CUỘC CHIẾN THẦN THÁNH 44/3
-Xét
được sống còn trong no đủ là mưu cầu cơ bản và ước nguyện chính đáng
của mọi cuộc đời, thì sẽ phân biệt được chiến tranh phi nghĩa và chiến
tranh chính nghĩa, sự phòng vệ chính đáng cũng như sự bắt buộc hạ sát
lực lượng đối kháng. Và khi phải hành động xả thân vì lẽ phải, con người
trở nên vô cùng cao quí.
-Nhưng xét trên bình diện đánh giá sự sống là thứ quí giá nhất trên đời, thì giết chóc lẫn nhau, dù là giết chóc bắt buộc, là hành động điên rồ tột bậc của con người và chiến tranh, dù là chiến tranh chính nghĩa, vẫn là sự ngu xuẩn vô hạn, dù là sự ngu xuẩn tự giác, nhân danh bảo vệ sự sống!
-Đứng lên trên tất cả mà phán xét, thì:
trí tuệ siêu việt của con người thậm ngu ngốc!
-Chân lý là đây:
Chiến tranh là mệnh lệnh tối thượng của tự nhiên mù quáng đối với trí tuệ sáng suốt của loài người: hãy giết chóc lẫn nhau!
-Mục đích của mọi cuộc chiến tranh, của mọi phía xung đột đều là danh lợi.
-Xét như thế mới hiểu được vì sao một dân tộc nhỏ bé, lạc hậu dám kiên quyết tiến hành chiến tranh với một siêu cường để giành lấy sự sống, thoát kiếp nô lệ.
-Và nhất là khi dân tộc đó giành được thắng lợi, thì thắng lợi đó như là của thần thánh.
-Như vậy, muốn không còn chiến tranh nữa, con người phải thực sự phải biết tôn sùng cuộc sống, coi cuộc sống là thứ tối thượng, không được xâm phạm, hoặc không còn lòng tham và tính tư hữu hoặc trở lại suy nghĩ tăm tối như hươu, nai, hoặc triệt tiêu hận thù.
-Nhưng hết chiến tranh rồi, xã hội loài người có hết bạo tàn, giết chóc lẫn nhau?
-Và vô cớ tàn sát sinh linh, con người có phải là loài ác độc nhất trong muôn loài sinh vật!?
-Chiến tranh, dù có thần thánh đến mấy, thì cũng là hành động mang hơi hám của ác quỉ!
-----------------------------------------------------------------
(ĐC sưu tầm trên NET)
-Nhưng xét trên bình diện đánh giá sự sống là thứ quí giá nhất trên đời, thì giết chóc lẫn nhau, dù là giết chóc bắt buộc, là hành động điên rồ tột bậc của con người và chiến tranh, dù là chiến tranh chính nghĩa, vẫn là sự ngu xuẩn vô hạn, dù là sự ngu xuẩn tự giác, nhân danh bảo vệ sự sống!
-Đứng lên trên tất cả mà phán xét, thì:
trí tuệ siêu việt của con người thậm ngu ngốc!
-Chân lý là đây:
Chiến tranh là mệnh lệnh tối thượng của tự nhiên mù quáng đối với trí tuệ sáng suốt của loài người: hãy giết chóc lẫn nhau!
-Mục đích của mọi cuộc chiến tranh, của mọi phía xung đột đều là danh lợi.
-Xét như thế mới hiểu được vì sao một dân tộc nhỏ bé, lạc hậu dám kiên quyết tiến hành chiến tranh với một siêu cường để giành lấy sự sống, thoát kiếp nô lệ.
-Và nhất là khi dân tộc đó giành được thắng lợi, thì thắng lợi đó như là của thần thánh.
-Như vậy, muốn không còn chiến tranh nữa, con người phải thực sự phải biết tôn sùng cuộc sống, coi cuộc sống là thứ tối thượng, không được xâm phạm, hoặc không còn lòng tham và tính tư hữu hoặc trở lại suy nghĩ tăm tối như hươu, nai, hoặc triệt tiêu hận thù.
-Nhưng hết chiến tranh rồi, xã hội loài người có hết bạo tàn, giết chóc lẫn nhau?
-Và vô cớ tàn sát sinh linh, con người có phải là loài ác độc nhất trong muôn loài sinh vật!?
-Chiến tranh, dù có thần thánh đến mấy, thì cũng là hành động mang hơi hám của ác quỉ!
-----------------------------------------------------------------
(ĐC sưu tầm trên NET)
Việt Nam Thiên Lịch Sử Truyền Hình Tập 3
Những tội ác chiến tranh được các nhân chứng và nhà nghiên cứu độc lập ghi nhận
(An Ninh Quốc Phòng) - Xem lại các kỳ trước:
Chiến tranh tâm lý của chính phủ Mỹ
thường đi kèm với các tội ác chiến tranh của quân đội Mỹ để khủng bố tâm
lý đối thủ, và đe dọa, gieo rắc sợ hãi cho nhân dân bản xứ, để họ không
còn dám tiếp tế, giúp đỡ, nuôi giấu lực lượng kháng chiến bản địa.
Để tạo điều kiện dễ dàng, thuận tiện, tự
do nhất cho sự hoạt động quân sự của binh sĩ Mỹ, chính phủ Hoa Kỳ đã tự
đặt ra luật Free-fire-zone (vùng bắn phá tự do) trên đất Việt Nam. Theo
Dictionary of the Vietnam War (Tự điển thuật ngữ về Chiến tranh Việt
Nam) do cựu quân nhân Chiến tranh Việt Nam, nhà nghiên cứu lịch sử quân
sự Hoa Kỳ James S. Olson biên soạn, Greenwood Press xuất bản năm 1988,
và Crimes of War: What the Public Should Know (Tội ác chiến tranh: Những
gì công chúng nên biết) của nhà nghiên cứu sử học Lewis M. Simmons, do
nhóm Roy Gutman xuất bản năm 1999, thì Vùng bắn phá tự do là vùng được
bắn vào mục tiêu (bao gồm khu vực, người và vật) mà không cần được cho
phép trước.
Tài liệu hướng dẫn chiến trường (field manual) FM 6-20 định nghĩa như sau: “Một khu vực được xác định cụ thể mà tại đó, mọi hệ thống vũ khí đều có thể bắn mà không cần chỉ thị của các sở chỉ huy.
Sở chỉ huy MACV tại Việt Nam đã dựa vào
giả định rằng tất cả các lực lượng bạn đã rời khỏi khu vực, và đã thiết
lập một chính sách xác định các vùng bắn phá tự do là các khu vực mà:
- Bất cứ ai xuất hiện quanh đó đều được coi là một binh sĩ đối phương.
- Binh lính được phép bắn bất cứ ai di động sau giờ giới nghiêm mà không cần phải chắc chắn rằng người này có thái độ thù nghịch.
Chính sách này đã vi phạm hiệp định
Genève 1954, hiến chương Liên Hiệp Quốc và luật pháp quốc tế, cũng như
những quy định liên quan đến tội ác chiến tranh và nhân quyền.
Đế quốc Mỹ đã huy động vào cuộc chiến
tranh xâm lược Việt Nam một khối lượng bom đạn, vật chất kỹ thuật chưa
từng có trên một địa bàn hẹp; sử dụng mọi loại vũ khí hiện đại và dã man
nhất; đưa số quân Mỹ vào miền Nam lên đến gần 60 vạn quân. Chính quyền
Mỹ đã thực hiện mọi chiến lược, chiến thuật về chính trị, quân sự, ngoại
giao, dùng những thủ đoạn chiến tranh tàn bạo nhất; bao vây phong tỏa,
khủng bố toàn diện, tàn phá kinh tế, triệt hạ làng xóm, nông thôn và đô
thị, tiêu diệt con người, hủy diệt môi trường thiên nhiên…. Nhà Trắng và
Lầu Năm Góc đã đưa ra các chiến lược gia, các chuyên gia chính trị –
quân sự – khoa học, các tướng lĩnh bậc nhất của họ để đấu trí với Việt
Nam.
Số bom đạn quân đội Mỹ dùng để tàn phá
Việt Nam là 7.822.547 tấn, gần gấp 3 lần bom Mỹ dùng trong Thế chiến II,
hơn gấp 10 lần chiến tranh Triều Tiên, gấp 47 lần số bom Mỹ ném xuống
Nhật Bản.
Trong cuộc chiến tranh xâm lược này, Mỹ
đã sử dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật quân sự mới nhất. Các vũ
khí và phương tiện chiến tranh tiên tiến nhất luôn được đem vào sử dụng
trên chiến trường Việt Nam (trừ vũ khí hạt nhân), như máy bay B-52, máy
bay F-111, các loại trinh sát cơ động cao hỏa lực mạnh, các loại phương
tiện gây nhiễu và chống nhiễu, các loại bom chùm, bom bi, bom napan,
chất độc hóa học….
Trong lịch sử chiến tranh thế giới, chưa
bao giờ và chưa có nơi nào trên trái đất đã diễn ra một cuộc tàn sát,
hủy diệt kéo dài với quy mô rộng lớn trên một diện tích nhỏ hẹp như cuộc
chiến tranh Mỹ đã tiến hành ở Việt Nam. Với việc sử dụng không hạn chế
bom đạn, chất độc hoá học và những vũ khí hủy diệt hàng loạt, Mỹ đã đánh
vào đời sống vật chất, tinh thần, văn hóa của dân tộc Việt Nam, tiêu
diệt môi trường sống của sinh vật trên đất nước Việt Nam.
Những hung thủ sát nhân trong vụ thảm sát
làng Sơn Mỹ chấn động thế giới thời bấy giờ, sau này trả lời phỏng vấn
đài phát thanh BBC 4 thì họ (trung úy William Calley, tướng William
Peers v.v.) cũng phải thú nhận họ chỉ là những kẻ thừa hành, họ nhận
lệnh cấp trên để gây ra những tội ác chiến tranh đó, và tuyên bố xin lỗi
các nạn nhân và nhân dân Việt Nam.
Theo bài báo My Lai: A Question of Orders
(Mỹ Lai: Một câu hỏi về những quân lệnh) trên tuần báo Time, đại tá
Oran Henderson đã ra lệnh phải “xóa sạch chúng”. Trong tác phẩm nghiên
cứu My Lai: An American Tragedy (Mỹ Lai: Bi kịch của người Mỹ) của cựu
quân nhân Chiến tranh Việt Nam, giáo sư luật học tại Đại học
Missouri-Kansas City, luật sư William George Eckhardt, xuất bản năm
2000, tóm tắt lại bản báo cáo của tướng William Peers, trong đó ghi rõ
chi tiết Trung tá Frank A. Barker ra lệnh cho các chỉ huy của Tiểu đoàn 1
đốt trụi làng, giết sạch con người và gà, chó, đốt sạch các kho lương
thực và đầu độc các giếng nước.
Một số binh sĩ của Đại đội Charlie sau
này đã khai rằng Đại úy Ernest Medina ra lệnh cho họ giết tất cả những
người dân “khả nghi”, bao gồm cả phụ nữ, trẻ em, người già v.v. họ đốt
làng, phá hủy lương thực và đầu độc giếng nước.
Trả lời phỏng vấn BBC News Anh ngữ tháng 3 năm 2008, sĩ quan Celina Dunlop tự thú: “Đa phần lính trong đơn vị tôi không coi người Việt Nam là loài người.”. Trong Thư viện Tội ác chiến tranh ở Mỹ, có tài liệu “Into the Dark: The My Lai Massacre”
(Vùi sâu vào trong bóng tối: Cuộc thảm sát Mỹ Lai), trong đó có nói về
một phi công trực thăng bay trên khu vực làng Mỹ Lai (Sơn Mỹ) đã thốt: “Quang cảnh phía dưới trông như một biển máu! Cái quái gì đang xảy ra thế?”.
Lúc đầu, Mỹ che giấu thông tin và bịa đặt ra là mình chỉ giết cộng sản, giết lính, giết Việt Cộng, bịa ra những “cuộc đọ súng ác liệt”, “trận đánh đẫm máu”,
nhưng sau đó một số người lính tham dự đã không kín miệng, sự việc rò
rỉ, báo chí và phóng viên chiến trường khắp thế giới vào cuộc, dư luận
quốc tế gây sức ép quyết liệt, nên quân đội Mỹ đành phải đưa 1 kẻ thủ ác
“ra tòa”. Nhưng chỉ xử qua loa chiếu lệ.
Chỉ huy Lữ đoàn Henderson là Trung úy
William Calley, ông ta là người duy nhất phải ra tòa án binh từ trước
tới nay sau hàng trăm vụ thảm sát lớn nhỏ do quân đội Mỹ và các đồng
minh, chư hầu gây ra ở Việt Nam, như các cuộc thảm sát Sơn Mỹ, Thạnh
Phong, Bình Hòa, Định Tường, Kiến Hòa, Gò Công, Hà My, Thái Bình, Phong
Nhi và Phong Nhất v.v..
Ban đầu Calley “ra tòa” không phải về tội giết dân thường, hay tội ra lệnh tàn sát thường dân, mà về tội “che giấu thông tin”,
sau đó được tuyên bố trắng án. 10 tháng sau, do dư luận Việt Nam, Hoa
Kỳ và quốc tế làm lớn, áp lực chính trị căng thẳng, Mỹ đành phải lôi
Trung úy Calley ra tòa và bị tuyên án “chung thân” nhưng chỉ 2
ngày sau đó Tổng thống Nixon đã ra lệnh thả Calley. Cuối cùng Calley chỉ
phải chịu án 4 tháng ngồi tù quân sự tại bang Kansas. Theo tài liệu
“War Crimes: Brutality, Genocide, Terror, and the Struggle for Justice”
(“Tội ác chiến tranh: Khủng khiếp, Diệt chủng, Khủng bố, và sự tranh
đấu vì công lý”) của tác giả Neier, NXB Random House, trong thời
gian này hắn vẫn được bạn gái thăm nuôi và quan hệ tình dục không hạn
chế trong nhà giam, được cung cấp thực phẩm đặc sản, nước giải khát, và
bao cao su. Dư luận Mỹ và thế giới thì chỉ xem hắn là con Tốt thí, là
con dê tế thần, là kẻ giơ đầu chịu báng.
Theo ghi âm radio của nhà báo quân đội Mỹ
Robert Hodierne, một cựu binh Chiến tranh Việt Nam, người dẫn chương
trình đài phát thanh BBC 4 Anh ngữ khi phỏng vấn một loạt những cựu binh
Mỹ từng tham gia vụ tàn sát, hãm hiếp, tắm máu ở Sơn Mỹ đã kết luận: “Những
vụ thảm sát này không chỉ đơn thuần là những hành vi của nhóm lính bất
trị gây ra. Nó là những cuộc bắn giết được lên kế hoạch cẩn thận từ
trước, với mục tiêu giết càng nhiều càng tốt, hủy diệt càng nhiều càng
tốt”.
Trong các tài liệu, hồ sơ của quân đội
Mỹ, Lữ đoàn 173, có báo cáo chi tiết về 142 vụ bắt giữ và ngược đãi
người dân, trong đó có 127 trường hợp liên quan đến Lữ đoàn này. Tuy
nhiên các giới chức lãnh đạo của Hoa Kỳ đã cố gắng bưng bít thông tin.
Tờ Los Angeles Times đã đăng bài viết tố cáo các chỉ huy quân đội Mỹ đã
che giấu tội ác của cấp dưới trong chiến tranh ở Việt Nam và phần lớn
các quân nhân phạm tội đã không bị trừng phạt, hoặc chỉ bị phạt rất nhẹ,
trong khi người tố cáo lại bị trả thù, ngược đãi, trù dập.
Một số thông tin khác liên quan đến tội
ác quân đội Hoa Kỳ khi giải mật hồ sơ những vụ thảm sát tại Việt Nam,
theo báo Los Angeles Times, Baltimore Sun ở Mỹ, Cơ quan Lưu trữ Hồ sơ và
Tài liệu Quốc gia (NARA) của Hoa Kỳ đã có hơn 9.000 trang tư liệu, hồ
sơ cung cấp chi tiết về 320 cuộc thảm sát lớn nhỏ đã được cơ quan điều
tra của quân đội Mỹ xác minh và có những bằng chứng cụ thể. Nhưng trong
320 cuộc thảm sát này lại không có Thảm sát làng Sơn Mỹ, cuộc thảm sát
ghê rợn và chấn động quốc tế, cho thấy còn rất nhiều tội ác thảm sát,
trong đó có những vụ thảm sát tương đương mức độ như thảm sát Sơn Mỹ của
quân đội Mỹ tại VN mà chưa được ghi nhận đầy đủ, những hồ sơ còn nhiều
thiếu sót, còn nhiều cuộc thảm sát không được đưa vào hồ sơ, hoặc bị che
giấu bưng bít thành công.
Các vụ việc còn lưu giữ trong hồ sơ NARA có thể kể đến: Bảy
vụ thảm sát lớn từ 1967 đến 1971, mỗi vụ có ít nhất 137 người dân bị
giết, 78 vụ thảm sát khác vào những người dân thường, mỗi vụ có ít nhất
57 người bị giết và 56 người bị gây thương tật, 15 vụ hãm hiếp hàng
loạt, hiếp trước giết sau, 141 vụ tra tấn vô nhân đạo vào thường dân
hoặc tù binh chiến tranh.
Ngoài 320 trận thảm sát được xác minh, hồ
sơ còn có những tài liệu có liên quan đến hơn 500 hành động tàn ác mà
các điều tra viên chưa thể chứng minh hoặc không được quan tâm đến.
Trung úy John Kerry (từng là ứng cử viên
Tổng thống, hiện là Bộ trưởng Ngoại giao) đã làm chứng trước Ủy Ban
Ngoại Giao của Thượng Viện Mỹ năm 1971 như sau:
“Tôi muốn nói rằng vài tháng trước ở
Detroit chúng tôi có một cuộc điều tra trong đó có 150 quân nhân đã được
giải ngũ trong danh dự đã làm chứng cho những tội ác chiến tranh phạm ở
Đông Nam Á. Họ nói những câu chuyện của thời đó là chính họ đã hãm
hiếp, cắt tai, chặt đầu, kẹp giây điện từ những bộ máy truyền tin vào
nhưng cơ quan sinh dục rồi quay điện, chặt chân tay, làm nổ tan xác, bắn
chơi vào các thường dân, triệt hạ cả làng theo kiểu của Genghis Khan
(Thành Cát Tư Hãn), bắn trâu bò, chó, làm trò chơi, đầu độc các kho
lương thực và hầu như là tàn phá toàn diện miền quê Nam Việt Nam, ngoài
sự tàn phá thông thường của chiến tranh và sự tàn phá thông thường và
đặc biệt của những cuộc bỏ bom trên đất nước này”.
Những gì mà nhiều nhân chứng sống, trong
đó có các nạn nhân của Mỹ, các phóng viên chiến trường ngoại quốc, những
hung thủ lính Mỹ kể lại v.v. đều phù hợp với những gì Bác Hồ và cả
những cựu chiến binh Nam Bộ nói về tội ác của giặc Mỹ ở nhiều khu vực
dân cư miền Nam Việt Nam: “Chúng dùng chính sách 3 sạch: Giết sạch, phá sạch, đốt sạch.”
Sách “Chủ tịch Hồ Chí Minh nói về tội ác chiến tranh xâm lược”
do Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh và Nhà xuất bản Trẻ ấn hành vào năm
2003, sưu tầm và ghi lại lời chủ tịch Hồ Chí Minh phát biểu mạnh mẽ với
ký giả quốc tế như sau:
“Vì Mỹ đất nước chúng tôi bị chia cắt làm đôi, đồng bào miền Nam chúng tôi đang lâm vào tình cảnh đau thương, nước sôi lửa bỏng. Vì Mỹ mà miền Nam Việt Nam có những tòa án phát xít, những luật lệ bạo ngược, những máy chém lưu động giết người khắp thành thị và thôn quê, có những trại giam khổng lồ, giam cầm và tra tấn hàng chục vạn người, giết chết hàng vạn người yêu hòa bình và yêu Tổ quốc. Vì Mỹ mà có những sư đoàn, binh lính với máy bay, xe tăng và đại pháo Mỹ đi càn quét liên miên, giết hại thường dân, đốt phá làng mạc. Nói tóm lại vì Mỹ mà miền Nam Việt Nam biến thành địa ngục trần gian”.
Trước đây, năm 2005, nhà sử học, nhà báo
Nick Turse đã hoàn thành quyển sách Kill Anything That Moves: U.S. War
Crimes And Atrocities In Vietnam, 1965-1973 (Giết bất cứ thứ gì chuyển
động: Tội ác chiến tranh tàn bạo của Mỹ ở Việt Nam, 1965-1973), Đại học
Columbia xuất bản. Sách được đánh giá cao trên văn đàn một thời. Sách đã
đoạt giải thưởng Ridenhour của National Press Club vào năm 2009
Lần này, sách Kill Anything That Moves:
The Real American War in Vietnam (Giết bất cứ thứ gì chuyển động: Cuộc
chiến thật sự của Mỹ ở Việt Nam) của cùng một tác giả, do Metropolitan
Books mới xuất bản ngày 15 tháng 1, 2013, đã một lần nữa, đưa ra những
hình ảnh chân thật đến trần trụi của quân đội Mỹ đối với người dân và
đất nước Việt Nam. Tác phẩm này là một công trình phát triển từ quyển
sách của tác giả năm 2005.
Trong tác phẩm mới, ông Nick Turse đã
trích dẫn những hồ sơ của chính phủ Mỹ và Lầu Năm Góc cho thấy trong
cuộc chiến ở Việt Nam, chính phủ Mỹ đã thi hành cuộc tàn phá hàng loạt
vào con người và tài sản một cách có hệ thống trong suốt cuộc chiến.
Tiếp theo một số bài báo trước đây của
Nick Turse, cuốn sách đưa ra những tư liệu cho thấy, những vụ hiếp dâm
hàng loạt, tra tấn, xẻo thịt dân thường Việt Nam, trong đó có vụ thảm
sát làng Mỹ Lai năm 1968 khiến hơn 500 dân thường bị giết, không phải là
những hành động lầm lạc trong những giờ phút thiếu suy nghĩ, mà là
chính sách cố sát và khủng bố có hệ thống trong cỗ máy chiến tranh của
Mỹ. Các cuộc thảm sát tương tự vụ ở làng Mỹ Lai không phải sự cố bất
thường, mà là một trong các “chiến dịch” thực hiện thường xuyên theo
chính sách của Mỹ.
Theo tài liệu mà Turse có được, Mỹ Lai là
một chiến dịch, không phải sự lầm lạc. Không chỉ nghiên cứu qua hồ sơ,
tài liệu, Turse còn phỏng vấn rất nhiều tướng lĩnh và quan chức dân sự
cao cấp, các nhà điều tra tội phạm, cựu chiến binh từng chứng kiến hoặc
phạm tội ác. Turse cũng đã đến Việt Nam nhiều lần để phỏng vấn những
người sống sót từ các cuộc thảm sát đó.
Quyển sách ngay từ chương 1 đã tường
thuật từ thời kỳ quân đội Mỹ được huấn luyện ở các quân trường tại Mỹ
(Fort Benning, Camp Lejeune, bang Georgia v.v.) thì tinh thần kỳ thị
chủng tộc (như của tướng Douglas MacArthur) đã được nhồi nhét tối đa để
giúp người tân binh Mỹ có thể giết kẻ thù – người Việt Nam – mà không
hối tiếc hay ân hận. Cựu chiến binh Wayne Smith khi trả lời phỏng vấn
của tác giả, đã kể lại rằng các huấn luyện viên quân đội không bao giờ
gọi người Việt Nam là “Vietnamese”, thay vào đó là những chữ tiếng lóng
hạ cấp như “dinks”, “gooks”, “slopes”, “slants”, những từ ngữ không còn
mang ý nghĩa tượng trưng cho con người văn minh, hay thậm chí là những
con người bình thường, mà là những ngôn từ miệt thị, lăng mạ, hàm ý
khinh khi người Việt như một giống dân hạ đẳng, “man di mọi rợ”.
Trong vụ thảm sát Triệu Ái, khi trung úy
Maynard quăng lựu đạn xuống hầm một căn nhà trong làng Triệu Ái, trung
úy Bailey cho biết có con nít trong hầm ấy. Nhưng trung úy Maynard trả
lời: “Kệ mẹ nó, rồi tụi đó lớn lên thì cũng trở thành Việt Cộng thôi.”
Tiếp theo một số tác phẩm trước đây của
ông Nick Turse, cuốn Kill Anything That Moves: The Real American War in
Vietnam đã đưa ra những hồ sơ, tư liệu, dữ liệu cho thấy những vụ hủy
diệt hàng loạt, dâm sát, tra tấn, cắt xẻo bộ phận cơ thể đối với các đối
tượng dân thường Việt Nam từ nam đến nữ, từ bé đến già, từ cộng sản đến
không cộng sản v.v. nhiều vụ không phải hành động lầm lạc trong những giây phút thiếu suy nghĩ,
mà là chính sách có hệ thống trong cỗ máy chiến tranh của Mỹ thời đó.
Cuộc thảm sát làng Mỹ Lai và nhiều cuộc thảm sát khác không phải là sự
cố bất thường, mà là chiến dịch quân sự thực hiện theo chính sách quân
sự Mỹ, nhằm khủng bố tinh thần và xóa trắng các pinkville (làng hồng),
là những làng xã mà họ nghi ngờ là có giúp đỡ, tiếp tế cho quân kháng
chiến. Khủng bố để răn đe “làm gương”, gieo rắc sợ hãi để người dân và
các làng bên lấy đó “làm gương”, không còn dám nuôi giấu những người
chống Mỹ.
Sau bao nhiêu phỏng vấn và tìm hiểu, ông đã cho biết: “Hàng
trăm báo cáo mà tôi tập hợp được cùng với hàng trăm nhân chứng tôi từng
phỏng vấn ở Mỹ và Đông Nam Á cho thấy một điều rõ ràng rằng, việc giết
hại dân thường – dù một cách máu lạnh như ở Mỹ Lai hay một cách bàng
quan vô cảm như ở Bình Long – đều rất phổ biến, diễn ra thường xuyên, và
xuất phát từ chính sách chỉ huy của Mỹ.
Đây là những lời bình tiêu biểu về quyển
sách còn rất mới này của nhà báo kiêm sử gia Nick Turse, qua những lời
bình của các nhà phê bình của Mỹ càng cho thấy rõ hơn các tội ác cố sát
có hệ thống, theo chính sách của chính phủ Mỹ, gây ra bởi quân đội Mỹ ở
Việt Nam.
Nhà báo Steve Weinberg bình luận trên báo Star Tribune:
Trong cuốn sách mới, “Giết mọi thứ di
động” (Mới Xuất Bản Ngày 15-1-2013, Metropolitan Books), ký giả Nick
Turse đã chứng minh, sau một thập niên khảo cứu về những điều khó chấp
nhận, là không quân và lục quân Mỹ đã giết thường dân ở ngoài Bắc và ở
trong Nam theo một chính sách lặp đi lặp lại, ngày này qua ngày khác,
tuần này qua tuần khác, tháng này qua tháng khác, năm này qua năm khác.
Sự tàn sát các dân thường ở Mỹ Lai
bởi lính Mỹ đã được quần chúng biết đến nhiều, nhờ phần lớn vào sự điều
tra của ký giả Seymour Hersh. Nhiều độc giả tìm biết về cuộc chiến tranh
Việt Nam tưởng rằng Mỹ Lai là một việc xảy ra đơn độc, phần lớn phạm
phải bởi một sĩ quan trẻ tên là William Caley. Không hẳn vậy, Nick Turse
đã chứng minh rằng Mỹ Lai là vụ điển hình cho nhiều vụ tàn sát như vậy,
trong một số vụ những người bị tàn sát là trẻ con, người già và phụ nữ.
Trước khi giết, bao giờ cũng là hãm hiếp, tra tấn nhiều cách khác nhau,
mà không có một quân nhân nào bị trừng phạt….
Học giả, nhà văn Jonathan Schell đã viết
trong bài How did the Gates of Hell open in Vietnam? (Cửa địa ngục đã mở
ở Việt Nam như thế nào?) trên báo Asia Times:
Tỉ mỉ gắn kết lại với nhau từ những
thông tin mới được giải mật, những hồ sơ tòa án binh, những phúc trình
của Lầu Năm Góc, và những cuộc phỏng vấn trực tiếp ở Việt Nam và ở Mỹ,
cũng như những tài liệu trên báo chí cùng thời và tài liệu phụ, Turse
phát hiện ra những tình tiết về sự tàn phá, cố sát, thảm sát, hiếp dâm,
và tra tấn mà một thời được coi như là những tội ác lẻ tẻ thật ra là
chuyện thường xuyên, cộng với một luồng tàn bạo liên tục, bộc lộ, năm
này qua năm khác, trên khắp đất nước đó.
Nhà văn Tim O’Brien bình luận trên trang Amazon:
Không có cuốn sách nào mà tôi đọc
trong vài thập niên làm tôi run rẩy như vậy với tư cách là một người Mỹ.
Turse phanh phui ra thực chất một cuộc chiến quá ư tàn bạo hơn là những
điều mà những người Mỹ ở trong nước được quyền biết. Turse vạch trần ra
những chính sách chính thức khuyến khích binh sĩ Mỹ và không quân giáng
sự khủng khiếp và đau khổ không thể hình dung được xuống người dân
thường Việt Nam, theo đó là những sự bưng bít chính thức cũng kiên trì
như Turse đã kiên trì trong nỗ lực điều tra trong cả một thập niên để
chống lại những sự bưng bít này. Cuốn “Giết mọi thứ di động” là cuốn
những người Mỹ phải đọc, vì những hàm ý trong đó về mức độ tàn bạo và
dân thường chết chóc giáng lên họ và sự bưng bít trong những cuộc chiến
gần đây của chúng ta chắc chắn sẽ xảy ra và làm chúng ta sửng sốt.
Nữ nhà báo Frances FitzGerald bình luận trên trang Amazon:
Nick Turse đã làm hơn nhiều người
khác để chứng minh, với tài liệu, điều rất hiển nhiên: Những sự tội ác
tàn bạo của Mỹ ở Việt Nam không phải là lẻ tẻ và tình cờ, mà là thường
xuyên xảy ra khắp nơi và là kết quả không tránh được của chính sách quân
sự của Hoa Kỳ.
Nữ giáo sư sử học Đại học New York Marilyn Young bình luận trên trang Amazon:
“Cuốn sách của Nick Turse là một tài
liệu căn bản, một tường trình hùng hậu và đầy xúc động đến ngay vào vùng
tim đen của cuộc chiến tranh ở Việt Nam: Sự tàn sát thường dân một cách
có hệ thống, chứ không là một sơ xuất, là một thủ tục hành quân đúng
tiêu chuẩn. Cho đến ngày nào bản tường trình lịch sử này được thừa nhận,
chính sách này vẫn sẽ được tiếp tục dưới hình thức này hoặc hình thức
khác trong những cuộc chiến mà nước Mỹ sẽ tiếp tục dính vào.”
Giáo sư sử học Đại học Massachusetts Christian Appy bình luận trên trang Amazon:
“Từ cuộc nghiên cứu trong hơn một
thập niên trong những hồ sơ mật Lầu Năm Góc và những cuộc phỏng vấn sâu
rộng các cựu quân nhân Mỹ và những người Việt sống sót, lần đầu tiên
Turse vạch rõ là những chính sách của Mỹ đã đưa đến kết quả là hàng
triệu người dân thường vô can đã bị giết và bị thương. Với những chi
tiết gây sốc, Turse vạch rõ những hệ thống mặc định của cỗ máy quân sự
Mỹ đã làm cho những tội ác trong những đơn vị chính của Mỹ không thể
tránh được. Cuốn “Giết Mọi Thứ Di Động” đưa chúng ta đến từ văn khố ở
Washington đầy những những hồ sơ về sự dẹp bỏ các cuộc điều tra những
tội ác của lính Mỹ cho tới những thôn xã ở miền quê Việt Nam mà người
dân gánh chịu trong cuộc chiến, từ những trại huấn luyện lính Mỹ trong
đó những người lính trẻ được dạy để thù ghét mọi người Việt
cho đến các chiến dịch khát máu như chiến dịch Speedy Express mà một vị
tướng, ám ảnh bởi cách đếm xác chết đã dẫn binh lính phạm phải điều mà
một quân nhân tham dự gọi là “mỗi tháng một Mỹ Lai”.“
Một số ngộ nhận thường thấy về cuộc chiến
Phần này không nói tới những ngộ nhận ấu trĩ, cực đoan và có tính chất điên rồ như “nội
chiến Nam Bắc tương tàn”, “Mỹ không xâm lược”, “vai trò Trung – Xô với
Hoa Kỳ là như nhau, ngang nhau”, “Việt Cộng kéo quân đến đâu là người
dân bỏ chạy đến đó”, “Tội ác cộng sản”, “Mỹ-ngụy không ác, tại sơ ý
trong chiến tranh thôi”, “chất độc da cam là vô hại”, “miền Bắc cưỡng
chiếm và xâm lăng miền Nam” v.v… tồn tại trong đầu óc của một bộ
phận nhỏ mà nhiều người khác đã lên án. Phần này chỉ nói về những ngộ
nhận thấy nhiều ở cả những người đàng hoàng tử tế.
Ngộ nhận: Cuộc chiến tranh thế giới lần thứ 2 căng thẳng, dữ dội cho quân đội Hoa Kỳ hơn Chiến tranh Việt Nam.
Thực tế: Đối với quân
đội Mỹ, cuộc chiến tranh Việt Nam căng thẳng hơn Thế chiến II. Trung
bình mỗi người lính bộ binh Mỹ trong chiến tranh Thái Bình Dương (thuộc
Thế chiến II) tốn khoảng 40 ngày chiến đấu trong 4 năm. Nhưng trung bình
mỗi người lính bộ binh Mỹ trong chiến tranh Việt Nam tốn khoảng 240
ngày chiến đấu trong 1 năm nhờ chiến thuật Trực thăng vận.
Ngộ nhận: Hiệp định
Genève 1954 quy định chia cắt đất nước Việt Nam ra thành 2 quốc gia khác
biệt. Câu cửa miệng thường nghe từ một số người thiếu thông tin là:
“Hiệp định Geneve chia đôi đất nước” hay “Việt Nam bị chia cắt thành 2
miền theo hiệp định Geneve”.
Thực tế: Bản thân hiệp
định Genève 1954 không có điều khoản nào quy định chia cắt Việt Nam
thành hai quốc gia. Hiệp định Genève 1954 chỉ công nhận giới tuyến quân
sự tạm thời trong 2 năm để chờ tổng tuyển cử thống nhất đất nước, tạm
chia làm 2 vùng tập trung quân sự cho quân đội hai phía Việt – Pháp tập
kết, chứ không có ý nghĩa chia cắt về chính trị hay lãnh thổ.
Đây không phải là hiệp định chia cắt đất
nước như một số người thiếu thông tin đã nhầm lẫn, mà trái lại, là hiệp
định lập lại hòa bình, độc lập và thống nhất của 3 nước Đông Dương, Pháp
rút quân trong 2 năm và tổng tuyển cử thống nhất Việt Nam năm 1956.
Hiệp định Genève về Đông Dương năm 1954 có hai phần: Phần “Thỏa hiệp” và phần “Tuyên bố Cuối cùng” (Final Declaration).
Phần “Thỏa hiệp”, gồm 47 điều khoản, được ký kết giữa Henri Delteil,
Quyền Tổng tư lệnh lực lượng Liên hiệp Pháp và Tạ Quang Bửu, Thứ trưởng
quốc phòng VNDCCH. Phần này có những điều khoản chính như sau:
- Thiết lập một đường ranh giới quân sự tạm thời tại vĩ tuyến 17 (Provisional Military Demarcation Line) để quân đội hai bên rút quân về: Lực lượng Quân đội Nhân dân Việt Nam ở trên vĩ tuyến 17, lực lượng quân đội Liên hiệp Pháp (French Union), bao gồm lính Pháp và lính bản xứ ở dưới vĩ tuyến 17.
- Sẽ có một cuộc tổng tuyển cử tự do trên toàn cõi Việt Nam vào năm 1956. Quân đội Pháp phải rời khỏi Việt Nam trong 2 năm.
Bản “Tuyên bố cuối cùng” gồm 13
đoạn, nói đến cả sự thống nhất và độc lập của 3 nước Đông Dương, trong
đó có một đoạn đáng để ý và cực kỳ quan trọng, đoạn (6) (Paragraph [6])
là như sau: “Hội Nghị nhận thức rằng mục đích chính yếu của Thỏa
Hiệp về Việt Nam là dàn xếp những vấn đề quân sự trên quan điểm chấm dứt
những đối nghịch quân sự và rằng ĐƯỜNG RANH GIỚI QUÂN SỰ LÀ TẠM
THỜI VÀ KHÔNG THỂ DIỄN GIẢI BẤT CỨ BẰNG CÁCH NÀO ĐÓ LÀ MỘT BIÊN GIỚI
PHÂN ĐỊNH VỀ CHÍNH TRỊ HAY ĐẤT ĐAI. Hội Nghị bày tỏ sự tin
tưởng là thi hành những điều khoản trong bản Tuyên Ngôn này và trong
Thỏa Hiệp ngưng chiến sẽ tạo nên căn bản cần thiết để trong tương lai
gần đạt tới một sự dàn xếp chính trị ở Việt Nam”.
Và phần đầu của đoạn (7) nguyên văn như sau:
“Hội Nghị tuyên cáo rằng, về Việt Nam, sự dàn xếp những vấn đề chính
trị, thực hiện trên căn bản tôn trọng những nguyên tắc về nền độc lập,
sự thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, sẽ khiến cho người dân Việt Nam được
hưởng những quyền tự do căn bản, bảo đảm bởi những định chế dân chủ
được thành lập như là kết quả của một cuộc tổng tuyển cử bằng phiếu bầu
kín.” Và cuộc tổng tuyển cử đó sẽ được tổ chức vào tháng 7 năm 1956.
Nói chung đây là các ý chính của hiệp ước Genève 1954:
- Các nước tham gia hội nghị tôn trọng quyền dân tộc cơ bản là độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của 3 nước Việt Nam – Campuchia – Lào.
- Ngừng bắn đồng thời ở Việt Nam và trên toàn chiến trường Đông Dương.
- Sông Bến Hải, vĩ tuyến 17, được dùng làm giới tuyến quân sự tạm thời chia Việt Nam làm hai vùng tập trung quân sự. Chính quyền và quân đội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (bao gồm cả người miền Nam) tập kết về miền Bắc; Chính quyền và quân đội Liên hiệp Pháp (bao gồm cả người miền Bắc) tập kết về miền Nam.
- 300 ngày là thời gian để chính quyền và quân đội các bên hoàn thành việc tập trung. Dân chúng được tự do đi lại giữa hai miền.
- 2 năm sau, tức ngày 20 tháng 7 năm 1956 sẽ tổ chức tổng tuyển cử tự do trong cả nước để thống nhất lại Việt Nam.
Người Mỹ vốn không ký vào hiệp định
Genève 1954 để tránh bị ràng buộc pháp lý, bất lợi cho việc xâm lược và
chia cắt Việt Nam trong chiến lược toàn cầu của họ. Nhưng chính họ cũng
đã “nói hớ” và vô tình cho thấy rằng hiệp định Genève 1954 không hề là
hiệp định chia đôi Việt Nam.
Nhà sử học, chính trị học George McTurnan
Kahin và John W. Lewis trong sách The United States in Vietnam: An
analysis in depth of the history of America’s involvement in Vietnam
(Hoa Kỳ ở Việt Nam: Một phân tích chuyên sâu về lịch sử can thiệp của
Hoa Kỳ vào Việt Nam), do Delta Books xuất bản năm 1967, đã cho biết: “Trong
bản Tuyên ngôn đơn phương (Unilateral Declaration) của Hoa Kỳ về Hội
nghị Genève không có chữ nào nói đến “Bắc Việt Nam” hay “Nam Việt Nam”.
Tất cả những gì mà bên đại diện Mỹ nói đến là một Việt Nam”.
Những bằng chứng ở trên đã cho thấy hiệp
định Genève 1954 không chia đôi đất nước, mà ngược lại chính là quy định
việc thống nhất đất nước. Chính sự xâm lăng và phá hoại tổng tuyển cử
thống nhất đất nước theo hiệp định Genève 1954 của Mỹ đã đưa tới sự chia
đôi đất nước.
Ngộ nhận: Sau hiệp
định Paris 1973 và với sự vắng bóng của đại quân Hoa Kỳ, chính Việt Nam
đã vi phạm hiệp định tấn công và dứt điểm chính quyền Sài Gòn để kết
liễu chiến tranh.
Thực tế: Ý trên thoạt
nghe qua bên ngoài thì thấy có vẻ hữu lý, nhưng thực tế không phải vậy. Ý
định của Việt Nam là ngưng bắn để có hòa bình, dùng đòn chính trị –
ngoại giao đấu tranh đòi thực hiện tổng tuyển cử để thành lập chính phủ
liên hiệp 3 thành phần, trong đó Việt Nam đã có sẵn 2 quân bài, vũ khí
chính trị là Mặt Trận và Liên Minh, Thiệu hầu như chắc chắn phải chịu
lép vế. Nên Việt Nam không/chưa cần ra đòn quân sự, trái lại đã truyền
lệnh cho các đơn vị miền Nam phải ngưng bắn, án binh bất động.
Mỹ-Thiệu biết đây là giai đoạn khó khăn
nên đã tận lực khai thác, lợi dụng sự án binh bất động này của quân Giải
phóng mà “tiên hạ thủ vi cường” (đánh trước chiếm ưu thế), mong giành
lấy thế thượng phong về quân sự trong giai đoạn mới.
Chữ ký của Mỹ-ngụy còn chưa khô mực vào hiệp định có những nội dung sau, thì họ đã mau chóng không giữ lời:
Hoa Kỳ và các nước cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam như đã quy định trong hiệp định Genève 1954.
Những hành động phá hoại hiệp định nói trên đã không cho thấy điều đó.
Hoa Kỳ phải hoàn toàn chấm dứt chiến tranh xâm lược, rút hết quân viễn chinh và quân chư hầu, “cố vấn” và chuyên viên quân sự, vũ khí và dụng cụ chiến tranh, hủy bỏ tất cả các căn cứ quân sự Mỹ, cam kết không tiếp tục dính líu quân sự hoặc can thiệp vào công việc nội bộ của miền Nam Việt Nam.
Mỹ tiếp tục can thiệp mạnh mẽ và nắm
chính trị, quân sự, kinh tế ở miền Nam. Tiếp tục cung cấp vũ khí và tiền
bạc cho Nguyễn Văn Thiệu. Duy trì chế độ thực dân mới. Rút đại quân
nhưng để lại hàng vạn sĩ quan “cố vấn” và nhân viên quân sự mặc thường
phục, khắp miền Nam vẫn đầy người Mỹ.
Sau năm 1973, lính Mỹ có quay lại Việt
Nam trong các đợt rời rạc, đặc biệt là lính Thủy quân Lục chiến. Việc
quân chính quy Mỹ rút đi và chấm dứt các chiến dịch quân sự trực tiếp do
thực binh Mỹ tiến hành không có nghĩa sau năm 1973 không còn người Mỹ,
sĩ quan Mỹ, quân nhân Mỹ nào ở Việt Nam. Mỹ cam kết trong hiệp định rằng
sẽ phá đổ các căn cứ quân sự Mỹ, nhưng họ đã bội ước và chuyển giao lại
cho quân đội Sài Gòn.
Các bên để cho nhân dân miền Nam Việt Nam tự quyết định tương lai chính trị của họ thông qua tổng tuyển cử tự do. Các bên công nhận thực tế miền Nam Việt Nam có hai chính quyền (chính quyền Cộng hòa miền Nam Việt Nam và chính quyền Sài Gòn), hai quân đội (Quân Giải phóng miền Nam và quân đội Sài Gòn), hai vùng kiểm soát (vùng giải phóng và vùng tạm chiếm) và ba lực lượng chính trị (Cộng hòa miền Nam Việt Nam, chính quyền Sài Gòn, lực lượng thứ ba).
Mỹ-Thiệu phá hoại tổng tuyển cử, và cuộc
bầu cử đã không bao giờ diễn ra được. Họ không từ bỏ ý định duy trì chủ
nghĩa thực dân mới đối với miền Nam Việt Nam, cố gắng bám víu, sử dụng
nơi đây như một căn cứ quân sự khổng lồ của Mỹ và là một thuộc địa kiểu
mới. Họ đã tiếp tục tiến hành cuộc chiến tranh thực dân mới trên quy mô
lớn. Mỹ đã tăng cường cung cấp quân sự và chu cấp kinh tế cho chính
quyền bù nhìn, vẫn duy trì bộ máy chỉ huy cuộc chiến, với hàng vạn “cố
vấn” và nhân viên quân sự người Mỹ đội lốt dân sự.
Các bên ngừng bắn tại chỗ, trao trả cho nhau tù binh và dân thường bị bắt.
Hàng vạn tù binh và dân thường Việt Nam
đến ngày 30/4/1975 mới được tự do khi Côn Đảo và Phú Quốc được giải
phóng. Trước ngày 30/4 các tù nhân, tù binh phía Việt Nam vẫn đầy ở Côn
Đảo, Phú Quốc và nhiều nơi khác, không hề được trao trả theo hiệp định.
Ngộ nhận: Chính
quyền Sài Gòn bị Mỹ bỏ rơi sau sự kiện ký kết hiệp định Paris 1973. Sau
khi Hoa Kỳ rút đại binh về nước thì đã cúp hoặc giảm lớn viện trợ ngay
cho chính quyền Sài Gòn. Trong khi đó, Liên Xô, Trung Quốc và khối xã
hội chủ nghĩa tăng cường viện trợ hoặc vẫn duy trì viện trợ như cũ cho
Hà Nội.
Thực tế: Nhà báo, nhà sử
học người Mỹ Gabriel Kolko, tác giả cuốn sách Anatomy of a War:
Vietnam, the United States, and the Modern Historical Experience (Giải
phẫu một cuộc Chiến tranh: Việt Nam, Hoa Kỳ, và trải nghiệm lịch sử hiện
đại) do NXB Pantheon Books New York, ấn hành năm 1985, cho biết sau khi
hiệp định Paris 1973 được ký kết thì người Mỹ đã cho ông Thiệu mọi
phương tiện để vi phạm hiệp định, họ cam kết tiếp tục trợ cấp đầy đủ về
kinh tế và quân sự cho chính quyền Nguyễn Văn Thiệu; Mỹ công nhận chính
quyền Nguyễn Văn Thiệu là “chính quyền hợp pháp duy nhất ở miền Nam Việt
Nam”; không thừa nhận chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam
Việt Nam và thành phần chính trị thứ ba, như đã thỏa thuận trong hiệp
định Paris.
Theo nguồn của NXB Thông Tấn, Hà Nội,
viện trợ quân sự tài khóa 1973-1974 của Mỹ dành cho chính quyền Nguyễn
Văn Thiệu là 1,26 tỷ USD theo giá thời đó, tương đương 6,74 tỷ USD ngày
nay.
Theo thống kê của chuyên gia kinh tế học
Douglas C. Dacy trong sách Foreign Aid, War, and Economic Development:
South Vietnam, 1955-1975 (Viện trợ nước ngoài, Chiến tranh, và Phát
triển kinh tế: Nam Việt Nam, 1955-1975), do Đại học Cambridge (Anh) xuất
bản năm 1986 và 2005, ngay sau năm 1973 (sau khi hiệp định Paris 1973
được ký kết), đến năm 1974, bên cạnh duy trì viện trợ quân sự thì Hoa Kỳ
đã tăng viện trợ kinh tế cho chính quyền Sài Gòn 23,8%.
Theo các tài liệu của Quân đội Nhân dân
Việt Nam, sau năm 1973, sự giúp đỡ của Liên Xô, Trung Quốc và các nước
xã hội chủ nghĩa cho Việt Nam đã giảm đột biến, tổng số tấn vũ khí và
thiết bị quân sự được viện trợ giảm từ 171.166 tấn/năm trong thời kỳ
1969-1972 giảm xuống còn 16.415 tấn/năm trong thời kỳ 1973-1975.
Theo văn kiện “Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc 30 năm qua“,
do Bộ ngoại giao CHXHCN Việt Nam giải mật và NXB Sự Thật xuất bản năm
1979, giai đoạn sau năm 1973 là lúc mà Trung Quốc ngày càng bộc lộ ý đồ
phản bội, đi đêm với Mỹ sau lưng nhân dân Việt Nam, cũng như trước đó họ
đã cố tình can thiệp vào hội nghị Paris về Việt Nam nhưng bị Việt Nam
từ chối.
Ngoài ra, theo các tướng tá cũ của quân
đội Sài Gòn như Dương Văn Minh, Nguyễn Hữu Hạnh, Nguyễn Chánh Thi, thì
vào những ngày cuối tháng 4/1975, Trung Quốc đã thông qua tướng Francois
Vanussème, tùy viên quốc phòng và an ninh của Tòa đại sứ Pháp ở Sài Gòn
để chuyển đến “tổng thống” Dương Văn Minh ý định can thiệp của Trung
Quốc để cứu chính quyền Sài Gòn đang trong cơn nguy kịch, giữ lại tình
trạng chia cắt Việt Nam. Người Trung Quốc muốn thông qua người Pháp là
vì ông Dương Văn Minh là một người thân Pháp, đã từng phục vụ trong quân
đội Pháp.
Ngộ nhận: Nguyễn Văn Thiệu lấy cắp 16 tấn vàng và “báo chí Hà Nội có chủ trương khai thác đề tài này để rêu rao tuyên truyền bôi xấu tổng thống Nguyễn Văn Thiệu”.
Thực tế: Theo cựu nhân
viên tình báo CIA chi nhánh Sài Gòn Frank Snepp trong sách Decent
Interval (Khoảng thời gian tao nhã), do Penguin Books xuất bản năm 1980,
thì đêm 25 tháng 4, các nhân viên CIA đã đưa Trần Thiện Khiêm và Nguyễn
Văn Thiệu ra đi với danh nghĩa là đặc sứ của “Việt Nam Cộng hòa” đến
Đài Bắc (Đài Loan) để phúng điếu Tưởng Giới Thạch (qua đời ngày 5 tháng
4). Và khi đó Thiệu không còn quyền lực gì đối với 16 tấn vàng vẫn nằm
nguyên vẹn trong hầm chứa của Ngân hàng Quốc gia Việt Nam. Còn dư luận
thì vẫn bán tín bán nghi về tin đồn ông Thiệu mang vàng đi, dù đã có
tuyên bố cải chính của chính quyền Sài Gòn ngày 16/4/1975.
Trong Hồ sơ mật dinh Độc Lập, tác giả Nguyễn Tiến Hưng viết: Nguyễn Văn Hảo vào gặp “tổng thống” Trần Văn Hương và dọa rằng: “Nếu
tổng thống cho phép chuyển số vàng ấy ra ngoại quốc thì trong trường
hợp tướng Minh (tức ông Dương Văn Minh) lên thay, tổng thống sẽ bị lên
án là phản quốc!”. Ông Hương đồng ý giữ vàng lại. Sáng ngày 24
tháng 4 (một ngày trước khi ông Thiệu rời Việt Nam), ông Hảo điện cho cố
vấn kinh tế đại sứ quán Mỹ Denny Ellerman, nói rằng: “Tổng thống” Trần
Văn Hương đã quyết định hoãn vô thời hạn việc chuyển vàng ra khỏi Việt
Nam, cho đến khi một chính phủ mới được thành lập.
Đại sứ Graham Martin ngạc nhiên trước tin
này, nhưng ông ta cũng không cho Trần Văn Hương hủy bỏ lệnh ấy mà quyết
định tạm để vàng ở lại vì nó có thể nâng cao vị thế nào đó của chính
quyền Sài Gòn khi thương lượng với phía kháng chiến. Ông lệnh cho chiếc
máy bay tiếp tục đợi cho đến nửa đêm ngày 27 tháng 4. Sau này khi trả
lời phỏng vấn Ts. Nguyễn Tiến Hưng ngày 27/3/1985, Martin kể: “Vào
lúc chót, tôi có nghĩ đến việc liên lạc với người bạn cũ ở Thái Lan là
tư lệnh không quân Dhawee Chulasapaya. Sau đó, kêu gọi thêm một số thủy
quân lục chiến Thái Lan bay qua Sài Gòn để giải phóng số vàng, mang nó
đi. Nhưng chỉ nghĩ thế thôi…. Vàng vẫn còn lại ở đó”.
Như vậy, Nguyễn Văn Thiệu không có và
không cần lấy cắp 16 tấn vàng đem đi vì tài sản của ông ta, kể cả bên
Mỹ, là đã dư dả cho ông ta và con cháu sống sung túc cả đời. Báo chí
cách mạng Việt Nam cũng chưa bao giờ có chủ trương tuyên truyền về một
tay sai Mỹ nên không có chủ trương khai thác vụ 16 tấn vàng để bôi nhọ
Thiệu.
Từ đầu tháng 4 năm 1975, khi Nguyễn Văn
Thiệu vẫn còn tại vị, một số tờ báo nước ngoài đã bắt đầu đăng tải tin
về kế hoạch chuyển 16 tấn vàng ra nước ngoài với sự ám chỉ về một âm mưu
chiếm đoạt của ông ta. Chính báo giới Sài Gòn là những cơ quan truyền
thông đầu tiên đưa tin về sự kiện này. Tuy có báo đăng tuyên bố cải
chính của chính quyền Sài Gòn, nhưng sau khi ông Thiệu đã ra đi, ngày 28
tháng 4, báo Độc Lập (một tờ báo của ngụy quyền) đã trích dẫn lại một
bản tin của hãng thông tấn Reuters về chuyến ra đi của ông Nguyễn Văn
Thiệu: “Tin Reuters ghi nhận liền sau khi đoàn người Nguyễn Văn
Thiệu cùng tùy tùng xuống phi cơ và được đưa vào phòng khách danh dự,
một số hàng hơn 10 tấn cũng đã được cất xuống theo”. Các báo chí
khác, trong và ngoài nước, đã viết tường thuật nói ông Thiệu đã bỏ trốn
với một số lượng vàng lớn lấy đi từ ngân khố của chính phủ Việt Nam Cộng
hòa.
Trong buổi họp báo và trả lời phỏng vấn
được thực hiện vào ngày 16/6/1990 tại Orange County, California, để
“giải oan” cho mình, Nguyễn Văn Thiệu đã thừa nhận việc “cộng sản đăng báo khen ngợi những tên viên chức ngân hàng phản bội”
và “những tên công chức ngân hàng đã dùng vàng tâng công với cộng sản
rằng không có tấn vàng nào bị mất trên báo chí cộng sản” (trong đó có
ông Huỳnh Bửu Sơn, người giữ chìa khóa kho vàng, từng làm việc trong ban
lãnh đạo Nha Phát hành Ngân hàng Quốc gia). Như vậy, có thể thấy rằng
không có chủ trương khai thác chuyện 16 tấn vàng để tuyên truyền chống
ông Thiệu trên báo chí.
Ngay sau khi giải phóng các nhân vật coi
giữ tài chính của ngụy quyền đã ra hợp tác ngay với chính quyền cách
mạng. Báo chí cách mạng khi đó đã đăng tải các phỏng vấn đầy đủ rằng nhờ
tài trí của quân dân và công lớn của những viên chức ngụy quyền giác
ngộ cách mạng nên nhân dân đã không bị mất 1 xu.
Như thế rõ ràng là không có chính sách
tuyên truyền nói xấu Thiệu hay tuyên truyền gì về 16 tấn vàng. Sở dĩ tin
đồn thất thiệt này được vang xa có lẽ một phần do nhân dân vốn đã không
ưa Thiệu, rồi cứ thế một đồn mười, mười đồn trăm, rồi sau đó nhiều nhà
báo do không nắm vững nên cũng viết lại theo các lời đồn. Nhưng nhiều
phần là do chính những quan chức tham nhũng trong bộ máy ngụy quyền vì
tham lam nên đã ghen ăn tức ở mà nghi ngờ và tố nhau ăn cắp vàng. Thời
điểm ấy quả thật nhiều kẻ muốn thừa cơ lấy cắp vàng đi trốn, song không
ai ngờ quân Giải phóng lại đánh nhanh và giải quyết nhanh đến như vậy,
họ chưa kịp làm thì cách mạng đã đánh tới. Bọn họ ghét nhau và rất ghen
ghét Thiệu nên chính bọn họ đã đồn đại lên, cộng với sự oán ghét của
quần chúng Sài Gòn dành cho Thiệu và ngụy quyền Sài Gòn, nên tiếng xấu
càng đồn xa.
Sau đây là một số ngộ nhận thường nghe, thường thấy từ những người Mỹ và cả một bộ phận công chúng quốc tế:
Ngộ nhận: Những tội
ác của quân đội Hoa Kỳ tại Việt Nam đúng là rất phổ biến, nhưng đó là do
sơ ý, vô tình, vô ý thức, giết nhầm, các hung thủ bị ảnh hưởng từ tác
động của ma túy, tâm thần, sự khốc liệt của chiến tranh. Họ công nhận
các tội ác và họ lên án nó, nhưng đồng thời họ ngộ nhận nguyên nhân tội
ác. Họ lầm tưởng những hành động cố sát là những hành động nông nỗi xuất
phát từ một trạng thái tâm lý bất bình thường, mất cân bằng, sự khủng
hoảng về tư tưởng, tâm lý, tinh thần trong lửa đạn.
Thực tế: Phần ngay ở trên: “Những tội ác chiến tranh được các nhân chứng và nhà nghiên cứu độc lập ghi nhận” đã cho biết thực tế chuyện gì đã xảy ra. Phần lớn những tội ác chiến tranh đó từ đâu mà có.
Ngộ nhận: Quân đội
Hoa Kỳ tuy thua cuộc chiến, nhưng Lục quân Hoa Kỳ chưa từng thua Việt
Cộng một trận đánh nào trên chiến trường miền Nam Việt Nam.
Thực tế: Giáo sư Đại học DeAnza (Mỹ) Michael Kelley trong bài tham luận tháng 7 năm 1998 “Myths & Misconceptions: Vietnam War Folklore” (Truyền thuyết & quan niệm sai lầm: Các “sự tích dân gian” về Chiến tranh Việt Nam), đã viết về ngộ nhận này như sau:
“Truyền thuyết này có nguồn gốc từ sự thiếu hiểu biết hơn là sự phân tích hợp lý. Nó hoàn toàn bỏ qua thực tế là kẻ thù của chúng ta đã tiến hành chiến tranh du kích phụ thuộc vào chiến thuật ‘bắn rồi chạy’ (hit-and-run) thiết kế để tránh ưu thế hỏa lực áp đảo của Mỹ. Những người ủng hộ thuyết này dựa trên những thước đo cổ điển của lý thuyết chiến tranh thông thường, nghĩa là, bất cứ ai nắm giữ mặt đất sau khi kết thúc trận đánh thì là người chiến thắng. Nhưng xem sự sáng suốt của các chiến thuật thực tế ở đó (Việt Nam), sẽ là công bằng để nói rằng người Mỹ đã thua nhiều trận đánh.Trong khi sự thật là quân đội Mỹ đã chiếm được mặt đất tại thời điểm kết thúc trong hầu hết các trận đánh, kẻ thù thường chọn thời điểm buông tha vị trí đó sau khi đã hoàn thành các kế hoạch chiến lược quan trọng. Và sau đó vài giờ thì chiến trường thường xuyên vẫn bị người Mỹ bỏ rơi. Kẻ thù gần như luôn luôn buông ra lãnh thổ ngay sau khi nó đã gây cho quân đội Mỹ lúng túng và bực bội.Tại Việt Nam, chiến thắng tốt nhất có thể được đo bằng cách xem một lực lượng đạt được mục tiêu của mình trong bất kỳ hoạt động nào. Trên cơ sở đó, quân Bắc Việt / Việt Cộng có thể đã thành công nhiều hơn so với người Mỹ, thực tế là khoảng 85% các hoạt động quân sự, tất cả các địa điểm đánh nhau đã được khởi xướng bởi kẻ thù. Thậm chí nếu tính theo kiểu Mỹ thông thường thì người Mỹ vẫn đã thua một số lượng đáng kể các trận đánh. Trong các cuộc đụng độ lớn đầu tiên của cuộc chiến tranh trong các thung lũng sông Ia Đrăng (Tây Nguyên), tháng 11 năm 1965, ở đó, cả một tiểu đoàn 1 Kỵ binh của Mỹ đã thật sự bị tiêu diệt khi nó vấp vào một trung đoàn Bắc Việt. Khoảng 155 người đã thiệt mạng và 121 người bị thương chỉ trong vài giờ giao tranh ngắn ngủi. “Chiến thắng” chắc chắn không phải là từ ngữ trên môi của bất kỳ người Mỹ nào đủ may mắn để tồn tại trong đám cháy đó.Vào ngày 2/7/1967, trong quá trình hoạt động, hai tiểu đoàn 1 và 9 Thủy quân Lục chiến đã bị một trung đoàn Bắc Việt phục kích. Chỉ có một trung đội duy nhất còn sống sót để kể lại câu chuyện. Nó không nhiều trong số ít những người tự coi mình là kẻ chiến thắng. Các tổn thất đáng kể như vậy đều khá phổ biến trong suốt cuộc chiến. Trong những cuộc tấn công, quân Bắc Việt / Việt Cộng thường thành công hoàn toàn trong mục tiêu của họ.”
Ngộ nhận: Lính Mỹ
chỉ gây tội ác với dân, còn đối với lính Sài Gòn thì xử tốt, nhân đạo,
nhân văn. Lính Mỹ và lính Sài Gòn phối hợp tác chiến ăn ý.
Thực tế: CIA đã đứng sau
giật dây đảo chính, lật đổ các “nhà lãnh đạo” trong ngụy quyền. Máy bay
ném bom Mỹ thường xuyên “dội bom nhầm” lên trên quân lính, sĩ quan,
tướng tá ngụy, thủ tiêu bằng nhiều hình thức khác nhau, gây ra nhiều cái
chết mờ ám cho cả những quan chức cao cấp ngụy quyền, ví dụ các tướng
Đỗ Cao Trí, Nguyễn Văn Hiếu. Trong khi chưa bao giờ có các trường hợp
không quân ngụy “dội bom nhầm” lên quân Mỹ. Ngay cả trong ngụy quân,
ngụy quyền, nhiều người cũng cho rằng đây là những động thái trừ khử
những người/nhóm Mỹ không ưa, hoặc để răn đe làm gương cho những người
khác. Chuẩn tướng quân đội Sài Gòn Nguyễn Hữu Hạnh, trả lời phóng viên
của đài BBC Việt ngữ vào năm 2010, đã nói như sau: “Tôi nói thật, trong tất cả các đời tổng thống Việt Nam Cộng hòa, ai mà Mỹ không ưa thì người ấy bị hất đổ ngay.”
Giáo sư Micheal Kelley nói trên đã viết tiếp về ngộ nhận này như sau:
Tôi không có ý định xúc phạm các độc giả gốc Việt Nam, nhưng một số những gì sẽ được thảo luận ở đây có thể là rất khó chịu cho họ nghe. Những gì sẽ được nói là những khái quát dựa trên những quan sát thực tế của tôi về các thái độ và hành vi của lính Mỹ tại Việt Nam. Có thể có những trường hợp ngoại lệ, nhưng báo cáo này là một nỗ lực trung thực để định lượng những gì tôi đã thấy và trải nghiệm.Trước khi phục vụ ở đó, hầu hết các nhân viên Mỹ rất ít hiểu biết về đất nước Việt Nam, hay có ít nhiều kiến thức về các nền văn hóa và phong tục dân tộc của nó. Sự thiếu hiểu biết đó trở nên phức tạp bởi sự thất bại nghiêm trọng của quân đội để cung cấp nội dung đào tạo trong vấn đề đó. Người lính bộ binh trung bình có lẽ chỉ tốn 1 hoặc 2 giờ được đào tạo về nền văn hóa và lịch sử Việt Nam. Vẫn có những người khác không hề được đào tạo gì về đất nước họ sẽ sinh sống và chiến đấu trong ít nhất một năm. Kết quả là, các thái độ và hành động của người Mỹ đã bị biến dạng bởi những sự hiểu biết rất hạn chế về các dân tộc Việt Nam.Đáng buồn thay, tôi đã có thể nói rằng hầu hết quân nhân Mỹ phát triển sự mất lòng tin cơ bản và sự căm ghét đối với Việt Nam nói chung, người Bắc hay Nam Việt Nam không quan trọng. Các thái độ thô lỗ, kiêu căng và cao ngạo của Mỹ tôi nghĩ rằng đó là công bằng để nói rằng người Việt Nam cũng phát triển một tâm lý ghét Mỹ ngược lại.Các ý kiến của quân đội Mỹ về quân lính VNCH hầu như đều là tiêu cực, nếu không nói là hoàn toàn khinh ghét. Các sĩ quan VNCH đã đạt được thứ hạng là nhờ sự giàu có và ảnh hưởng chính trị hơn là kỹ năng thực tài. Kết quả quân đội VNCH đã lười biếng và không đủ năng lực theo tiêu chuẩn quân đội Mỹ.Trên thực tế, trong hầu hết các trận giao tranh, QLVNCH tránh tiếp xúc địch như một niềm tin tôn giáo và vô cùng nhút nhát trong việc giải quyết chiến trường với kẻ thù. Những chuyện này đã gây thất vọng và tức giận cho quân đội Hoa Kỳ. Nhiều binh sĩ Mỹ ngày nay vẫn giữ quân lực VNCH trong một tâm lý khinh bỉ lớn, bởi vì họ không muốn xuất hiện để đấu tranh cho sự tồn tại của họ.Trong nhiều trường hợp, QLVNCH thậm chí không dám tiếp cận kẻ thù và dựa dẫm, lệ thuộc vào quân đội Mỹ bất cứ khi nào có thể. Quan chức chính phủ Việt Nam Cộng hòa thường xuyên bị xem thường bởi những người lính trung bình. Tham nhũng là phổ biến và được che đậy vụng về. Rõ ràng chúng tôi thấy có rất nhiều quan chức chính phủ quan tâm hơn vào việc tham lam bòn rút hơn việc đánh nhau và giành thắng trước Việt Cộng.Trong nhiều trường hợp, nó có vẻ rõ ràng rằng các quan chức Việt Nam Cộng hòa đã chơi cả hai cách, vẫy cờ Việt Nam Cộng hòa trong một tay và lá cờ Giải phóng ở tay kia. Mặt khác, trong khi những người lính trung bình của Mỹ có thể không thích đối phương, song hầu hết đều có một sự tôn trọng khả năng chiến đấu, lòng can đảm và quyết tâm của họ. Nhiều người trong số chúng tôi đều kinh ngạc trước những khó khăn và chịu đựng của đối phương. Rõ ràng hầu hết bọn họ là những người đàn ông và phụ nữ cực kỳ dũng cảm, ngoan cường, tháo vát và thật sự tin tưởng vào sự nghiệp của họ. Trái lại, quân đội VNCH đã không sở hữu những thuộc tính đó và còn tương phản đáng ngạc nhiên, hiện thực đó đã đặt câu hỏi nghiêm trọng trong tâm trí của chúng tôi về sự tham gia của những người lính chúng tôi. Nhiều hơn một vài người trong chúng ta đã đem cảm giác khó chịu của Mỹ đi quá xa. Đáng buồn thay, nội dung cơ bản của tâm lý phân biệt chủng tộc đó đã chiếm ưu thế và thường điều chỉnh thái độ và hành động đối với người Việt Nam của chúng tôi. Đó là hoàn cảnh không may làm lem luốt quan hệ của chúng tôi với người Việt. Nó cũng dẫn đến nhiều hiểu lầm, những sai lầm ngu ngốc và trong một số trường hợp để lại hậu quả rất bi thảm.”
Xuất phát từ tâm lý thù địch với người
Việt Nam, kể cả trong hàng ngũ lính ngụy, và tâm lý chán nản, bất lực
trước một cuộc chiến khó khăn vô vọng tìm không ra cách thắng, theo Gs.
Micheal Kelley, các hạ sĩ quan Mỹ thời đó hay nói đùa với nhau một câu
cửa miệng như sau: “Để thắng cuộc chiến này, tất cả những gì chúng
ta cần làm là đặt tất cả người Nam Việt Nam trên tàu thuyền ở biển Nam
Trung Hoa và sau đó tấn công hạt nhân cho hai miền thành than. Sau đó,
chúng ta cho tàu chìm.”
Ảnh kinh điển của AP: Chiến tranh Việt Nam 1962 - 1967 (2)
Máy bay Mỹ bốc cháy hay rải chất độc da cam... là những hình ảnh ám ảnh về Chiến tranh Việt Nam 1962 - 1967 của AP.
Bốn máy bay vận tải quân sự C-123 của Mỹ phun hóa chất xuống các cánh rừng ở Việt Nam tháng 9/1965. Vụ việc này nằm trong Chiến dịch Ranch Hand - hoạt động phun hóa chất khai quang của không quân Mỹ xuống Việt Nam từ năm 1962 - 1971. Đây là một trong những hình ảnh ghi dấu tội ác của Mỹ trong Chiến tranh Việt Nam
mà vẫngây ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống ngày nay của người dân dải đất hình chữ S.
Lính Mỹ bắt người ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long năm 1965.
Máy bay B-52 của Không quân Mỹ dội bom dữ dội trên bầu trời gần Tây Ninh ngày 2/11/1965.
Đại tướng William Westmoreland nói chuyện với binh sĩ ở tiểu đoàn 1, Trung đoàn 16, Lữ đoàn 2, Sư đoàn 1 của Mỹ tại khu vực gần Biên Hòa năm 1965.
Pháo sáng từ những máy bay trên bầu trời rọi chiếu những thi thể binh lính tử trận ở thung lũng Ia-Drang ngày 18/11/1965. Ảnh chụp tại thung lũng Ia-Drang vào tháng 11/1965.
Gương mặt lộ rõ vẻ căng thẳng của lính thủy quân lục chiến Mỹ trong những ngày đầu mới đến chiến trường Việt Nam ngày 29/4/1965.
Rất đông người biểu tình ở thành phố Berkeley-Oakland, California tụ tập phản đối Mỹ tiến hành chiến tranh ở Việt Nam tháng 12/1965.
Máy bay Douglas A-1E Skyraider của Không quân Mỹ ném bom phốt pho trắng vào vị trí được cho là của Quân đội Việt Nam năm 1966.
Trực thăng CH-46 Sea Knight của Mỹ bốc cháy và chuẩn bị lao xuống khu rừng sau khi bị Quân đội Giải phóng bắn hạ trong chiến dịch Hastings (hay còn gọi Chiến dịch Lam Sơn 289) ngày 15/7/1966.
Lính Mỹ sử dụng súng phun lửa tại một hang động tại thung lũng An Lão trong Chiến tranh Việt Nam ngày 14/4/1967 sau khi nhận được tin báo Quân đội Giải phóng xuất hiện tại đây.
VietBao.vn (Theo_Kiến Thức )
Bốn máy bay vận tải quân sự C-123 của Mỹ phun hóa chất xuống các cánh rừng ở Việt Nam tháng 9/1965. Vụ việc này nằm trong Chiến dịch Ranch Hand - hoạt động phun hóa chất khai quang của không quân Mỹ xuống Việt Nam từ năm 1962 - 1971. Đây là một trong những hình ảnh ghi dấu tội ác của Mỹ trong Chiến tranh Việt Nam
Lính Mỹ bắt người ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long năm 1965.
Máy bay B-52 của Không quân Mỹ dội bom dữ dội trên bầu trời gần Tây Ninh ngày 2/11/1965.
Đại tướng William Westmoreland nói chuyện với binh sĩ ở tiểu đoàn 1, Trung đoàn 16, Lữ đoàn 2, Sư đoàn 1 của Mỹ tại khu vực gần Biên Hòa năm 1965.
Pháo sáng từ những máy bay trên bầu trời rọi chiếu những thi thể binh lính tử trận ở thung lũng Ia-Drang ngày 18/11/1965. Ảnh chụp tại thung lũng Ia-Drang vào tháng 11/1965.
Rất đông người biểu tình ở thành phố Berkeley-Oakland, California tụ tập phản đối Mỹ tiến hành chiến tranh ở Việt Nam tháng 12/1965.
Máy bay Douglas A-1E Skyraider của Không quân Mỹ ném bom phốt pho trắng vào vị trí được cho là của Quân đội Việt Nam năm 1966.
Trực thăng CH-46 Sea Knight của Mỹ bốc cháy và chuẩn bị lao xuống khu rừng sau khi bị Quân đội Giải phóng bắn hạ trong chiến dịch Hastings (hay còn gọi Chiến dịch Lam Sơn 289) ngày 15/7/1966.
Lính Mỹ sử dụng súng phun lửa tại một hang động tại thung lũng An Lão trong Chiến tranh Việt Nam ngày 14/4/1967 sau khi nhận được tin báo Quân đội Giải phóng xuất hiện tại đây.
VietBao.vn (Theo_Kiến Thức )
Nước mắt và sự rệu rã của lính Mỹ trong chiến tranh Việt Nam
My Lan |
(Soha.vn) - Dáng đi thất thểu, ngủ gục ngay trên đống đổ nát, nét mặt mệt mỏi, đau đớn... là những hình ảnh thường gặp ở lính Mỹ sau những trận chiến tại chiến trường Việt Nam.
Sự căng thẳng của trận chiến
Đồng Xoài hiện rõ trên khuôn mặt của Trung sĩ Philip Fink, cố vấn của
một tiểu đoàn Mỹ. Ảnh chụp ngày 12/6/1965.
James C.Farrley gục xuống khóc
trong một lán tiếp tế sau khi chứng kiến cái chết của một người đồng đội
trong một cuộc đối đầu với quân đội Việt Nam. Ảnh chụp ngày 31/3/1965.
Ôm nỗi sợ hãi vì những cuộc
"chinh phạt mới", một người lính Mỹ và chú cún cưng của mình ngủ gục tại
căn cứ trước khi lên máy bay tới Khe Sanh, Quảng Trị. Ảnh chụp ngày
31/1/1971.
Vẻ mặt mệt mỏi của một lính Mỹ
khi đi tiền trạm, tạo lập tuyến tuần tra. Ảnh chụp tại khu vực phía tây
nam Sài Gòn, gần biên giới với Campuchia ngày 23/1/1970.
Lính Mỹ nằm chờ được đưa tới Quảng Trị, mệt mỏi tới mức không thể cởi nổi giày. Ảnh chụp ngày 27/9/1969 tại Đông Hà.
Lính thuỷ quân lục chiến Mỹ di
chuyển lên một ngọn đồi ở Quảng Ngãi, sự căng thẳng, mệt mỏi hiện rõ qua
dáng đi. Ảnh chụp tháng 3/1966.
Một lính bộ binh Mỹ, với khuôn
mặt đã được vẽ để nguỵ trang, thẫn thờ ngồi chờ đợi mệnh lệnh của một
đợt tấn công. Ảnh chụp tháng 8/1971.
Nhận xét
Đăng nhận xét