Thứ Hai, 28 tháng 10, 2019

VÌ DÂN - VÌ NƯỚC 02


"Bóng tối không thể xua đi bóng tối, chỉ có ánh sáng mới làm được điều đó. Hận thù không thể xua đi hận thù, chỉ có tình yêu mới có thể làm được điều đó".
Martin Luther King 
 
------------------------------------------------------------------
(ĐC sưu tầm trên NET)
                                      
                    Đằng sau một dự án được tung hô “do dân, vì dân” – Điều tra qua thư khán giả

Tư tưởng của Hồ Chí Minh về Nhà nước của dân, do dân, vì dân

Thứ năm - 18/08/2016 09:55 2.187 0
Nhân dân có vai trò cực kỳ to lớn trong đời sống chính trị - xã hội của nước ta. Quyền lực của dân đứng ở vị trí tối thượng trong hệ thống quyền lực của đất nước. Trong hệ thống cấu trúc quyền lực nhà nước mới của nước ta từ tháng 9/1945 đến nay đã được ghi vào 05 bản Hiến pháp là: tất cả mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh thường nhấn mạnh rằng, nhân dân lao động làm chủ, còn Đảng, Chính phủ cũng như cán bộ, đảng viên, công chức chỉ là công bộc, là đầy tớ của nhân dân. Đây là một vấn đề trở thành nguyên tắc khi xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN của dân, do dân, vì dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng phải đi đôi với xây dựng một xã hội công dân.

Dân là chủ - chủ Nhà nước, chủ đất nước, chủ xã hội, chủ vận mệnh của chính mình. Dân chủ được Chủ tịch Hồ Chí Minh giải thích ngắn gọn, súc tích là “dân làm chủ” và “dân là chủ”. Khi người dân chưa hiểu dân chủ là gì thì không thể thực hành dân chủ thật sự. Phải làm sao cho nhân dân biết hưởng quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ. Hiểu dân chủ tức là nhân dân có quyền lợi làm chủ và phải có nghĩa vụ làm tròn bổn phận công dân. Vì thế, để thực hiện vai trò của dân, Người đã đề ra đường lối, chính sách và kiên trì xây dựng một nhà nước thật sự dân chủ - nhà nước của dân, do dân, vì dân. Đối với Người, mọi quyền lợi, quyền hạn chỉ có giá trị khi nó phục vụ nhân dân “Nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng không có nghĩa lý gì” [56, tr.64].

Nhận thức được ý nghĩa to lớn và tầm quan trọng của vấn đề dân chủ, nên mối quan tâm hàng đầu của Chủ tịch Hồ Chí Minh là làm cho mọi người dân hiểu bản chất chế độ mới, nhà nước mới khác nhà hoàn toàn về chất so với chế độ cũ, nhà nước cũ ở giá trị dân chủ. Dân là chủ, chứ không phải là nô dân, thần dân, thứ dân hay công dân mà các chế độ xã hội cũ gọi là như vậy, nhưng thực tế xem dân là chủ chỉ là giả hiệu. Nước ta là nước dân chủ, bản chất dân chủ thực sự ở chế độ ta được Người viết trong bài báo Dân vận (1949), chính là:

 “Bao nhiêu lợi ích đều vì dân”, lợi ích ở đây là toàn diện, không chỉ có lợi ích vật chất mà còn cả lợi ích tinh thần từ kinh tế, chính trị, văn hóa, giáo dục, cả môi trường xã hội, cả đạo đức và tôn giáo. Lợi ích này liên tục được nâng cao, phát triển theo sự phát triển của đất nước.

“Bao nhiêu quyền hạn đều của dân” đây chính là vấn đề dân quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh xem đó là nguyên tắc số một của nền dân chủ. Nguyên tắc này là tuyệt đối đến mức những thiết chế “dân chủ giả hiệu” cũng phải tuyên bố như thế. Thực tế lịch sử chứng minh, biết tôn trọng dân quyền, mở rộng dân quyền đến đâu đều là hòn đá thử để kiểm nghiệm xem trình độ một nền dân chủ cao hay thấp. Vì thế, từ rất sớm cùng với việc tập trung xây dựng một nền dân chủ kiểu mới – dân chủ xã hội chủ nghĩa được thực hiện trên ba mặt gắn bó, tác động lẫn nhau: dân quyền, dân sinh, dân trí. Nền chính trị mà Người hướng tới và xây dựng là chính trị dân quyền. Đồng thời, Người đã đặt vấn đề đấu tranh để ngăn ngừa các tệ nạn quan liêu, chuyên quyền, hủ hóa, lãng phí của cán bộ đảng viên. Người cho đó là “những thứ giặc rất nguy hiểm” làm ruồng nát chế độ dân chủ từ bên trong.

 “Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên”; “Nói tóm lại quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”. Đoàn thể ở đây được hiểu là Đảng, vì năm 1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết bài báo Dân vận với những quan điểm trên, thời điểm đó do Đảng ta lui vào hoạt động bí mật, nên Người ít dùng từ Đảng mà thường dùng hai từ Đoàn thể. Như vậy, hệ thống chính trị để cầm quyền, quản lý, điều hành mọi hoạt động của xã hội đều do dân cử và tổ chức nên. Đảng và Nhà nước không tồn tại vì mục đích tự thân, mà tồn tại để phụng sự nhân dân và dân tộc. Mọi cơ quan, tổ chức của Đảng, Nhà nước đều là công bọc của nhân dân. Người viết: “Nước ta là Nhà nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ, trong bộ máy cách mạng từ người quét nhà, nấu ăn cho đến Chủ tịch nước đều phân công làm đầy tớ cho dân”. Vì thế, “Nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ”, nếu đại biểu Quốc hội và HĐND không làm tròn nhiệm vụ thì người dân có quyền bãi miễn họ.

 Dân là chủ, còn cán bộ là công bộc, là đầy tớ trung thành của nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh chú trọng xây dựng một Chính phủ phục vụ dân. Theo Người, trong một nước dân chủ thì dân chủ và pháp luật phải đi đôi với nhau. Pháp luật là “bà đỡ” của dân chủ, bảo đảm quyền tự do dân chủ của người dân được tôn trọng trong thực tế và dân chủ phải được thể hóa bừng Hiến pháp và pháp luật, không thể có dân chủ ngoài pháp luật.

Cũng theo Người, vì dân là chủ, làm chủ nên bên cạnh quyền lợi của người làm chủ, thì dân phải có nghĩa vụ làm tròn bổn phận công dân của mình, đó chính là “Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân”.  Cả hai vấn đề này đều quan trọng như nhau, chúng làm thành một thể thống nhất. Dân là chủ là nói về vị thế của dân, còn dân làm chủ là nói về trách nhiệm của dân.
    
Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XII xác định phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, dân chủ xã hội chủ nghĩa không chỉ là chiến lược, động lực mà còn là nguồn lực to lớn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đợt bầu cử Đại biểu Quốc hội và HĐND các cấp tháng 5 vừa qua, cử tri cả nước đã chọn những đại biểu có đức, có tài làm đại diện cho mình tham bộ máy quản lý  nhà nước. Tuy nhiên, để bộ máy Nhà nước hoạt động hiệu quả, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đòi hỏi ngày càng cao, bên cạnh việc đẩy mạnh cải cách hành chính, xiết chặt kỷ cương hành chính, xử lý nghiêm những cán bộ, công chức vi phạm pháp luật thì một giải pháp lâu dài và bền vững khác cần được chú trọng hơn nữa, đó chính là phát huy vai trò của các đoàn thể chính trị xã hội và nhân dân tham gia giám sát, phản biện xã hội, tham gia đóng góp xây dựng Đảng, chính quyền trong sạch, vững mạnh.
Tác giả bài viết: Nhật Hạ

Về tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi

Lương Minh Cừ(*) & Nguyễn Thị Hương(**)

Nguồn: Tạp chí Triết học, số 11 (198), tháng 11 - 2007


Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi (1380 – 1442)  là một triết lý sâu sắc, cốt lõi, bao trùm toàn bộ cuộc đời ông. Bài viết đã phân tích tư tưởng nhân nghĩa trên nhiều khía cạnh: nhân nghĩa là thương dân, vì dân, an dân; nhân nghĩa là sự khoan dung, độ lượng; nhân nghĩa là lý tưởng xây dựng đất nước thái bình… Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi kế thừa quan điểm nhân nghĩa Nho giáo, nhưng đã được mở rộng, phát triển hơn, tạo nên dấu ấn đặc sắc trong lịch sử tư tưởng Việt Nam.
Nguyễn Trãi (1380-1442)
Nguyễn Trãi (1380-1442)


Trong lịch sử dân tộc, Nguyễn Trãi (1380 – 1442) là một trí thức lớn, một trong những lãnh tụ kiệt xuất của phong trào khởi nghĩa Lam Sơn. Ông đã có những đóng góp to lớn trong việc hoạch định đường lối, chính sách, chiến lược, sách lược chống quân Minh xâm lược, giải phóng dân tộc. Hơn thế, Nguyễn Trãi còn là một nhà tư tưởng lớn của dân tộc Việt Nam ở thế kỷ XV. Ông đã có công tổng kết, khái quát những vấn đề có tính quy luật của sự nghiệp dựng nước và giữ nước trong điều kiện lịch sử – cụ thể của Việt Nam; từ đó, nâng tư duy của người Việt Nam lên một tầm cao mới. Thông qua các tác phẩm chủ yếu và tiêu biểu của ông, như Quân trung từ mệnh tập, Bình Ngô đại cáo, Ức Trai thi tập, Quốc âm thi tập, Dư địa chí, chúng ta thấy tư tưởng Nguyễn Trãi đã phản ánh nhiều mặt của đời sống nước ta đương thời: về chính trị, quân sự, ngoại giao, văn hoá; về vai trò của nhân dân, về lý tưởng xã hội, v.v.. Những tư tưởng ấy của Nguyễn Trãi không chỉ có giá trị về mặt lý luận và thực tiễn đối với xã hội đương thời, mà còn có ảnh hưởng sâu sắc trong toàn bộ lịch sử tư tưởng Việt Nam nói chung.
Suốt nhiều trăm năm qua, ở nước ta đã có nhiều công trình nghiên cứu về tư tưởng Nguyễn Trãi trên nhiều phương diện chính trị, văn hoá, văn học, nghệ thuật,… Tuy nhiên, việc nghiên cứu tư tưởng triết học của Nguyễn Trãi vẫn còn là khá mới mẻ. Trong bài viết này, chúng tôi muốn đề cập đến tư tưởng nhân nghĩa – một triết lý sâu sắc, cốt lõi, bao trùm toàn bộ cuộc đời và hoạt động cống hiến của nhà tư tưởng kiệt xuất này.
Đối với Nguyễn Trãi, nhân nghĩa là một tư tưởng, hơn nữa, là một phương pháp luận hết sức quan trọng. Trong toàn bộ tác phẩm của Nguyễn Trãi mà chúng ta còn lưu giữ được thì chữ “nhân” đã được nhắc đến 59 lần và chữ “nghĩa” – 81 lần. Tổng cộng hai chữ “nhân”, “nghĩa” được ông sử dụng đến 140 lần. Qua đó, có thể thấy, một trong những quan điểm nền tảng trong hệ thống tư tưởng của Nguyễn Trãi là “nhân nghĩa”. Tất nhiên, ở đây cần nhấn mạnh rằng tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi, mặc dù kế thừa tư tưởng nhân nghĩa của Khổng – Mạnh, nhưng cũng đã có sự khác biệt rất lớn so với tư tưởng Khổng – Mạnh – nó mang ý nghĩa tích cực, mở rộng và nâng cao hơn.
Nhân nghĩa, trong quan điểm của Nguyễn Trãi, trước hết được gắn chặt với tư tưởng vì dân an dân: “việc nhân nghĩa cốt ở an dân”, “dùng quân nhân nghĩa cứu dân khổ, đánh kẻ có tội”, “đại đức hiếu sinh, thần vũ bất sát, đem quân nhân nghĩa đi đánh dẹp cốt để an dân”(1). Như vậy, nhân nghĩa chính là yêu nước, thương dân, là đánh giặc cứu nước, cứu dân. Nguyễn Trãi đã coi “an dân” là mục đích của nhân nghĩa và “trừ bạo” là đối tượng, là phương tiện của nhân nghĩa. Vì vậy, người nhân nghĩa phải lo trừ “bạo”, tức lo diệt quân cướp nước. Người nhân nghĩa phải đấu tranh sao cho “hợp trời, thuận người”, nên có thể lấy “yếu chống mạnh”, lấy “ít địch nhiều”, lấy “đại nghĩa thắng hung tàn”, lấy “chí nhân thay cường bạo”(2). Nhân nghĩa là cần phải đấu tranh để cho dân tộc Việt Nam tồn tại và phát triển. Nhân nghĩa giống như là một phép lạ, làm cho “càn khôn đã bĩ mà lại thái, trời trăng đã mờ mà lại trong”(3). Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi , vì vậy, mang đậm sắc thái của tinh thần yêu nước truyền thống của người Việt Nam. Ở đây, có thể thấy rõ tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi đã vượt lên trên tư tưởng nhân nghĩa của Khổng – Mạnh và có sự sáng tạo, phát triển trong điều kiện cụ thể của Việt Nam.
Như vậy, với Nguyễn Trãi, tư tưởng nhân nghĩa gắn kết biện chứng với tư tưởng thuận dân, an dân là một yêu cầu cao, một hoài bão lớn, một mục đích chiến lược cần phải đạt tới. Trước Nguyễn Trãi hàng nghìn năm, nhiều nhà tư tưởng trong lịch sử triết học Trung Quốc như Mạnh Tử… đã từng nêu rõ vai trò quan trọng của dân, sức mạnh của dân, tai mắt và trí óc sáng suốt của dân. Ở Việt Nam, tư tưởng an dân đã trở thành một đạo lý vào thời Lý – Trần. Trong thời kỳ đó, những tư tưởng về thân dân, khoan dân, huệ dân, v.v. đã xuất hiện và đã góp phần tích cực vào việc làm cho thời đại Lý – Trần hưng thịnh. Đến Nguyễn Trãi, quan điểm về an dân đã được ông tiếp thu, kế thừa, mở rộng và nâng cao trong suốt thời kỳ hoạt động của mình. An dân có nghĩa là chấm dứt, là loại trừ những hành động tàn ác, bạo ngược đối với dân. An dân còn là sự bảo đảm cho nhân dân có được một cuộc sống yên bình. An dân là không được nhũng nhiễu “phiền hà” dân. Với tư tưởng an dân, Nguyễn Trãi đã đưa ra một chân lý: phải giương cao ngọn cờ “nhân nghĩa, an dân”, phải cố kết lòng dân làm sức mạnh của nước, làm thế nước. Ông chủ trương cứu nước bằng sức mạnh của dân, muốn lấy lại được nước phải biết lấy sức dân mà kháng chiến. Đó là một chiến lược bất khả biến, có tính trường tồn, một quy luật dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam.
Có một khía cạnh rất đáng quý trong tư tưởng về dân của Nguyễn Trãi, đó là tư tưởng trọng dân, biết ơn dân. “Dân chúng” vẫn luôn được ông nhắc tới và chú ý đề cao ngay cả sau khi kháng chiến đã thành công, đất nước đã giành được độc lập và bước vào xây dựng cuộc sống mới. Nguyễn Trãi nhận thức được rằng lực lượng làm ra thóc gạo, cơm ăn, áo mặc là do ở nhân dân; rằng điện ngọc cung vàng của vua chúa cũng đều do mồ hôi nước mắt của nhân dân mà có: “thường nghĩ quy mô lớn lao, lộng lẫy đều là sức lao khổ của quân dân”(4). Chính xuất phát từ suy nghĩ như vậy, nên khi đã làm quan trong triều đình, được hưởng lộc của vua ban, Nguyễn Trãi đã nghĩ ngay đến nhân dân, những người dãi nắng dầm mưa, những người lao động cực nhọc. Ông viết: “Ăn lộc đền ơn kẻ cấy cày”. Trong suốt cuộc đời của mình, Nguyễn Trãi đã có cuộc sống gần gũi, gắn bó với nhân dân, hoà mình vào nhân dân. Do đó, ông đã nhận thấy rất rõ những đức tính cao quý của nhân dân, hiểu được nguyện vọng tha thiết của nhân dân, thấy rõ được sức mạnh vĩ đại của nhân dân trong sáng tạo lịch sử.
Đặc biệt, tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi còn biểu hiện ở lòng thương người, ở sự khoan dung độ lượng, thậm chí đối với cả kẻ thù. Có thể nói, đây là nét độc đáo riêng có trong tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi. Chiến lược “tâm công” Nguyễn Trãi đã thực hiện trong kháng chiến chống Minh chính là sự thể hiện nét độc đáo riêng có ấy. “Tâm công” – đánh vào lòng người – sách lược đã được Nguyễn Trãi dày công suy xét, thu tóm cái tinh hoa trong các sách về binh pháp xưa và vận dụng sáng tạo trong thực tiễn đấu tranh giải phóng dân tộc ở Việt Nam đương thời. “Tâm công” tức là dùng lý lẽ tác động vào tinh thần, vào ý thức kẻ địch, nói rõ điều hơn lẽ thiệt, thuyết phục, cảm hoá chúng, từ đó đập tan tinh thần chiến đấu của chúng, làm cho chúng nhụt ý chí xâm lược, rã rời hàng ngũ, tiến tới chấp nhận con đường hoà giải, rút quân về nước. Tất nhiên, chiến lược “tâm công” ấy luôn được nghĩa quân Lam Sơn kết hợp chiến đấu bằng vũ khí, quân sự, ngoại giao; và thực tiễn lịch sử đã chứng tỏ rằng, chiến lược đó là hoàn toàn đúng đắn.
Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi còn nổi bật ở quan điểm về cách đối xử với kẻ thù khi chúng đã bại trận, đầu hàng. Nó thể hiện đức “hiếu sinh”, sự “khoan dung” của dân tộc Việt Nam nói chung, cũng như tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi nói riêng. Nguyễn Trãi cũng như Lê Lợi, trong chính sách đối với hàng binh, đã chủ trương không giết để hả giận tức thời, mà còn tạo điều kiện cần thiết cho chúng rút về nước một cách an toàn và không mất thể diện. Trong thư gửi Vương Thông, ông viết: “Cầu đường sửa xong, thuyền xe sắm đủ, hai đường thuỷ lục, tuỳ theo ý muốn, đưa quân ra cõi, yên ổn muôn phần”(5). Theo Nguyễn Trãi: “Trả thù báo oán là thường tình của mọi người; mà không thích giết người là bản tâm của người nhân”. Để dân yên vui, nước hoà bình, đó là khát vọng cháy bỏng của Nguyễn Trãi. Bởi thế, ông nói: “Dùng binh cốt lấy bảo toàn cả nước làm trên hết. Để cho bọn Vương Thông trở về nói với vua Minh trả lại đất đai cho ta, đó là điều ta cần không gì hơn thế nữa”(6). “Tuyệt mối chiến tranh”, “bảo toàn cả nước là trên hết” đã thể hiện lập trường chính trị nhân nghĩa của Nguyễn Trãi. Có thể nói, đó là một tinh thần nhân đạo cao cả, một triết lý nhân sinh sâu sắc.
Chiến lược đánh giặc cứu nước, cứu dân, “mở nền thái bình muôn thuở” bằng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi đã có ý nghĩa rất to lớn cả về mặt lý luận cũng như thực tiễn đấu tranh cứu nước và dựng nước của dân tộc ta. Nguyễn Trãi và Lê Lợi, cùng với quân dân Đại Việt đã kiên quyết thi hành một đường lối kết thúc chiến tranh rất sáng tạo, rất nhân nghĩa: “nghĩ kế nước nhà trường cửu, tha cho mười vạn hùng binh. Gây lại hoà hảo cho hai nước, dập tắt chiến tranh cho muôn đời”(7). Đó thật sự là tư tưởng lớn của một con người có tài “kinh bang tế thế” và là một tư tưởng có sức sống “vang đến muôn đời”.
Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi còn tiến xa hơn một bước nữa, đó là ý tưởng xây dựng một đất nước thái bình, bên trên vua thánh tôi hiền, bên dưới không còn tiếng giận oán sầu: “thánh tâm dục dữ dân hưu túc, văn trị chung tu chí thái bình” (lòng vua chỉ muốn dân yên nghỉ, xếp võ theo văn, nước trị bình) (8); “vua Nghiêu Thuấn, dân Nghiêu Thuấn. Dường ấy ta đà phỉ sở nguyền”(9). Như vậy, theo Nguyễn Trãi, một đất nước thái bình sẽ là đất nước có cuộc sống phồn vinh, tươi đẹp; đồng thời, có sự hoà thuận, yên vui với các nước khác. Có thể nói, lý tưởng chính trị – xã hội của Nguyễn Trãi phù hợp với nguyện vọng, ước mơ của dân tộc, nhân dân; đạt tới tầm cao nhất và rộng nhất trong điều kiện lịch sử lúc bấy giờ cho phép. Quan niệm của Nguyễn Trãi, vì thế, là một quan niệm tích cực và đầy tinh thần nhân bản.
Tầm chiến lược, nhìn xa trông rộng và khoa học trong tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi còn được thể hiện ở tư tưởng cầu người hiền tài giúp nước, giúp dân. Nguyễn Trãi quan niệm rằng, nhân tố quyết định sự nghiệp xây dựng đất nước thái bình, thịnh trị là nhân dân. Làm thế nào để phát huy hết được những yếu tố tích cực của quần chúng nhân dân? Trong sức mạnh của nhân dân thì yếu tố nào là động lực mạnh mẽ nhất? Nguyễn Trãi đã chỉ ra, đó là yếu tố nhân tài. Trong Chiếu cầu hiền tài, ông cho rằng: “người tài ở đời vốn không ít”, nên triều đình phải cầu hiền bằng nhiều đường, nhiều cách như học hành thi cử; hoặc tiến cử “văn võ đại thần, công hầu, đại phu từ tam phẩm trở lên, mỗi người đều cử một người, hoặc ở triều đình, hoặc ở thôn dã, bất cứ là đã xuất sĩ hay chưa, nếu có tài văn võ, có thể trị dân coi quân, thì… tùy tài trao chức”; hoặc ứng cử “người có tài ở hàng kinh luân bị khuất ở hàng quân nhỏ”, “người hào kiệt náu ở nơi đồng nội, lẫn ở hàng binh lính” phải tự mình đề đạt để gánh vác việc dân, việc nước. Như vậy, rõ ràng rằng, Nguyễn Trãi đã rất chú trọng đến việc đào tạo, bồi dưỡng, phát triển và sử dụng nhân tài vào việc trị quốc, an dân. Có thể nói, chiến lược con người của Nguyễn Trãi, cho đến nay, vẫn mang đậm tính thời sự đối với chúng ta.
Tóm lại, tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi là nội dung cốt lõi trong toàn bộ hệ thống tư tưởng triết học – chính trị của ông. Tư tưởng ấy có phạm vi rộng lớn, vượt ra ngoài đường lối chính trị thông thường, đạt tới mức độ khái quát, trở thành nền tảng, cơ sở của đường lối và chuẩn mực của quan hệ chính trị, là nguyên tắc trong việc quản lý, lãnh đạo quốc gia.
Không chỉ có ý nghĩa to lớn trong thời đại mình, tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi, một mặt, tạo nên một dấu ấn đặc sắc trong lịch sử tư tưởng Việt Nam; mặt khác, còn có ảnh hưởng sâu rộng đến thực tiễn chính trị của đất nước trong những thời đại sau này.
 
   
(*) Phó giáo sư, tiến sĩ, Giảng viên Trường Đại học Marketing.
(**) Thạc sĩ, Giảng viên Trường Cao đẳng Sư phạm Đồng Nai.
(1) Nguyễn Trãi. Toàn tập. “Thư dụ hàng (các tướng sĩ) thành Bình Than”. Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1976, tr. 153.
(2) Nguyễn Trãi. Sđd., “Bình Ngô đại cáo”, tr.81.
(3) Nguyễn Trãi. Sđd., tr.79.
(4) Nguyễn Trãi. Sđd., “Quân trung từ mệnh tập”, tr.196.
(5) Nguyễn Trãi. Sđd., “Quân trung từ mệnh tập”, tr.135.
(6) Nguyễn Trãi. Sđd., tr.28.
(7) Nguyễn Trãi. Sđd., “Phú núi Chí Linh”, tr.87.
(8) Nguyễn Trãi. Sđd., “Quan duyệt thủy trận”, tr.288.
(9) Nguyễn Trãi. Sđd., “Tự thán”, tr.81.
Đã xem: 47177
Thời gian đăng: Thứ ba - 24/11/2015 11:05
Người đăng: Phạm Quang Duy

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét