CÂU CHUYỆN KHOA HỌC 102/7a (Y học)
(ĐC sưu tầm trên NET)
Andreas Vesalius - giải phẫu cơ thể người
Claudius Galenus (hay Galen) là một trong những nhà khoa học quan trọng nhất của Hy Lạp cổ đại. Vốn là một thầy thuốc và bác sĩ phẫu thuật, những thành tựu của Galen trong y học gần như ngang bằng với Hippocrates. Ông nổi tiếng với những công trình về cơ thể người, chủ yếu thông qua việc phẫu tích trên động vật. Tuy nhiên, thời điểm mà chúng ta đang nói tới là thế kỷ thứ hai, vì vậy Galen có rất nhiều điểm sai lầm.
Danh tiếng của Galen lừng lẫy đến mức những quan điểm của ông gần như
không có đối thủ trong nhiều thế kỷ. Mãi đến thế kỷ 16, giáo lý của
Galen mới bị thách thức bởi tác phẩm của nhà giải phẫu học Hà Lan
Andreas Vesalius. Năm 1543, Véalius viết cuốn On the Fabric of the Human
Body chứng minh một cách thuyết phục rằng Galen đã sai ở nhiều điểm về
giải phẫu cơ thể người. Hơn nữa, tất cả các quan sát của Vesalius đều
dựa trên phẫu tích người do chính ông thực hiện.
May mắn là Vesalius có những mạnh thường quân đầy thế lực (như Hoàng đế Charles V của Đế quốc La Mã) đã đảm bảo cho cuốn sách của ông trở thành một trong những ấn phẩm về giải phẫu quan trọng nhất mọi thời đại. Giống như Pare, Vesalius muốn đảm bảo rằng cuốn sách của mình càng dễ hiểu càng tốt, đó là lý do tại sao cuốn sách chứa đựng hơn 200 hình ảnh minh họa chất lượng cao của các họa sĩ bậc thầy trực tiếp có mặt khi phẫu tích.
Ephraim McDowell - ca mổ cắt khối u buồng trứng đầu tiên
Bác sĩ người Mỹ Ephraim McDowell trở nên nổi tiếng trên toàn thế giới nhờ một hoặc hai ca bệnh đặc biệt, nếu chúng ta tính cả khi ông mổ lấy sỏi bàng quang cho cậu bé 17 tuổi James Polk, người sau này trở thành Tổng thống Mỹ.
Ngày 13/12/1809, McDowell gặp Jane Todd Crawford, một phụ nữ được bác sĩ địa phương cho là mang thai già tháng. Sau khi thăm khám, ông đã chẩn đoán bệnh nhân có khối u khổng lồ ở buồng trứng. Ông giải thích với bệnh nhân rằng chưa từng có ai cố gắng cắt bỏ một khối u như vậy và rằng hầu hết các bác sĩ sẽ coi thủ thuật này là một việc bất khả thi.
Tuy nhiên, Crawford chẳng có gì để mất vào thời điểm đó, vì vậy cô để cho McDowell tiến hành phẫu thuật. Người phụ nữ này đã phải chịu đựng một ca mổ kéo dài 25 phút mà không gây mê, trong đó bác sĩ đã lấy ra một khối u nặng 10kg. Mặc dù tiên lượng rất bi quan, song bệnh nhân đã hồi phục hoàn toàn trong vòng chưa đầy một tháng và sống thêm được 32 năm nữa. McDowell đã đi vào lịch sử y học với tên gọi “cha đẻ của phẫu thuật cắt khối u buồng trứng “, mặc dù không phải ngay lúc đó vì mãi 8 năm sau ông mới viết về ca mổ này.
Richard Lower - ca truyền máu đầu tiên
Truyền máu là một phần không thể thiếu của y học hiện đại,
nhưng đã có một thời phương pháp này bị chế giễu. Rõ ràng máu đã đóng
vai trò trong nhiều nghi lễ trong suốt chiều dài lịch sử, nhưng mãi đến
giữa thế kỷ 17 tại London truyền máu mới được nghiên cứu như một cách
điều trị y học. Người đứng sau nghiên cứu này là Richard Lower, một bác
sĩ Oxford và là thành viên của Hội Hoàng gia mới được thành lập vài năm
trước đó.
Năm 1665, Lower thực hiện ca truyền máu thành công đầu tiên trên động vật. Ông đã lấy máu từ một con chó và truyền vào một con chó khác. Tiếp nối thành công ấy, ông chuyển sang người. Năm 1667, một con cừu được dùng để lấy máu, trong khi một người tình nguyện có tên là Arthur Coga trở thành người đầu tiên được truyền máu và đã được trả 20 shilling cho việc làm này.
Coga được truyền khoảng 270- 300ml máu cừu và thủ thuật mang tính bước ngoặt này được công bố trên tạp chí Philosophical Transactions. Tuy nhiên, dư luận không hề để tâm đến sự kiện này. Ngược lại, Lower và Hội Hoàng gia còn bị chế nhạo và bị gọi là những nhà khoa học điên. Một vở kịch mang tên The Virtuoso do Thomas Shadwell là tác giả thậm chí còn châm biếm ca truyền máu cừu cho người này.
Coga bị bệnh tâm thần nhẹ và Lower đã nghĩ sai rằng truyền máu sẽ chữa được bệnh tâm thần cho người này. Khi điều đó không xảy ra, người ta quên luôn ý tưởng đó và phải mất một thế kỷ sau việc truyền máu mới được xem xét nghiêm túc trở lại.
Jean Civiale - phẫu thuật ít xâm lấn đầu tiên
Đi tiểu ra sỏi thận bị xem là một trong những trải nghiệm đau đớn nhất mà bạn có thể chịu đựng, một số phụ nữ thậm chí còn xếp nó trên cả đau đẻ. Mỗi năm chỉ riêng ở Mỹ có hơn một triệu người phải đối phó với bệnh sỏi thận. Rất may, chúng ta không làm điều đó theo cách cũ nữa. Ngày nay, chúng ta sử dụng một thủ thuật ít xâm lấn được gọi là tán sỏi, trong đó sử dụng những kỹ thuật khác nhau để nghiền nát viên sỏi.
Trước thế kỷ 19, phẫu thuật để điều trị sỏi thận là mổ lấy sỏi, bao gồm rạch ổ bụng và lấy toàn bộ viên sỏi ra. Cách làm này không chỉ cực kỳ đau mà tỷ lệ tử vong rất cao. Nhưng đó là trước thời của bác sĩ người Pháp Jean Civiale với phát minh của mình - phương pháp tán sỏi mà ông sử dụng để thực hiện phẫu thuật xâm lấn tối thiểu đầu tiên trên thế giới. Với công cụ này, Civiale có thể nghiền nát viên sỏi trước khi đưa nó ra qua đường niệu đạo.
Civiale, một nhà tiên phong về tiết niệu và là người sáng lập của trung tâm tiết niệu đầu tiên trên thế giới tại Bệnh viện Necker ở Paris đã chứng minh rằng phương pháp của ông hiệu quả hơn nhiều so với việc mổ lấy sỏi. Trong khi kỹ thuật truyền thống có tỷ lệ tử vong trên 18% thì tỷ lệ tử vong của tán sỏi chỉ dao động quanh mức 2%.
Ông đã làm điều này thông qua một nghiên cứu phong phú và toàn diện được chứng nhận bởi Viện Hàn lâm khoa học Paris, một kỳ công đáng chú ý của y học thực chứng vẫn có ảnh hưởng mạnh mẽ cho đến tận ngày nay.
George Hayward - ca mổ cắt chi đầu tiên có gây mê
Ngay sau khi William Morton giới thiệu ete gây mê năm 1846 với ống hít “Letheon”, các bác sĩ đã suy nghĩ về những ứng dụng có thể có. Chắc chắn là bản thân khí này đủ mạnh cho những ca mổ nhỏ, nhưng liệu có thể sử dụng cho những trường hợp đại phẫu?
Quá trình phần nào bị chậm trễ do Morton không muốn tiết lộ ete là thành phần chính của ống hít. Các bác sĩ muốn sử dụng thứ thuốc của ông nhưng cũng thận trọng khi sử dụng một loại thuốc chưa được biết rõ trên bệnh nhân của mình do lo ngại về tác dụng phụ. Morton đề nghị cung cấp Letheon miễn phí cho các bệnh viện Boston, nhưng giới bác sĩ vẫn kiên trì quan điểm và yêu cầu được biết công thức sử dụng cho loại ống hít này. Cuối cùng, Morton đành thừa nhận đã sử dụng ether sulfuric.
Bấy giờ khi vấn đề đã được giải quyết, gây mê có thể được sử dụng trong một thủ thuật y học tham vọng hơn nhiều - phẫu thuật cắt bỏ chi. Nhiệm vụ này được thực hiện bởi BS. George Hayward. Bệnh nhân là một cô hầu gái 21 tuổi tên là Alice Mohan cần phải cắt bỏ chân do bệnh lao. Giống như trước, Morton dùng khí gây mê cho đến khi bệnh nhân ngủ thiếp đi. Hayward kiểm tra phản ứng của cô gái bằng cách dùng một chiếc kim đâm vào Alice. Khi thấy cô không phản ứng, ông nhanh chóng tiến hành ca mổ.
Sau đó, Alice tỉnh dậy và không hề biết mình vừa chìm vào giấc ngủ. Khi cô nói đã sẵn sàng để bắt đầu, Hayward cúi xuống nhặt cái chân lên và cho cô gái xem thứ đã từng thuộc về cô.
26/12/2018
13:44
GMT+7
100 Khám Phá Vĩ Đại Phần 7 - Y Học
Lịch sử phát triển của nền y học thế giới
Thứ sáu, 13/10/2017, 11:44 GMT+7
Lịch sử phát triển của nền y học thế giới
Y học là một lĩnh vực khoa học ứng dụng
liên quan đến nghệ thuật chữa bệnh, bao gồm nhiều phương pháp chăm sóc
sức khỏe nhằm duy trì, hồi phục cơ thể từ việc phòng ngừa và chữa bệnh.
Cho đến nay, nhiều nhà nghiên cứu cho
rằng lịch sử y học có thể đã ra đời cùng với lịch sử phát sinh bệnh tật
và lịch sử người thầy thuốc. Trong hang Ba anh em (La Grotte des Trois
Frères) người ta đã tìm được bức vẽ cách đây khoảng 17 ngàn năm mô tả
một phù thủy đầu hưu đang chữa bệnh.
Y học phát triển theo năm tháng và theo
vùng, nhanh hay chậm tùy theo sự phát triển của nền văn hóa, kinh tế,
văn minh và đặc điểm của từng dân tộc.
Có nhiều cách phân tích lịch sử y học
thế giới: phân tích theo vùng, phân tích theo thời gian, phân tích dựa
theo sự tiến bộ của các phương pháp tiếp cận và nghiên cứu phát triển
của ngành Y Học. Phương pháp cuối này đơn giản và rõ ràng hơn. Theo
phương pháp phân tích này, các nhà nghiên cứu phân tích lịch sử y học
thế giới thành 4 giai đoạn:
1- Giai đoạn Y Học Tâm Linh (Spiritism Medicine)
Vào đầu thời La Mã cổ đại, người Hy Lạp
cổ tin rằng bệnh tật là "sự trừng phạt của thánh thần" và chữa bệnh là
một "món quà từ các vị thần".Người ta nhận ra rằng tâm trí đóng một vai
trò quan trọng trong chữa bệnh, và nó cũng có thể là căn nguyên duy nhất
của bệnh.
Vào thời kỳ xa xưa đó, nền y học La-Hy
mang nhiều tính chất thần thoại. Mỗi khi mắc bệnh, người La Mã đến đền
thờ cầu khẩn các vị thần linh: Minerva, Diana, Hygiea...
Tại vùng Lưỡng Hà và Ai Cập, vào thời kỳ
cổ đại, trong khoảng thời gian 3500 – 1500 năm trước CN đã phát triển
nền y học sơ khai. Trong nền y học sơ khai này, siêu nhiên có mặt trong
tất cả các khía cạnh bệnh tật và chữa bệnh: Bệnh tật và tai họa đều được
gán cho các tác nhân siêu nhiên: thần thánh, ma quỷ… Trong thời kỳ này
việc chẩn đoán, phòng ngừa, điều trị bệnh đều cần đến ma thuật, cúng
kiến, cầu khẩn…Nguyên nhân của bệnh tật đều được cho là do ma quỷ, thần
thánh, thần linh… Các phù thủy, shaman (người lên đồng), thầy pháp... là
những người đứng ra phù phép, cúng kiến… để “chữa bệnh’ cho mọi người
trong vùng. (1)
Ở phương đông: Vùng Ấn Độ có rất ít tài
liệu ghi lại. Kinh Vệ Đà có ghi lại những tài liệu được soạn ra trong
khoảng 1500 – 1000 trước CN cho thấy những thầy thuốc, được xem như thần
thánh, chiến dấu chống lại ma quỷ, cử hành những nghi thức thần bí
chống lại bệnh tật, dịch bệnh. Tại Trung Quốc, các nhà nghiên cứu không
tìm thấy lài liệu nào về sự phát triển y học trong giai đoạn này. Họ chỉ
tìm được các dấu vết rất nhạt nhòa trong các câu chuyện được truyền
tụng trong dân gian.
Y thuật tâm linh (YTTL) là hiện tượng
chữa bệnh dựa vào các quyền lực thần bí. Trong thời kỳ này, người ta tin
rằng bệnh là do sự quở phạt của thần linh. Khi có bệnh người ta nhờ cậy
vào “thầy Mo”, “thầy cúng” cầu thần linh cho khỏi bệnh. (2)
Lịch sử y học trong giai đoạn này được
ghi lại rất ít, mơ hồ. Những tiến bộ về y học trong thời kỳ này phát
triển tại những vùng cách nhau và biệt lập. Do không có nhiều trao đổi
thông tin, không có trường dạy về y học nên trong thời gian dài sự tiến
bộ không nhiều và không đồng bộ.
Ngày nay vẫn còn nhiều nơi trên thế giới tồn tại giai đoạn y học này, trong đó có Việt Nam.
Y học trong giai đoạn này kém hiệu quả
do dựa trên cơ sở mê tín nên trong thời gian dài không có tiến bộ đáng
kể. Dần dần nó được thay thế bởi nền y học tến bộ hơn, hiệu quả hơn, đó
là Giai đoạn Y Học kinh nghiệm. Sự thay thế này diễn ra trên những vùng
riêng biệt và nhờ vào một số nhân vật xuất chúng, tự phát ở mỗi nơi.
2- Giai đoạn Y Học Kinh Nghiệm (Empiric Medicine)
Đây là giai đoạn mà các thầy thuốc thông
minh xuất chúng ở rải rác nhiều nơi trên thế giới tự mình tích lũy kinh
nghiệm, đưa các kinh ghiệm ấy vào việc khám, chữa bệnh làm cho việc
điều trị có hiệu quả hơn. Họ quan sát, tích lũy kinh nghiệm và chữa bệnh
dựa vào kinh nghiệm cá nhân hay được truyền lại. Giai đoạn này phát
triễn mạnh mẻ ở vùng Trung - Ấn.
Trong giai đoạn này người ta chỉ thuần
túy dựa vào kinh nghiệm để chẩn đoán và điều trị. Các thầy thuốc ghi
nhận: Người bệnh đau gan thì bị vàng da. Khi bị vàng da (đau gan) thì
uống thuốc A sẽ giảm. Thầy thuốc không lý giải được vì sao đau gan lại
vàng da, hoặc một số thầy thuốc tìm cách giải thích theo suy nghĩ của
mình (không chắc là đúng hay không). Vả lại đây chỉ là kinh nghiệm cá
nhân trên một số trường hợp nên dễ chủ quan và sai lệch.
Y Học kinh nghiệm được ghi nhận từ lâu, trong nhiều nền văn minh cổ như Ấn Độ, Ai Cập, Hy Lạp hay Trung Hoa. (1), (3), (4), (5)
- Y học thời cổ Ai Cập: Kim tự tháp được
xây dựng trong giai đoạn này với thời gian kéo dài hàng trăm năm và hơn
chục vạn nô lệ làm việc. Lúc đó xẩy ra tai nạn thường xuyên nên các kỹ
thuật điều trị chấn thương được hình thành từ đó. Trong thời kỳ này
ngành y học Ai Cập đã tổ chức thành các chuyên khoa theo các bộ phận cơ
thể như: Khoa mắt, khoa chấn thương, ướp xác … và đã có những tiến bộ
đáng kể.
- Y học cổ vùng Lưỡng Hà: Ở thời kỳ này
người ta đã biết một số bệnh do muỗi truyền. Dược phẩm được dùng ở thời
kỳ này là tỏi, hạt cải, mướp đắng, lưu huỳnh và cà độc dược.
- Y học cổ Trung Quốc: Châm cứu đã được
hình thành và phát triển với sự ra đời của thuyết âm dương, ngũ hành.
Nhiều tác phẩm y học nổi tiếng như Thần nông bản thảo và Hoàng đế nội
kinh ra đời trong giai đoạn này. Nội kinh là cuốn sách liệt kê các lý
luận và thực hành y học. Các danh y đời Hán thời đầu công nguyên cho ra
đời cuốn sách Thần nông bản thảo kinh. Sách tổng hợp các loại dược liệu,
gồm 365 vị thuốc bổ và thuốc chữa bệnh như ma hoàng chữa bệnh hen, thuỷ
ngân chữa bệnh ngoài da...
Hoa Đà (145-208), là một thầy thuốc nổi
tiếng cuối thời Đông Hán và đầu thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc.
Ông được xưng tụng như một Thần y nổi tiếng không chỉ trong Trung Quốc
mà cả trong các nước đồng văn hóa như Việt Nam, Nhật Bản và Hàn Quốc,
được xem là một trong những ông tổ của Đông Y. Ông cùng Đổng Phụng và
Trương Trọng Cảnh được xưng tụng là Kiến An tam Thần y. Biển Thước, là
một thầy thuốc trứ danh thời Chiến Quốc và được xem là một trong những
danh y đầu tiên được ghi chép sớm nhất trong các thư tịch của lịch sử
Trung Quốc. Tương truyền ông chính là người khai sinh ra phương pháp bắt
mạch, là người đặt tiền đề quan trọng cho Đông y. Do tiếng tăm và các
điển tích thần kỳ, về sau Biển Thước cùng Hoa Đà, Trương Trọng Cảnh và
Lý Thời Trân được hậu thế xưng tụng “Trung Quốc cổ đại Tứ đại danh y”.
Tác phẩm của ông còn có “Biển Thước nội kinh”, “Biển Thước ngoại kinh”
và “Nạn kinh”.
Châm cứu cũng đã bắt đầu phát triển. Thế
kỷ XI có ông Vương Duy Nhất đã đúc tượng đồng để khắc các huyệt vào đó.
Y học thời Tống, từ thế kỷ XIII, xuất hiện cuốn “Tây Oan lục” là cuốn
sách đầu tiên nói về pháp y. Thế kỷ XVI người Trung Quốc đã biết cách
chủng đậu.
Y học cổ La Mã, Hy Lạp xuất hiện:
Claudius Galenus (129–200/217), hay còn
gọi là Galen là một thầy thuốc và nhà triết học nổi tiếng người La Mã
gốc Hy Lạp và có lẽ là nhà nghiên cứu y học tài ba nhất của thời La Mã.
Các học thuyết của ông đã chi phối và ảnh hưởng đến y họcphương tây hơn
một thiên niên kỷ. Giải thích của ông về y học giải phẫu được thực hiện
trên khỉ (do việc giải phẫu người không được phép thực hiện vào thời
đó), nhưng nó không được chú ý nhiều cho đến khi những bản in miêu tả và
minh họa về giải phẫu người được Andreas Vesalius xuất bản năm 1543.
Giải thích của ông về các hoạt động của tim, động mạch và tĩnh mạch kéo
dài cho đến khi William Harvey đưa ra năm 1628 rằng máu tuần hoàn trong
cơ thể với tim hoạt động như một máy bơm. Đến thế kỷ 19 các sinh viên y
học vẫn tìm hiểu về Galen để học tập một số quan điểm của ông. Galen đã
thực hiện một số thí nghiệm thắt dây thần kinh để lý giải cho học thuyết
rằng não điều khiển mọi chuyển động của cơ liên quan đến hệ thần kinh
ngoại biên và sọ.
Galien (131-205) có nhiều đóng góp cho nghiên cứu giải phẫu hệ cơ, xương, khớp, thần kinh.
Giai đoạn Y Học kinh nghiệm phát triển
khắp nơi trên thế giới, mạnh nhất là ở phương đông, vùng Trung-Ấn, nên
thường được gọi là Đông Y. (1), (3), (5).
Vì nhiều lý do khác nhau: Dựa vào kinh
nghiệm cá nhân của một số thấy thuốc, các vấn đề y học không được giải
thích bởi các luận lý khoa học nên những kiến thức y học trong giai đoạn
này không đáp ứng được nhu cầu thực tế chữa bệnh cho con người và giúp
cho ngành y tế phát triển xa hơn. Diễn ra trong thời kỳ phong kiến nên
nền y học này nhằm phục vụ vua chúa và những người của giai cấp thượng
lưu, những người trong triều đình nên sự phát triển bị hạn chế.
Sự phát triển kinh tế ở phương đông sau
một thời gian dài bùng nổ đã bắt đầu chững lại nhường chổ cho sự phát
triển công nghiệp, khoa học phát triển ở phương tây. Ngành Y Học cũng
theo đó rẽ sang một hướng khác: Y Học khoa học, giai đoạn y học được soi
sáng bởi ánh sáng khoa học.
3- Giai đoạn Y Học Khoa Học (Scientific Medicine) hay Y Học Thực Nghiệm (Experimental Medicine): (1), (2), (3), (4) (6)
- Hyppocrate (460-377 TCN) được xem là
tổ sư của ngành y mà kế thừa ngày nay là y học phương Tây hay Tây y. Ông
là một trong những người có công lao về y học và có thể coi là người
sáng lập ra y học thực nghiệm. Ông cũng được ghi nhận như người đầu tiên
thành lập trường y khoa, cũng là người soạn ra lời thề Hippocrates (về
sau được Celsus bổ sung). Galen đã đặt nền tảng phát triển cho lý luận y
khoa. Sau khi đế chế La Mã sụp đổ và bắt đầu thời Trung Cổ, các lương y
trong thế giới đạo Hồi đã kế tục và tạo nên bước đột phá lớn cho ngành y
nhờ được hỗ trợ từ bản dịch sang tiếng A rập các công trình của
Hippocrates và Galen. Nhiều lương y tiên phong nổi tiếng là người A Rập,
như ông Avicenna được gọi là "tổ sư y học hiện đại", ông Abulcasis là
tổ sư ngành phẫu thuật, ông Avenzoar là tổ sư ngành phẫu thuật thực
nghiệm, ông Ibn al-Nafis và ông Averroes là tổ sư ngành sinh lý học tuần
hoàn (circulatory physiology), ông Rhazes sáng lập ngành nhi khoa. Họ
vẫn còn để lại ảnh hưởng cho y học phương Tây đến thời Trung đại.
Những quan điểm và thực tiễn cơ bản của Hyppocrate về y học như sau:
Tách rời tôn giáo và y học, xây dựng y
học trên cơ sở vật chất, dựa vào quan sát cụ thể những dấu hiệu của
bệnh. Bệnh tật là một hiện tượng tự nhiên của cơ thể, không có ma lực
huyền bí gì gây nên.
Nguyên tắc cơ bản để chữa bệnh chủ yếu
là trợ lực cho sức đề kháng tự nhiên của cơ thể, phải tránh tất cả những
gì cản trở khả năng tự chữa và sức khỏe tự nhiên của bệnh nhân. Cách
điều trị của Hyppocrate rất thận trọng "Không được làm bất cứ điều gì
một cách táo bạo. Thầy thuốc dù không làm được gì cho bệnh nhân, nhưng
không được gây tác hại gì cho họ".
Ông đề ra thuyết môi trường, con người
sống không cô lập mà dù muốn hay không vẫn phải tuân theo các quy luật
tự nhiên. Vai trò của người thầy thuốc là không được đối lập tự nhiên mà
phải tạo điều kiện thuận lợi cho tự nhiên, cho cơ thể chống lại bệnh
tật. Việc ăn uống đã được ông nghiên cứu rất kỹ, các chế độ ăn uống được
ghi rõ ràng. Ông còn là một nhà tiết chế dinh dưỡng, nhà vệ sinh học.
Hyppocrate và các học trò đã biết bệnh
lao, ung thư, thiếu máu, bướu cổ, “bệnh xanh mét của phụ nữ”, sỏi mật, ứ
máu, động kinh, các chứng liệt, hysteria, rối loạn tâm thần, bệnh đường
hô hấp, tiêu hóa, gan, lách, thận, tiết niệu, sinh dục, xương, da, tai
mũi họng, dị ứng do thức ăn.
Hyppocrate là một nhà phẫu thuật, đã mổ
và chữa gẫy xương, nắn sai khớp, chữa vết thương đầu. Dụng cụ phẫu thuật
rất phong phú: dao mổ, que thăm dò, muổng nạo...
Về thuốc: dùng thuốc phiện, cà độc dược, thuốc ngủ, an thần, muối chì, muối acid, muối đồng, thuốc mỡ để điều trị.
- Claude Bemard (1813-1873) sáng lập y
học thực nghiệm, thống nhất sinh lý học, bệnh học và điều trị học. Ông
đã nghiên cứu thần kinh giao cảm, chức phận tạo đường của gan, vai trò
của dịch tụy trong tiêu hóa. Về quan điểm và phương pháp của mình, ông
viết: "Biết và chưa biết là 2 thái cực khoa học cần thiết". Ông cũng đã
nhấn mạnh mối liên quan giữa cơ thể và môi trường.
- Louis Pasteur (1822-1895) nhà hóa học,
nhà vi khuẩn học đầu tiên. Năm 1879, Pasteur cô lập và nuôi cấy liên
cầu khuẩn. Pasteur thấy rằng bệnh dại lây nhiễm nhờ một tác nhân nhỏ
không tìm thấy dưới kính hiển vi, nhờ đó mở ra thế giới phát hiện ra
virus. Kết quả là ông đã triển khai được kỹ thuật tiêm vaccin cho chó
chống bệnh dại và điều trị cho người bị chó dại cắn.
- Davaine (1812-1882) và Rayet (1793-1863) năm 1850 tìm ra trực khuẩn than.
- Năm 1880 Eberth tìm ra trực khuẩn thương hàn.
- Robert Koch (1843-1910) năm 1884 tìm ra trực khuẩn lao.
- Calmette (1863-1933) và Guérin năm 1921 tìm ra vaccin BCG chủng lao.
- Louis Pasteur (1822) phát hiện ra tụ cầu và liên cầu năm 1890.
- Năm 1865 Mendel (1822-1884) thí nghiệm về lai thực vật.
- …
Trong giai đoạn này các thầy thuốc
nghiên cứu giải thích các hiện tượng y học theo khoa học. Người ta giải
đáp được các thắc mắc: vì sao bệnh nhân đau gan bị vàng da? Một loại
thuốc tác dụng chữa bệnh như thế nào? Các thầy thuốc cũng là nhà khoa
học tìm ra và chứng minh được các tác nhân gây bệnh, các cơ chế sinh
bệnh (mechanism of disease), chế được các thuốc chữa bệnh có tác dụng
thực sự vào các chuyển biến sinh lý bệnh gúp cho việc chữa bệnh có hiệu
quả hơn. Từ nền tảng đó các nhà khoa học tìm hiểu ngày càng sâu xa hơn
các nguồn gốc gây ra bệnh tật và phát triển những phương pháp điều trị
phù hợp.
Giai đoạn Y Học Khoa Học hay Y Học Thực Chứng phát triển mạnh mẻ ở các nước phương tây nên thường được gọi là Tây Y.
4- Giai đoạn Y Học Hiện Đại: (6), (7), (8)
Y học hiện đại là một trào lưu mới có
mục đích thiết lập quy trình chẩn đoán và điều trị hiệu quả nhất bằng
phương pháp "xét duyệt có hệ thống" (systematic review) và "phân tích
gộp" (meta-analysis) theo thống kê. Nó phát triển nhờ tiến bộ của khoa
học thông tin hiện đại giúp thu thập và phân tích khối lượng dữ liệu,
bằng chứng rất lớn theo quy chuẩn, sau đó phổ biến cho các nơi làm dịch
vụ chăm sóc sức khỏe hay phòng trị bệnh. Một nan đề cho phương pháp "tối
ưu" này là nó có thể bị xem là cách tiếp cận có kịch tính (dramatic),
nghĩa là sẽ tạo ra nhiều đánh giá khác nhau. Báo cáo của chương trình
hợp tác Cochrane là phong trào chủ trương ý kiến này năm 2001 cho biết
trong 160 bản "xét duyệt có hệ thống" của Cochrane, căn cứ vào ít nhất
hai người nhận xét, thì có 21,3% bằng chứng không đầy đủ, 20% không công
hiệu và 22,55% bằng chứng là dương tính. Từ đó Y Học phát triển sang
giai đoạn:
- Y Học Chứng Cứ (YHCC - Evidence Based Medicine-EBM): (7), (10), (11).
Là một khái niệm được đề cập lần đầu
tiên năm 1972 bởi Giáo sư Archie Cochrane trong quyển sách của ông
“Effectiveness and Efficiency: Random Reflections on Health Services”.
Theo Nhóm Làm việc về Y học Chứng cứ, Viện Đại học Illinois, Mỹ thì YHCC
là một cách tiếp cận trong thực hành y khoa trong đó người thầy thuốc
lâm sàng quan tâm đến những chứng cứ hỗ trợ cho việc thực hành lâm sàng
và giá trị của những chứng cứ đó.
Y học được mệnh danh là một khoa học tức
là dựa trên những chứng cứ vậy thì tại sao lại có y học chứng cứ? Thật
sự thì dù là một khoa học, việc thực hành y học không bao giờ mang tính
hệ thống và nhất quán một cách tuyệt đối khi mà việc chẩn đoán, tiên
lượng và điều trị chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố từ tâm lý đến văn
hóa, kinh tế, xã hội. Thầy thuốc không phải là một cái máy mà là một con
người, cũng có lúc mệt mỏi, căng thẳng hoặc buồn bực, giận hờn… Ngoài
ra người thầy thuốc còn chịu ảnh hưởng bởi thái độ, cách xử sự của bệnh
nhân. Về những yếu tố văn hóa, ngoài những tập quán, chuẩn mực, giá trị
thuộc về văn hóa địa phương, người hầy thuốc còn chịu ảnh hưởng của
trường phái, của ý kiến của những người có uy tín hoặc ở vị trí cao tại
cơ sở thực hành v.v… Những yếu tố kinh tế, xã hội cũng ảnh hưởng đến
thực hành của người thầy thuốc chẳng hạn như cơ sở vật chất, điều kiện,
quy định làm việc, tình trạng kinh tế của bệnh nhân, của bản thân thầy
thuốc v.v…
Từ khi internet phát triển, có quá nhiều
các thông tin, trong đó có các thông tin về y học. Trong số những thông
tin đó có những thông tin có giá trị, có thông tin ít giá trị thậm chí
có những thông tin sai lệch, chủ quan (vô tình hay cố ý). Vì vậy phải
đặt ra một hệ thống lọc, giúp nhà nghiên cứu chân chính chọn được những
thông tin quý giá, loại ra những thông tin sai lệch, chủ quan thậm chí
lừa bịp vì những mục đích xấu.
Y học chứng cứ (Evidence-based medicine)
được định nghĩa như là một phương pháp thực hành y khoa dựa vào các dữ
liệu y học một cách sáng suốt và có ý thức, nhằm nâng cao chất lượng
chăm sóc bệnh nhân.
Bằng chứng khoa học mang tính chính
thống là những dữ liệu được công bố trên các tập san khoa học được cộng
đồng khoa học công nhận. Hiện nay, chỉ trong ngành y sinh học, đã có ít
nhất 30.000 tập san (nhưng chỉ khoảng 10% nằm trong danh sách của Viện
thông tin khoa học -- Institute of Scientific Information). Với một
lượng thông tin khổng lồ như thế, không một bác sĩ nào có thể cập nhật
hóa kiến thức một cách đầy đủ.
Y học chứng cứ đòi hỏi bác sĩ phải sử
dụng dữ liệu y học một cách “sáng suốt và có ý thức”. Nói cách khác,
không chỉ là tiếp nhận dữ liệu, người thầy thuốc phải hiểu dữ liệu đó có
ý nghĩa gì, và có đáng tin cậy hay không, để từ đó đi đến những so sánh
khách quan hơn và quyết định tốt hơn.
Nghiên cứu y học được công bố trên các
tập san nghiên cứu y khoa thường rất đa dạng, và xuất hiện với nhiều
danh từ, thuật ngữ không mấy quen thuộc. Một số nghiên cứu thường thấy
là meta-analysis (phân tích tổng hợp), randomized controlled clinical
trial (RCT, nghiên cứu lâm sàng đối chứng ngẫu nhiên), prospective
(longitudinal) study (nghiên cứu theo thời gian), cross-sectional study
(nghiên cứu tiêu biểu một thời điểm), và case-control study (nghiên cứu
bệnh chứng). Giá trị khoa học của những nghiên cứu này không giống nhau.
Theo y học thực chứng, các nghiên cứu sau đây có giá trị khoa học xếp
theo tứ tự cao nhất đến thấp nhất:
Textbook
Phân tích tổng hợp hay phân tích gộp (Meta-analysis).
Nghiên cứu lâm sàng đối chứng ngẫu nhiên (randomized controlled clinical trial - RCT). Nghiên cứu HOPE: một nghiên cứu RCT tiêu biểu
Nghiên cứu theo thời gian (longitudinal studies hay prospective study)
Nghiên cứu tiêu biểu một thời điểm (cross-sectional studies)
Nghiên cứu bệnh chứng (case-control study)
Báo cáo trường hợp lâm sàng (case reports)
Nghiên cứu cơ bản (basic research)
Ý kiến cá nhân và điểm báo, xã luận
Nói một cách khác làm việc theo cách tiếp cận y học chứng cứ chính là một tiến trình học tập dựa trên vấn đề, không phải chỉ diễn ra ở một giai đoạn nào mà liên tục suốt đời người.
Phân tích tổng hợp hay phân tích gộp (Meta-analysis).
Nghiên cứu lâm sàng đối chứng ngẫu nhiên (randomized controlled clinical trial - RCT). Nghiên cứu HOPE: một nghiên cứu RCT tiêu biểu
Nghiên cứu theo thời gian (longitudinal studies hay prospective study)
Nghiên cứu tiêu biểu một thời điểm (cross-sectional studies)
Nghiên cứu bệnh chứng (case-control study)
Báo cáo trường hợp lâm sàng (case reports)
Nghiên cứu cơ bản (basic research)
Ý kiến cá nhân và điểm báo, xã luận
Nói một cách khác làm việc theo cách tiếp cận y học chứng cứ chính là một tiến trình học tập dựa trên vấn đề, không phải chỉ diễn ra ở một giai đoạn nào mà liên tục suốt đời người.
- Y Học Cá Thể Hóa (Personalized Medicine) hay Y Học Chính Xác (Precision Medicine): (8), (9).
Trong thập kỷ đầu của thế kỷ 21, những
tiến bộ đáng kinh ngạc của di truyền học hiện đại, đặc biệt là thành quả
nghiên cứu tế bào gốc và bản đồ gen người đã giúp các nhà khoa học dự
đoán được phản ứng của cơ thể nhờ phân tích bộ gen của chính người bệnh.
Xu hướng “cá thể hóa” trong y học phương Tây đang được đánh thức để
hình thành mô hình mới đầy hấp dẫn: Y học chính xác.
Y học chính xác hay y học cá thể hóa
(PM) được hiểu một cách đơn giản là điều trị đúng bệnh nhân với đúng
thuốc, đúng liều, và vào đúng thời điểm. Nói rộng hơn, PM có thể được
coi là công tác y tế chăm sóc phù hợp với các đặc điểm cá nhân, nhu cầu
và sở thích của mỗi bệnh nhân trong tất cả các khâu bao gồm: phòng ngừa,
chẩn đoán, điều trị và theo dõi.
Thực ra, ý tưởng này có nguồn gốc từ
thời cổ đại: Hipprocrates - “cha đẻ của nghề y”- đã từng kê đơn “người
nào thuốc ấy”, không ai giống ai, dựa trên đặc thù bệnh mà mỗi người mắc
phải. Ngày nay, y học hiện đại cũng đang sử dụng các nguyên tắc trên
nhờ sự hỗ trợ mạnh mẽ từ thành tựu của công nghệ gene.
PM là mô hình y tế đề xuất phương pháp
chăm sóc sức khỏe tùy biến, với các quyết định (chẩn đoán, dự phòng,
chăm sóc, điều trị) và các sản phẩm (thuốc, thực phẩm…) được thiết kế
riêng cho từng bệnh nhân dựa trên thông tin di truyền của chính họ và
đặc thù căn bệnh.
Căn cứ vào bản đồ gene của mỗi người, PM
sử dụng những chẩn đoán phức tạp và tinh tế để đưa ra phác đồ điều trị
chính xác, phù hợp với đặc điểm di truyền của từng người ở cấp độ phân
tử. Hiện nay, PM mới dừng lại ở mức độ phân nhỏ nhóm bệnh nhân để đưa ra
phương pháp điều trị, nhưng khi bản đồ gen người hoàn toàn được giải
mã, PM sẽ càng thêm hoàn thiện. Khi đó, các bác sĩ có thể thiết kế những
mô hình chăm sóc sức khỏe “vừa khít” và hoàn hảo cho từng bệnh nhân.
Cơ sở khoa học của PM là các thành tựu
vượt bậc trong lĩnh vực công nghệ gene, cụ thể là sử dụng dữ liệu từ dự
án bộ gene người và các kỹ thuật di truyền. Năm 1990, dự án sinh học hợp
tác toàn cầu có tên gọi là Human Genome Project - HGP được triển khai
với sự tài trợ và quản lý của Bộ Năng lượng và Viện Sức khỏe quốc gia
Hoa Kỳ. Dự án hệ gene người kết thúc cũng là lúc bắt đầu nền y học hệ
gene, bản đồ gene người đang được nghiên cứu ứng dụng thường ngày trong y
khoa. Bác sĩ Collins, Viện trưởng Viện Nghiên cứu hệ gene người của Mỹ
cho rằng, bản đồ gene người như quyển sách giáo khoa về y học, đưa ra vô
số phương cách mới hỗ trợ điều trị và phòng bệnh cho từng cá thể. Sự
hiểu biết về hệ gene người giúp tạo nên các công cụ chẩn đoán mới, phát
hiện sớm hơn các bệnh như ung thư, đái tháo đường, tăng cholesterol
máu... Các bác sĩ có thể xác định đặc điểm hệ gene của tế bào ác tính,
từ đó đưa ra liệu pháp điều trị dựa trên các đột biến gene. Cách tiếp
cận này hứa hẹn mang lại hiệu quả điều trị cao và hạn chế tối đa tác
dụng phụ. Với trình tự gene có được, cùng với các kỹ thuật di truyền
hiện đại, hoàn toàn có thể xác định được nguy cơ mắc bệnh ngay khi cơ
thể đang khỏe mạnh. Đây chính là một trong những tiền đề cho sự phát
triển của PM, xu hướng phát triển tất yếu của y học.
Như vậy, lịch sử phát triển của Y Học
thế giới từ thời kỳ cổ đại đến nay đã trải qua nhiều giai đoạn phát
triển. Sự phát triển của Y Học chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố: tập quán
vùng miền, tâm - sinh lý của dân tộc, chế độ chính trị, sự biến đổi của
lịch sử, kinh tế, sự phát triển của khoa học, công nghệ … Một số nhà
nghiên cứu lịch sử phân chia lịch sử y học theo vùng miền: Y Học Hy Lạp –
La Mã – Ai cập, Y Học Trung – Cận đông, Đông Y, Tây Y hoặc theo thời
gian: Y Học cổ đại, Y Học Trung cổ, Y Học cận đại … Tuy nhiên, theo
chúng tôi phân chia lịch sử phát triển của Y Học theo phương pháp tiếp
cận bệnh và hướng chữa bệnh cũng như những thành tựu mà ngành Y Học đạt
được trong công cuộc chữa bệnh một cách có hiệu quả, đem lại sự sống,
sức khỏe và hạnh phúc cho con người là cách nhìn hợp lý và dễ hiểu nhất.
Theo khuynh hướng này có thể xếp lịch sử phát triển y học thế giới
thành 4 giai đoạn:
1- Giai đoạn Y Học Tâm Linh (Spiritism Medicine)
2- Giai đoạn Y Học Kinh Nghiệm (Empiric Medicine)
3- Giai đoạn Y Học Khoa Học (Scientific Medicine) hay Y Học Thực Nghiệm (Experimental Medicine)
4- Giai đoạn Y Học Hiện Đại
a- Y Học Chứng Cứ (Evidence Based Medicine).
b- Y Học Cá Thể Hóa (Personalized Medicine) hay Y Học Chính Xác (Precision Medicine)
Sự đánh giá đúng đắn này sẽ thúc đẩy Y Học tiến bộ nhanh hơn, phục vụ vụ con người tốt hơn.
****************
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1- Lịch Sử Y Học: Lois N. Magner (Bản dịch tiếng Việt: BS Võ Văn Lượng), Nhà xuất bản Trẻ
2- http://caodaifrance.free.fr/Trangdaidao/Html/Thonglinhhoc/Texte-VN/Lichsu_thanlinhhoc.htm
3- https://sites.google.com/site/seadropblog/home/y-khoa/co-so/tam-ly-y-hoc---y-duc/lich-su-y-hoc
4- https://vi.wikipedia.org/wiki/Y_học
5- https://vi.wikipedia.org/wiki/Y_học_Hy_Lạp_cổ_đại
6- https://www.baomoi.com/nguoi-ve-lai-dien-mao-y-hoc-la-ma-co-dai/c/4273343.epi
7- Dr.Thang (Q.Ngai): https://taimuihonghue21.wordpress.com/2009/09/08/y-học-chứng-cứ/
8- Nguyễn Thành Huy: http://localhost:8012/-khoa-hoc-cong-nghe/Phat-trien-y-hoc-chinh-xac-Can-su-dau-tu-tong-the-10914
9- https://en.wikipedia.org/wiki/Precision_Medicine_Initiative
10- Nguyễn Văn Tuấn. Giáo sư y khoa -
Viện Nghiên cứu Y khoa Garvan. Trường lâm sàng St Vincent’s. Đại học New
South Wales, Sydney, Australia
11- BS Nguyễn Ngọc Hiền. http://tuvansuckhoe.org.vn/TrangChinh.aspx?id=2&tID=151
Những cột mốc trong lịch sử y học
Suckhoedoisong.vn - Lịch sử y
học không diễn ra từ từ. Thay vào đó, nó được tạo thành từ những khoảnh
khắc - những thời điểm khi ai đó làm điều gì đó thực sự quan trọng sẽ
lay chuyển toàn bộ giới y học.
Lịch
sử y học không diễn ra từ từ. Thay vào đó, nó được tạo thành từ những
khoảnh khắc - những thời điểm khi ai đó làm điều gì đó thực sự quan
trọng sẽ lay chuyển toàn bộ giới y học. Chúng ta hãy cùng nhìn lại những
khoảnh khắc đáng nhớ trong quá khứ.Andreas Vesalius - giải phẫu cơ thể người
Claudius Galenus (hay Galen) là một trong những nhà khoa học quan trọng nhất của Hy Lạp cổ đại. Vốn là một thầy thuốc và bác sĩ phẫu thuật, những thành tựu của Galen trong y học gần như ngang bằng với Hippocrates. Ông nổi tiếng với những công trình về cơ thể người, chủ yếu thông qua việc phẫu tích trên động vật. Tuy nhiên, thời điểm mà chúng ta đang nói tới là thế kỷ thứ hai, vì vậy Galen có rất nhiều điểm sai lầm.
Andreas Vesalius có những ấn phẩm về giải phẫu quan trọng nhất mọi thời đại.
May mắn là Vesalius có những mạnh thường quân đầy thế lực (như Hoàng đế Charles V của Đế quốc La Mã) đã đảm bảo cho cuốn sách của ông trở thành một trong những ấn phẩm về giải phẫu quan trọng nhất mọi thời đại. Giống như Pare, Vesalius muốn đảm bảo rằng cuốn sách của mình càng dễ hiểu càng tốt, đó là lý do tại sao cuốn sách chứa đựng hơn 200 hình ảnh minh họa chất lượng cao của các họa sĩ bậc thầy trực tiếp có mặt khi phẫu tích.
Ephraim McDowell - ca mổ cắt khối u buồng trứng đầu tiên
Bác sĩ người Mỹ Ephraim McDowell trở nên nổi tiếng trên toàn thế giới nhờ một hoặc hai ca bệnh đặc biệt, nếu chúng ta tính cả khi ông mổ lấy sỏi bàng quang cho cậu bé 17 tuổi James Polk, người sau này trở thành Tổng thống Mỹ.
Ngày 13/12/1809, McDowell gặp Jane Todd Crawford, một phụ nữ được bác sĩ địa phương cho là mang thai già tháng. Sau khi thăm khám, ông đã chẩn đoán bệnh nhân có khối u khổng lồ ở buồng trứng. Ông giải thích với bệnh nhân rằng chưa từng có ai cố gắng cắt bỏ một khối u như vậy và rằng hầu hết các bác sĩ sẽ coi thủ thuật này là một việc bất khả thi.
Tuy nhiên, Crawford chẳng có gì để mất vào thời điểm đó, vì vậy cô để cho McDowell tiến hành phẫu thuật. Người phụ nữ này đã phải chịu đựng một ca mổ kéo dài 25 phút mà không gây mê, trong đó bác sĩ đã lấy ra một khối u nặng 10kg. Mặc dù tiên lượng rất bi quan, song bệnh nhân đã hồi phục hoàn toàn trong vòng chưa đầy một tháng và sống thêm được 32 năm nữa. McDowell đã đi vào lịch sử y học với tên gọi “cha đẻ của phẫu thuật cắt khối u buồng trứng “, mặc dù không phải ngay lúc đó vì mãi 8 năm sau ông mới viết về ca mổ này.
Richard Lower - ca truyền máu đầu tiên
Năm 1665, Lower thực hiện ca truyền máu thành công đầu tiên trên động vật. Ông đã lấy máu từ một con chó và truyền vào một con chó khác. Tiếp nối thành công ấy, ông chuyển sang người. Năm 1667, một con cừu được dùng để lấy máu, trong khi một người tình nguyện có tên là Arthur Coga trở thành người đầu tiên được truyền máu và đã được trả 20 shilling cho việc làm này.
Coga được truyền khoảng 270- 300ml máu cừu và thủ thuật mang tính bước ngoặt này được công bố trên tạp chí Philosophical Transactions. Tuy nhiên, dư luận không hề để tâm đến sự kiện này. Ngược lại, Lower và Hội Hoàng gia còn bị chế nhạo và bị gọi là những nhà khoa học điên. Một vở kịch mang tên The Virtuoso do Thomas Shadwell là tác giả thậm chí còn châm biếm ca truyền máu cừu cho người này.
Coga bị bệnh tâm thần nhẹ và Lower đã nghĩ sai rằng truyền máu sẽ chữa được bệnh tâm thần cho người này. Khi điều đó không xảy ra, người ta quên luôn ý tưởng đó và phải mất một thế kỷ sau việc truyền máu mới được xem xét nghiêm túc trở lại.
Jean Civiale - phẫu thuật ít xâm lấn đầu tiên
Đi tiểu ra sỏi thận bị xem là một trong những trải nghiệm đau đớn nhất mà bạn có thể chịu đựng, một số phụ nữ thậm chí còn xếp nó trên cả đau đẻ. Mỗi năm chỉ riêng ở Mỹ có hơn một triệu người phải đối phó với bệnh sỏi thận. Rất may, chúng ta không làm điều đó theo cách cũ nữa. Ngày nay, chúng ta sử dụng một thủ thuật ít xâm lấn được gọi là tán sỏi, trong đó sử dụng những kỹ thuật khác nhau để nghiền nát viên sỏi.
Trước thế kỷ 19, phẫu thuật để điều trị sỏi thận là mổ lấy sỏi, bao gồm rạch ổ bụng và lấy toàn bộ viên sỏi ra. Cách làm này không chỉ cực kỳ đau mà tỷ lệ tử vong rất cao. Nhưng đó là trước thời của bác sĩ người Pháp Jean Civiale với phát minh của mình - phương pháp tán sỏi mà ông sử dụng để thực hiện phẫu thuật xâm lấn tối thiểu đầu tiên trên thế giới. Với công cụ này, Civiale có thể nghiền nát viên sỏi trước khi đưa nó ra qua đường niệu đạo.
Civiale, một nhà tiên phong về tiết niệu và là người sáng lập của trung tâm tiết niệu đầu tiên trên thế giới tại Bệnh viện Necker ở Paris đã chứng minh rằng phương pháp của ông hiệu quả hơn nhiều so với việc mổ lấy sỏi. Trong khi kỹ thuật truyền thống có tỷ lệ tử vong trên 18% thì tỷ lệ tử vong của tán sỏi chỉ dao động quanh mức 2%.
Ông đã làm điều này thông qua một nghiên cứu phong phú và toàn diện được chứng nhận bởi Viện Hàn lâm khoa học Paris, một kỳ công đáng chú ý của y học thực chứng vẫn có ảnh hưởng mạnh mẽ cho đến tận ngày nay.
George Hayward - ca mổ cắt chi đầu tiên có gây mê
Ngay sau khi William Morton giới thiệu ete gây mê năm 1846 với ống hít “Letheon”, các bác sĩ đã suy nghĩ về những ứng dụng có thể có. Chắc chắn là bản thân khí này đủ mạnh cho những ca mổ nhỏ, nhưng liệu có thể sử dụng cho những trường hợp đại phẫu?
Quá trình phần nào bị chậm trễ do Morton không muốn tiết lộ ete là thành phần chính của ống hít. Các bác sĩ muốn sử dụng thứ thuốc của ông nhưng cũng thận trọng khi sử dụng một loại thuốc chưa được biết rõ trên bệnh nhân của mình do lo ngại về tác dụng phụ. Morton đề nghị cung cấp Letheon miễn phí cho các bệnh viện Boston, nhưng giới bác sĩ vẫn kiên trì quan điểm và yêu cầu được biết công thức sử dụng cho loại ống hít này. Cuối cùng, Morton đành thừa nhận đã sử dụng ether sulfuric.
Bấy giờ khi vấn đề đã được giải quyết, gây mê có thể được sử dụng trong một thủ thuật y học tham vọng hơn nhiều - phẫu thuật cắt bỏ chi. Nhiệm vụ này được thực hiện bởi BS. George Hayward. Bệnh nhân là một cô hầu gái 21 tuổi tên là Alice Mohan cần phải cắt bỏ chân do bệnh lao. Giống như trước, Morton dùng khí gây mê cho đến khi bệnh nhân ngủ thiếp đi. Hayward kiểm tra phản ứng của cô gái bằng cách dùng một chiếc kim đâm vào Alice. Khi thấy cô không phản ứng, ông nhanh chóng tiến hành ca mổ.
Sau đó, Alice tỉnh dậy và không hề biết mình vừa chìm vào giấc ngủ. Khi cô nói đã sẵn sàng để bắt đầu, Hayward cúi xuống nhặt cái chân lên và cho cô gái xem thứ đã từng thuộc về cô.
BS. Cẩm Tú
GIỚI THIỆU LỊCH SỬ Y HỌC CỔ TRUYỀN VIỆT NAM
1. THỜI CỔ ĐẠI (TỪ ĐẦU THẾ KỶ I – THẾ KỶ III SAU CNT)
Chỉ được ghi nhận dưới hình thức kinh nghiệm và có lẽ do sống trong khu vực nhiệt đới gió mùa, dễ mắc các bệnh sốt rét, bệnh thời khí và bệnh nhiễm trùng đường ruột nên ngưòi Việt cổ có nhiều kinh nghiệm trong việc sử dụng thuốc dưới dạng các thức ăn uống và trong sinh hoạt như: trầu, cau, gừng, hành, tỏi, ớt, riềng, ý dĩ, vôi, chè xanh, chè vằng và biết phòng sâu răng bằng tập tục nhuộm răng đen.
2. THỜI TRUNG ĐẠI (THẾ KỶ III – THẾ KỶ XVII SAU CN)
Dân tộc Việt Nam bước vào thời kỳ Trung đại dưới nền đô hộ của các triều đại Hán – Nguỵ – Tấn – Tống – Tề – Lương – Tuỳ – Đường (179 tr. CN – 938 sau CN). Dưới ách đô hộ này, có lẽ ngưòi Việt Nam thuộc tầng lớp trên đã được giới thiệu một nền y học kinh điển thông qua các thầy thuốc đến từ Trung Quốc như Đổng Phụng (187 – 226), Lâm Thắng (479 – 501).
Trong giai đoạn này, một số dược liệu của Việt Nam đã được ghi vào Dược điển của Trung Quốc như:
- Ý dĩ, Sắn dây (Danh Y biệt lục).
- Đậu khấu (Hải Nam bản thảo – đòi Đưòng).
- Sử quân tử (Bản thảo khai bảo – đòi Tống).
- Sả (Bản thảo thập di).
- Trầu, Cau (Tô cung bản thảo).
- Hương bài, Kho qua, Bí ngô, Lưòi ươi (Bản thảo cương mục).
2.1 Thời nhà Ngô – Đinh – Lê – Lý (938 – 1224)
Nền y học Việt Nam, ngoài tính chất kinh nghiệm còn mang thêm tính chất tôn giáo do Đạo giáo và Phật giáo phát triển mạnh mẽ dưới các triều đại này. Điển hình là năm 1136, thầy thuốc Nguyễn Minh Không chữa bệnh điên cho vua Lý Thần Tông bằng bùa chú.
2.2. Thời nhà Trần – Hổ – Hậu Lê (1225 – 1788)
Từ thời nhà Trần trở đi, Nho giáo phát triển mạnh, trong đó có Chu Văn An và Trương Hán Siêu là hai ngưòi khởi xướng phong trào chống mê tín dị đoan trong cả nước và chính lúc ấy nền y học Việt Nam mới có điều kiện vươn lên.
Song cũng vì sự gắn bó quá chặt chẽ về mặt văn hoá tư tưởng với Trung Quốc nên nền y học Việt Nam cũng chỉ phát triển trên nền tảng lý luận Trung y. Do đó, trong suốt thời kỳ này các danh nhân y học Việt Nam cũng chỉ để lại cho hậu thế những trước tác như:
- Châm cứu tiệp hiệu diễn ca của Nguyễn Đại Năng (đời nhà Hồ) trong đó có bổ sung thêm huyệt Nhũ ảnh, Bôi lam chữa sốt rét; Trực cốt chữa hư lao; Quân dần, Phục nguyên chữa động kinh.
- Bảo anh lương phương của Nguyễn Trực (1455) với kinh nghiệm chữa sởi và đậu mùa.
- Y học yếu giải tập chú di biên của Chu Doãn Văn (1466) bàn về thuỷ hoả và ngoại cảm.
- Nhãn khoa yếu lược của Lê Đức Vọng (đòi Lê) bàn về phép chữa các chứng đau mắt, đặc biệt là đau mắt hột và lông quặm.
- Bảo sinh diên thọ toản yếu của Đào Công Chính (1676) bàn về các phương pháp vệ sinh the chất và tâm thần.
- Tạ Thị chuẩn đích y ước của Tạ Chất Phác (đòi Lê) bàn về cách sử dụng các phương thuốc chữa bệnh Nội – Nhi – Sản.
Đặc biệt dưới thời nhà Trần, trong lúc triều đình và giới quan lại quyền quý sính dùng thuốc Bắc thì một thầy thuốc là Tuệ Tĩnh với tinh thần độc lập tự chủ đã đề xướng lên quan điểm “Nam dược trị Nam nhân” qua tác phẩm Nam dược thần hiệu (được bổ sung và in lại năm 1761).
Tuy nhiên, phải đến thời Hậu Lê, thì toàn bộ những lý luận, học thuật của Trung Quốc và Việt Nam mới được tong kết ở mức độ uyên thâm nhất qua tác phẩm Hải Thượng Y Tôn Tâm lĩnh của Lê Hữu Trác (1720 – 1791).
Trong các triều đại trước, nhà cầm quyền chỉ quan tâm đến việc phục vụ sức khoẻ cho vua, quan và quân đội, còn việc chăm lo sức khoẻ của nhân dân lao động thì mặc cho tư nhân hoặc các tổ chức tôn giáo phụ trách. Chỉ đến thời nhà Hồ (1400 — 1406), Hồ Hán Thương mới lập Quảng Tế Thự để chữa bệnh cho dân và giao cho thầy thuốc Nguyễn Đại Năng phụ trách.
Đặc biệt, dưới thời nhà Lê (1261) ngoài việc lập ra Y học huấn khoa để đào tạo thầy thuốc, chính quyền còn ban hành bộ luật Hồng Đức với những qui định về Y đức (điều 541), về quản lý vệ sinh thực phẩm (điều 420) và công tác Pháp y trong bộ sách “Nhân thân kiếm tra nghiệm pháp”.
2.3. Thời Lê Mạc – thời Tây Sơn (1428 – 1802)
Ngoài tác phẩm kinh điển vĩ đại của Hải Thượng Lãn ông Lê Hữu Trác còn có thêm:
- Nam Dược của Nguyễn Hoành (Tây Sơn) giới thiệu 500 dược thảo và 130 dược liệu từ khoáng vật và động vật.
- Liệu dịch phương pháp toàn tập viết về bệnh truyền nhiễm; Hô Nhi phương pháp tổng lục viết về Nhi khoa và Lý Am phương pháp thông lục viết về Phụ khoa của Nguyễn Gia Phan (1784 – 1817).
Cũng trong giai đoạn này Việt Nam, mà cụ thể là xứ Đàng Trong đã có giao lưu kinh tế với các nước trong vùng Đông Nam Á và qua đó chúng ta đã trao đổi Thổ nhân sâm, Ngưu tất, Phục linh, Xuyên sơn giáp, Quy bản, Thuyền thoái để nhập Trầm hương, Kỳ nam, Sừng tê giác.
3. THỜI CẬN ĐẠI (THẾ kỷ XVII – thế kỷ XX SAU CN)
3.1. Thời Nguyễn (1802 – 1884)
Quản lý y tế về mặt nhà nước không có gì khác so với thời Lê, về mặt học thuật của ygia Việt Nam vẫn tiếp tục công việc biên tập, trước tác, trong đó có học tập ít nhiều kinh nghiệm của y gia Trung Quốc, cụ thể:
- Xuân Đình y án kinh trị chủ chứng chuyên về bệnh ôn dịch và thời khí của Lê Kinh Hạp.
- Thạch nha kính bàn về phép xem lưỡi của Dương Khải.
3.2. Thời Pháp thuộc (1884 – 1945)
Y học cổ truyền Việt Nam bước vào thế kỷ XX, khi mà triều đình nhà Nguyễn đã ký hiệp ước HARMAND (25/08/1883) biến Việt Nam thành một nước thuộc địa.
Từ năm 1894 – 1906, các Ty lương y đều lần lượt bị giải tán để thay thế” bằng bệnh viện hoặc bệnh xá dưới quyền lãnh đạo của thanh tra y tế Đông Dương.
Năm 1920, nhà cầm quyền Pháp hạn chế số ngưòi hành nghề Đông y ở Nam bộ không được quá 500 người.
Năm 1943 lại ký nghị định bổ sung nhằm hạn chế hành nghề của giới Đông y bằng cách không cho sử dụng những dược liệu có hoạt tính mạnh như Phụ tử, Ba đậu chế…
Trong hoàn cảnh khó khăn đó, Hội Y học Trung kỳ (thành lập 14/09/1936) đã mở lớp huấn luyện đào tạo lương y, cùng với Hội Việt Nam Y Dược học ở Bắc kỳ và Hội Y học ở Nam kỳ hợp lực đoàn kết y giới Việt Nam để chấn hưng y học cổ truyền dân tộc và đấu tranh chống chủ trương đàn áp y học cổ truyền của thực dân Pháp.
Trong giai đoạn này, ngoài những tác phẩm y học biên soạn bằng chữ Hán Nôm như:
- Vệ sinh yếu chỉ (1901) của Bùi Văn Trung ở Nam Định.
- Bí truyền tập yếu (1906) của Lê Tư Thúy ở Hà Nam.
- Y thư lược sao (1906) của Vũ Đình Phu.
- Tứ duy tập (1910) của Đỗ Thế” Hồ.
- Trung Việt Dược tính hợp biên gồm 1500 vị thuốc của Đinh Nho Chấn.
Còn có những tài liệu y học viết bằng chữ Quốc ngữ:
- Việt Nam Dược học của Phó Đức Thành.
- Nam Dược bộ của Nguyễn An Cư.
- Y học tùng thư của Nguyễn An Nhân.
Đã góp phần phổ cập và bảo tồn nền y dược cổ truyền trong nhân dân.
2.3. Thời Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đến nay (1945 – nay)
Cách mạng bùng lên, rồi trường kỳ kháng chiến. Ban nghiên cứu Đông y dược được thành lập ở các Bộ, Sở y tế thuộc Liên khu đã góp phần giải quyết thương tật cho bộ đội và bệnh tật của nhân dân.
Kháng chiến thành công, dưới chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, ngày 12/04/1956 Bộ Y tế ra quyết định thành lập Phòng Đông y trong Vụ Chữa bệnh để chuyên trách nghiên cứu về Đông y. Ngày 03/06/1957, Hội Đông y Việt Nam được thành lập với mục đích đoàn kết các người hành nghề và nghiên cứu Đông y – Đông dược. Ngày 17/06/1957 Viện Nghiên cứu Đông y được thành lập.
Hơn ai hết, Hồ Chủ tịch là người quan tâm đến vấn đề kết hợp y học hiện đại (YHHĐ) và y học cổ truyền (YHCT) dân tộc để xây dựng nền y học Việt Nam. Trong bức thư gửi cho Hội nghị Ngành Y tế ngày 27/02/1955 Người viết: “Trong những năm bị nô lệ thì y học của ta cũng như các ngành khác bị kìm hãm. Nay chúng ta đã độc lập tự do, cán bộ cần giúp đồng bào, giúp Chính phủ xây dựng một nền y tế thích hợp với nhu cầu chữa bệnh của nhân dân ta. Y học cũng phải dựa trên nguyên tắc khoa học dân tộc và đại chúng”.
Cũng trong thư Người lại chỉ rõ: “Ông cha ta ngày trước có nhiều kinh nghiệm quý báu về cách chữa bệnh bằng thuốc ta, thuốc Bắc. Để mở rộng phạm vi y học, các cô, các chú cũng nên chú trọng nghiên cứu phối hợp thuốc Đông và thuốc Tây”.
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ III năm 1960, lần thứ IV năm 1976, lần thứ V năm 1982 đã vạch ra:
- Kết hợp giữa YHHĐ và YHCT để xây dựng nền y học Việt Nam căn cứ vào nghị quyết của Đại hội Đảng, Thủ tướng Chính phủ cũng đã ra nhiều chỉ thị hướng dẫn ngành y tế thực hiện các nghị quyết của Đại hội Đảng, đặc biệt là năm 1980 Hiến pháp của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã xác định kết hợp YHHĐ và YHCT là nội dung cơ bản để xây dựng nền YHHĐ Việt Nam. Bộ Y tế cũng đã ra nhiều thông tư hướng dẫn cụ thể việc thực hiện nghị quyết Đại hội Đảng, nghị quyết của Hội đồng Chính phủ.
- Hơn 50 năm kiên trì thực hiện đưòng lối của Đảng và Nhà nước, ngành y tế đã đạt được nhiều thành tích xây dựng nền y học Việt Nam kết hợp YHHĐ và YHCT của dân tộc trên nhiều mặt: Quan điểm xây dựng ngành, đào tạo cán bộ, nghiên cứu y học về chữa bệnh và thuốc, biên soạn các tài liệu pho cập và chuyên sâu về YHCT dân tộc.
Kể từ sau ngày Miền Nam được giải phóng, cả 5 trường Đại học Y trong cả nước và Học viện Quân y đều có Bộ môn Y học co truyền trong đó có Bộ môn YHCT – Trưòng Đại Học Y Hà Nội (1961) và Bộ môn YHCT – Trưòng Đại Học Y dược Thành phố Hồ Chí Minh (1976)
Trong giai đoạn YHCT khởi sắc, để phục vụ cho công tác đào tạo theo chủ trương:
“ Phát triển và hoàn thiện hệ thống bảo vệ sức khỏe nhân dân trên cơ sở kết hợp y học, dược học hiện đại với y dược học cổ truyền”
Có thể kể ra sau đây một số tác phẩm tiêu biểu như:
Về mặt thừa kế:
- Bản dịch: Nam dược thần hiệu – Hồng Nghĩa giác tư y thư – Thập tam phương gia giảm – Hải Thượng y tôn tâm lĩnh – Châm cứu tiệp hiệp diễn ca – Hoạt nhân toát yếu – Hải Thượng huyền thu.
- Thân thế và sự nghiệp của Hải Thượng lãn ông – Tuệ Tĩnh và nền Y học cổ truyền Việt Nam (1975) – Lược sử thuốc Nam và Dược học Tuệ Tĩnh (1990) do Lê Trần Đức biên soạn.
Về mặt huấn luyện:
- Những bài giảng của phòng huấn luyện Viện Y học cổ truyền, của các Bộ môn YHCT thuộc trưòng Đại học Y Hà Nội và Học viện Quân y.
- Châm cứu đơn giản (1960) của Lê Khánh Đồng.
- Phương pháp bào chế Đông dược (1965) của Viện Đông y.
- Dược điển Việt Nam (phần Đông dược) 1983 của Bộ Y tế.
- Châm cứu học của Viện Đông y (1978).
Về mặt tham khảo – nghiên cứu:
- Bản dịch Nội kinh (1953), Tử Siêu y thoại (1968) của Nguyễn Trọng Thoát.
- Thuốc Nam châm cứu (1960) của Viện Đông y.
- 450 cây thuốc (1962) của Phó Đức Thành.
- Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam (1965) của Đỗ Tất Lợi.
- Tính kháng khuẩn của cây thuốc Việt Nam (1971) của Nguyễn Đức Minh.
- Hướng dẫn chế” biến và bào chế” thuốc Nam (1972) của Nguyễn Đức Đoàn, Nguyễn Thúy Anh
- Phương pháp dưỡng sinh (1975) của Nguyễn Văn Hưởng.
- Cao đơn hoàn tán (1976) của Hội đồng Đông y.
- Hướng dẫn trồng và sử dụng thuốc Nam, châm cứu (1977) của Vụ Dược chính.
- Khí công (1978) của Hoàng Bảo Châu.
- Xoa bóp dân tộc (1982) của Hoàng Bảo Châu — Trần Quốc Bảo.
- Trồng hái và dùng cây thuốc của Lê Trần Đức (1983 – 1988).
- Bản dịch Nạn kinh (1988) của Đinh Văn Mông.
- Thuyết Thủy Hỏa (1988) của Phó Đức Thành.
- Bản dịch châm tê của Hoàng Bảo Châu.
- Tóm tắt Thương hàn ôn bệnh của Nguyễn Trung Hoà.
- Châm tê của Nguyễn Tài Thu – Trần Quang Đạt – Hoàng Bảo Châu.
- Nhi khoa Đông y của Trần Văn Kỳ.
- Dược lý trị liệu thuốc Nam của Bùi Chí Hiếu.
- Phụ khoa cổ truyền của Nguyễn Ngọc Lâm – Hoàng Bảo Châu.
- Nhĩ châm, Thủy châm, Mai hoa châm của Nguyễn Xuân Quang – Nguyễn Tài Thu.
Về nghiên cứu y học, dược học phổ cập các phương pháp chữa bệnh YHCT:
- Đã bước đầu nghiên cứu về lịch sử nền YHCT của dân tộc, phát hiện được 157 vị danh y có trước tác y học, sưu tầm 562 bộ sách thuốc.
- Đã tổng kết bằng các phương pháp YHHĐ việc chữa có hiệu quả các bệnh thông thưòng hay gặp trong nhân dân và một số bệnh khó chữa, mạn tính như hen phế quản, bệnh về khớp, bệnh tắc động mạch vết thương phần mềm nhiễm khuẩn, gãy xương…
- Đã nghiên cứu xác định tác dụng dược lý, thành phần hóa học của nhiều vị thuốc có trong nước; đã tổ chức di thực được nhiều vị thuốc xưa nay phải nhập …; chứng minh nguồn dược liệu phong phú ở nước ta có nhiều khả năng trồng trọt, khai thác phục vụ cho chữa bệnh và xuất khẩu.
Về chữa bệnh:
- Mạng lưới y tế từ trung ương đến các cơ sở đều có những tổ, khoa, phòng chuyên chữa bệnh bằng các phương pháp y học dân tộc.
- Ngoài những cơ sở y tế của Nhà nước còn có hàng trăm phòng chẩn trị khắp trong toàn quốc chữa bệnh bằng các phương pháp YHCT. Hàng năm, hàng triệu lượt ngưòi bệnh được chữa bệnh ở các cơ sở phòng chẩn trị, góp phần rất tích cực vào công cuộc phục hồi sức khỏe cho cán bộ, chiến sĩ và nhân dân ta.
Về công tác sản xuất dược liệu:
- Trên cơ sở nghiên cứu khoa học đã tổ chức thu hái và trồng trọt sản xuất dược liệu, cải tiến dạng bào chế” theo phương pháp công nghiệp nên đã đảm bảo một phần cho nhu cầu chữa bệnh và xuất khẩu. Đặc biệt từ năm 1973 trở lại đây, phong trào trồng và sử dụng thuốc Nam tại các xã, các huyện có nhiều triển vọng đóng góp tích cực vào việc cần kiệm xây dựng đất nước, tự túc một phần thuốc chữa bệnh thông thường.
1. THỜI CỔ ĐẠI (TỪ ĐẦU THẾ KỶ I – THẾ KỶ III SAU CNT)
Chỉ được ghi nhận dưới hình thức kinh nghiệm và có lẽ do sống trong khu vực nhiệt đới gió mùa, dễ mắc các bệnh sốt rét, bệnh thời khí và bệnh nhiễm trùng đường ruột nên ngưòi Việt cổ có nhiều kinh nghiệm trong việc sử dụng thuốc dưới dạng các thức ăn uống và trong sinh hoạt như: trầu, cau, gừng, hành, tỏi, ớt, riềng, ý dĩ, vôi, chè xanh, chè vằng và biết phòng sâu răng bằng tập tục nhuộm răng đen.
2. THỜI TRUNG ĐẠI (THẾ KỶ III – THẾ KỶ XVII SAU CN)
Dân tộc Việt Nam bước vào thời kỳ Trung đại dưới nền đô hộ của các triều đại Hán – Nguỵ – Tấn – Tống – Tề – Lương – Tuỳ – Đường (179 tr. CN – 938 sau CN). Dưới ách đô hộ này, có lẽ ngưòi Việt Nam thuộc tầng lớp trên đã được giới thiệu một nền y học kinh điển thông qua các thầy thuốc đến từ Trung Quốc như Đổng Phụng (187 – 226), Lâm Thắng (479 – 501).
Trong giai đoạn này, một số dược liệu của Việt Nam đã được ghi vào Dược điển của Trung Quốc như:
- Ý dĩ, Sắn dây (Danh Y biệt lục).
- Đậu khấu (Hải Nam bản thảo – đòi Đưòng).
- Sử quân tử (Bản thảo khai bảo – đòi Tống).
- Sả (Bản thảo thập di).
- Trầu, Cau (Tô cung bản thảo).
- Hương bài, Kho qua, Bí ngô, Lưòi ươi (Bản thảo cương mục).
2.1 Thời nhà Ngô – Đinh – Lê – Lý (938 – 1224)
Nền y học Việt Nam, ngoài tính chất kinh nghiệm còn mang thêm tính chất tôn giáo do Đạo giáo và Phật giáo phát triển mạnh mẽ dưới các triều đại này. Điển hình là năm 1136, thầy thuốc Nguyễn Minh Không chữa bệnh điên cho vua Lý Thần Tông bằng bùa chú.
2.2. Thời nhà Trần – Hổ – Hậu Lê (1225 – 1788)
Từ thời nhà Trần trở đi, Nho giáo phát triển mạnh, trong đó có Chu Văn An và Trương Hán Siêu là hai ngưòi khởi xướng phong trào chống mê tín dị đoan trong cả nước và chính lúc ấy nền y học Việt Nam mới có điều kiện vươn lên.
Song cũng vì sự gắn bó quá chặt chẽ về mặt văn hoá tư tưởng với Trung Quốc nên nền y học Việt Nam cũng chỉ phát triển trên nền tảng lý luận Trung y. Do đó, trong suốt thời kỳ này các danh nhân y học Việt Nam cũng chỉ để lại cho hậu thế những trước tác như:
- Châm cứu tiệp hiệu diễn ca của Nguyễn Đại Năng (đời nhà Hồ) trong đó có bổ sung thêm huyệt Nhũ ảnh, Bôi lam chữa sốt rét; Trực cốt chữa hư lao; Quân dần, Phục nguyên chữa động kinh.
- Bảo anh lương phương của Nguyễn Trực (1455) với kinh nghiệm chữa sởi và đậu mùa.
- Y học yếu giải tập chú di biên của Chu Doãn Văn (1466) bàn về thuỷ hoả và ngoại cảm.
- Nhãn khoa yếu lược của Lê Đức Vọng (đòi Lê) bàn về phép chữa các chứng đau mắt, đặc biệt là đau mắt hột và lông quặm.
- Bảo sinh diên thọ toản yếu của Đào Công Chính (1676) bàn về các phương pháp vệ sinh the chất và tâm thần.
- Tạ Thị chuẩn đích y ước của Tạ Chất Phác (đòi Lê) bàn về cách sử dụng các phương thuốc chữa bệnh Nội – Nhi – Sản.
Đặc biệt dưới thời nhà Trần, trong lúc triều đình và giới quan lại quyền quý sính dùng thuốc Bắc thì một thầy thuốc là Tuệ Tĩnh với tinh thần độc lập tự chủ đã đề xướng lên quan điểm “Nam dược trị Nam nhân” qua tác phẩm Nam dược thần hiệu (được bổ sung và in lại năm 1761).
Tuy nhiên, phải đến thời Hậu Lê, thì toàn bộ những lý luận, học thuật của Trung Quốc và Việt Nam mới được tong kết ở mức độ uyên thâm nhất qua tác phẩm Hải Thượng Y Tôn Tâm lĩnh của Lê Hữu Trác (1720 – 1791).
Trong các triều đại trước, nhà cầm quyền chỉ quan tâm đến việc phục vụ sức khoẻ cho vua, quan và quân đội, còn việc chăm lo sức khoẻ của nhân dân lao động thì mặc cho tư nhân hoặc các tổ chức tôn giáo phụ trách. Chỉ đến thời nhà Hồ (1400 — 1406), Hồ Hán Thương mới lập Quảng Tế Thự để chữa bệnh cho dân và giao cho thầy thuốc Nguyễn Đại Năng phụ trách.
Đặc biệt, dưới thời nhà Lê (1261) ngoài việc lập ra Y học huấn khoa để đào tạo thầy thuốc, chính quyền còn ban hành bộ luật Hồng Đức với những qui định về Y đức (điều 541), về quản lý vệ sinh thực phẩm (điều 420) và công tác Pháp y trong bộ sách “Nhân thân kiếm tra nghiệm pháp”.
2.3. Thời Lê Mạc – thời Tây Sơn (1428 – 1802)
Ngoài tác phẩm kinh điển vĩ đại của Hải Thượng Lãn ông Lê Hữu Trác còn có thêm:
- Nam Dược của Nguyễn Hoành (Tây Sơn) giới thiệu 500 dược thảo và 130 dược liệu từ khoáng vật và động vật.
- Liệu dịch phương pháp toàn tập viết về bệnh truyền nhiễm; Hô Nhi phương pháp tổng lục viết về Nhi khoa và Lý Am phương pháp thông lục viết về Phụ khoa của Nguyễn Gia Phan (1784 – 1817).
Cũng trong giai đoạn này Việt Nam, mà cụ thể là xứ Đàng Trong đã có giao lưu kinh tế với các nước trong vùng Đông Nam Á và qua đó chúng ta đã trao đổi Thổ nhân sâm, Ngưu tất, Phục linh, Xuyên sơn giáp, Quy bản, Thuyền thoái để nhập Trầm hương, Kỳ nam, Sừng tê giác.
3. THỜI CẬN ĐẠI (THẾ kỷ XVII – thế kỷ XX SAU CN)
3.1. Thời Nguyễn (1802 – 1884)
Quản lý y tế về mặt nhà nước không có gì khác so với thời Lê, về mặt học thuật của ygia Việt Nam vẫn tiếp tục công việc biên tập, trước tác, trong đó có học tập ít nhiều kinh nghiệm của y gia Trung Quốc, cụ thể:
- Xuân Đình y án kinh trị chủ chứng chuyên về bệnh ôn dịch và thời khí của Lê Kinh Hạp.
- Thạch nha kính bàn về phép xem lưỡi của Dương Khải.
3.2. Thời Pháp thuộc (1884 – 1945)
Y học cổ truyền Việt Nam bước vào thế kỷ XX, khi mà triều đình nhà Nguyễn đã ký hiệp ước HARMAND (25/08/1883) biến Việt Nam thành một nước thuộc địa.
Từ năm 1894 – 1906, các Ty lương y đều lần lượt bị giải tán để thay thế” bằng bệnh viện hoặc bệnh xá dưới quyền lãnh đạo của thanh tra y tế Đông Dương.
Năm 1920, nhà cầm quyền Pháp hạn chế số ngưòi hành nghề Đông y ở Nam bộ không được quá 500 người.
Năm 1943 lại ký nghị định bổ sung nhằm hạn chế hành nghề của giới Đông y bằng cách không cho sử dụng những dược liệu có hoạt tính mạnh như Phụ tử, Ba đậu chế…
Trong hoàn cảnh khó khăn đó, Hội Y học Trung kỳ (thành lập 14/09/1936) đã mở lớp huấn luyện đào tạo lương y, cùng với Hội Việt Nam Y Dược học ở Bắc kỳ và Hội Y học ở Nam kỳ hợp lực đoàn kết y giới Việt Nam để chấn hưng y học cổ truyền dân tộc và đấu tranh chống chủ trương đàn áp y học cổ truyền của thực dân Pháp.
Trong giai đoạn này, ngoài những tác phẩm y học biên soạn bằng chữ Hán Nôm như:
- Vệ sinh yếu chỉ (1901) của Bùi Văn Trung ở Nam Định.
- Bí truyền tập yếu (1906) của Lê Tư Thúy ở Hà Nam.
- Y thư lược sao (1906) của Vũ Đình Phu.
- Tứ duy tập (1910) của Đỗ Thế” Hồ.
- Trung Việt Dược tính hợp biên gồm 1500 vị thuốc của Đinh Nho Chấn.
Còn có những tài liệu y học viết bằng chữ Quốc ngữ:
- Việt Nam Dược học của Phó Đức Thành.
- Nam Dược bộ của Nguyễn An Cư.
- Y học tùng thư của Nguyễn An Nhân.
Đã góp phần phổ cập và bảo tồn nền y dược cổ truyền trong nhân dân.
2.3. Thời Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đến nay (1945 – nay)
Cách mạng bùng lên, rồi trường kỳ kháng chiến. Ban nghiên cứu Đông y dược được thành lập ở các Bộ, Sở y tế thuộc Liên khu đã góp phần giải quyết thương tật cho bộ đội và bệnh tật của nhân dân.
Kháng chiến thành công, dưới chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, ngày 12/04/1956 Bộ Y tế ra quyết định thành lập Phòng Đông y trong Vụ Chữa bệnh để chuyên trách nghiên cứu về Đông y. Ngày 03/06/1957, Hội Đông y Việt Nam được thành lập với mục đích đoàn kết các người hành nghề và nghiên cứu Đông y – Đông dược. Ngày 17/06/1957 Viện Nghiên cứu Đông y được thành lập.
Hơn ai hết, Hồ Chủ tịch là người quan tâm đến vấn đề kết hợp y học hiện đại (YHHĐ) và y học cổ truyền (YHCT) dân tộc để xây dựng nền y học Việt Nam. Trong bức thư gửi cho Hội nghị Ngành Y tế ngày 27/02/1955 Người viết: “Trong những năm bị nô lệ thì y học của ta cũng như các ngành khác bị kìm hãm. Nay chúng ta đã độc lập tự do, cán bộ cần giúp đồng bào, giúp Chính phủ xây dựng một nền y tế thích hợp với nhu cầu chữa bệnh của nhân dân ta. Y học cũng phải dựa trên nguyên tắc khoa học dân tộc và đại chúng”.
Cũng trong thư Người lại chỉ rõ: “Ông cha ta ngày trước có nhiều kinh nghiệm quý báu về cách chữa bệnh bằng thuốc ta, thuốc Bắc. Để mở rộng phạm vi y học, các cô, các chú cũng nên chú trọng nghiên cứu phối hợp thuốc Đông và thuốc Tây”.
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ III năm 1960, lần thứ IV năm 1976, lần thứ V năm 1982 đã vạch ra:
- Kết hợp giữa YHHĐ và YHCT để xây dựng nền y học Việt Nam căn cứ vào nghị quyết của Đại hội Đảng, Thủ tướng Chính phủ cũng đã ra nhiều chỉ thị hướng dẫn ngành y tế thực hiện các nghị quyết của Đại hội Đảng, đặc biệt là năm 1980 Hiến pháp của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã xác định kết hợp YHHĐ và YHCT là nội dung cơ bản để xây dựng nền YHHĐ Việt Nam. Bộ Y tế cũng đã ra nhiều thông tư hướng dẫn cụ thể việc thực hiện nghị quyết Đại hội Đảng, nghị quyết của Hội đồng Chính phủ.
- Hơn 50 năm kiên trì thực hiện đưòng lối của Đảng và Nhà nước, ngành y tế đã đạt được nhiều thành tích xây dựng nền y học Việt Nam kết hợp YHHĐ và YHCT của dân tộc trên nhiều mặt: Quan điểm xây dựng ngành, đào tạo cán bộ, nghiên cứu y học về chữa bệnh và thuốc, biên soạn các tài liệu pho cập và chuyên sâu về YHCT dân tộc.
Kể từ sau ngày Miền Nam được giải phóng, cả 5 trường Đại học Y trong cả nước và Học viện Quân y đều có Bộ môn Y học co truyền trong đó có Bộ môn YHCT – Trưòng Đại Học Y Hà Nội (1961) và Bộ môn YHCT – Trưòng Đại Học Y dược Thành phố Hồ Chí Minh (1976)
Trong giai đoạn YHCT khởi sắc, để phục vụ cho công tác đào tạo theo chủ trương:
“ Phát triển và hoàn thiện hệ thống bảo vệ sức khỏe nhân dân trên cơ sở kết hợp y học, dược học hiện đại với y dược học cổ truyền”
Có thể kể ra sau đây một số tác phẩm tiêu biểu như:
Về mặt thừa kế:
- Bản dịch: Nam dược thần hiệu – Hồng Nghĩa giác tư y thư – Thập tam phương gia giảm – Hải Thượng y tôn tâm lĩnh – Châm cứu tiệp hiệp diễn ca – Hoạt nhân toát yếu – Hải Thượng huyền thu.
- Thân thế và sự nghiệp của Hải Thượng lãn ông – Tuệ Tĩnh và nền Y học cổ truyền Việt Nam (1975) – Lược sử thuốc Nam và Dược học Tuệ Tĩnh (1990) do Lê Trần Đức biên soạn.
Về mặt huấn luyện:
- Những bài giảng của phòng huấn luyện Viện Y học cổ truyền, của các Bộ môn YHCT thuộc trưòng Đại học Y Hà Nội và Học viện Quân y.
- Châm cứu đơn giản (1960) của Lê Khánh Đồng.
- Phương pháp bào chế Đông dược (1965) của Viện Đông y.
- Dược điển Việt Nam (phần Đông dược) 1983 của Bộ Y tế.
- Châm cứu học của Viện Đông y (1978).
Về mặt tham khảo – nghiên cứu:
- Bản dịch Nội kinh (1953), Tử Siêu y thoại (1968) của Nguyễn Trọng Thoát.
- Thuốc Nam châm cứu (1960) của Viện Đông y.
- 450 cây thuốc (1962) của Phó Đức Thành.
- Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam (1965) của Đỗ Tất Lợi.
- Tính kháng khuẩn của cây thuốc Việt Nam (1971) của Nguyễn Đức Minh.
- Hướng dẫn chế” biến và bào chế” thuốc Nam (1972) của Nguyễn Đức Đoàn, Nguyễn Thúy Anh
- Phương pháp dưỡng sinh (1975) của Nguyễn Văn Hưởng.
- Cao đơn hoàn tán (1976) của Hội đồng Đông y.
- Hướng dẫn trồng và sử dụng thuốc Nam, châm cứu (1977) của Vụ Dược chính.
- Khí công (1978) của Hoàng Bảo Châu.
- Xoa bóp dân tộc (1982) của Hoàng Bảo Châu — Trần Quốc Bảo.
- Trồng hái và dùng cây thuốc của Lê Trần Đức (1983 – 1988).
- Bản dịch Nạn kinh (1988) của Đinh Văn Mông.
- Thuyết Thủy Hỏa (1988) của Phó Đức Thành.
- Bản dịch châm tê của Hoàng Bảo Châu.
- Tóm tắt Thương hàn ôn bệnh của Nguyễn Trung Hoà.
- Châm tê của Nguyễn Tài Thu – Trần Quang Đạt – Hoàng Bảo Châu.
- Nhi khoa Đông y của Trần Văn Kỳ.
- Dược lý trị liệu thuốc Nam của Bùi Chí Hiếu.
- Phụ khoa cổ truyền của Nguyễn Ngọc Lâm – Hoàng Bảo Châu.
- Nhĩ châm, Thủy châm, Mai hoa châm của Nguyễn Xuân Quang – Nguyễn Tài Thu.
Về nghiên cứu y học, dược học phổ cập các phương pháp chữa bệnh YHCT:
- Đã bước đầu nghiên cứu về lịch sử nền YHCT của dân tộc, phát hiện được 157 vị danh y có trước tác y học, sưu tầm 562 bộ sách thuốc.
- Đã tổng kết bằng các phương pháp YHHĐ việc chữa có hiệu quả các bệnh thông thưòng hay gặp trong nhân dân và một số bệnh khó chữa, mạn tính như hen phế quản, bệnh về khớp, bệnh tắc động mạch vết thương phần mềm nhiễm khuẩn, gãy xương…
- Đã nghiên cứu xác định tác dụng dược lý, thành phần hóa học của nhiều vị thuốc có trong nước; đã tổ chức di thực được nhiều vị thuốc xưa nay phải nhập …; chứng minh nguồn dược liệu phong phú ở nước ta có nhiều khả năng trồng trọt, khai thác phục vụ cho chữa bệnh và xuất khẩu.
Về chữa bệnh:
- Mạng lưới y tế từ trung ương đến các cơ sở đều có những tổ, khoa, phòng chuyên chữa bệnh bằng các phương pháp y học dân tộc.
- Ngoài những cơ sở y tế của Nhà nước còn có hàng trăm phòng chẩn trị khắp trong toàn quốc chữa bệnh bằng các phương pháp YHCT. Hàng năm, hàng triệu lượt ngưòi bệnh được chữa bệnh ở các cơ sở phòng chẩn trị, góp phần rất tích cực vào công cuộc phục hồi sức khỏe cho cán bộ, chiến sĩ và nhân dân ta.
Về công tác sản xuất dược liệu:
- Trên cơ sở nghiên cứu khoa học đã tổ chức thu hái và trồng trọt sản xuất dược liệu, cải tiến dạng bào chế” theo phương pháp công nghiệp nên đã đảm bảo một phần cho nhu cầu chữa bệnh và xuất khẩu. Đặc biệt từ năm 1973 trở lại đây, phong trào trồng và sử dụng thuốc Nam tại các xã, các huyện có nhiều triển vọng đóng góp tích cực vào việc cần kiệm xây dựng đất nước, tự túc một phần thuốc chữa bệnh thông thường.
Sự thật bất ngờ về người phụ nữ 'bất tử' đầu tiên trong lịch sử y học
Henrietta
Lacks được mệnh danh là "người chạm đến sự sống nhân loại" khi giúp nền
y học mở ra lịch sử mới nhưng sự tồn tại của bà lại bị cả thế giới lãng
quên.
Henrietta
Lacks, một bà mẹ 31 tuổi đã chết vì ung thư cổ tử cung vào ngày 4 tháng
10 năm 1951. Có lẽ với gia đình cô đây là sự mất mát vô hạn nhưng với
nền y học thế giới, người phụ nữ da đen lại đã mở ra một cách cửa bất tận với những thành tựu không ngờ.
Sau
khi cô qua đời, các tế bào của Lacks - được lấy từ khối u ở tử cung đã
được sử dụng để chế ra vắc-xin bại liệt, hóa trị, nhân bản, sơ đồ gene
và thụ tinh nhân tạo. Không sai khi nói rằng, Lacks chính là "mẹ đẻ của
nền y học hiện đại" và những phát minh lịch sử.
Chân dung người phụ nữ da đen vĩ đại
Các
tế bào này được gọi là HeLa - sử dụng hai chữ cái đầu tiên trong tên và
họ của cô - đã trở thành dòng tế bào bất tử đầu tiên trong lịch sử. Các
nhà khoa học tại bệnh viện nơi cô qua đời trong nhiều năm trước đã cố
gắng tìm kiếm một dòng tế bào có thể sản sinh liên tục - nhưng dù có
được nuôi cấy cẩn thận đến mấy, tế bào luôn chết. Cho đến khi họ tìm
thấy HeLa. Bằng một lý do nào đó, tế bào ung thư của người phụ nữ 31
tuổi có sự tái tạo sinh sôi bất tận, đạt đến sự "bất tử" theo đúng nghĩa
đen.
Ngay sau khi xác định các tế bào HeLa thật sự
"bất tử", hàng loạt nhiên cứu và thí nghiệm trở nên khả thi hơn. Các nhà
khoa học có thể theo dõi sự phân chia tế bào ở bên ngoài cơ thế và cũng
có thể nghiên cứu cơ chế tấn công tế bào của các loại virus gây bệnh.
Nếu
như trước đây, việc nghiên cứu ung thư trên người sống được đánh giá là
vô đạo đức thì hiện tại, các bác sĩ có thể thoải mái cho tế bào HeLa
tiếp xúc với chất gây ung thư mà không vấp phải sự phản đối nào.
Trong
nhiều thập kỷ, tế bào HeLa được thường xuyên sử dụng trong các phòng
thí nghiệm trên khắp thế giới và mở ra nhiều đột phá cho nền y học nhưng
bà mẹ 31 tuổi lại bị thế giới lãng quên. 37 năm từ sau cái chết của
Lacks, một nữ sinh 16 tuổi tên Rebecca Skloot khi nghe cô giáo giảng về
tế bào HeLa và người phụ nữ tên Henrietta Lacks đã có thắc mắc bất ngờ:
"Tôi
hỏi giáo viên của mình Henriatta Lacks là ai, đến từ đâu, cô ấy có gia
đình và con cái không?. Nhưng các cô giáo chỉ biết rằng, đây là một
người phụ nữ da đen, đã chết vì ung thư cổ tử cung năm 1951", Skloot chia sẻ.
Tốt
nghiệp ngành sinh học, Skloot quyết định tìm hiểu về người phụ nữ đứng
sau tế bào "bất tử" HeLa và khi sự thật được công bố đã khiến cả thế
giới phải sốc. Trong khi tế bào của Lacks làm thay đổi bộ mặt của y học,
chồng và các con của cô lại không biết gì về điều này, thậm chí bản
thân họ cũng không được chăm sóc sức khỏe đúng cách.
"Điều mà hầu hết mọi
người bị sốc nhất là các tế bào của Lacks được lấy và sử dụng trong khi
không có sự đồng ý của cô ấy cũng như người trong gia đình", Skloot nói.
Bức tranh vẽ Henrietta Lacks được trưng bày trang trọng
Điều
tồi tệ là các tế bào của Lacks đã giúp các công ty dược phẩm trở nên
giàu có. Cụ thể hơn, các ngân hàng tế bào và các công ty sinh học đã bán
lẻ tế bào của cô với mức giá không hề rẻ 260$/ 1 ống (tương đương 600
ngàn đồng), nhưng lại không trả một đồng lợi nhuận nào về cho gia đình.
Trong khi các công ty ngày càng ăn nên làm ra, gia đình người phụ nữ xấu
số lại phải sống một cách nghèo nàn, khổ sở.
Chồng
của Henrietta làm việc trong một nhà máy thép ở Baltimore, kiếm được
khoảng 80 xu mỗi giờ (19 ngàn đồng) trong khi phải nuôi 5 người con.
Trước khi qua đời, Lacks đã mong mỏi chồng có thể chăm sóc tốt cho các
con nhưng số phận lại không mỉm cười với họ.
Day - con
cả của vợ chồng Lacks đã gặp vấn đề về phát triển và qua đời không lâu
sau đó. Một người con trai, Joe, sau khi bỏ học đã nhận án tù 15 năm vì
giết người. Người con gái khác tên là Deborah trở thành một bà mẹ đơn
thân vì chồng bạo hành. Vào năm 2000, khi Skloot gặp được họ tất cả đều
có sức khỏe kém. Chồng Lacks bị ung thư tuyến tiền liệt và phổi chứ đầy
amiang. Con trai Sonny bị suy tim, Deborah bị viêm khớp, loãng xương,
điếc, trầm cảm. Gia đình người phụ nữ xấu số không ai có bảo hiểm y tế
và được chữa trị đúng cách.
"Trong
khi tế bào HeLa được ứng dụng mọi lúc mọi nơi, không ai nghĩ rằng đằng
sau nó là một người sống, một người phụ nữ có gia đình và con cái như
bất cứ ai", Skloot nói.
Hiện tại Henrietta
Lacks đang được chôn cất tại nghĩa trang ở Virginia với ngôi mộ không
tên. Tuy nhiên sau khi những nghiên cứu của Skloot được công khai, một
tấm bia tưởng niệm đã được dựng lên dành cho người phụ nữ "chạm đến sự
sống nhân loại".
An An(Dịch theo Theguardian)Những ca phẫu thuật "rùng rợn" nhất lịch sử thế giới
ANTD.VN - Trong
lịch sử y học thế giới đã ghi nhận những ca phẫu thuật “rùng rợn” đến khó tin:
tự cắt bỏ ruột thừa, biến mắt cá chân thành đầu gối, cắt bỏ một nửa bán cầu não,
ghép hai tim cùng lúc…Những ca phẫu thuật này được xem là những ca phẫu thuật
“kinh dị” nhất thế giới, nhưng chính phương pháp phẫu thuật này đã làm thay đổi cuộc
sống của rất nhiều người mỗi ngày.
Với những phương pháp phẫu thuật này,
khi nhắc đến có thể sẽ khiến nhiều người “kinh ngạc” thế nhưng ở thời
điểm đó nó lại được xem như một thành tựu của nền y học.
Tự phẫu thuật cắt bỏ ruột thừa
Theo Kiến thức, vào năm 1921, giới y học
thế giới hết sức kinh ngạc trước khả năng phi thường của một bác sĩ
phẫu thuật có tên Evan O’Neill Kane. Người này đã trở nên nổi tiếng khắp
thế giới vì đã tự phẫu thuật cắt ruột thừa cho mình chỉ với một chiếc
gương và phương pháp gây tê tại chỗ mà không nhờ bất kỳ sự trợ giúp nào
khác.
Tự cắt bỏ ruột thừa của mình mà không cần sự trợ giúp nào
Ca phẫu thuật này tưởng chừng như khó
thành công ấy đã khiến vị bác sĩ tài ba quyết định tiếp tục tự mình thực
hiện thêm một ca phẫu thuật phức tạp khác do bị thoát vị bẹn vào năm
1932, khi đó ông đã 70 tuổi. Dù vừa phẫu thuật, vừa nói đùa vui thoải
mái, nhưng bác sĩ Kane vẫn thực hiện chính xác đến từng milimét. Ông
được cho là người đầu tiên và cũng là duy nhất từ trước tới nay tự phẫu
thuật cho mình theo cách này.
Trong ca phẫu thuật có 3 bác sĩ khác
đứng chứng kiến ca phẫu thuật có một không hai này để sẵn sàng ứng cứu,
đề phòng trường hợp “bất trắc” có thể xảy ra. Tuy nhiên, ca phẫu thuật
đã thành công ngoài mong đợi. Bệnh nhân - bác sĩ Kane nhanh chóng phục
hồi và trở lại khoẻ mạnh bình thường.
Cắt bỏ một bên não
Ca phẫu thuật cắt bỏ một bên não do bác
sĩ phẫu thuật thần kinh Ben Karson tiến hành vào ngày 11-6-2007. Đây
được ghi nhận là ca phẫu thuật rùng rợn nhất từ trước tới nay.
Bệnh nhân là bé gái Jessie Hall, 6 tuổi,
ở Aledo, bang Texas (Mỹ). Jessie bị mắc phải một chứng bệnh nan y hiếm
gặp có tên hội chứng Rasmussen (hội chứng viêm não) khiến cho não của em
bị ăn mòn rồi dẫn đến những cơn co thắt toàn thân.
Phẫu thuật cắt bỏ một bên não được ghi nhận là ca phẫu thuật rùng rợn nhất
Tỉ lệ mắc căn bệnh này là 1/1000 đứa
trẻ, thế nhưng ca phẫu thuật tương tự là chưa từng xảy ra và cơ may sống
sót đối với người bệnh rất thấp. Tuy nhiên, đây lại là cách duy nhất có
thể cứu sống bé Jessie. Phần não được cắt bỏ là phần não bị mắc bệnh
viêm não không có khả năng chữa trị, còn nếu để nguyên sẽ làm tổn thương
dây chuyền sang bán cầu não còn lại.
Sau khi quyết định các bác sĩ đã chọn
phương án mạo hiểm nhất là phẫu thuật cắt nửa bên não với tỷ lệ sống hết
sức mong manh. Tuy nhiên kết quả thật bất ngờ, phương pháp này không
những đã cứu sống bé Jessie, mà còn cho em những hy vọng mới về cuộc
sống. Sau ca phẫu thuật, Jessie đã có những dấu hiệu hồi phục tuyệt vời.
Ca phẫu thuật cho bào thai trong bụng mẹ kỳ lạ nhất thế giới
Đây được xem là một ca phẫu thuật khó
tin nhất trong lịch sử y học, khi đứa trẻ chưa sinh ra nhưng các bác sĩ
đã tiến hành phẫu thuật cắt khối u cho thai nhi. Sau khi đã mang thai
được 6 tháng, Keri Mc Cartney, sống ở Laredo, bang Texas (Mỹ), mới đi
siêu âm và vô cùng lo sợ khi phát hiện ra có một khối u nguy hiểm mọc ở
xương cụt của thai nhi. Khối u này gây cản trở việc máu cung cấp cho cơ
thể thai nhi và có thể khiến cho bé tử vong.
Phẫu thuật thai nhi khi còn trong bụng mẹ
Đứng trước tình thế nguy hiểm để cứu đứa
trẻ chưa chào đời, các bác sĩ phẫu thuật thuộc Bệnh viện nhi ở Histon
(Mỹ) đã tiến hành mổ tử cung của cô để đưa 80% cơ thể của thai nhi ra
ngoài, chỉ để đầu và vai ở bên trong cơ thể người mẹ. Họ đã nhanh chóng
cắt bỏ khối u rồi đặt đứa trẻ trở lại trong tử cung và khâu bọc ối lại.
Và chỉ 10 tuần sau khi phẫu thuật, đứa trẻ chào đời hoàn toàn khỏe mạnh
và được đặt tên là Macie Hope Mc Cartney.
Tái tạo khuôn mặt đã bị biến dạng
Theo Thể thao – Văn hóa, vào tháng
1-2007, các bác sĩ ở Pháp đã thực hiện thành công một ca phẫu thuật cực
khó nhằm đem lại “ánh sáng” cuộc sống cho một bệnh nhân bị một khối u
quái dị làm biến dạng khuôn mặt một cách kinh khủng. Đây là trường hợp
của bệnh nhân Pascal Coler, 31 tuổi. Khối u khổng lồ đã làm cho Pascal
không thể ăn uống bình thường và biến anh trở thành một con người sống
ẩn dật.
Pascal Coler trước và sau phẫu thuật
Pascal đã phải trải qua hơn chục ca phẫu
thuật trước đó để làm giảm kích thước khối u này. Giáo sư Loran
Lantieri cùng các đồng nghiệp tại bệnh viện Henri - Mondor gần Paris
(Pháp) đã tiến hành cắt khối u, đồng thời cấy ghép lại toàn bộ các chi
tiết trên khuôn mặt của Pascal từ môi, cằm, mũi cho đến miệng… bởi khối u
có liên quan đến phần xương mặt. Ca phẫu thuật đã được thực hiện trong
vòng 16h và đã kết thúc thành công.
Ca phẫu thuật kéo dài kỷ lục 96 giờ
Ca phẫu thuật loại bỏ khối u buồng trứng
khổng lồ cho một phụ nữ ở thành phố Chicago (Mỹ) vào năm 1951 được coi
là ca phẫu thuật kéo dài nhất trong lịch sử ngành y khoa. Ca phẫu thuật
này bắt đầu được tiến hành vào từ ngày 4-2 đến ngày 8-2 năm 1951 với
tổng thời gian lên tới 96 giờ đồng hồ, tức 4 ngày đêm.
Bệnh nhân 58 tuổi, Gertruda Levandovski,
trước khi tiến hành phẫu thuật có cân nặng lên tới 277 kg. Thế nhưng,
khi ca phẫu thuật kỷ lục này kết thúc, cân nặng của Gertruda chỉ còn có
138 kg, chỉ còn bằng một trọng lượng lúc ban đầu.
Sở dĩ Gertruda bị sút cân nhanh và nhiều
đến vậy là vì các bác sĩ đã phải liên tục vừa phẫu thuật vừa băng khối u
rồi từ từ làm khô nước dịch chảy ra nhằm ngăn chặn sự tụt huyết áp có
thể gây ảnh hưởng tới hoạt động của tim.
Biến mắt cá chân thành đầu gối
Như TPO đưa tin, Rotationplasty là một
hình thức đặc biệt của phẫu thuật tái tạo cho phép mắt cá chân được sử
dụng như một khớp gối. Các thủ tục liên quan đến việc phẫu thuật cắt bỏ
đáy của xương đùi, đầu gối và xương chày trên. Phần dưới của chân sau đó
được xoay 180 độ và gắn vào đùi. Nói một cách đơn giản, bàn chân được
gắn vào đầu gối phía sau. Một khi chân giả được lắp vào, mắt cá chân có
chức năng như đầu gối.
Cô bé Gabi có thể trở thành vũ công nhờ phương pháp biến mắt cá chân thành đầu gối
Rotationplasty thường được thực hiện ở
trẻ em có khối u xương ác tính - chẳng hạn như osteosarcoma hoặc Ewing
sarcoma - gần đầu gối mà không đáp ứng với các phương pháp điều trị
khác. Mục đích chính của rotationplasty là để loại bỏ hoàn toàn khối u,
nhưng theo cách cho phép một đứa trẻ có một lối sống năng động, mà sẽ
không thể với đầy đủ cắt cụt.
Một ví dụ tuyệt vời về sự thành công của
thủ thuật này là Gabi Shull, 14 tuổi, đến từ Missouri, Mỹ. Gabi cho
biết, phương pháp này đã thay đổi cuộc đời cô. Lúc 9 tuổi, Gabi được
chẩn đoán bị osteosarcoma ở đầu gối. Khối u không hoạt động được, và sau
12 tuần hóa trị, Gabi và cha mẹ cô quyết định chọn phương pháp điều trị
mới này. Chỉ 1 năm sau khi phẫu thuật, Gabi đã có thể đi lại và 2 năm
sau, cô ấy là một vũ công giỏi. "Phẫu thuật đã cho phép tôi làm nhiều
hơn tôi mong đợi”.
Khôi phục thị giác bằng... răng của bệnh nhân
Phương pháp này có tên gọi là OOKP, viết
tắt những chữ cái đầu của osteo-odonto-keratoprosthesis. Trường hợp đầu
tiên được thực hiện vào năm 1960 bởi Giáo sư Benedetto Strampelli, của
Bệnh viện San Camillo ở Ý.
OOKP có thể được sử dụng cho bệnh nhân
bị mù do tổn thương không thể phục hồi đến giác mạc,lớp ngoài của mắt
khi những phương pháp điều trị khác thất bại.
Tái tạo mắt giả từ răng là phương pháp kì lạ nhưng hiệu quả và đã thành công
Quy trình này bao gồm việc nhổ bỏ răng
nanh của bệnh nhân và xương xung quanh. Sau đó người ta khoan một lỗ
trong răng và nhét vào đó mắt kính plastic. Cấu trúc răng-mắt kính sau
đó được cấy vào má của bệnh nhân, nơi nó phát triển các mạch máu mới
trong một vài tháng. Cấu trúc này sau đó được lấy ra khỏi má và cấy vào
mắt. Ánh sáng có thể di chuyển qua mắt kính này và phục hồi thị lực của
bệnh nhân.
Vào năm 2013, The Telegraph đưa tin, một
người đàn ông Anh đã lấy lại thị lực của mình sau khi trải qua OOKP.
Năm 1999, Ian Tibbetts bị mất thị lực hoàn toàn sau một vụ tai nạn tại
nơi làm việc. Vào tháng 12-2012, Ian đã trải qua OOKP tại Bệnh viện mắt
Sussex - bệnh viện duy nhất ở Vương quốc Anh thực hiện quy trình - và
lần đầu tiên có thể nhìn thấy các con của mình.
Ghép hai tim cùng lúc
Thông thường, con người chỉ có một tim.
Đối với những người phải ghép tim, các bác sỹ cắt bỏ tim hỏng và thay
bằng tim mới khỏe mạnh. Các ca ghép tim đã cứu sống hơn 2.000 sinh mạng
mỗi năm tại Mỹ. Tuy nhiên, đối với những người không thể tiếp nhận tim
mới hoặc tim của người hiến tặng không hoạt động một mình được, các bác
sỹ đã sử dụng phương pháp ghép tim dị tính, cho phép một người có hai
trái tim cùng hoạt động trong cơ thể.
Ghép tim dị tính là cả hai trái tim đều
được phẫu thuật, cho phép máu từ trái tim bị tổn thương chảy vào trái
tim mới. Trái tim mới có thể bơm máu xung quanh cơ thể.
Năm 2011, các nhà nghiên cứu từ Đại học
California-San Diego, Mỹ đã báo cáo thực hiện thủ tục phẫu thuật hiếm
hoi này cho một người đàn ông tên là Tyson Smith, người bị suy tim. Tiến
sĩ Michael Madani, thuộc Trung tâm Tim mạch California-San Diego
Sulpizio giải thích: "Loại bỏ trái tim cũ và thay thế nó bằng một trái
tim mới sẽ khiến trái tim mới thất bại, bởi huyết áp phổi quá cao. Nhưng
hoạt động cùng nhau, hai trái tim chia sẻ công việc và hoàn thành nhiệm
vụ".
Cấy ghép đầu
Vào năm 2013, bác sĩ giải phẫu thần kinh
người Ý, Tiến sĩ Sergio Canavero đã công bố các đề xuất để thực hiện ca
ghép đầu tiên trên thế giới - một thủ thuật mà ông tin rằng có khả năng
điều trị tê liệt do các bệnh thần kinh hoặc cơ tật.
Thủ thuật có tên HEAVEN-GEMINI - sẽ liên
quan đến việc tách đầu của người nhận và người hiến tặng khỏe mạnh bằng
cách sử dụng "lưỡi dao siêu sắc" để tránh tổn thương tủy sống. Việc cấy
ghép đầu người đầu tiên trên thế giới được tiến hành vào tháng 12 năm
2017.
Đầu của người hiến tặng và cơ thể người
nhận sau đó sẽ được đặt vào tình trạng hạ thân nhiệt sâu trong khoảng 45
phút để giảm tổn thương thần kinh. Đầu của người hiến tặng sau đó sẽ
được gắn vào cơ thể người nhận bằng cách sử dụng hợp nhất dây thần kinh
tủy sống. Ca phẫu thuật này kéo dài 36 giờ với sự tham gia của 150 bác
sỹ và y tá lành nghề và chi phí khoảng 11 triệu USD.
Sau khi hoàn tất thủ thuật, người nhận
được giữ trong tình trạng hôn mê trong 3-4 tuần, để giảm thiểu chuyển
động và đảm bảo các kết nối thần kinh giữa cổ và cột sống có thời gian
để hợp nhất với nhau.
Tiến sĩ Canavero nói với Medical News
Today rằng việc cấy ghép đầu tiên ở người đã được thực hiện vào tháng 12
năm 2017 và đây không còn là phim khoa học viễn tưởng nữa.
Những bức ảnh ngành y gây chấn động lịch sử ở bảo tàng y học Mütter
Một vài trường hợp dị tật đến không thể tưởng tượng nổi được trưng bày trong bảo tàng Mütter.
Bảo tàng y học Mütter nằm tại Philadelphia, Pennsylvania, Mỹ chuyên
trưng bày những mô hình, hình ảnh về các dị tật trong y khoa. Nơi đây
thu hút rất nhiều vị khách có sở thích khám phá những điều kì lạ hay đơn
giản chỉ là thích chiêm ngưỡng hay tìm hiểu về lịch sử y học.
10. Móng tay người Trung Quốc
Thời xa xưa, người Trung Quốc sẽ để móng tay dài để khẳng định địa vị cao, quý tộc của mình trong xã hội. Có những bộ móng dài tới 25cm, thậm chí còn có những người đeo thêm móng giả vào để trông móng dài hơn. Vì có những bộ móng "khủng" nên mọi người thường gặp khó khăn trong việc hoạt động hay sinh hoạt hằng ngày.9. Người khổng lồ
Đây là khung xương của John Aasen (1890-1938), một người từng làm việc trong rạp xiếc. John cao khoảng 2m14, ông từng được xuất hiện trên màn ảnh với một vài bộ phim khá ăn khách. Năm 1938, ông ra đi vì căn bệnh viêm phổi.8. Người bị cụt 2 chân 1 tay
Người đàn ông 32 tuổi này phải cắt 2 chân và 1 tay đi vì bị một xe lửa đang vận chuyển vật liệu xây dựng cán qua. Đây là trường hợp thứ 2 phẫu thuật cắt chân, tay thành công ở Mĩ.7. Người đàn bà mọc sừng
Đây là mô hình sáp của bà Madame Dimanche (Có tên gọi khác là Widow Sunday) - một góa phụ ở thế kỷ 19 tại Pháp có sừng một chiếc sừng dài tới 9,8 inch trên đầu.Sau 6 năm sống cùng chiếc sừng kỳ quái này, bà đã được phẫu thuật cắt nó đi bởi một bác sĩ nổi tiếng ở Pháp.6. Bàn chân biến dạng
Bàn chân bị biến dạng ở trên là kết quả do khuyết tật bẩm sinh. Những điều này có thể xảy ra không chỉ ở chân mà còn trên tay. Có rất nhiều giả thuyết được đặt ra cho nguyên nhân gây ra sự biến dạng này, như: Những giả thuyết về bệnh lý về gene, bệnh lý về di truyền hoặc phối hợp cả 2 yếu tố trên.5. Thừa bộ phận sinh dục
Blanche Dumas sinh năm 1860 ở khu vực thuộc lãnh thổ Pháp ở vùng biển Caribe. Năm 25 tuổi, Blanche Dumas được phát hiện có dấu hiệu lạ về bộ phận sinh dục: có 3 bàn chân và 2 bộ phận sinh dục. Có một vài báo viết rằng nhờ có "dị tật" này mà công việc để Blache Dumas kiếm sống là hành nghề mại dâm, hơn nữa cô còn rất được phái nam yêu thích và có hứng thú.4. Phì đại vòng 1
Người phụ nữ không may này bị phì đại vòng ngực của mình. Cô đã may mắn sống sót khi trai qua cuộc phẫu thuật để giảm bớt "gánh nặng" này, sau khi phẫu thuật, ngực bên trái có trọng lượng khoảng 7kg, ngực bên phải khoảng 19kg.3. Chân voi
Căn bệnh chân voi có tên khoa học là podoconiosis, do một loại giun sống trong đất ở vùng nhiệt đới gây nên bằng cách làm viêm hệ thống bạch huyết ở chân dẫn đến sưng chân. Hiện căn bệnh “chân voi” này đang ảnh hưởng đến khoảng 4 triệu người trên thế giới. (GDVN)2. U sợi thần kinh
Người đàn ông này bị bệnh Von Recklinhausen (còn gọi là chứng bệnh neurofibromatosis). Đó là một rối loạn di truyền, trong đó dây thần kinh sẽ phát triển khối u. Nếu bố hoặc mẹ mắc căn bệnh này, tỉ lệ di truyền sang con lên đến 50%.1. Hội chứng Cyclopia - Một mắt
Hội chứng Cyclopia là một chứng dị tật bẩm sinh, xảy ra cả với người và động vật. Trẻ em khi sinh ra đã chỉ có một mắt ở giữa trán, điều này gây cản trở trong việc hoạt động não bộ, vì thế những đứa trẻ này có tuổi đời vô cùng ngắn.
Nguồn bài: Listverse
Nhận xét
Đăng nhận xét