quả hoạt động sẽ không
đạt mức như mong muốn nếu không có những con người có bàn tay “sạch”,
cái tâm “sáng” để lãnh trách nhiệm giám sát những thương vụ giao dịch
liên quan tới tài sản công, liên quan tới lợi ích của người dân, Nhà
nước và doanh nghiệp, đảm bảo luật chơi công bằng, khách quan.
Xin cảm ơn ông!
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét