Thứ Ba, 29 tháng 10, 2019
KÝ ỨC CHÓI LỌI 129
1.594 (1). Đại đội trưởng Trương Công Nhỏ trên Đồi Đài
1.594 (2). Lính nhà mình chỉ cần đạn và nước
Người đại đội trưởng ấy (Tưởng nhớ liệt sỹ Nguyễn Quang Thông 1950-1975)
14/08/2019 08:09 142
Điểm: 0/5 (0 đánh giá)
Nguyễn
Quang Thông sinh ra và lớn lên ở một vùng quê thuộc đồng bằng Bắc bộ.
Anh là sinh viên năm thứ 4, Khoa chế tạo máy Trường đại học Bách khoa Hà
Nội, nhập ngũ theo Lệnh Tổng động viên của Chính phủ nhằm tăng cường
sức người, sức của cho chiến trường miền Nam đang ầm vang tiếng súng.
Vừa hành quân, vừa huấn luyện nên vài tháng sau khi nhập ngũ anh và các
bạn sinh viên cùng lứa đã có mặt trên mảnh đất Bình Trị Thiên. Anh được
bổ xung vào Trung đội trinh sát thuộc Đại đội 2, Tiểu đoàn I, Trung đoàn
pháo binh “Tất Thắng” khi đó đang có mặt trên chảo lửa Quảng Trị.
Tháng 9-1972, chiến sự đang ở giai
đoạn ác liệt.
Mới
đầu tháng 9 mà những cơn mưa miền Trung đã tầm tã suốt ngày đêm, mưa
trắng rừng trắng đất, mưa như muốn níu kéo cuộc chiến lại không cho nó
diễn ra khốc liệt như nó đang diễn ra nữa. Nhưng than ơi, nắng mưa là
việc của trời! Ai tận dụng được yếu tố thiên thời kẻ đó sẽ làm chủ thế
trận. Vì vậy, bom đạn vẫn tiếp tục trút xuống đầu những người lính nơi
chiến địa. Máu chiến sỹ trộn với bùn đất và hòa lẫn trong mưa.
Quân
địch có ưu thế về khả năng cơ động hơn ta rất nhiều, lại được sự yểm
trợ tối đa về phi pháo của hải quân và không quân Mỹ nên sau khi choáng
váng rút chạy khỏi Quảng Trị, chúng đã quay trở lại làm một cuộc tái
chiếm khá táo bạo. Bằng chiến lược trực thăng vận, chúng đổ quân chiếm
lĩnh những vị trí và điểm cao quan trọng. Chỉ hơn một tháng chúng đã lấy
lại được gần như toàn bộ vùng đồng bằng ven biển và các điểm cao ở vùng
đồi núi trung du Quảng Trị. Trên bản đồ tác chiến, những mảnh đất, địa
danh ngày hôm qua còn cắm cờ giải phóng, ngày hôm nay đã thay bằng lá cờ
vàng ba sọc đỏ của Việt Nam Cộng hòa. Thành cổ Quảng trị đang trở thành
điểm nóng tranh chấp nhau từng mét đất, từng mét chiến hào, từng góc
phố, gốc cây…máu xương của những chiến sỹ đã hòa quyện cùng đất đá, gạch
sỏi trên mọi nẻo đường của thị xã bé nhỏ này.
Chiến trường Quảng Trị, năm 1972
Quân
ta nhanh chóng lâm vào thế bị động trên toàn mặt trận, thương vong nặng
nề, quân số thiếu hụt trầm trọng, súng đạn, lương thực, thực phẩm,
thuốc men và dụng cụ y tế… hết thảy đều trở thành vật quý hiếm. Đạn pháo
của đại đội 2 vào những lúc khó khăn chỉ được phép mỗi khẩu pháo bắn
cầm canh bốn viên một ngày. Vật chất đã vậy, đương nhiên tinh thần của
binh sỹ cũng hết sức nao núng. Trực thăng địch đổ quân đến đâu cũng chỉ
gặp sự kháng cự yếu ớt, nhiều vị trí địch tái chiếm không mất một viên
đạn.
Quy
luật mạnh được yếu thua của chiến tranh là vậy! Một số đơn vị hoàn toàn
mất sức chiến đấu, lính tráng quân hồi vô phèng, từng toán, từng toán
kẻ lành lặn, người bị thương, băng đầu, băng chân… kéo nhau đào hầm dọc
các tuyến đường tiếp vận chờ Hiệp định ngừng chiến Paris được ký kết.
Phía
bên kia xem ra tinh thần chiến đấu cũng chẳng hơn gì, sự tiến quân của
chúng cũng chững lại, dò dẫm, hoàn toàn ỉ ê vào hỏa lực. Không có hỏa
lực dọn đường, bộ binh nhất định không tiến lên phía trước… Ai có ở
trong cuộc mới hiểu rằng, lúc đó binh sỹ hai bên như những đô vật đã
kiệt sức mà cuộc đấu vẫn chưa phân thắng bại, phải buông nhau ra mà thở
thôi... đành vậy!
Mọi
ngóc ngách chiến hào, lính tráng đâu đâu cũng bàn tán về Hiệp định đình
chiến, chẳng ai còn tư tưởng chiến đấu với chiến thắng nữa.
Nguyễn Quang Thông bổ sung vào tiểu đội trinh sát của chúng tôi vào một buổi chiều ẩm ướt và xám xịt như vậy.
Hôm
đó, khi tôi vừa tác nghiệp phần tử bắn, nã pháo vào một khu kho bộ binh
của địch thì nghe tin có lính mới bổ sung. Xuất hiện trước căn hầm chỉ
huy là một thanh niên dong dỏng cao, nụ cười khá rạng rỡ, cặp mắt mầu
nâu trong suốt luôn mở to quan sát. Mái tóc mầu hạt dẻ bồng bềnh bên
trên khuôn mặt trí thức trắng trẻo với vệt râu con kiến đậm xanh thể
hiện một tính cách rất lãng mạn của tuổi trẻ thời bấy giờ.
Anh
tự giới thiệu và chủ động làm quen với anh em lính cũ chúng tôi lúc đó
đang mỗi người mỗi việc trong căn hầm chật chội. Mấy tháng hành quân
gian khổ, đói rét, đạn bom vẫn không làm phôi phai dáng dấp trí thức của
anh.
Tôi
và Thông có cảm tình với nhau ngay từ lần gặp đầu tiên, tôi đưa anh về
ngủ cùng trong căn hầm chữ A bên sườn núi. Tôi hướng dẫn anh vài điều
cần thiết theo kinh nghiệm và hiểu biết của mình về quy luật hoạt động
của máy bay B52, về thám báo và pháo kích của địch… Thái độ ân cần của
tôi làm anh yên tâm và cởi mở hơn. Thế là từ đó, đêm đêm trong căn hầm
chữ A, giữa những giờ trực tác chiến, chúng tôi kể cho nhau nghe những
câu chuyện về cuộc đời mình, về gia đình và sự nghiệp… những lúc đó
giọng anh nhỏ nhẹ và yếu đuối vô cùng. Tôi biết trong anh đang có nhiều
tâm sự chưa thể giãi bầy.
Khi
đã quen dần với không khí chiến trận, khoảng một tháng sau đó anh bắt
đầu nhập cuộc, anh phải đi theo đài quan sát vào sát vùng địch, cùng với
tiểu đội trinh sát sửa bắn cho pháo. Nhóm các anh gồm: Trung đội trưởng
Hồng "đen", hai trinh sát viên Tâm "quặm" và Sơn "rỗ", hai điện báo
viên 15w người dân tộc Tày là Hoàng Văn Khu và Nông Văn Đén, thường
xuyên giữ liên lạc với trận địa để sửa bắn.
Từ
đó, tôi và anh chỉ gặp nhau vào những dịp anh về Sở chỉ huy lấy thêm
lương thực, thực phẩm, chủ yếu là lương khô, đạn dược… Mỗi lần như vậy,
chúng tôi lại có dịp hàn huyên suốt đêm. Anh hơn tôi vài tuổi nhưng thân
thiết nên tôi chỉ coi anh là bạn và xưng hô ngang hàng, anh cũng không
coi chuyện ấy quan trọng và dễ dàng chấp thuận.
Thông
sống giản dị và làm việc gương mẫu, là sinh viên năm cuối Đại học Bách
khoa nên anh nhanh chóng nắm bắt kỹ thuật bắn pháo, anh sử dụng thành
thạo các loại khí tài như kính viễn vọng, pháo đối kính, phương hướng
bàn…bốn tháng cùng tiểu đội trinh sát lăn lộn trên chiến trường nóng
bỏng, anh nhập cuộc vững vàng trong việc sửa bắn nhanh chóng, chính xác,
hỗ trợ đắc lực cho bộ binh giữ vững trận địa.
Do
những thành tích đạt được trong chiến đấu, sau khi Hiệp định Paris được
ký kết, chiến sự tạm ngưng, anh được cử đi học một khoá huấn luyện cán
bộ trung đội ngay tại vùng giải phóng thuộc tỉnh Quảng trị. Hết khoá
huấn luyện anh chuyển sang Tiểu đoàn 4 với chức vụ Trung đội trưởng rồi
Đại đội trưởng. Tôi đùa anh, có số phát về đường binh nghiệp, anh cười
hiền lành và tự chế nhạo mình là đã tốt nghiệp khóa sỹ quan Cùa-Mai Lộc!
(địa danh thuộc huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị).
- Mong sao chiến tranh sớm kết thúc, mình muốn được trở về trường bảo vệ luận án tốt nghiệp đang dở dang. Anh nói.
Với
cương vị chỉ huy mới, tôi biết anh chẳng hứng thú gì nhưng lúc này
những thanh niên trí thức như anh đang rất cần cho một giai đoạn trưởng
thành mới về chất lượng của quân đội… hẳn anh cũng chung suy nghĩ như
tôi.
Hiệp
định Paris về chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam được ký kết ngày 27 tháng
1 năm 1973 trong sự hân hoan chờ đón của những người lính đang trực
tiếp tham gia chiến đấu ngoài mặt trận. Trên thực tế tiếng súng vẫn chưa
hề ngưng, hai bên đều lớn tiếng tố cáo nhau không tôn trọng thực thi
hiệp định. Riêng đám lính quèn chúng tôi thì hiểu rằng đây chỉ là thời
gian nghỉ giữa 2 hiệp đấu và tương lai của những người lính chúng tôi
vẫn còn vô cùng mờ mịt, chúng tôi vẫn thường nghêu ngao câu đồng giao về
thân phận mình: “nghĩ tới tương lai trào nước mắt, nhìn về quá khứ toát
mồ hôi”.
Nhìn
lại lịch sử, những thỏa ước trong chiến tranh hầu như chỉ là những giải
pháp tình thế. Hiệp định Giơnevơ năm 1954 về đình chiến và hiệp thương
tổng tuyển cử ở Việt Nam là một ví dụ điển hình về sự bất tín chính trị,
đây là cái cốt lõi để các thế lực ngoại bang lợi dụng triệt để và Việt
Nam vô tình trở thành nơi đối đầu giữa hai phe, hai hệ thống chính trị
đối lập nhau. Với các thế lực sen đầm quốc tế, tiền bạc, súng đạn không
thiếu, chỉ thiếu một dân tộc dám hy sinh không tiếc xương máu cho những
mục đích thống trị tột cùng của chúng.
Hơn
một năm sau Hiệp định Paris ký kết, đơn vị chúng tôi vẫn căng mình trực
chiến tại Quảng Trị. Cuối tháng 12 năm 1974, chúng tôi được lệnh di
chuyển ra phía Bắc để củng cố, bổ sung thêm quân. Lúc này yêu cầu về một
cuộc chiến hiện đại với cách đánh hợp đồng binh chủng bao gồm pháo
binh, bộ binh và tăng thiết giáp đang dần trở thành hiện thực.
Được
trở lại miền Bắc là niềm vui không dấu nổi trong ánh mắt chúng tôi, cơ
hội được gặp lại gia đình và những người thân bỗng chốc ở trong tầm tay.
Hành quân hơn chục ngày trong mưa to, gió rét, lũ chúng tôi thân tàn ma
dại, đói ăn, đói uống, vàng võ vì sốt rét rừng, không một đồng xu dính
túi nhưng vô cùng hăng hái. Điểm dừng chân đầu tiên của chúng tôi là một
vùng đồi trọc nghèo khổ, heo hút gió mùa đông bắc thuộc huyện Yên
Thành, tỉnh Nghệ An. Chúng tôi đón năm mới trên đất Nghệ một cách đạm
bạc. Ở đây, lần đầu tiên tôi được nếm món bánh trưng nhân thịt chó và
món thịt chó nấu với đường mật… mà vẫn vui như tết! Chưa kịp lại sức,
lại được lệnh di chuyển, điểm dừng lần này là Quán Giắt- thủ phủ của
vùng trung du đồi núi huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hóa.
Tôi
được điều động về làm Trung đội trưởng kiêm giáo viên xạ kích tại
Trường quân chính Quân đoàn I (Tiểu đoàn 5), vẫn thuộc biên chế của
Trung đoàn pháo binh Tất Thắng. Thời gian này, tôi và Thông gặp nhau
luôn vì chúng tôi chỉ đóng quân cách nhau có vài quả đồi. Những lúc rảnh
rỗi chúng tôi thường tìm đến nhau. Lại những câu chuyện bất tận thuộc
đủ đề tài nhưng cuối cùng, câu chuyện vẫn trở về đề tài tình yêu đôi lứa
- Nỗi khát khao muôn thủa của những người lính chiến xa nhà, thiếu tình
chúng tôi.
Dịp
đó, Thông kể cho tôi nghe mối tình của anh với một thiếu nữ cùng quê,
một cô gái duyên dáng, sinh viên vừa tốt nghiệp trường Đại học Sư phạm I
Hà Nội đang chờ nhận quyết định về làm giáo viên trường phổ thông cấp
III nơi quê nhà. Hai người hứa hẹn nên duyên chồng vợ khi có điều kiện…
Trớ trêu thay, chiến tranh cứ kéo dài lê thê, việc hẹn hò vẫn không thực
hiện được. Ở cương vị cấp chỉ huy Đại đội, với những kế hoạch tác
chiến, huấn luyện không ngưng nghỉ luôn trói chặt thời gian của Thông,
không cho phép anh được rời đơn vị lấy vài ngày, đến cả những bức thư
gửi người yêu, anh cũng viết vội vã và hết sức vắn tắt. Lính thời chiến
làm gì có phép tắc nghỉ ngơi, cùng lắm có điều kiện thì cấp trên cho
tranh thủ tụt tạt thăm gia đình ít ngày là lộc trời to lắm rồi, vì vậy
anh thường nhường cái lộc đó cho đồng đội và những người dưới quyền anh.
Khi người yêu ngỏ ý lặn lội vào thăm anh, anh lần lữa rồi tìm cách gạt
đi. Phần vì sợ nàng đi lại thân gái dặm trường, đường xa vất vả, phần vì
đơn vị mới ở chiến trường ra chỗ ăn, chỗ ở tạm bợ, nhếch nhác nên anh
luôn tìm cách thoái thác dù trong lòng luôn xao xuyến nhớ tới người yêu.
Đầu tháng 3 năm 1975, chúng tôi đột ngột chia tay nhau.
Số
là, sau khóa huấn luyện hạ sỹ quan pháo binh Quân đoàn I kết thúc, tôi
được cử về Trường sỹ quan Pháo binh Sơn Tây học một lớp đào tạo sỹ quan
ngắn hạn nhằm kịp thời bổ sung cho chiến trường. Chúng tôi nói đùa là
phải qua trường để đóng số vì khoá học chỉ vẻn vẹn có 3 tháng là kết
thúc.
Thông ở lại Thanh Hóa, ít ngày sau đó anh cùng đơn vị lên đường hành quân về phía Nam tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh.
Tôi nhớ mãi buổi chia tay ấy với anh!
Hôm
đó, ngày chủ nhật tôi nghỉ trong doanh trại, Thông đến chỗ tôi ở từ rất
sớm, mái tóc cánh én bồng bềnh của anh trùm kín tai, những lọn tóc dài
loà xoà trước trán. Năm tháng ở chiến trường, chúng tôi phải tự cắt tóc
cho nhau. Tôi khéo tay nên thường được các chiến hữu tin tưởng giao cho
xử lý cái đầu của họ. Thông cũng vậy, anh rất hài lòng về cách trình
diễn dao kéo của tôi và lần chia tay này, anh lại muốn tôi cắt kỷ niệm
anh mái tóc của mình. Đã hơn tháng trời chúng tôi không gặp nhau, anh
bận đưa bộ đội đi diễn tập hiệp đồng binh chủng còn tôi phải kết thúc
khoá huấn luyện hạ sĩ quan pháo binh. Gặp nhau thật mừng, trông anh đen
đúa và gầy xọp đi, mắt trũng sâu, râu ria lởm chởm, riêng nụ cười thì
không thay đổi, vẫn ngời sáng như lần đầu tôi gặp anh ở Trường Sơn. Tôi
không ngờ đây là lần cuối cùng chúng tôi gặp nhau.
Xe tăng Quân giải phóng tiến vào Dinh Độc lập,
Sài Gòn, trưa ngày 30/4/1975
Sài Gòn, trưa ngày 30/4/1975
Tôi
hoàn thành khoá huấn luyện sỹ quan 3 tháng cũng là lúc Chiến dịch Hồ
Chí Minh toàn thắng. Trở về đơn vị, tôi bàng hoàng nghe tin Thông không
còn nữa. Anh đã hy sinh trên đường dẫn quân tiến vào Sài Gòn. Nghe nói,
Anh ngã xuống khi gặp phải sự chống trả hú hoạ của một máy bay địch
trước khi bay vọt ra biển tẩu thoát. Các chiến sỹ dưới quyền chỉ huy của
anh hẳn không thể quên người chỉ huy đại đội đã không quản hiểm nguy,
hy sinh tính mạng chạy theo từng người đè họ nằm xuống vì lần đầu tiên
gặp địch, họ quá sợ hãi mà bỏ chạy. Chính họ đã may mắn thoát chết, còn
anh, anh đã vĩnh viễn nằm xuống trên mảnh đất này. Nơi đó chỉ còn cách
Sài Gòn một tầm đại bác 130 ly. Đó chính là những giây phút cuối cùng
của cuộc chiến tranh giải phóng.
Giờ đây, tất cả những tấm huân chương dành tặng cho anh và chúng tôi đều trở nên vô nghĩa.
Anh mãi mãi là người Anh hùng của chúng tôi!
Nguyễn Xuân VượngAnh hùng lực lượng vũ trang, Liệt sĩ Nguyễn Như Trang
23/07/2019 08:23 240
Điểm: 0/5 (0 đánh giá)
Anh
Nguyễn Như Trang sinh năm 1927 trong một gia đình nhà giáo ở làng Nam
Nhạc, thôn Vĩnh Mộ, xã Cao Xá, Lâm Thao, Phú Thọ. Cha anh là cụ giáo
Nguyễn Như Hoàn, đã từng được giải nhất thơ Ngụ ngôn của Hội Khai trí
Tiến đức từ trước tháng Tám năm 1945. Anh là hậu duệ thứ 15 của Thám
hoa, Tướng công Nguyễn Như Thức, cụ thủy tổ của dòng họ Nguyễn làng Nam
Nhạc. Sớm được cha mẹ cho ăn học ở trường Thăng Long đúng vào thời kỳ
sôi nổi của Mặt trận Dân chủ Đông Dương, lòng yêu nước thương nòi trong
anh đã được bồi đắp từ những bài giảng của các thầy giáo Đặng Thai Mai,
Võ Nguyên Giáp, Hoàng Minh Giám…
Anh hùng lực lượng vũ trang, Liệt sĩ Nguyễn Như Trang (1927- 1948)
Tháng
Tám năm 1945, sau khi tham gia giành chính quyền ở Mỹ Hào, Hưng Yên,
nơi cha mẹ anh đang sinh sống, anh trở lại Thủ đô Hà Nội, gia nhập Vệ
quốc đoàn. Có bản lĩnh vững vàng, có học thức, lại giỏi thơ và nhạc, hè
năm 1946, anh được tổ chức cho đi dạy học kỹ thuật quân sự ở trường quân
chính của Vệ quốc đoàn, đào tạo cán bộ cấp Tiểu đội. Anh đã sớm trưởng
thành trong cuộc chiến đấu quyết liệt để bảo vệ chế độ dân chủ nhân dân
và được kết nạp Đảng năm 1946.
Tháng
11 năm 1946, Thủ đô Hà Nội gấp rút chuẩn bị mọi mặt chống thực Pháp xâm
lược. Năm Tiểu đoàn Vệ quốc đoàn được bố trí ở ba Liên khu trong nội
thành. Riêng trung đội do Anh làm Trung đội trưởng có nhiệm vụ bảo vệ
một số cán bộ của Khu XI đóng ở khu Lò Lợn. Ông Nguyễn Hoàng Sâm, tiểu
đội trưởng của Trung đội này, hiện ở Trích Sài, quận Tây Hồ, Hà Nội, kể
lại:”Lúc đó, cán bộ Mặt trận khu XI có anh Trần Độ và một số người
nữa, mượn nhà dân ở khu Lò Lợn, giáp Nhà máy Xay Lương Yên. Chúng tôi
canh gác, bảo vệ các anh. Ngày 16 tháng 12 năm 1946, Lễ Quyết tử được tổ
chức rất linh thiêng trong tâm trí chiến sĩ đội Quyết tử. Đêm
19/12/1946, chúng tôi đánh địch ở đê Stai Quai, rồi vào ngã ba Lò Đúc-
Yec- xanh. Ở đây, các bao đựng đường cũng được người dân mang ra đắp ụ,
nên khi tôi chiến đấu bị dính cả đường vào cánh tay. Chiến đấu được ít
hôm, thì Trung đội sáp nhập với Tiểu đoàn 212 Vệ quốc đoàn”. Tiểu
đoàn có ba đại đội 14, 15,16 do đồng chí Quang Tuần làm Tiểu đoàn
trưởng, Bùi Cúc là Tiểu đoàn phó, Văn Tân là Chính trị viên. Anh Trang
trở thành Đại đội trưởng một Đại đội của Tiểu đoàn. Những cuộc chiến đấu
quyết liệt đã diễn ra ở các vị trí Ô Cầu Dền, phố Huế-Viện Paxteur, Ngã
năm Lò Đúc- Hàm Long- Lê Văn Hưu- Phan Chu Trinh, Nhà máy Rượu Hà Nội, ô
Đông Mác- Cảng Phà Đen. Anh đã cùng đồng đội tiêu diệt địch và xe cơ
giới ở Mặt trận Liên khu II. Ông Lê Hùng Lâm, chiến sĩ của Đại đội 16 đã
kể về những ngày chiến đấu ác liệt ở Liên khu II dưới sự chỉ huy của
Anh - Đại đội trưởng Nguyễn Như Trang trong bài hồi ký “Từ Hà Nội đi Tây
Tiến”: “Chiến lũy Hòa Mã cản địch từ phố Huế vào rất có hiệu quả.
Xe tăng địch đến góc phố phải dừng lại. Tôi được phân công ra bắn giữa ụ
đất. Bắn xong mỗi phát lại phải lao khẩu khai hậu vào trong nhà để anh
em thông nòng. Ở Ô Cầu Dền, địch cũng bị chặn đánh rất lâu. Chúng không
qua được chiến lũy, phải đánh vòng qua Việt Nam học xá xuống chợ Mơ rồi
đánh ngược lên. Sau Tết, đại đội tôi đánh chặn địch ở Nam Dư Thượng- Nam
Dư Hạ. Biết đơn vị mình đang bí mật chọn người đi Tây tiến, tôi tìm gặp
anh Như Trang xin đi. Chúng tôi để Hà Nội lại sau lưng. Tây Tiến!”(1). Ông Nguyễn Hoàng Sâm, lúc đó cũng thuộc Đại đội 16 kể rõ hơn: “Chúng
tôi được lệnh bí mật tập trung quân ở gần sân bay Bạch Mai, xốc lại lực
lượng, nhằm thị xã Hà Đông tiến quân. Đến nơi, cầu bắc qua sông Nhuệ
không còn, chúng tôi phải xuống mảng tre qua sông để vào trong thị xã,
theo đường số 6 mà đi”. Cuộc chiến đấu một mất một còn ở mặt trận
Hà Nội đã tôi luyện bản lĩnh kiên cường của người Đại đội trưởng xuất
sắc. Anh được kết nạp Đảng.
Những trận chiến đấu ở Hòa Bình
Từ
Nam Dư ra Xuân Mai bổ sung quân số, thành Tiểu đoàn 150 để đi chiến đấu
đánh địch phía Thượng Lào, giữ sườn phía Tây của ta. Cuối tháng 2-1947,
Tiểu đoàn 150 thuộc Trung đoàn 52 Tây Tiến gồm bốn Tiểu đoàn (D 150,
D157, D 160, D 164). Các chiến sĩ hành quân theo hướng Lương Sơn- Chợ
Bò- Suối Rút, Chiềng Sại rồi ngược sông Mã đánh chiếm Mường Lát trong
năm 1947.
Trong
khó khăn gian khổ, bị thương cuối năm 1947, nằm điều trị ở trạm xá
Trung đoàn, anh đã chứng kiến cảnh bi thương: nhiều chiến sĩ bị sốt rét,
chết ngay tại bệnh xá. Vô cùng xúc động, đau xót khi nghe mỗi tiếng
cồng đánh lên là một chiến sĩ đã bị bệnh sốt rét cướp đi, anh đã sáng
tác bài hát Tiếng cồng quân y, nói đúng tâm trạng của người lính:
“Chàng chưa đáng chết, nước non chưa yên/ Nhưng bệnh rừng ác độc mang
chàng đi/ mà nước non đang chờ… Nơi quân y đã bao lần tiếng cồng rền rĩ/
Tơi tai người chiến sĩ hùng dũng xưa kia”.
Anh
còn viết nhiều bài báo, sáng tác nhiều ca khúc động viên, khích lệ cán
bộ chiến sỹ của mình vượt qua gian khổ, chiến đấu vì Tổ quốc. Tác phẩm
nổi tiếng “Trấn biên cương” do anh phổ nhạc
bài thơ mà anh sáng tác từ năm 1946, ra đời trong những ngày ở mặt trận
Hòa Bình. Mỗi khi hát, các chiến sĩ thêm vững lòng: “Đoàn quân lên trấn biên cương hào hùng/Một mùa xuân mới trời rung/ Đem chiến công về vinh quang mà danh vang ghi”
Tháng 5-1948, thực dân Pháp đã tập hợp bọn lang đạo phản động đầu sỏ trong tỉnh về thị xã Hòa Bình để thành lập “Xứ Mường tự trị”. Chúng phong Đinh Công Quyền làm Chánh quan lang, ra báo Sao Trắng làm
công cụ tuyên truyền. Thu - đông năm 1948, quân Pháp đã chiếm đóng hai
phần ba đất đai ở Hòa Bình, kiểm soát toàn bộ tuyến quốc lộ 6, quốc lộ
12, quốc lộ 15; từ đó, chúng muốn biến Hòa Bình thành "bức tường thép bên sông Đà”,
chặt đứt mạch máu giao thông Liên khu 3, Liên khu 4 với Việt Bắc và Tây
Bắc; do đó, đoàn quân Tây Tiến đã trải qua những ngày chiến đấu cực kỳ
gian khổ, không kể xiết. Anh Nguyễn Như Trang đã chỉ huy một Đại đội
thuộc Tiểu đoàn 150 chiến đấu trên đường số 6, Hòa Bình, tiêu diệt nhiều
sinh lực địch, thu nhiều vũ khí, chặn đường hành binh của địch. Điển
hình là trận Mè - Lặt, Lương Sơn, ta đã tiêu diệt hàng chục tên. Tên
Phùng Đồng Đẳng, đảng trưởng khét tiếng phải đền tội. Trận tiêu diệt căn
cứ Mai Châu, đồn Mai Hạ, Mường Lò, Anh đã chỉ huy bộ đội đánh phá cơ
quan ngôn luận của xứ Mường tự trị có tờ báo Sao Trắng do Quách
Đăng làm chủ bút, diệt 2 trung đội địch, làm chủ trận địa, lập chiến
công vang dội khắp vùng. Chỉ trong một thời gian ngắn, Anh còn chỉ huy
đại đội chiến đấu trên địa bàn rộng lớn ở miền núi Hòa Bình. Vì vậy, Anh
đã được cấp trên bổ nhiệm là Tiểu đoàn phó Tiểu đoàn 150, Trung đoàn 52
Tây Tiến.
Thu
đông năm 1948, Trung đoàn 52 chủ trương các đại đội độc lập hỗ trợ cho
Tiểu đoàn 150 nhổ đồn Đầm và đồn Nghẹ - hai vị trí quan trọng của địch ở
Ngọc Lặc, phía tây Thanh Hóa để từ đó sẽ tạo đà, giải phóng một vùng
rộng lớn Thanh Hóa- Hòa Bình. Một đoàn chuẩn bị chiến trường do Trung
đoàn trưởng An Giao, chính ủy Hùng Thanh dẫn đầu. Tiểu đoàn 150 do Tiểu
đoàn phó Như Trang và Đại đội trưởng 135 Nguyễn Huy Ngọc chỉ huy. Sau
vài ngày hành quân, ngày 19/11/1948, bộ phận trinh sát tình hình địch
tới thôn Mu, làng Ngọc Lâu, Châu Lạc Sơn, nay là xã Tự Do, huyện Lạc
Sơn, Hòa Bình. Do bị bọn Mường gian chỉ điểm, một bộ phận trinh sát bị
một đại đội địch tăng cường, trong đó có trung đội lính Âu- Phi tấn
công. Theo lời kể của ông Lê Hùng Lâm những năm trước đây, người luôn
luôn theo sát Anh như hình với bóng, hình ảnh của Anh hiện lên thật oanh
liệt và anh đã đến hơi thở cuối cùng: Trong điều kiện hoàn toàn bất
lợi, địa hình trống trải, lực lượng chênh lệch (ta một địch mười), Anh
cho các chiến sĩ rút khỏi vòng vây địch để bảo toàn lực lượng; trận địa
chỉ còn Anh và một đại đội trưởng ở lại thu hút lực lượng địch về phía
mình. Khi đồng chí đại đội trưởng hy sinh, chỉ còn một mình, Anh vẫn
tiếp tục chiến đấu trong vòng vây của địch, diệt hơn 10 tên địch và hy
sinh oanh liệt tại thôn Ngọc Lâu, Châu Lạc Sơn, Hòa Bình trưa
19/11/1948. Tên trung úy Pháp đứng trước thi thể Anh đã thốt lên: Tôi
cúi đầu thán phục trước cái chết anh hùng của người sĩ quan trẻ tuổi. Và
chính tấm gương anh hùng của Anh đã cảm hóa Grand Wath – người lính Âu-
Phi chạy sang hàng ngũ bộ đội Cụ Hồ.
Các
liệt sĩ đã được đồng bào thôn Mu chôn cất - “Áo bào thay chiếu anh về
đất”. Một thời gian sau, đơn vị cử người tìm đến gia đình anh đang tản
cư ở Thanh Ba, Phú Thọ, đau đớn báo tin buồn. Năm 1957, mẹ anh, cụ Đặng
Thị Lục và người em trai thứ bảy là Nguyễn Như Giao lên làng Mu. Trải
bao khó khăn, vất vả, khi đạp xe, khi xuống thuyền, theo sông mà đi, mới
đến được làng Mu. Được đồng bào địa phương tận tình giúp đỡ, nhất là
ông Bùi Mun, con trai ông cụ đã từng chôn cất hai liệt sĩ, gia đình đã
lần tìm được hài cốt hai Anh Nguyễn Như Trang và Nguyễn Huy Ngọc trong
hai ngôi mộ kề bên nhau. Mẹ nén đau xót, xin địa phương đưa anh về rồi
rước vong linh Anh lên chùa Trấn Quốc làm lễ. Sau đó Lễ truy điệu và an
táng Anh đã được tổ chức trang trọng tại Nghĩa trang Liệt sĩ Mai Dịch.
Anh nằm tại Lô số 8, khu L1, quây quần với hàng trăm Liệt sĩ của Thủ đô
Hà Nội hy sinh cho đất nước hòa bình, độc lập, tự do.
Tượng đài bất từ
Chiến
công xuất sắc của anh trong cuộc kháng chiến chống Pháp đã được Đảng và
Nhà nước ghi nhận, truy tặng Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân ngày
21/10/2014. Gia đình và dòng họ Nguyễn Như ở Cao Xá (Phú Thọ) tự hào về
anh, đã tổ chức Lễ vinh danh trong dòng họ Nguyễn làng Nam Nhạc vào
ngày lành, 26 tháng 9 âm lịch năm 2015 (7/11/2015). Năm 2016, tại Hà
Nội, họa sĩ, nhà điêu khắc Hoàng Sỹ Long đã sáng tác một tác phẩm về Anh
hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, liệt sĩ Nguyễn Như Trang. Tháng
4/2017, bức tượng đồng bán thân Anh hùng, liệt sĩ Nguyễn Như Trang được
hoàn thành. Đúng ngày 30/4/2017, Đảng ủy- Ủy ban Nhân dân, Hội đồng nhân
dân xã Tự Do, huyện Lạc Sơn đã về Hà Nội làm lễ rước tượng đồng nguyên
khối cao 50 cm, từ chùa Trấn Quốc về xã. Đó cũng là tình nghĩa của gia
đình với địa phương, nơi anh đã ngã xuống và nằm lại trong tình cảm khâm
phục, thương tiếc của bà con.
Đặc
biệt, kỷ niệm 70 năm ngày Thương binh, liệt sỹ (27/7/1947-27/7/2017),
gia đình còn hiến tặng bức tượng đồng thứ hai cho Bảo tàng Lịch sử Quân
sự Việt Nam. Hình tượng người chiến sĩ Tây Tiến sống mãi trong lịch sử
Quân đội Nhân dân Việt Nam, trong muôn ngàn trái tim dân Việt “Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy/ Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi”. Và
hôm nay, hình tượng bi tráng ấy hiện lên rất cụ thể, sinh động và tràn
đầy sự khâm phục qua một tấm gương tiêu biểu: Anh hùng Lực lượng vũ
trang nhân dân Nguyễn Như Trang.
Ths. Phạm Kim Thanh
Liệt sỹ, Anh hùng Trần Thị Bắc, nguyên mẫu trong bài thơ “Núi Đôi” của nhà thơ Vũ Cao
17/07/2019 08:27 386
Điểm: 5/5 (1 đánh giá)
Kỷ
niệm ngày Thương binh Liệt sĩ, ký ức hiện về những kỷ niệm xúc động:
trong cuộc Hội thảo “Liệt sỹ Trần Thị Bắc với quê hương Sóc Sơn anh
hùng” do Huyện ủy tổ chức vào mùa hè năm 2014, chúng tôi đã được gặp
những người thân trong gia đình Liệt sĩ Trần Thị Bắc, nguyên mẫu trong
bài thơ Núi Đôi của nhà thơ Vũ Cao, càng hiểu sâu sắc hơn câu chuyện
tình rất đẹp và sự hy sinh dũng cảm của chị.
Chân dung Liệt sỹ, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Trần Thị Bắc (1932-1954)
Hình ảnh cao đẹp của người phụ nữ trong bài thơ Núi Đôi của Vũ Cao “Em sẽ là hoa trên đỉnh núi/ Bốn mùa thơm mãi cánh hoa thơm”,
đã đi theo bước chân các chiến sỹ trên đường hành quân ra trận thời
chống Mỹ và gieo vào tâm khảm lớp lớp thế hệ hôm qua, hôm nay, niềm xúc
động, tự hào về người liệt sỹ anh hùng, chính là một hình ảnh có thực.
Những câu chuyện mà tôi được nghe người trong gia đình chị và người xã
đội trưởng năm 1954 kể lại, ông Nguyễn Văn Lịch, đẹp hơn, anh hùng hơn,
sâu đậm hơn những gì tôi đã mường tượng qua bài thơ của nhà thơ Vũ Cao.
Ông Trần Văn Nhuận, em trai Liệt sĩ Trần Thị Bắc thắp hương tại phần mộ chị tại Nghĩa trang Liệt sĩ huyện Sóc Sơn
“Xuân Dục, Đoài Đông hai nhánh lúa/ Bữa thì anh tới bữa em sang”.
Câu thơ của Vũ Cao đã nói hộ chúng ta về thôn Xuân Dục Đoài, xã Phù
Linh, quê hương chị, thuộc xã Lạc Long, huyện Đa Phúc, nay là huyện Sóc
Sơn. Chị chào đời năm 1932 và tuổi thơ đã sớm phải chứng kiến cảnh cha
bị thực dân Pháp bắt đi tù ở Sơn La, rồi Hỏa Lò. Khi đã là thiếu nữ, chị
hiểu con đường cách mạng chông gai khi biết ông Trần Văn Bích là cơ sở
của Huyện ủy Đa Phúc năm 1945-1946, chú ruột Trần Văn Nghiêm xung phong
đi bộ đội giải phóng quân đã hy sinh. Năm 1949, 17 tuổi, chị tham gia
Ban Chấp hành phụ nữ xã Lạc Long; sau đó xung phong vào du kích, như một
lẽ tất yếu của lý tưởng cao đẹp, muốn dâng hiến tuổi trẻ cho độc lập tự
do của đất nước, quê hương. Lúc đó, Núi Đôi - tên hai trái núi thơ
mộng, cũng là cao điểm để quân đội Pháp xây dựng bốt kiên cố và trang bị
hỏa lực mạnh. Ông Nguyễn Văn Lịch, nguyên xã đội trưởng kể: “Tháng 7
năm 1949, địch đã xây bốt gạch ở Núi Đôi cùng với hệ thống từ núi Thằn
Lằn, Mán Tép, Đạc Tài, Tú Tạo, Phù Lỗ, tạo thành hệ thống phòng thủ,
khống chế hoạt động của ta. Từ năm 1950, chúng cho xây hệ thống boong ke
từ trung du về đồng bằng, lập vành đai trắng, triệt phá phong trào
kháng chiến dữ dội với phương châm “không cho lọt một tấc đất vào tay cộng sản”.
Do đó, ở Núi Đôi, ngoài bốt gạch cũ, chúng xây thêm năm bốt mới bằng bê
tông cốt thép và tăng cường lực lượng gồm một đại đội Tây trắng, Tây
đen, một trung đội lính bảo hoàng, có cả bọn batizăng. Sóc Sơn là cửa
ngõ để cán bộ ta từ vùng tự do vào vùng địch hậu, luồn sâu về Hà Nội và
ngược lại. Do đó, nhiệm vụ bám dân, giữ đất, liên lạc đưa đón cán bộ là
hết sức quan trọng. Du kích xã Lạc Long có khoảng 30 người, chia thành
ba tổ: Tổ du kích Thượng Dược theo dõi bốt La-ni-vê; tổ du kích Lương
Châu theo dõi bốt Miếu Thờ, tổ du kích Xuân Đoài theo dõi bốt Núi Đôi.
Gan dạ, mưu trí, nhanh nhẹn, chị Bắc là tổ trưởng của du kích Xuân Đoài.
Năm 1951, chị được giao làm cả ba nhiệm vụ: quân báo, cứu thương, binh
vận. Thông minh, đẹp người, đẹp nết, chị làm công tác địch vận rất hiệu
quả. Dân trong xã luôn thấy cô gái xinh tươi, tóc dài vấn trong vành
khăn mỏ quạ, gánh thúng hàng đi bán ở chợ phiên, không ai biết chị đang
làm nhiệm vụ, nắm tin tức. Dân làng còn lưu truyền đến tận bây giờ, câu
chuyện tên chỉ huy vào làng càn quét, thấy chị xinh đẹp, muốn lấy chị
làm vợ bé. Tận dụng cơ hội thuận lợi đó, chị đã binh vận được cai Năm và
cai Đinh, tự động mang súng ra hàng. Ông Tám Hồng, thợ mộc trong bốt
Núi Đôi và bà Tuệ là vợ Tây trở thành cơ sở nội ứng, cung cấp tin tức
kịp thời cho chị kế hoạch càn quét của địch. Cũng nhờ có nhân mối mà du
kích xã đã thâm nhập vào bốt Núi Đôi, lấy được lựu đạn, mìn của địch để
đi mai phục chúng. Bọn giặc đánh hơi, biết chị hoạt động du kích, vào
làng bắt cha chị tra tấn dã man, nhưng ông kiên gan chịu đòn thù, không
nhận con là du kích.
Tình yêu và sự hy sinh anh dũng, đẹp hơn cả trong thơ
“Em
sống trung thành chết thủy chung/ Anh ngước nhìn lên hai dốc núi/ Hàng
thông bờ cỏ con đường quen/ Nắng lụi bỗng dưng mờ bóng khói/ Núi vẫn đôi
mà anh mất em”.
Nhà thơ Vũ Cao nghe câu chuyện dân làng Phù Linh kể về chị, xúc động
sáng tác nên bài thơ Núi Đôi nổi tiếng. Tôi cũng như bao người đinh
ninh rằng, có một người con gái đã hy sinh giữa tuổi thanh xuân tươi
đẹp. Chỉ đến khi lên Sóc Sơn, gặp bà Trần Thị Thiệp, em gái liệt sỹ, có
khuôn mặt hao hao như ảnh chị Bắc, lại được đọc tư liệu của các nhân
chứng lịch sử, tôi mới được biết thêm về cuộc đời và mối tình của chị
với anh bộ đội Trịnh Khanh thuộc đại đội Trần Quốc Tuấn, trung đoàn 121-
đơn vị chủ lực chiến đấu ở vùng đồng bằng- trung du Bắc Bộ.
Chị
và anh đã tình cờ gặp nhau ở xã Bắc Sơn khi anh đóng quân tại đây và
chị theo học lớp y tá. Họ cùng nhận nhau là đồng hương Phù Linh, bởi anh
là người Vệ Linh. Tình yêu chớm nở và đơm hoa trên nẻo đường kháng
chiến. Họ hẹn nhau sẽ tổ chức đám cưới sau khi anh đánh thắng giặc ở
trận Bắc Hồng (Đông Anh). Thông cảm với hai con, mẹ chị đã gánh bánh kẹo
ra vùng tự do Hồng Kỳ cho anh chị làm lễ cưới ngày 9-12-1953. Chiếc
giường hạnh phúc thời kháng chiến là ổ rơm thơm dịu ngọt mùi rơm rạ. Hai
ngày sau, chị phải tạm biệt anh, trở về quê hương làm nhiệm vụ. Anh
không ngờ đó lại là cuộc chia ly vĩnh viễn.
Tọa đàm: “Liệt sĩ Trần Thị Bắc với quê hương Sóc Sơn anh hùng”,
tháng 3-2014
Ngày
16-3-1954, 22 giờ đêm, chị dẫn đường cho đoàn cán bộ từ vùng tự do vào
vùng tạm chiếm ở xã Phù Linh để chuẩn bị cho một trận chiến đấu. Vừa
đến khu ruộng ở bãi Thái Hòa (nay ở gần trạm máy nước Xuân Đoài), cả
đoàn rơi vào ổ phục kích của địch. Chị đã hô to lên cho các đồng chí
biết. Giặc điên cuồng xả đạn vào người chị. Ngay trong đêm, xã đội cử
bốn du kích là ông Túc, ông Thuộc, ông Hội, ông Viết Thị làm nhiệm vụ
lấy xác chị Bắc. Các ông đến được nơi chị ngã xuống thì máu đã chảy
loang trên bãi cỏ. Đồng đội gạt nước mắt, cõng chị về chùa Vệ Sơn Đoài
(Tân Minh). Lễ mai táng liệt sỹ Trần Thị Bắc ở khu vực Cầu Cốn được tổ
chức trang trọng với sự có mặt của các đồng chí huyện ủy Đa Phúc và đồng
đội, nhân dân trong xã Lạc Long. Riêng gia đình chị đang ở Lương Sơn
cùng bà con trong khu địch dồn dân, không có mặt trong giây phút thương
đau ấy. Bà Trần Thị Thiệp, em gái liệt sỹ Trần Thị Bắc kể: Đêm ấy,
nghe nó vãi đạn mooc chi ê liên tục từ Núi Đôi, mẹ tôi cũng không ngủ
được, luôn cầu trời khấn phật cho chị thoát khỏi nguy hiểm. Sáng sớm hôm
sau, chị Hợi tôi ra đồng Sen, thấy chiếc khăn láng đen giống hệt khăn
của chị Bắc trên đồng, mang về cho mẹ tôi. Bà cụ khóc, đau cắt ruột mà
cũng không ra mộ chị ở Cầu Cốn được. Bọn địch gọi hết dân làng ra bãi
Chè thôn Lương Châu để điểm mặt, kiểm thẻ căn cước. Lúc ấy, cha tôi đang
đi dân công hỏa tuyến phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ, cũng không về
được. Con gái mất, chồng đi dân công biền biệt không tin tức, mẹ tôi ốm
mấy trận, tưởng không qua khỏi. Mãi đến sau hòa bình, mới thấy ông cụ
về.
Tôi
hỏi bà Thiệp câu chuyện ông Trịnh Khanh, bà kể: Năm 1955, ông về Cầu
Cốn tìm mộ vợ rồi chuyển mộ về quê ông ở làng Vệ Linh (sau này, các liệt
sĩ của Sóc Sơn được chuyển về xã Tiên Dược, chị Bắc quây quần với đồng
đội ở đó).
Các đại biểu tham dự Tọa đàm: “Liệt sĩ Trần Thị Bắc với quê hương Sóc Sơn anh hùng”,
tháng 3-2014
Sau
ba năm để tang vợ, chính mẹ chị Bắc cùng mẹ đẻ và mẹ nuôi của ông Khanh
đã đi hỏi vợ cho ông. Từ đó đến trước khi ông mất (năm 2013), dù ông
sống ở thôn Hậu Dưỡng, xã Kim Chung (Đông Anh), gia đình chị Bắc vẫn coi
ông Khanh như anh rể lớn trong nhà, tình nghĩa trước sau vẹn tròn trong
mỗi dịp lễ tết, hiếu hỉ của gia tộc chị.
Lễ
truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân thời kỳ kháng
chiến chống thực dân Pháp cho liệt sĩ Trần Thị Bắc, tháng 7-2018
Câu chuyện tình đời kết thúc có hậu, nhân nghĩa, có thủy, có chung. Hình ảnh chị sống trung thành chết thủy chung
càng đẹp trong tâm khảm mỗi người hôm nay. Tháng 7-2018, Nhà nước đã
vinh danh liệt sĩ Trần Thị Bắc là Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân.
Quê hương Sóc Sơn thật tự hào về người nữ Anh hùng đã trở thành biểu
tượng cao đẹp cả trong thơ và trong đời cho thế hệ sau noi theo.
Ths. Phạm Kim Thanh
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét