CÂU CHUYỆN TÌNH BÁO 250
(ĐC sưu tầm trên NET)
Cảnh trong phim “Chiến công của tình báo viên”.
Điệp viên Xô Viết hóa thân nghệ thuật và những nguyên mẫu
Hồng Sơn |
Phim ảnh về đề tài tình báo luôn là những sản phẩm thu hút được sự chú ý đặc biệt của công chúng bởi sự gay cấn, táo bạo và cả tính trí tuệ cao. Tất nhiên, các nhân vật tình báo viên trong điện ảnh Xô viết cũng không phải là ngoại lệ.
Trên thực tế, mỗi nhân vật tình báo viên Xô viết trong phim
ảnh đều có những khuôn mẫu ngoài đời thực, đôi khi những số phận thực tế
của họ còn hấp dẫn và thú vị hơn cả trong phim. Hãy cùng điểm qua một
số bộ phim đáng chú ý…
Điệp viên Xô viết cự phách tại viện Đại học Oxford Nguyên mẫu của nhân vật điệp viên Xô viết lừng danh Stierlitz trong tác phẩm “17 khoảnh khắc mùa xuân”: Số phận đau đớn
“Chiến công của tình báo viên”
Bộ phim của đạo diễn Boris Barnet quay vào năm 1947 kể về tình báo viên Aleksey Fedotov (diễn viên Pavel Kadochnikov), người hoạt động dưới vỏ bọc của nhân vật Heinrich Eckert. Nhân vật chính trong phim đã khai thác được nhiều tài liệu mật và lập được nhiều chiến công quan trọng tại thành phố Vinnytsia (Ukraine) khi đó đang bị quân Đức chiếm đóng.
Nguyên mẫu ngoài đời thực của Fedotov chính là điệp viên hoạt động trong vùng địch hậu nổi tiếng Nikolai Kuznesov.
Cũng
như Fedotov, Kuznesov đã bắt giữ được viên tướng Max Iigen, chỉ huy lực
lượng đặc nhiệm Osttruppen của phát xít Đức tại mặt trận phía Đông.
Có điều khác với trong phim, Kuznesov đã không thể đưa được viên tướng tù binh này về hậu phương mà xử bắn hắn sau khi thẩm vấn. Số phận của Kuznesov cũng bi kịch hơn nhân vật hóa thân trong điện ảnh của ông. Nếu như điệp viên Fedotov bình an quay trở về nhà thì Kuznesov đã hy sinh trong một trận đánh tại Lvov vào mùa xuân năm 1944.
“Thiếu tá gió lốc”
Đến năm 1967, điện ảnh Xôviết ra mắt một bộ phim đáng chú ý của đạo diễn Yevgeny Tashkov về hoạt động của nhóm tình báo với nhiệm vụ chính là ngăn cản quân Đức phá hủy thành phố Krakow (Ba Lan), một di tích nổi tiếng của văn hóa nhân loại. Nhân vật “Thiếu tá gió lốc” trong phim có tới 2 nguyên mẫu ngoài đời là Engeny Berezniak và Aleksey Botian.
Trên thực tế, nhiệm vụ ngăn chặn âm mưu phá hoại của phát xít Đức được giao cho 2 nhóm tình báo khác nhau. Còn cảnh điệp viên Xôviết chạy trốn khỏi sự truy đuổi của quân Đức trong khu chợ của thành phố hoàn toàn giống với thực tế ngoài đời của Berezniak.
Berezniak sau khi chạy thoát khỏi sự truy lùng của quân Đức đã phải trải qua một thời gian dài bị nghi ngờ từ phía cơ quan an ninh. Phải đến khi bắt giữ được một nhân viên Gestapo tại Krakow, thực tế về cuộc chạy trốn của ông mới được làm sáng tỏ, giúp ông khôi phục lại lòng tin của cấp trên.
Khác
với “Thiếu tá gió lốc” trong phim, về sau đã hy sinh trong chiến đấu –
cả Berezniak và Botian đều sống sót. Botian có một thời gian dài tiếp
tục làm việc trong cơ quan mật vụ, có đóng góp đáng kể trong việc thành
lập ra lực lượng đặc nhiệm “Vympel”.
Mọi chi tiết về chiến dịch đặc biệt tại Krakow chỉ được công luận biết đến nhiều vào đầu thế kỷ XXI, khi các nhân vật chính được chính thức khen thưởng vì công lao bảo vệ thành phố cổ kính của Ba Lan.
“Sỹ quan tùy tùng của tướng quân”
Đây là một bộ phim đáng chú ý ra đời vào năm 1969, kể về hoạt động của tình báo Xôviết trong cuộc nội chiến. Theo đó, điệp viên Pavel Kolsov thâm nhập vào hàng ngũ của quân Bạch vệ, trở thành sỹ quan tùy tùng của tướng Kovalevski.
Nguyên mẫu của nhân vật Kolsov là Pavel Makarov có một số phận phức tạp hơn nhiều hóa thân của ông trong điện ảnh. Từng là một cựu chiến binh có quân hàm chuẩn úy, Makarov ban đầu gia nhập Hồng quân.
Sau khi bị quân Bạch vệ bắt giữ tại Melitopol (Ukraine), Makarov không những an toàn mà còn được sung vào đơn vị tình nguyện của lực lượng này. Nhờ biệt tài biết thu hút lòng người, Makarov trở thành sĩ quan tùy tùng của viên tướng tư lệnh May-Mayevsky.
Về sau, khi bị nghi ngờ có quan hệ với tình báo của Bolshevik, Makarov buộc phải chạy trốn. Ông tham gia tích cực vào cuộc chiến trong hậu phương quân Bạch vệ và được Hồng quân khen thưởng.
Sau
khi Krym được giải phóng, Makarov vào làm việc tại Cơ quan An ninh
Cheka, cho công bố cuốn sách “Sỹ quan tùy tùng của tướng quân” kể về
quãng thời gian hoạt động tình báo trong hàng ngũ Bạch vệ của mình.
Cuốn sách chính là cơ sở để hai tác giả Igor Bolgarin và Georgie Severski xây dựng kịch bản cho bộ phim nói trên. Trong những năm Chiến tranh vệ quốc vĩ đại, Pavel Makarov là một trong những chỉ huy của phong trào du kích tại Krym. Ông qua đời vào năm 1970.
“Mười bảy khoảnh khắc mùa xuân”
Điệp viên nổi tiếng nhất trong bộ phim này – đại tá lực lượng SS Max Otto von Stierlitz – lại không có một nguyên mẫu rõ ràng, cho dù nhiều phần trong tiểu sử và các chiến dịch đã tham gia của ông trong phim đều có trong thực tế.
Cụ thể một phần tiểu sử của Stierlitz lấy từ tiểu sử của nhân viên Gestapo – đại úy SS Willi Lehmann, người được tình báo Xôviết tuyển mộ từ năm 1929.
Ông
đã từng chuyển giao cho Liên Xô những thông tin quan trọng nhất về
chương trình quân sự của Hitler, về những thiết kế kỹ thuật mới nhất của
Đức. Ba ngày trước khi nổ ra cuộc chiến, Lehmann là người đã báo trước
về việc những hành động quân sự của Hitler chống Liên Xô sẽ bắt đầu vào
ngày 22-6-1941. Lehmann bị phát xít Đức phát hiện và thủ tiêu vào năm
1942.
Còn một nguyên bản nữa của Stierlitz là thượng úy không quân Đức Harro Schulze-Boysen, một người có tư tưởng chống phát xít và là thành viên của tổ chức chống phát xít “Dàn nhạc đỏ”.
Từ năm 1936, ông đã hợp tác tích cực với tình báo Xôviết bằng việc chuyển giao nhiều thông tin có giá trị. Năm 1942, phản gián Đức đã may mắn giải mã được một bức điện vô tuyến từ Moskva và phát hiện ra Schulze-Boysen. Hậu quả là ông bị xử tử tại Berlin vào tháng 12-1942.
“Mùa chết”
Bộ phim được sản xuất vào năm 1968 được coi là sản phẩm điện ảnh đầu tiên kể về hoạt động của các chiến sĩ tình báo Xôviết trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh.
Nguyên mẫu của điệp viên Ladeynikov trong phim chính là một trong những ngôi sao của Cơ quan Tình báo Xôviết – Konan Molody, người từng hoạt động rất thành công tại nước Anh trong những năm 1950-1960.
Molody, ngoài việc thu thập thông tin tình báo, còn thể hiện là một thương gia rất thành đạt, kiếm khá nhiều tiền phục vụ cho nhu cầu hoạt động của tình báo Xôviết.
Hơn
nữa, Molody – nổi tiếng tại Anh với cái tên thương gia Gordon Lonsdale –
không lâu trước khi bị phát hiện và bắt giữ từng được Nữ hoàng Anh
phong tước hiệp sĩ nhờ những “thành công trong việc phát triển hoạt động
thương mại”. Cũng như phần lớn các điệp viên khác trong thời kỳ Chiến
tranh Lạnh, Molody bị lộ do một kẻ đào tẩu khai báo.
Vào năm 1961, điệp viên này bị bắt giữ vào thời điểm đang chuyển giao các tài liệu mật và bị kết án 25 năm tù. Ba năm sau, ông được trao đổi với điệp viên Greville Wynne của Anh trước đó bị bắt giữ tại Liên Xô.
Điều thú vị là chính Molody cũng tham gia vào quá trình sản xuất bộ phim, khi ông được mời làm cố vấn cho êkíp dàn dựng phim. Tham gia vào lời dạo đầu của bộ phim còn có một huyền thoại khác của tình báo Xôviết là Rudolf Abel, tên thật là Vilyam Fisher.
Abel từng hoạt động tại Mỹ và bị các nhân viên Cục điều tra liên bang (FBI) bắt giữ, sau này được trao đổi với Francis Powers, viên phi công lái chiếc máy bay do thám U-2 bị bắn rơi trên bầu trời Liên Xô.
“TASS được quyền tuyên bố”
Khác với phần nhiều bộ phim khác, tác phẩm “TASS được quyền tuyên bố” ra đời năm 1984 không nói về đề tài tình báo, mà về hoạt động phản gián. Chính vì vậy, nhân vật phản diện chính của bộ phim là tay điệp viên “Trianon” của Mỹ.
Nguyên mẫu của Trianon cũng có trong đời thực – đó là Alexander Ogorodnik, nhân viên Ban phụ trách nước Mỹ thuộc Cục Kế hoạch chính sách đối ngoại – Bộ Ngoại giao Liên Xô.
Bộ
phim đã mô tả khá chi tiết về chiến dịch phát hiện và vô hiệu hóa tên
gián điệp này. Ogorodnik trên thực tế đã được Cục Tình báo trung ương Mỹ
(CIA) tuyển mộ nhờ trò mỹ nhân kế. Hắn thậm chí còn đầu độc cô người
yêu Olga khi bị nghi ngờ và cuối cùng đã tự vẫn cũng bằng một chiếc bút
có chứa chất độc.
Các nhân viên phản gián Xôviết đã thành công trong việc che giấu CIA về cái chết của tên gián điệp, nhờ đó trong quá trình theo dõi hộp thư bí mật đã bắt quả tang một nam nhân viên của đại sứ quán Mỹ. Còn trên thực tế, người bị bắt giữ không phải là nam, mà là một nữ nhân viên có tên Martha Peterson.
Cần nói thêm là nhân vật chính diện trong phim, tình báo viên Slavina cũng có một nguyên mẫu. Yulian Semenov, tác giả cuốn tiểu thuyết cùng tên, cũng như là của kịch bản bộ phim đã chọn nguyên mẫu trên là thiếu tướng KGB Viatreslav Kevorkov.
Điệp viên Xô viết cự phách tại viện Đại học Oxford Nguyên mẫu của nhân vật điệp viên Xô viết lừng danh Stierlitz trong tác phẩm “17 khoảnh khắc mùa xuân”: Số phận đau đớn
“Chiến công của tình báo viên”
Bộ phim của đạo diễn Boris Barnet quay vào năm 1947 kể về tình báo viên Aleksey Fedotov (diễn viên Pavel Kadochnikov), người hoạt động dưới vỏ bọc của nhân vật Heinrich Eckert. Nhân vật chính trong phim đã khai thác được nhiều tài liệu mật và lập được nhiều chiến công quan trọng tại thành phố Vinnytsia (Ukraine) khi đó đang bị quân Đức chiếm đóng.
Nguyên mẫu ngoài đời thực của Fedotov chính là điệp viên hoạt động trong vùng địch hậu nổi tiếng Nikolai Kuznesov.
Có điều khác với trong phim, Kuznesov đã không thể đưa được viên tướng tù binh này về hậu phương mà xử bắn hắn sau khi thẩm vấn. Số phận của Kuznesov cũng bi kịch hơn nhân vật hóa thân trong điện ảnh của ông. Nếu như điệp viên Fedotov bình an quay trở về nhà thì Kuznesov đã hy sinh trong một trận đánh tại Lvov vào mùa xuân năm 1944.
“Thiếu tá gió lốc”
Đến năm 1967, điện ảnh Xôviết ra mắt một bộ phim đáng chú ý của đạo diễn Yevgeny Tashkov về hoạt động của nhóm tình báo với nhiệm vụ chính là ngăn cản quân Đức phá hủy thành phố Krakow (Ba Lan), một di tích nổi tiếng của văn hóa nhân loại. Nhân vật “Thiếu tá gió lốc” trong phim có tới 2 nguyên mẫu ngoài đời là Engeny Berezniak và Aleksey Botian.
Trên thực tế, nhiệm vụ ngăn chặn âm mưu phá hoại của phát xít Đức được giao cho 2 nhóm tình báo khác nhau. Còn cảnh điệp viên Xôviết chạy trốn khỏi sự truy đuổi của quân Đức trong khu chợ của thành phố hoàn toàn giống với thực tế ngoài đời của Berezniak.
Berezniak sau khi chạy thoát khỏi sự truy lùng của quân Đức đã phải trải qua một thời gian dài bị nghi ngờ từ phía cơ quan an ninh. Phải đến khi bắt giữ được một nhân viên Gestapo tại Krakow, thực tế về cuộc chạy trốn của ông mới được làm sáng tỏ, giúp ông khôi phục lại lòng tin của cấp trên.
Mọi chi tiết về chiến dịch đặc biệt tại Krakow chỉ được công luận biết đến nhiều vào đầu thế kỷ XXI, khi các nhân vật chính được chính thức khen thưởng vì công lao bảo vệ thành phố cổ kính của Ba Lan.
“Sỹ quan tùy tùng của tướng quân”
Đây là một bộ phim đáng chú ý ra đời vào năm 1969, kể về hoạt động của tình báo Xôviết trong cuộc nội chiến. Theo đó, điệp viên Pavel Kolsov thâm nhập vào hàng ngũ của quân Bạch vệ, trở thành sỹ quan tùy tùng của tướng Kovalevski.
Nguyên mẫu của nhân vật Kolsov là Pavel Makarov có một số phận phức tạp hơn nhiều hóa thân của ông trong điện ảnh. Từng là một cựu chiến binh có quân hàm chuẩn úy, Makarov ban đầu gia nhập Hồng quân.
Sau khi bị quân Bạch vệ bắt giữ tại Melitopol (Ukraine), Makarov không những an toàn mà còn được sung vào đơn vị tình nguyện của lực lượng này. Nhờ biệt tài biết thu hút lòng người, Makarov trở thành sĩ quan tùy tùng của viên tướng tư lệnh May-Mayevsky.
Về sau, khi bị nghi ngờ có quan hệ với tình báo của Bolshevik, Makarov buộc phải chạy trốn. Ông tham gia tích cực vào cuộc chiến trong hậu phương quân Bạch vệ và được Hồng quân khen thưởng.
Cuốn sách chính là cơ sở để hai tác giả Igor Bolgarin và Georgie Severski xây dựng kịch bản cho bộ phim nói trên. Trong những năm Chiến tranh vệ quốc vĩ đại, Pavel Makarov là một trong những chỉ huy của phong trào du kích tại Krym. Ông qua đời vào năm 1970.
“Mười bảy khoảnh khắc mùa xuân”
Điệp viên nổi tiếng nhất trong bộ phim này – đại tá lực lượng SS Max Otto von Stierlitz – lại không có một nguyên mẫu rõ ràng, cho dù nhiều phần trong tiểu sử và các chiến dịch đã tham gia của ông trong phim đều có trong thực tế.
Cụ thể một phần tiểu sử của Stierlitz lấy từ tiểu sử của nhân viên Gestapo – đại úy SS Willi Lehmann, người được tình báo Xôviết tuyển mộ từ năm 1929.
Còn một nguyên bản nữa của Stierlitz là thượng úy không quân Đức Harro Schulze-Boysen, một người có tư tưởng chống phát xít và là thành viên của tổ chức chống phát xít “Dàn nhạc đỏ”.
Từ năm 1936, ông đã hợp tác tích cực với tình báo Xôviết bằng việc chuyển giao nhiều thông tin có giá trị. Năm 1942, phản gián Đức đã may mắn giải mã được một bức điện vô tuyến từ Moskva và phát hiện ra Schulze-Boysen. Hậu quả là ông bị xử tử tại Berlin vào tháng 12-1942.
“Mùa chết”
Bộ phim được sản xuất vào năm 1968 được coi là sản phẩm điện ảnh đầu tiên kể về hoạt động của các chiến sĩ tình báo Xôviết trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh.
Nguyên mẫu của điệp viên Ladeynikov trong phim chính là một trong những ngôi sao của Cơ quan Tình báo Xôviết – Konan Molody, người từng hoạt động rất thành công tại nước Anh trong những năm 1950-1960.
Molody, ngoài việc thu thập thông tin tình báo, còn thể hiện là một thương gia rất thành đạt, kiếm khá nhiều tiền phục vụ cho nhu cầu hoạt động của tình báo Xôviết.
Vào năm 1961, điệp viên này bị bắt giữ vào thời điểm đang chuyển giao các tài liệu mật và bị kết án 25 năm tù. Ba năm sau, ông được trao đổi với điệp viên Greville Wynne của Anh trước đó bị bắt giữ tại Liên Xô.
Điều thú vị là chính Molody cũng tham gia vào quá trình sản xuất bộ phim, khi ông được mời làm cố vấn cho êkíp dàn dựng phim. Tham gia vào lời dạo đầu của bộ phim còn có một huyền thoại khác của tình báo Xôviết là Rudolf Abel, tên thật là Vilyam Fisher.
Abel từng hoạt động tại Mỹ và bị các nhân viên Cục điều tra liên bang (FBI) bắt giữ, sau này được trao đổi với Francis Powers, viên phi công lái chiếc máy bay do thám U-2 bị bắn rơi trên bầu trời Liên Xô.
“TASS được quyền tuyên bố”
Khác với phần nhiều bộ phim khác, tác phẩm “TASS được quyền tuyên bố” ra đời năm 1984 không nói về đề tài tình báo, mà về hoạt động phản gián. Chính vì vậy, nhân vật phản diện chính của bộ phim là tay điệp viên “Trianon” của Mỹ.
Nguyên mẫu của Trianon cũng có trong đời thực – đó là Alexander Ogorodnik, nhân viên Ban phụ trách nước Mỹ thuộc Cục Kế hoạch chính sách đối ngoại – Bộ Ngoại giao Liên Xô.
Các nhân viên phản gián Xôviết đã thành công trong việc che giấu CIA về cái chết của tên gián điệp, nhờ đó trong quá trình theo dõi hộp thư bí mật đã bắt quả tang một nam nhân viên của đại sứ quán Mỹ. Còn trên thực tế, người bị bắt giữ không phải là nam, mà là một nữ nhân viên có tên Martha Peterson.
Cần nói thêm là nhân vật chính diện trong phim, tình báo viên Slavina cũng có một nguyên mẫu. Yulian Semenov, tác giả cuốn tiểu thuyết cùng tên, cũng như là của kịch bản bộ phim đã chọn nguyên mẫu trên là thiếu tướng KGB Viatreslav Kevorkov.
theo An ninh Thế giới
Hé lộ sốc về âm mưu khủng khiếp của cựu thiếu tướng tình báo Israel với TT Syria Assad
Vũ Thu Hương |
Thiếu tướng Kovachi được cho là từng tuyên bố rằng sự tồn tại của chế độ Tổng thống Assad sẽ mang lại tai họa cho Israel khi chịu ảnh hưởng từ Iran, Hezbollah, các tổ chức nổi dậy và ảnh hưởng của Nga trong khu vực. Và nhân vật này từng đưa ra ý tưởng gây sốc với Tổng thống Syria Bashar al-Assad.
Theo Sputnik, Tham mưu trưởng Lực lượng phòng vệ Israel (IDF) Aviv Kochavi được cho là từng đưa ra ý tưởng ám sát Tổng thống Syria Bashar al-Assad.
Tuy
nhiên, đề nghị của thiếu tướng Aviv Kochavi đã bị quân đội Israel bác
bỏ. Quân đội Israel lâu nay vẫn muốn tập trung vào việc kiềm chế Iran mở
rộng phạm vi hoạt động ra khắp Syria cũng như chuyển vũ khí tân tiến
cho nhóm Hezbollah.
Ông Aviv Kochavi
đưa ra ý tưởng gây sốc trên từ thời còn làm Giám đốc Cơ quan tình báo
quân đội Israel (Aman). Sở dĩ ông mong muốn lật đổ Tổng thống Assad vì
ông này ủng hộ lực lượng Hezbollah.
Ông Kovachi còn định lên kế hoạch ám sát lãnh đạo Syria nếu ông Assad không tự nguyện từ nhiệm.
Ông
Kovachi được cho là từng tuyên bố rằng sự tồn tại của chế độ Tổng thống
Assad sẽ mang lại tai họa cho Israel khi chịu ảnh hưởng từ Iran,
Hezbollah, các tổ chức nổi dậy và ảnh hưởng của Nga trong khu vực.
Thông
tin trên được báo Elaph của Saudi Arabia đăng tải. Dẫn thông tin từ một
quan chức cấp cao giấu tên Israel, tờ Elaph cho hay trong thời gian giữ
chức Giám đốc Cơ quan tình báo Israel, ông Kovachi từng đưa ra ý kiến
lật đổ Tổng thống Assad nhằm hạ thấp tầm ảnh hưởng của lực lượng
Hezbollah.
Tuy nhiên, ý kiến của ông
Kovachi về việc ám sát Tổng thống Assad đã nhanh chóng bị dập tắt, bởi
cơ quan tình báo Israel đã có phương án khác để đối phó với lực lượng
Hezbollah ở Syria.
Israel triển khai
rất nhiều cuộc không kích vào lãnh thổ Syria với tuyên bố rõ ràng rằng
mục tiêu của họ là các cơ sở của quân đội Iran và ngăn chặn các vụ vận
chuyển vũ khí. Tel Aviv khẳng định Tehran đang chuyển vũ khí cho
Hezbollah, lực lượng từng là kẻ thù với Israel.
Về
phần mình, Iran phủ nhận duy trì sự hiện diện quân sự ở Syria và nước
này chỉ có lực lượng cố vấn quân sự ở Syria để giúp đỡ nước này theo lời
đề nghị của Damascus. Cả Tehran và chính phủ Syria đều liên tục chỉ
trích các cuộc không kích của Israel.
Căng
thẳng giữa Israel và Iran gia tăng sau hàng loạt vụ không kích của Tel
Aviv nhằm vào lực lượng Tehran đang triển khai tại Syria, khiến nhiều
công dân Iran thiệt mạng. Iran đã "thề" Israel sẽ phải gánh hậu quả nặng
nề cho hành động này.
Leo thang xung
đột Israel - Iran thời gian gần đây gia tăng do Israel lo ngại bị thất
thế. Trong thời gian trước, Israel không thể hiện sự phản đối mạnh mẽ
đối với sự hiện diện quân sự của Iran ở Syria, nhưng những tháng gần
đây, Israel đã đặt sự hiện diện quân sự của Iran ở vị trí đầu tiên trong
danh sách các thách thức mà nước này phải đối mặt.
Thủ
tướng Netanyahu đã nhiều lần tuyên bố rằng chính quyền của ông sẽ không
chấp nhận việc Iran tăng cường hiện diện quân sự ở Syria và lực lượng
quân sự Israel sẵn sàng hành động để đạt được điều đó.
Tham
mưu trưởng quân đội Israel Gadi Eizenkot nói rằng Syria đang chuyển
sang một giai đoạn mới và Iran đang tăng cường sự hiện diện quân sự của
mình tại đó trên nhiều lĩnh vực.
Trong
các cuộc tấn công chống lại sự hiện diện quân sự của Iran ở Syria,
Israel đã nhằm vào các cơ sở, các nhà máy của Iran, cũng như loại bỏ các
lực lượng Iran khỏi đường biên giới Syria-Iran.
Sự
thay đổi chính sách của Israel có 2 lý do chính: Một là, cuộc chiến tại
Syria đã bước vào giai đoạn quyết định về mặt quân sự sau khi Iran và
Nga đặt toàn bộ sức nặng của họ phía sau chính phủ Syria với mục tiêu
đánh bại phe đối lập.
Thứ hai, việc
tăng cường hiện diện quân sự của Iran ở Syria và việc tìm cách tiếp tục
duy trì lâu hơn nữa tại đây sau khi cuộc chiến kết thúc là nhằm mục đích
sử dụng sự hiện diện này như một lực lượng dự phòng chống lại Israel
khi cần thiết.
theo Người đưa tin
Cựu Giám đốc Cục tình báo Trung ương Mỹ CIA, ông David Petraeus
Vì sao cựu Giám đốc CIA gọi ông Putin là 'món quà lớn nhất' dành cho NATO?
Trí Đức |
Cựu Giám đốc Cục tình báo Trung ương Mỹ CIA, ông David Petraeus đã gọi Tổng thống Nga Vladimir Putin là 'món quà lớn nhất' dành cho Liên minh quân sự Bắc Đại Tây Dương (NATO).
Tuyên bố trên được ông David Petraeus đưa ra tại hội nghị Đối
thoại Raisina (Raisina Dialogue), được tổ chức tại Ấn Độ do Trung tâm
phân tích Observer Research Foundation với sự hỗ trợ của chính phủ nước
này tổ chức.
Theo ông Petraeus, việc ông Putin lên nắm quyền lãnh đạo nước Nga đã mang lại cho liên minh NATO một "lý do mới để tồn tại".
Cựu
Giám đốc Cục tình báo Trung ương Mỹ CIA cũng cho rằng Washington sẽ
thách thức "trật tự địa chính trị mới", bao gồm cả sự giúp đỡ NATO. Bất
chấp các chỉ trích về liên minh quân sự này (NATO) của Tổng thống Mỹ
Donald Trump, Nhà Trắng vẫn tiếp tục phát triển kế hoạch tăng cường lực lượng quân sự Mỹ ở châu Âu.
Tổng thống Trump đã nhiều lần kêu gọi các thành viên của Liên minh quân sự NATO tăng chi tiêu quốc phòng.
Theo quyết định được đưa ra tại hội nghị thượng đỉnh của liên minh tại Bucharest (năm 2014), tất cả các quốc gia thành viên NATO cần đóng góp chi phí với tỉ lệ lên tới 2% GDP. Tuy nhiên, theo ước tính của NATO, từ năm 2017, trong số 29 thành viên của khối, chỉ có 6 quốc gia đạt mức chi tiêu này.
Trong
một diễn biến liên quan, trước đó, tờ DPA dẫn tuyên bố của Tổng thư ký
NATO Jens Stoltenberg cho biết Liên minh quân sự Bắc Đại Tây Dương
(NATO) cho Nga “cơ hội cuối cùng” để tái thực thi Hiệp ước loại bỏ tên
lửa tầm trung và tầm ngắn (INF) là trước tháng Hai năm nay.
Trả lời phỏng vấn DPA, Tổng thư ký NATO Jens Stoltenberg nói: "Nếu Nga không trở lại tuân thủ, thì sẽ gặp vấn đề lớn, Hiệp ước INF sẽ sụp đổ. Chúng tôi cho Nga cơ hội cuối cùng để bắt đầu tái thực hiện Hiệp ước. Nếu Nga không làm điều này, thì Hoa Kỳ tuyên bố họ sẽ rút lui hỏi Hiệp ước".
Tổng thư ký NATO nhấn mạnh, nếu xảy ra việc chấm dứt Hiệp ước INF, đương nhiên, chúng tôi sẽ phải đáp trả. NATO đã bắt đầu thảo luận xem, chính xác thì chúng tôi phải làm những gì. Chúng tôi sẽ đáp trả một cách tương xứng, nhưng vẫn còn quá sớm để nói nó là như thế nào. Đây là vấn đề hết sức nghiêm trọng".
Theo ông Petraeus, việc ông Putin lên nắm quyền lãnh đạo nước Nga đã mang lại cho liên minh NATO một "lý do mới để tồn tại".
Tổng thống Trump đã nhiều lần kêu gọi các thành viên của Liên minh quân sự NATO tăng chi tiêu quốc phòng.
Theo quyết định được đưa ra tại hội nghị thượng đỉnh của liên minh tại Bucharest (năm 2014), tất cả các quốc gia thành viên NATO cần đóng góp chi phí với tỉ lệ lên tới 2% GDP. Tuy nhiên, theo ước tính của NATO, từ năm 2017, trong số 29 thành viên của khối, chỉ có 6 quốc gia đạt mức chi tiêu này.
Trả lời phỏng vấn DPA, Tổng thư ký NATO Jens Stoltenberg nói: "Nếu Nga không trở lại tuân thủ, thì sẽ gặp vấn đề lớn, Hiệp ước INF sẽ sụp đổ. Chúng tôi cho Nga cơ hội cuối cùng để bắt đầu tái thực hiện Hiệp ước. Nếu Nga không làm điều này, thì Hoa Kỳ tuyên bố họ sẽ rút lui hỏi Hiệp ước".
Tổng thư ký NATO nhấn mạnh, nếu xảy ra việc chấm dứt Hiệp ước INF, đương nhiên, chúng tôi sẽ phải đáp trả. NATO đã bắt đầu thảo luận xem, chính xác thì chúng tôi phải làm những gì. Chúng tôi sẽ đáp trả một cách tương xứng, nhưng vẫn còn quá sớm để nói nó là như thế nào. Đây là vấn đề hết sức nghiêm trọng".
theo Infonet
10/01/2019
11:00
GMT+7
Lỗi giải mật làm lộ sự thật muốn giấu của Giám đốc CIA
Một văn bản được giải mật gần đây cho biết, Giám đốc CIA Gina Haspel là người phụ trách một nhà tù bí mật ở căn cứ hải quân Mỹ trên vịnh Guantanamo.
Bà
Gina điều hành nhà tù này vào những năm 2000, đúng thời điểm CIA tiến
hành chương trình tra tấn khét tiếng ở đây. Thông tin này đã làm lộ một
quãng thời gian trong sự nghiệp của bà Gina Haspel, điều mà bà ngần ngại
nói đến lúc được chọn làm Giám đốc CIA năm 2018.
Theo
McClatchy, tài liệu giải mật trên là một phần của bản chép từ băng ghi
âm cuộc điều trần bí mật diễn tại Guantanamo vào ngày 16/11/2018. Ở
trang 22.028, luật sư Rita Radostitz – đại diện cho nghi phạm vụ tấn
công khủng bố nước Mỹ hồi 2001 là Khalid Sheik Mohammed, đã gọi tên bà
Gina.
Luật sư này lập luận rằng, bà Gina cần phải ra
làm chứng trong phiên toà liên quan tới Khalid Sheikh Mohammed vì các
quy định giữ bí mật đã thay đổi rất nhiều dưới thời bà nắm quyền. Và
rằng, những lời chứng thực của bà Gina Haspel với tư cách là người phụ
trách một nhà tù bí mật tại Guantanamo – nơi Mohammed bị tra tấn vào đầu
những năm 2000 là cần thiết.
Báo cáo năm 2014 của Uỷ
ban tình báo Thượng viện Mỹ về vấn đề tra tấn cho hay, có hai “điểm đen”
(tên gọi của các nhà tù bí mật ở nước ngoài của CIA) ở Guantanamo mật
danh là “Maroon” và “Indigo”. Hai nhà tù này tách biệt với “Trại Delta” –
nhà tù được nhiều người biết tiếng hơn, nằm bên trong căn cứ hải quân
Mỹ ở Vịnh Guantanamo.
Việc bà Gina từng giám sát và phê chuẩn các
biện pháp tra tấn trước đây đã được đề cập. Giám đốc CIA hiện thời từng
là phụ trách một nhà tù bí mật của CIA ở Thái Lan hồi 2002. Vấn đề này
đã giữ một vai trò lớn trong các cuộc tranh cãi để thông qua đề cử bà
làm Giám đốc CIA hồi tháng 5/2018.
Trong thời gian phụ
trách nhà tù ở Thái Lan, chính bà đã giám sát việc tra tấn tù nhân và
việc này được cho là đã giúp bà hoàn thiện công thức “kỹ thuật thẩm vấn
tăng cường” như dìm đầu xuống nước.
Cựu nhân viên CIA,
người tiết lộ bí mật về tra tấn John Kiriakou cho hay, thông tin trên
không xung đột với những gì bà Gina thừa nhận vì hầu như bà không nói gì
nhiều tới khoảng thời gian làm việc tại CIA.
Ông John
Kiriakou cũng cho hay: “Nếu vào trang web của CIA, nhìn vào phần lý
lịch của bà Gina, thì nó cũng chỉ đề cập đơn giản là bà từng làm việc ở
CIA suốt 32 năm, phần lớn ở nước ngoài. Bà thích xem phim và khúc côn
cầu trên băng”.
Hoài Linh
Quân nhân Ukraine trong một cuộc tập trận
Những điệp viên hàng đầu của tình báo Xô Viết tại Israel
Hồng Sơn |
Trong thời kỳ Chiến tranh lạnh, Israel luôn là một địa bàn hoạt động quan trọng của tình báo Xô Viết, cho dù về mặt địa lý, quốc gia này không phải là một đối thủ có tầm quan trọng chiến lược. Trọng tâm các thông tin được khai thác tại đây chủ yếu tập trung vào những bí mật về công nghiệp quốc phòng của Mỹ nằm trong các vũ khí hiện đại trang bị cho Israel (vốn là một đồng minh thân cận nhất của Washington trong khu vực).
Siêu điệp viên Liên Xô Gordon Lonsdale Điệp viên Liên Xô bị thất sủng Cha đẻ thuyết tương đối và mối tình với nữ điệp viên Liên Xô
Những thông tin quan trọng còn lại thường được Moskva chuyển giao cho các đồng minh Arab, giúp họ có thể đối đầu hiệu quả hơn với quốc gia Do thái trong các cuộc chiến nổ ra tại khu vực. Trên thực tế, Liên Xô có 2 điệp viên đáng chú ý nhất tại mặt trận này …
Yisrael Bar – Điệp viên nổi tiếng nhất
Ông ta là điệp viên duy nhất của Liên Xô có khả năng xâm nhập sâu vào hàng ngũ giới lãnh đạo chính trị-quân sự của Israel: kết bạn với Thủ tướng David Ben-Gurion, tiếp cận được các tài liệu bí mật của quốc gia này và chỉ chút nữa đã trở thành phó tổng tham mưu trưởng quân đội. Ngay cả sau khi đã nghỉ hưu, Bar vẫn được đánh giá là một chuyên gia và nhà nghiên cứu sử học quân sự hàng đầu.
Các nhà nghiên cứu cho tới hiện nay vẫn chưa thể thống nhất được về chân dung thực sự của Yisrael Bar, cho dù đã trải qua cả nửa thế kỷ sau cái chết của ông trong tù.
Câu trả lời chuẩn xác cho những nghi vấn trên có lẽ chỉ nằm trong những tài liệu có dấu tuyệt mật trong kho lưu trữ của KGB. Những thông tin ban đầu cho biết, vào cuối hè năm 1938, sau khi phát xít Đức thôn tính nước Áo láng giềng, tại Jerusalem xuất hiện một chàng trai đeo kính đến từ Vienna, tự xưng là George Bar.
Sau
khi đổi tên thành Yisrael, anh ta vào học tại Đại học Do thái, đồng
thời gia nhập tổ chức quân sự bí mật Haganah của người Do thái. Theo lời
kể của Bar với những đồng đội mới, anh ta là một cựu sĩ quan quân đội
Áo, từng tham gia cả cuộc nội chiến Tây Ban Nha và chỉ huy cả một tiểu
đoàn.
Rất nhanh chóng, những kiến thức khá rộng của Bar về lịch sử quân sự, khả năng phân tích và tư duy mang tầm chiến lược của anh đã thu hút được sự quan tâm đặc biệt của nhiều lãnh đạo cao cấp của quân đội Israel về sau này – trong đó đáng chú ý có cả người sáng lập ra Haganah là Eliyahu Golomb và hai chỉ huy cao cấp khác là Yaakov Dori và Yigael Yadin, hai tổng tham mưu trưởng đầu tiên của Israel.
Cho đến năm 1949, Bar đã là chỉ huy Ban kế hoạch tác chiến trong Bộ tổng tham mưu quân đội Israel, đồng thời là trợ lý thân cận nhất của tướng Yigael Yadin – nhà lãnh đạo trẻ tuổi thứ hai trong lịch sử tại cơ quan quân sự trọng yếu này của Israel.
Dưới sự nâng đỡ của tướng Yadin, Bar đã nỗ lực hết sức để hy vọng trở thành nhân vật phó của ông ta. Việc bổ nhiệm đáng tiếc đã bị hủy bỏ vào đúng thời khắc cuối cùng vì một số nguyên nhân chính trị.
Bar có mối quan hệ quá thân cận với giới lãnh đạo của Đảng công nhân thống nhất Mapam theo đường lối cánh tả. Hậu quả khiến cho Bar buộc phải rời khỏi quân đội, dù cả đến thập kỷ sau (trước khi bị bại lộ vào đầu những năm 1960) ông vẫn được coi là một nhân vật rất có ảnh hưởng trong giới chức tướng lĩnh quân sự.
Vào
tháng 7 năm 1962, tức là sau khi Bar đã bị phát hiện, ra tòa và thú
nhận mọi chuyện, một tạp chí của Thụy Sĩ cho đăng tải một bài phỏng vấn
nhà văn người Anh Bernard Hutton, tác giả của nhiều cuốn sách có giá trị
về đề tài tình báo, đồng thời cũng là một cựu điệp viên Xôviết, người
khẳng định đã từng quen biết với Yisrael Bar.
Cụ thể theo lời Hutton, cả hai vào năm 1934 từng sống trong một ký túc xá dành cho các thành viên Quốc tế cộng sản tại Moskva. “Đồng chí Kurt”, tên gọi khi đó của Bar không phải là người Do thái, mà là một đảng viên Đảng cộng sản Áo. Kurt được giới lãnh đạo đánh giá khá cao, và được tuyển chọn đặc biệt để đào tạo cho một sứ mạng bí mật.
Ngay từ đầu những năm 1930, sau hai năm được huấn luyện, Kurt được cử tới Vienna. Cho đến khi Hutton gặp lại anh ta tại Vienna, Kurt đã trở thành một trong những điệp viên hàng đầu của tình báo Liên Xô tại Áo.
Vài năm sau, Kurt được gửi tới Tây Ban Nha, sau đó quay lại Vienna, đảm trách việc lãnh đạo mạng lưới tình báo tại thủ đô nước Áo.
Hutton còn khẳng định, Yisrael Bar trên thực tế là người Do thái, từng học tại Đại học tổng hợp Berlin, vào năm 1938 đã chạy trốn tới Vienna trước nguy cơ thanh trừng của phát xít Đức rồi mất tích. Kurt được cho là đã lấy danh tính của chính nhân vật này.
Isser Harel, chỉ huy bộ phận an ninh của Haganah (về sau trở thành giám đốc cơ quan tình báo Mossad) đã nghi ngờ Bar từ giữa những năm 1950. Tuy nhiên vào thời điểm đó, Bar đã trở thành một diễn giả khá nổi tiếng cả trong và ngoài nước, phụ trách nhiều chuyên mục bình luận quân sự trên nhiều tờ báo khác nhau.
Bar còn thử sức mình cả trong chính trị, trở thành ứng cử viên của đảng Mapam trong cuộc bầu cử đầu tiên vào quốc hội Israel, dù không thể thắng cử.
Lên nắm quyền điều hành Khoa lịch sử quân sự thuộc Trường đại học Tổng hợp Tel-Aviv, Bar bắt đầu thiết lập được mối quan hệ khá chặt chẽ với giới lãnh đạo quân đội Tây Đức, tìm mọi cách trở thành người điều phối hoạt động hợp tác giữa các cơ quan mật vụ Israel và Tây Đức.
Dù bị nghi ngờ từ lâu, nhưng nguyên nhân bại lộ của Bar bắt nguồn từ một sự việc khá tình cờ. Sau khi phản gián Israel phát hiện một nhà thờ tại khu vực Abu Kabir là một điểm gặp gỡ của các điệp viên KGB, họ bí mật tổ chức theo dõi thường xuyên. Kết quả đã phát hiện Bí thư thứ hai của đại sứ quán Liên Xô Vladimir Sokolov trao cặp tài liệu cho một người Israel nào đó, được xác định sau đó chính là Bar.
Trong quá trình thẩm vấn, ông ta chỉ thừa nhận được điệp viên Sergey Losevy, dưới vỏ bọc phóng viên Hãng thông tấn TASS của Liên Xô, tuyển mộ từ năm 1956. Bar thú nhận đã chuyển giao cho Moskva nhiều tài liệu quan trọng, chẳng hạn như thông tin chi tiết về căn cứ quân sự của Mỹ tại Thổ Nhĩ Kỳ.
Tin tức về vụ bắt giữ Bar đã gây ra một cơn sốc thực sự tại Israel. Tờ Maariv đã đặt tít bài viết là “Sét đánh ngang tai”, tạp chí “HaOlam HaZeh” còn phát hành cả một số riêng về đề tài trên. Năm 1962, Bar phải nhận bản án 10 năm tù.
Đơn kháng án của ông không những không được chấp nhận mà còn khiến bản án tăng thêm 5 năm. Trong tù, Bar còn kịp viết cuốn sách cuối cùng của mình với nhan đề “An ninh Israel: hôm qua, hôm nay và ngày mai”. Điệp viên nổi tiếng hàng đầu của Liên Xô tại Israel qua đời trong tù vào tháng 5 năm 1966 vì một cơn đột quỵ.
Shabtai Kalmanovich – Điệp viên thành công nhất
Thua kém Yisrael Bar về mức độ nổi tiếng trên chính trường Israel, nhưng Shabtai Kalmanovich lại nổi trội hơn nhờ sự hiệu quả và cả… khả năng kinh doanh.
Kalmanovich sinh năm 1947 tại Kaunas (Litva). Ông lọt vào mắt xanh của KGB kể từ khi gia nhập Trường đại học Bách khoa Kaunas. Rời khỏi ghế đại học, ông có một năm phục vụ trong quân đội, trước khi được cử đi đào tạo tại trường tình báo của KGB.
Năm
1971, gia đình Kalmanovich hồi hương về Israel, trước khi ông tiếp tục
vào học tại Đại học Tổng hợp Jerusalem, đồng thời bắt đầu bước chân vào
kinh doanh.
Hoạt động tình báo vốn cần có không ít tiền, còn bản thân tiền bạc cũng phải được hợp thức hóa. Kalmanovich khởi nghiệp tại châu Phi và nhanh chóng kiếm được hàng triệu đôla. Ông quay trở về Israel, đầu tư vào lĩnh vực công nghệ cao đang rất hứa hẹn vào lúc bấy giờ.
Trong khi các công ty của Kalmanovich chế tạo và buôn bán đồ điện tử, ông tiếp tục đầu tư vào ngành công nghệ sinh học của Israel.
Trong suốt 12 năm hoạt động cho tình báo Xôviết (từ năm 1974 cho tới khi bị bắt vào năm 1986), Kalmanovich đã chuyển cho Moskva rất nhiều thông tin có giá trị về các công nghệ mới nhất của Israel. Vụ bắt giữ nhà triệu phú này cũng là một thông tin gây bất ngờ lớn trong cộng đồng kinh doanh và nghiên cứu khoa học tại Israel.
Hiện vẫn chưa xác định rõ nguyên nhân nào đã dẫn tới việc Kalmanovich bị bắt giữ, khi cơ quan phản gián Israel không tiết lộ bất cứ thông tin nào cho tới thời điểm này. Các chuyên gia về cơ bản vẫn cho rằng, đó không phải là lỗi của bản thân ông, mà rất có thể cuộc khủng hoảng sâu sắc của Liên Xô từ đầu những năm 1980 đã dẫn tới kết cục này.
Một trong những giả thuyết cụ thể là một điệp viên Xôviết nào đó đã tiết lộ về Kalmanovich. Nhân vật này sắp kết thúc nhiệm kỳ công tác tại đây, dù rất mong tiếp tục được sống tại Israel. Kết quả là anh ta đã thỏa thuận với Cơ quan an ninh Shin Bet, khai báo một điệp viên quan trọng của Liên Xô để đổi lấy quốc tịch Israel.
Năm
1987, Kalmanovich ra tòa và nhận bản án 9 năm tù vì tội hoạt động gián
điệp. Việc Tổng thống Gorbachev khi đó đã công khai đề nghị sự khoan
hồng từ phía Israel thậm chí được coi là có hại hơn đối với Kalmanovich.
Vấn đề là ở chỗ, trong khi Moskva khẳng định rằng, điệp viên này chỉ chuyển giao cho Liên Xô “một vài công nghệ không đáng kể”, sự can thiệp trực tiếp của nguyên thủ quốc gia này đã gián tiếp nhấn mạnh tầm quan trọng của Kalmanovich.
Đến năm 1993, Kalmanovich được ân xá và trả tự do, nhiều khả năng do một thỏa thuận nào đó giữa cơ quan mật vụ hai nước. Lo ngại về nguy cơ phải hứng chịu những hằn thù đối với một cựu gián điệp, Kalmanovich quay về nước Nga, tiếp tục hoạt động kinh doanh và cũng rất nhanh chóng thành công.
Ngày 2-11-2009, Kalmanovich đã thiệt mạng một cách khá bi thảm, khi chiếc xe hơi của ông bị chặn và hứng trọn hàng loạt đạn súng tiểu liên ngay giữa trung tâm Moskva. Các nhà chức trách đã không thể xác định được kẻ đặt hàng, cũng như những kẻ trực tiếp thực hiện tội ác trên. Nguyên nhân được đánh giá nhiều khả năng là do những mâu thuẫn trong kinh doanh từ trước đó.
Một chi tiết khá thú vị là trước khi bị ám sát, Kalmanovich từng bày tỏ nguyện vọng được chôn cất tại Israel sau khi chết. Thể theo di nguyện trên, tro cốt của ông giờ đây được an táng tại một nghĩa trang tại thành phố Petah Tikva (Israel). Kalmanovich cho tới giờ vẫn được đánh giá là điệp viên thành công nhất của tình báo Xôviết tại Israel.
Những thông tin quan trọng còn lại thường được Moskva chuyển giao cho các đồng minh Arab, giúp họ có thể đối đầu hiệu quả hơn với quốc gia Do thái trong các cuộc chiến nổ ra tại khu vực. Trên thực tế, Liên Xô có 2 điệp viên đáng chú ý nhất tại mặt trận này …
Yisrael Bar – Điệp viên nổi tiếng nhất
Ông ta là điệp viên duy nhất của Liên Xô có khả năng xâm nhập sâu vào hàng ngũ giới lãnh đạo chính trị-quân sự của Israel: kết bạn với Thủ tướng David Ben-Gurion, tiếp cận được các tài liệu bí mật của quốc gia này và chỉ chút nữa đã trở thành phó tổng tham mưu trưởng quân đội. Ngay cả sau khi đã nghỉ hưu, Bar vẫn được đánh giá là một chuyên gia và nhà nghiên cứu sử học quân sự hàng đầu.
Các nhà nghiên cứu cho tới hiện nay vẫn chưa thể thống nhất được về chân dung thực sự của Yisrael Bar, cho dù đã trải qua cả nửa thế kỷ sau cái chết của ông trong tù.
Câu trả lời chuẩn xác cho những nghi vấn trên có lẽ chỉ nằm trong những tài liệu có dấu tuyệt mật trong kho lưu trữ của KGB. Những thông tin ban đầu cho biết, vào cuối hè năm 1938, sau khi phát xít Đức thôn tính nước Áo láng giềng, tại Jerusalem xuất hiện một chàng trai đeo kính đến từ Vienna, tự xưng là George Bar.
Rất nhanh chóng, những kiến thức khá rộng của Bar về lịch sử quân sự, khả năng phân tích và tư duy mang tầm chiến lược của anh đã thu hút được sự quan tâm đặc biệt của nhiều lãnh đạo cao cấp của quân đội Israel về sau này – trong đó đáng chú ý có cả người sáng lập ra Haganah là Eliyahu Golomb và hai chỉ huy cao cấp khác là Yaakov Dori và Yigael Yadin, hai tổng tham mưu trưởng đầu tiên của Israel.
Cho đến năm 1949, Bar đã là chỉ huy Ban kế hoạch tác chiến trong Bộ tổng tham mưu quân đội Israel, đồng thời là trợ lý thân cận nhất của tướng Yigael Yadin – nhà lãnh đạo trẻ tuổi thứ hai trong lịch sử tại cơ quan quân sự trọng yếu này của Israel.
Dưới sự nâng đỡ của tướng Yadin, Bar đã nỗ lực hết sức để hy vọng trở thành nhân vật phó của ông ta. Việc bổ nhiệm đáng tiếc đã bị hủy bỏ vào đúng thời khắc cuối cùng vì một số nguyên nhân chính trị.
Bar có mối quan hệ quá thân cận với giới lãnh đạo của Đảng công nhân thống nhất Mapam theo đường lối cánh tả. Hậu quả khiến cho Bar buộc phải rời khỏi quân đội, dù cả đến thập kỷ sau (trước khi bị bại lộ vào đầu những năm 1960) ông vẫn được coi là một nhân vật rất có ảnh hưởng trong giới chức tướng lĩnh quân sự.
Cụ thể theo lời Hutton, cả hai vào năm 1934 từng sống trong một ký túc xá dành cho các thành viên Quốc tế cộng sản tại Moskva. “Đồng chí Kurt”, tên gọi khi đó của Bar không phải là người Do thái, mà là một đảng viên Đảng cộng sản Áo. Kurt được giới lãnh đạo đánh giá khá cao, và được tuyển chọn đặc biệt để đào tạo cho một sứ mạng bí mật.
Ngay từ đầu những năm 1930, sau hai năm được huấn luyện, Kurt được cử tới Vienna. Cho đến khi Hutton gặp lại anh ta tại Vienna, Kurt đã trở thành một trong những điệp viên hàng đầu của tình báo Liên Xô tại Áo.
Vài năm sau, Kurt được gửi tới Tây Ban Nha, sau đó quay lại Vienna, đảm trách việc lãnh đạo mạng lưới tình báo tại thủ đô nước Áo.
Hutton còn khẳng định, Yisrael Bar trên thực tế là người Do thái, từng học tại Đại học tổng hợp Berlin, vào năm 1938 đã chạy trốn tới Vienna trước nguy cơ thanh trừng của phát xít Đức rồi mất tích. Kurt được cho là đã lấy danh tính của chính nhân vật này.
Isser Harel, chỉ huy bộ phận an ninh của Haganah (về sau trở thành giám đốc cơ quan tình báo Mossad) đã nghi ngờ Bar từ giữa những năm 1950. Tuy nhiên vào thời điểm đó, Bar đã trở thành một diễn giả khá nổi tiếng cả trong và ngoài nước, phụ trách nhiều chuyên mục bình luận quân sự trên nhiều tờ báo khác nhau.
Bar còn thử sức mình cả trong chính trị, trở thành ứng cử viên của đảng Mapam trong cuộc bầu cử đầu tiên vào quốc hội Israel, dù không thể thắng cử.
Lên nắm quyền điều hành Khoa lịch sử quân sự thuộc Trường đại học Tổng hợp Tel-Aviv, Bar bắt đầu thiết lập được mối quan hệ khá chặt chẽ với giới lãnh đạo quân đội Tây Đức, tìm mọi cách trở thành người điều phối hoạt động hợp tác giữa các cơ quan mật vụ Israel và Tây Đức.
Dù bị nghi ngờ từ lâu, nhưng nguyên nhân bại lộ của Bar bắt nguồn từ một sự việc khá tình cờ. Sau khi phản gián Israel phát hiện một nhà thờ tại khu vực Abu Kabir là một điểm gặp gỡ của các điệp viên KGB, họ bí mật tổ chức theo dõi thường xuyên. Kết quả đã phát hiện Bí thư thứ hai của đại sứ quán Liên Xô Vladimir Sokolov trao cặp tài liệu cho một người Israel nào đó, được xác định sau đó chính là Bar.
Trong quá trình thẩm vấn, ông ta chỉ thừa nhận được điệp viên Sergey Losevy, dưới vỏ bọc phóng viên Hãng thông tấn TASS của Liên Xô, tuyển mộ từ năm 1956. Bar thú nhận đã chuyển giao cho Moskva nhiều tài liệu quan trọng, chẳng hạn như thông tin chi tiết về căn cứ quân sự của Mỹ tại Thổ Nhĩ Kỳ.
Tin tức về vụ bắt giữ Bar đã gây ra một cơn sốc thực sự tại Israel. Tờ Maariv đã đặt tít bài viết là “Sét đánh ngang tai”, tạp chí “HaOlam HaZeh” còn phát hành cả một số riêng về đề tài trên. Năm 1962, Bar phải nhận bản án 10 năm tù.
Đơn kháng án của ông không những không được chấp nhận mà còn khiến bản án tăng thêm 5 năm. Trong tù, Bar còn kịp viết cuốn sách cuối cùng của mình với nhan đề “An ninh Israel: hôm qua, hôm nay và ngày mai”. Điệp viên nổi tiếng hàng đầu của Liên Xô tại Israel qua đời trong tù vào tháng 5 năm 1966 vì một cơn đột quỵ.
Shabtai Kalmanovich – Điệp viên thành công nhất
Thua kém Yisrael Bar về mức độ nổi tiếng trên chính trường Israel, nhưng Shabtai Kalmanovich lại nổi trội hơn nhờ sự hiệu quả và cả… khả năng kinh doanh.
Kalmanovich sinh năm 1947 tại Kaunas (Litva). Ông lọt vào mắt xanh của KGB kể từ khi gia nhập Trường đại học Bách khoa Kaunas. Rời khỏi ghế đại học, ông có một năm phục vụ trong quân đội, trước khi được cử đi đào tạo tại trường tình báo của KGB.
Shabtai Kalmanovich (trái) và Berel Lazar - nhà lãnh đạo cộng đồng Do thái giáo tại Nga (ảnh chụp năm 2004).
Hoạt động tình báo vốn cần có không ít tiền, còn bản thân tiền bạc cũng phải được hợp thức hóa. Kalmanovich khởi nghiệp tại châu Phi và nhanh chóng kiếm được hàng triệu đôla. Ông quay trở về Israel, đầu tư vào lĩnh vực công nghệ cao đang rất hứa hẹn vào lúc bấy giờ.
Trong khi các công ty của Kalmanovich chế tạo và buôn bán đồ điện tử, ông tiếp tục đầu tư vào ngành công nghệ sinh học của Israel.
Trong suốt 12 năm hoạt động cho tình báo Xôviết (từ năm 1974 cho tới khi bị bắt vào năm 1986), Kalmanovich đã chuyển cho Moskva rất nhiều thông tin có giá trị về các công nghệ mới nhất của Israel. Vụ bắt giữ nhà triệu phú này cũng là một thông tin gây bất ngờ lớn trong cộng đồng kinh doanh và nghiên cứu khoa học tại Israel.
Hiện vẫn chưa xác định rõ nguyên nhân nào đã dẫn tới việc Kalmanovich bị bắt giữ, khi cơ quan phản gián Israel không tiết lộ bất cứ thông tin nào cho tới thời điểm này. Các chuyên gia về cơ bản vẫn cho rằng, đó không phải là lỗi của bản thân ông, mà rất có thể cuộc khủng hoảng sâu sắc của Liên Xô từ đầu những năm 1980 đã dẫn tới kết cục này.
Một trong những giả thuyết cụ thể là một điệp viên Xôviết nào đó đã tiết lộ về Kalmanovich. Nhân vật này sắp kết thúc nhiệm kỳ công tác tại đây, dù rất mong tiếp tục được sống tại Israel. Kết quả là anh ta đã thỏa thuận với Cơ quan an ninh Shin Bet, khai báo một điệp viên quan trọng của Liên Xô để đổi lấy quốc tịch Israel.
Thi thể Shabtai Kalmanovich được đưa ra khỏi xe sau vụ ám sát ngay tại trung tâm Moskva vào năm 2009.
Vấn đề là ở chỗ, trong khi Moskva khẳng định rằng, điệp viên này chỉ chuyển giao cho Liên Xô “một vài công nghệ không đáng kể”, sự can thiệp trực tiếp của nguyên thủ quốc gia này đã gián tiếp nhấn mạnh tầm quan trọng của Kalmanovich.
Đến năm 1993, Kalmanovich được ân xá và trả tự do, nhiều khả năng do một thỏa thuận nào đó giữa cơ quan mật vụ hai nước. Lo ngại về nguy cơ phải hứng chịu những hằn thù đối với một cựu gián điệp, Kalmanovich quay về nước Nga, tiếp tục hoạt động kinh doanh và cũng rất nhanh chóng thành công.
Ngày 2-11-2009, Kalmanovich đã thiệt mạng một cách khá bi thảm, khi chiếc xe hơi của ông bị chặn và hứng trọn hàng loạt đạn súng tiểu liên ngay giữa trung tâm Moskva. Các nhà chức trách đã không thể xác định được kẻ đặt hàng, cũng như những kẻ trực tiếp thực hiện tội ác trên. Nguyên nhân được đánh giá nhiều khả năng là do những mâu thuẫn trong kinh doanh từ trước đó.
Một chi tiết khá thú vị là trước khi bị ám sát, Kalmanovich từng bày tỏ nguyện vọng được chôn cất tại Israel sau khi chết. Thể theo di nguyện trên, tro cốt của ông giờ đây được an táng tại một nghĩa trang tại thành phố Petah Tikva (Israel). Kalmanovich cho tới giờ vẫn được đánh giá là điệp viên thành công nhất của tình báo Xôviết tại Israel.
theo An ninh Thế giới
Cựu tướng tình báo Ukraine đánh giá khả năng xảy ra chiến tranh Nga-Ukraine
Trí Đức |
Trong một cuộc phỏng vấn với “Faktam”, cựu trung tướng tình báo đối ngoại Ukraine, Vasily Bogdan cho biết xác suất bắt đầu một cuộc chiến giữa Nga và Ukraine là rất nhỏ.
Theo tướng Vasily Bogdan, cuộc chiến giữa hai nước Nga và Ukraine
sẽ không xảy ra trước cuộc bầu cử Tổng thống ở Ukraine. Cuộc bầu cử
Tổng thống Ukraine sẽ được tổ chức tại Ukraine vào ngày 31/3/2019.
Chiến dịch tranh cử bắt đầu từ ngày 31/12/2018.
Ông Vasily Bogdan cho rằng Điện Kremlin hy vọng sẽ có thay đổi véc tơ chính trị ở Kiev. Tuy nhiên, tướng Bogdan nhấn mạnh, ngay cả sau cuộc bầu cử Tổng thống ở Ukraine, bất kể kết quả của cuộc bầu cử này như thế nào, sẽ không có chiến tranh toàn diện Nga - Ukraine.
Ngoài ra, vị tướng Ukraine cũng bày tỏ quan điểm rằng chiến tranh Nga - Ukraine chỉ có thể xảy ra trong trường hợp bị quân đội Nga tấn công trước.
Theo ông Vasily Bogdan, Bộ Tổng tham mưu các lực lượng vũ trang Ukraine đang xem xét khả năng tiến hành một hoạt động quân sự để đưa Donbass – miền đông Ukraine trở lại dưới quyền kiểm soát của Kiev.
Trước đó, ngoại trưởng Ukraine Pavlo Klimkin ngày 11/1 tuyên bố Nga "sẽ làm tất cả để chia tách Ukraine, bằng cách nào đó chia rẽ Ukraine hơn nữa".
Phát biểu với hãng thông tấn Baltic trong chuyến thăm Litva, Ngoại trưởng Pavlo Klimkin cho biết Moscow không muốn "có một Ukraine tự do và dân chủ" và Kiev cần "sự hỗ trợ về quân sự, chính trị và kinh tế để chiến đấu chống lại âm mưu của Nga 'bóp nghẹt' miền Nam Ukraine bằng cách chặn đường vào Biển Azov".
Hồi tháng 11/2018, một tàu của lực lượng bảo vệ bờ biển Nga đã bắn và bắt giữ 3 tàu của hải quân Ukraine khi những tàu này di chuyển từ thành phố Odessa trên Biển Đen tới Mariupol. Nga đã sáp nhập Bán đảo Crimea hồi năm 2014, một động thái mà Ukraine và phần lớn thế giới cho là bất hợp pháp.
Theo kết quả cuộc khảo sát do Viện Nghiên cứu và Dự báo Ukraine công bố ngày 11/1, 62% người dân Ukraine tin rằng đất nước này đang lầm đường.
Cuộc khảo sát cho biết thêm, chỉ có 28% người được hỏi tin rằng Ukraine đang đi theo con đường đúng đắn, và 10% người được hỏi không đưa ra câu trả lời rõ ràng.
Theo dự báo gần đây nhất của Ngân hàng Thế giới (WB), tốc độ tăng trưởng GDP ở Ukraine sẽ xuống còn 2,9%, giảm mạnh so với mức dự báo 3,5% mà tổ chức này đưa ra hồi tháng 10 năm ngoái.
Ông Vasily Bogdan cho rằng Điện Kremlin hy vọng sẽ có thay đổi véc tơ chính trị ở Kiev. Tuy nhiên, tướng Bogdan nhấn mạnh, ngay cả sau cuộc bầu cử Tổng thống ở Ukraine, bất kể kết quả của cuộc bầu cử này như thế nào, sẽ không có chiến tranh toàn diện Nga - Ukraine.
Ngoài ra, vị tướng Ukraine cũng bày tỏ quan điểm rằng chiến tranh Nga - Ukraine chỉ có thể xảy ra trong trường hợp bị quân đội Nga tấn công trước.
Theo ông Vasily Bogdan, Bộ Tổng tham mưu các lực lượng vũ trang Ukraine đang xem xét khả năng tiến hành một hoạt động quân sự để đưa Donbass – miền đông Ukraine trở lại dưới quyền kiểm soát của Kiev.
Trước đó, ngoại trưởng Ukraine Pavlo Klimkin ngày 11/1 tuyên bố Nga "sẽ làm tất cả để chia tách Ukraine, bằng cách nào đó chia rẽ Ukraine hơn nữa".
Phát biểu với hãng thông tấn Baltic trong chuyến thăm Litva, Ngoại trưởng Pavlo Klimkin cho biết Moscow không muốn "có một Ukraine tự do và dân chủ" và Kiev cần "sự hỗ trợ về quân sự, chính trị và kinh tế để chiến đấu chống lại âm mưu của Nga 'bóp nghẹt' miền Nam Ukraine bằng cách chặn đường vào Biển Azov".
Hồi tháng 11/2018, một tàu của lực lượng bảo vệ bờ biển Nga đã bắn và bắt giữ 3 tàu của hải quân Ukraine khi những tàu này di chuyển từ thành phố Odessa trên Biển Đen tới Mariupol. Nga đã sáp nhập Bán đảo Crimea hồi năm 2014, một động thái mà Ukraine và phần lớn thế giới cho là bất hợp pháp.
Theo kết quả cuộc khảo sát do Viện Nghiên cứu và Dự báo Ukraine công bố ngày 11/1, 62% người dân Ukraine tin rằng đất nước này đang lầm đường.
Cuộc khảo sát cho biết thêm, chỉ có 28% người được hỏi tin rằng Ukraine đang đi theo con đường đúng đắn, và 10% người được hỏi không đưa ra câu trả lời rõ ràng.
Theo dự báo gần đây nhất của Ngân hàng Thế giới (WB), tốc độ tăng trưởng GDP ở Ukraine sẽ xuống còn 2,9%, giảm mạnh so với mức dự báo 3,5% mà tổ chức này đưa ra hồi tháng 10 năm ngoái.
theo Infonet
Xôn xao về tính năng giúp biến iPhone và AirPods trở thành thiết bị gián điệp
VietTimes
– Một người dùng Twitter bất chợt phát hiện ra một tính năng có thể biến iPhone
và AirPods thành thiết bị gián điệp. Anh này đã đăng “phát hiện” trên Twitter
và nó đã được chia sẻ tới 47.000 lần.
Khi sản xuất iPhone, Apple đã cài đặt một số
tính năng ẩn. Một trong số các tính năng ấy vừa được người dùng phát
hiện và đang được chia sẻ với tốc độ chóng mặt trên Twitter.
Đây là tính năng mà người dùng có thể sử dụng iPhone như một thiết bị nghe lén, bằng cách đặt iPhone ở nơi cần thu âm, và nghe lại các âm thanh mà iPhone thu được bằng tai nghe không dây AirPods. Tính năng này gọi là “Live Listen”.
Thực chất thì đây là tính năng mà Apple muốn hỗ trợ những người khiếm thính để họ có thể nghe những người khác nói qua máy trợ thính hoặc AirPods. Tính năng này đặc biệt hữu ích ở những môi trường nhiều tiếng ồn, như trong nhà hàng hay trong giảng đường.
Bạn hãy tưởng tượng khi bạn muốn nghe một ai đó nói mà môi trường xung quanh ồn ào, bạn có thể đặt iPhone gần người đó, bật tính năng “Live Listen”, sau đó thông qua kết nối Bluetooth đến tai nghe AirPods mà bạn có thể nghe rõ ràng những gì người kia đang nói.
Tất nhiên, Apple không có ý định sử dụng tính năng này để thay thế
cho máy trợ thính, vốn có giá hàng nghìn USD. “Táo khuyết” chỉ muốn hỗ
trợ những người có thính giác không tốt, hoặc người dùng cần nghe tốt
hơn trong môi trường ồn ào.
Nhưng rất nhiều người, sau khi biết đến tính năng này, đã lo ngại rằng iPhone và AirPods có thể bị sử dụng vào mục đích nghe lén. Ngay cả người phát hiện ra tính năng này cũng nói rằng nó có thể bị sử dụng để gian lận trong các kỳ thi kiểm tra.
Nếu bạn không có ý định nghe lén mà muốn trò chuyện với bạn bè trong môi trường nhiều tiếng ồn, bạn có thể kích hoạt tính năng “Live Listen” theo các bước dưới đây:
Vào thực đơn Cài đặt (Settings) > Trung tâm Điều khiển (Control Center) > Tùy chỉnh điều khiển (Customize Controls), bật Thính giác (Hearing).
Sau đó đặt AirPods vào tai của bạn. Vuốt lên hoặc xuống để truy cập
Trung tâm Điều khiển và bấm vào biểu tượng cái tai. Lúc này tai nghe sẽ
phát âm thanh “Live Listen On”.
Để có được âm thanh nghe rõ ràng từ AirPods, bạn chỉ cần đặt micro
của iPhone hướng về nguồn phát âm thanh. Tất nhiên bạn cũng không thể
đặt điện thoại quá xa mình, vì âm thanh được truyền qua Bluetooth mà
khoảng cách để Bluetooth hoạt động tốt là dưới 7 mét. Bạn hãy sử dụng
tính năng này một cách có trách nhiệm, đừng dùng nó để gian lận.
Đây là tính năng mà người dùng có thể sử dụng iPhone như một thiết bị nghe lén, bằng cách đặt iPhone ở nơi cần thu âm, và nghe lại các âm thanh mà iPhone thu được bằng tai nghe không dây AirPods. Tính năng này gọi là “Live Listen”.
Thực chất thì đây là tính năng mà Apple muốn hỗ trợ những người khiếm thính để họ có thể nghe những người khác nói qua máy trợ thính hoặc AirPods. Tính năng này đặc biệt hữu ích ở những môi trường nhiều tiếng ồn, như trong nhà hàng hay trong giảng đường.
Bạn hãy tưởng tượng khi bạn muốn nghe một ai đó nói mà môi trường xung quanh ồn ào, bạn có thể đặt iPhone gần người đó, bật tính năng “Live Listen”, sau đó thông qua kết nối Bluetooth đến tai nghe AirPods mà bạn có thể nghe rõ ràng những gì người kia đang nói.
Người dùng chia sẻ về tính năng "Live Listen"
|
Nhưng rất nhiều người, sau khi biết đến tính năng này, đã lo ngại rằng iPhone và AirPods có thể bị sử dụng vào mục đích nghe lén. Ngay cả người phát hiện ra tính năng này cũng nói rằng nó có thể bị sử dụng để gian lận trong các kỳ thi kiểm tra.
Nếu bạn không có ý định nghe lén mà muốn trò chuyện với bạn bè trong môi trường nhiều tiếng ồn, bạn có thể kích hoạt tính năng “Live Listen” theo các bước dưới đây:
Vào thực đơn Cài đặt (Settings) > Trung tâm Điều khiển (Control Center) > Tùy chỉnh điều khiển (Customize Controls), bật Thính giác (Hearing).
Nhận xét
Đăng nhận xét