Từ trước năm 1698, ở Đề Ngạn (mà sau này gọi là Chợ Lớn) đã có làng
Minh Hương của người Hoa (vì không thần phục nhà Thanh, họ đã rời bỏ
Trung Quốc sang định cư ở miền Nam Việt Nam). Tuy nhiên, vùng đất ấy trở
nên đông đúc kể từ khi người Hoa ở Cù Lao Phố (tức Biên Hòa ngày nay)
chạy tới đây lánh nạn sau khi nơi ở của họ bị quân Tây Sơn tàn phá năm
1776 .
Rồi do nhu cầu, người Hoa lập chợ (hay phát triển chợ có đã từ trước)
để trao đổi hàng hóa. So với chợ Tân Kiểng của người Việt thì chợ Sài
Gòn (khu vực Bưu điện Chợ Lớn ngày nay) có lớn hơn nên được người dân
gọi là Chợ Lớn. Sau đó, tên chợ cũng được dùng để chỉ vùng đất mà nó tọa
lạc. Theo học giả Vương Hồng Sển, thì “Chợ Lớn như nay ta còn gọi, đối
với Hoa kiều là Thầy Ngôồn (Đề Ngạn) hay Xi Cóon (Tây Cống); còn sách cũ
Pháp viết là Cholon hay Cholen, Cho Leun”.
Hạt tham biện Chợ Lớn được lập ra ngày 5 tháng 1 năm 1876 do tách từ
tỉnh Gia Định cũ. Tỉnh Chợ Lớn vốn là đất huyện Tân Long, phủ Tân Bình
của tỉnh Gia Định, gồm 13 tổng (sau còn 12 tổng), 72 làng. 12 tổng đó
là: Cầu An Thượng, Cầu An Hạ, Long Hưng Thượng, Long Hưng Hạ, Long Hưng
Trung, Phước Điền Thượng, Phước Điền Trung, Phước Điền Hạ, Tân Phong Hạ,
Lộc Thành Thượng, Lộc Thành Trung, Lộc Thành Hạ.
Ngày 1 tháng 7 năm 1882, tuyến đường xe điện đầu tiên ở Việt Nam dài 5
km, rộng 1 m, nối Sài Gòn và Chợ Lớn bắt đầu hoạt động. Theo Bến Nghé
xưa của Sơn Nam thì Giữa Sài Gòn và Chợ Lớn phía đất thấp, chưa có dự
kiến nên nối liền, còn ruộng lúa với người cày, ao nuôi vịt, ngọn rạch
cạn, đợi đến năm 1916 mới bắt đầu đắp đường, trải đá ong … (Đó là đường
Galliéni, nay là Trần Hưng Đạo).
Tỉnh Chợ Lớn được thành lập theo Nghị định ngày 20 tháng 12 năm 1899
của Toàn quyền Đông Dương trên cơ sở đổi tên gọi tiểu khu hay hạt tham
biện (arrondissement) thành tỉnh (province), kể từ ngày 1 tháng 1 năm
1900. Như vậy Chợ Lớn là 1 trong 20 tỉnh ở Nam Kỳ lúc bấy giờ.
Đến năm 1930, hai thành phố Sài Gòn và Chợ Lớn đã giáp nhau ở chỗ nay
là đường Nguyễn Văn Cừ. Đáng kể thêm là tại đây có nhiều quán ăn và
tiệm thuốc bắc của người Hoa.
Trong những năm 1930-1950 do quá trình đô thị hóa, Sài Gòn và Chợ Lớn dần dần sáp nhập với nhau.
Sau này phần lớn đất đai tỉnh Chợ Lớn gốm: các quận (Cần Giuộc, Cần
Đước, Đức Hòa) và một phần quận Gò Đen (Trung Quận) nhập vào tỉnh Long
An khi tỉnh này được thành lập năm 1956, phần còn lại của quận Gò Đen
nhập vào tỉnh Gia Định, sau là huyện Bình Chánh Thành phố Hồ Chí Minh.
Ở đây có nhiều chùa, đình và hội quán của người Hoa, như: chùa Bà
Thiên Hậu, đình Minh Hương Gia Thạnh, Hội quán Hà Chương, Hội quán Ôn
Lăng, Hội Quán Nghĩa An, Hội Quán Nhị Phủ, Hội Quán Sùng Chính…Ngoài ra,
ở đây còn các chợ luôn là những đầu mối bán sỉ cùa thành phố, như: chợ
Bình Tây, chợ Kim Biên, chợ vải Soái Kình Lâm.
Ngày nay, Chợ Lớn vẫn được biết đến là khu của đồng bào người Hoa sinh
sống và buôn bán. Nét văn hóa đặc trưng vẫn còn hiện rõ trong từng nếp
nhà, từng con người, và phong cách sống của người dân ở Chợ Lớn.
Nguồn : himlamcholon.com
Chợ
Lớn, cách Sài Gòn khoảng 6km, trước đây từng được coi là thủ đô lúa gạo
của toàn Đông Dương. Vai trò của Chợ Lớn là cực kỳ quan trọng trong nền
kinh tế Nam Kỳ xưa kia và ngay cả ngày nay. Lịch sử Sài Gòn gắn liền
với lịch sử Chợ Lớn. Chợ Lớn được thành lập trước Sài Gòn. Sài Gòn thật
ra là tên trước đây đặt cho khu Chợ Lớn và chính tên Sài Gòn có thể có
nguồn gốc từ “Tai Ngon” hoặc ‘Tin-Gan” (Hán Việt là Đề Ngạn, chỉ thành
phố gần đê dọc kênh tàu Hủ) mà người Quảng Đông đọc là “Thầy Ngòn” hay
“Thì Ngòn” (4).
Bài
này có mục đích giới thiệu lịch sử địa lý, kinh tế và văn hóa thành phố
Chợ Lớn trong hơn 200 năm qua từ lúc người Hoa đến định cư đông đảo từ
Cù Lao phố, Biên Hòa. Sự thăng trầm của Chợ Lớn trực tiếp gắn liền với
lịch sử Việt Nam trong các thế kỷ đã qua. Chủ yếu là trung tâm thương
mại, không có quyền lực và ảnh hưởng chính trị, Chợ Lớn không được đánh
giá đúng mức về tiềm lực văn hóa, kinh tế trong các nỗ lực ưu tiên đầu
tư để phát triển kinh tế, hạ tầng cơ sở xứng đáng với tầm vóc của thành
phố này, cũng như phát triển văn hóa và bảo tồn các đặc trưng mà con
người, trong đó người Hoa và Minh hương là chủ đạo, đã góp phần tạo
thành đặc tính con người văn hóa Nam bộ.
Trong
các năm gần đây, cảnh quan đô thị thành phố Sài Gòn-Chợ Lớn đã thay đổi
thật nhanh chóng qua sự bùng nổ dân số và kinh tế cùng các cơ sở hạ
tầng và sự phình rộng đô thị với nhiều quận mới được thành lập. Không
cần một bản báo cáo nghiêm túc về tình hình phát triển và quản lý đô thị
vùng Sài Gòn-Chợ Lớn, hỏi bất cứ cư dân và của những khách viếng thăm
về tổng quan về môi trường sinh thái, văn hóa thành phố Hồ Chí Minh thì
tất cả đều có cùng nhận xét như người viết :
-
Phát triển thiếu bền vững : quá tải, ô nhiểm môi trường khí, nước, vấn
đề xử lý chất thải rắn. Giao thông ùn tắc, thiếu cây xanh, nước ngập do
lấp kênh rạch (Sài Gòn - Chợ Lớn lịch sử là thành phố sông nước)
-
Bảo tồn di sản và phát huy giá trị văn hóa lịch sử : sự biến mất gần
đây của nhiều kiến trúc, cảnh quan có giá trị văn hóa lịch sử (Bến Bình
Đông, Chương Dương, Hàm Tử) qua lợi ích trước mắt chứ không đặt trên cơ
sở tìềm năng lâu dài.
Phong
thái, phong cách kiến trúc, cảnh quan văn hóa và sinh thái của một
thành phố làm nên cá tính của thành phố ấy. Chưa nói đến vấn đề sinh
thái, cây xanh (đứng trên tòa nhà cao tầng ở quận 4, chỉ thấy nhà là nhà
mới mọc chen chúc mà không có cây xanh nào trong toàn quận), tác giả đã
đi qua và ghi lại những gì đã thay đổi trong các năm qua và qua bài này
dóng lên tiếng báo động về sự biến mất của những khu phố cổ, những cảnh
quan đô thị có giá trị văn hóa được thay bằng những tòa nhà không đồng
bộ, nhếch nhác không có đặc thù kiến trúc qua sự thiếu hoạch định các
khu phố của chính quyền địa phương.
Đặc
biệt nhất là dọc theo rạch Bến Nghé, kênh Tàu Hủ trên đại lộ Đông Tây
vừa xây và các đường tiếp cận gần đại lộ đi Chợ Lớn. Những nơi này là
nơi mà sự thay đổi đã làm các khu phố thay đổi hầu như toàn diện. Các
hình ảnh xưa trong bài có nguồn từ (6) và hình ảnh gần đây là của tác
giả và nhiếp ảnh gia Kinh Luân, báo Thời báo Kinh tế Sài Gòn.
Sự thành lập và phát triển Chợ Lớn
Người
Hoa, từ Cù Lao phố, Biên Hòa, đã kéo về đây thành lập khu định cư mới
vào năm 1778 sau khi Cù Lao phố bị Tây Sơn đánh phá. Họ là hậu duệ những
người theo nhà Minh chạy khỏi Trung Hoa thời nhà Thanh đến miền Nam lập
nghiệp ở Cù Lao Phố và Mỹ Tho vào năm 1680 sau khi được chúa Nguyễn cho
phép.
Trịnh Hoài Đức trong Gia Định thành thông chí (1) nói về vùng Chợ Lớn là nơi phố thị buôn bán sầm uất, sinh hoạt văn hóa, kinh tế nhộn nhịp cuối thế kỷ 18 như sau :
“ Phố chợ Sài Gòn :
Cách
trấn về phía nam 12 dặm ở hai bên tả hữu đường cái quan, là đường phố
lớn, thẳng suốt 3 đường, giáp đến bến sông, một đường ngang ở giữa, một
đường đi dọc theo sông. Các đường ấy đan xuyên nhau như chữ điền, phố xá
liền mái nhau, người Việt và người Tàu ở chung lộn dài độ 3 dặm. Hàng
hóa trong phố bày bán có : gấm, đoạn, đồ sứ, giấy má, châu báu trang
sức, hàng sách vở, tiệm thuốc, tiệm trà, tiệm hủ tíu. Hai đầu nam bắc
bến sông không gì là không có. Đầu phía bắc đường lớn của bổn phố có
miếu Quan Đế và 3 hội quán : Phúc Châu, Quảng Đông, và Triều Châu chia
đứng hai bên tả hữu ; phía tây ở giữa đường lớn có miếu Thiên Hậu, gần
phía tây có hội quán Ôn Lăng, đầu phía nam đường phố lớn về phía tây có
hội quán Chương Châu. Gặp ngày tốt, đêm trăng, như Tam nguyên, rằm, mùng
một thì treo đèn đặt án, tranh đua kỳ xảo trông như là cây lửa, cầu
sao, thành gấm, hội quỳnh, kèn trống huyên náo, nam nữ dập dìu, thật là
một phố lớn nơi đô hội náo nhiệt. Trong đường phố lớn có cái giếng xưa,
nước ngọt tràn trề, bốn mùa không cạn. Sông nhỏ chảy ngang phố có bắc
cầu ván lớn, trên có hai dãy hành lang mái ngói, treo màn che nắng,
đường đi râm mát như đi dưới mái nhà cao. Giữa phố về phía đông đường
lớn có chợ Bình An bán đủ sản vật quý ở núi biển và thổ sản các nơi, ban
đêm còn thắp đèn mua bán ”.
Khi
từ Cù Lao Phố đến vùng nay gọi là Chợ Lớn cũ, đã có làng Minh Hương của
người Việt gốc Hoa thành lập trước từ năm 1698 cũng do người Hoa nhà
Minh đến định cư. Nhưng chỉ 4 năm sau, năm 1782, Tây Sơn Nguyễn Nhạc vào
trở lại đánh thành Phan Yên (Phiên An, thành Sài Gòn sau này) ở Gia
Định và sau đó đánh luôn Chợ Lớn khu người Hoa ở, tàn sát họ rất nhiều.
Theo Vương Hồng Sển (4) :
“ Sau
trận giặc 1782, theo Trịnh Hoài Đức thuật lại, thì hàng hóa các tiệm
buôn Tàu như trà, vải lụa, thuốc men, hương liệu, giấy má đủ loại bị
tuôn ra bỏ bừa bãi lềnh khên ngập đường sá, hèn lâu như vậy mà không ai
dám rớ dám mót lượm về xài. Qua năm 1783, giá hàng hóa vụt lên mà ngợp :
kim may mỗi cây một lượng bạc, trà Tàu tám quan tiền một cân,... Còn
nói chi số binh sĩ và thường dân Tàu bị chết đâm chết lụi kể trên số
muôn, thậm chí thây ma lớp nằm chật đất, ngổn ngang từ vàm Bến Nghé đến
tận kinh Chợ Lớn, lớp khác bị chuồi xuống nước, xác ma da, thằng chỗng
kẹo lềnh một khúc sông, làm cho ngót ba bốn tháng trường, dân nghe nhắc
mà ớn xương sống không dám rớ đến miếng thịt xương thịt cá ! Nhưng người
Tàu quả là giống dân giàu tính nhẫn nại nhất thế giới : tính coi họ
thất bại to tát làm vậy mà họ không bỏ cơ sở làm ăn. Ít lâu sau họ gầy
dựng lại cơ sở Chợ Lớn, có mòi sung túc thịnh vượng hơn trước bá bội.
Họ
lấy đất đắp thêm bờ kinh chỗ mới tạo lập, cẩn đá thêm cao ráo và kiên
cố. Và có lẽ để ghi nhớ công trạng này họ đặt tên chỗ mới là “Tai-Ngon”,
hoặc “Tin-Gan”, mà phát âm theo giọng Quảng Đông thì nghe ra “Thầy
Ngồn” hay “Thì Ngòn”. Xét theo mặt chữ, thì “Tai-Ngon”, “Tin-Gan”, “Thầy
Ngồn”, “Thì Ngòn” đọc theo giọng Việt là “Đề Ngạn” :
Đề, Đê : là cái bờ, cái đê ngăn nước.
Đề
: cũng có nghĩa là nắm lấy (Đề cương khiết lãnh là nắm lấy cái dây lớn
của cái lưới, tức nhiên cả cái lưới sẽ trương ra ; kéo cái cổ áo thì cả
chiếc áo nhấc lên. Nghĩa bóng : nắm lấy chỗ chủ yếu. Kể ra khi đi lựa
địa thế, đã là đặt cả một hy vọng lớn rồi.)
Ngạn : bờ sông cao dốc.
Đề Ngạn là vùng Chợ Lớn cũ ngày nay vậy (truy ra là xóm Quảng Đông Nhai chỗ miếu Quan Đế, miếu Tam Hội) ”.
Khu
cổ nhất ở vùng Chợ Lớn là xóm người Khmer chung quanh chùa Cây Mai và
Phú Lâm. Chùa Cây mai, sau này thành đồn Cây Mai từ lúc Pháp đến đánh
Sài Gòn đến ngày nay, nằm ở khu vưc gần các đường Nguyễn Trãi, Hồng Bàng
và Nguyễn Thị Nhỏ. Chợ Lớn lúc đầu chỉ là tập hợp của nhiều làng, xóm
chung quanh các kinh rạch. Nhiều làng xóm chuyên làm những nghề thủ công
nghệ, sản xuất,.. mang tên đặc trưng của xóm đó như Xóm Dầu (sản xuất
dầu dừa, dầu đậu phọng), Xóm Củi, Xóm Than, Xóm Lò Gốm,…
Ta hãy đọc tiếp theo, trên đường đi từ Sài Gòn đến Chợ Lớn, đoạn Trương Vĩnh Ký viết về Chợ Lớn (2) :
“ Chợ
ở Chợ Lớn xưa là chợ ở vùng Chợ Rẫy ngày nay. Vùng ở giữa đường Đồng
Khánh (rue des Marins) cho đến rạch Chợ Lớn (arroyo de Cholon) là nơi cư
ngụ của người Minh hương, người Hoa lai Việt, mặc đồ như người Việt và
có làng được đặc quyền riêng. (Chú thích : khu này gọi là làng Minh
Hương, hiện nay còn lại ngôi nhà xưa nhất Sài Gòn-Chợ Lớn gọi là Minh
Hương Gia Thạnh xây năm 1789. Làng Minh Hương đã có từ năm 1698. Ở Phú
Thọ Hòa còn có chùa Giác Lâm, ngôi chùa cổ xây năm 1744).
Hai
bên bờ rạch Chợ Lớn là những nhà kho lớn xây bằng gạch, gọi là "Tàu
khậu". Những "Tàu khậu" này được cho những người Hoa từ Trung Quốc đến
mướn. Họ đến một lần mỗi năm trên những ghe thuyền vượt biển. Họ mang và
chứa những hàng vào các kho này. Từ những kho này, họ bán sỉ hay lẻ
trong lúc họ tạm trú ở Sài Gòn. Cầu dẫn đến khu chợ lớn (Chợ Rẫy ngày
nay) gọi là "Cầu đường", gọi vậy là vì tại đây họ bán đủ loại đường như
viên, hủ đường etc..
Trên
bờ của rạch chảy qua trước nhà của ông tổng đốc (tổng đốc Đỗ Hữu
Phương, một người Minh hương) là con đường "Phố xếp" (rạch này cũng gọi
là rạch Phố xếp sau này được lấp đi thành đường Tổng đốc Phương, nay gọi
là Châu Văn Liêm), và cây cầu trên đường đi Cây Mai có tên là "Cầu
phố". Ở góc hai kinh (Chợ Lớn và Phố xếp), từ chợ cho đến cầu sắt, là
làng Quới đước và chợ "Chợ kinh".
Hình 1: Chợ Lớn 1874 – Cho thấy rõ, Kênh Tàu hủ, rạch Bãi sậy
và rạch Chợ Lớn chảy qua khắp khu vực thành phố Chợ Lớn
(ngày nay rạch Chợ Lớn đã lấp)
Hình 2 : Bản đồ Chợ Lớn 1893 (nguồn : Tour du Monde 1893)
Các rạch ở trung tâm Chợ Lớn đều còn (rạch Chợ Lớn, rạch Lò Gốm)
Hai
bên rạch Chợ Lớn từ Cầu Đường cho đến Cầu Khâm Sai và Lò Gốm là nhà cửa
san sát nhau. Chợ Lò rèn, ngay tại nhà thờ Chợ Lớn ngày nay (thời
Trương Vĩnh Ký, tức nhà thờ Cha Tam ngày nay) là nơi ở của các thợ rèn
và những thợ làm thanh sắt (Quân mậu tài). Trong lúc đi đến chùa Cây
Mai, người ta gặp một cầu gọi là Cầu Ông Tiều.
Hình 3 : Canal Bonard trong Chợ Lớn
(rạch Bãi Sậy hay còn gọi là kinh Hàng Bàng)
Hình 4 : Thành phố Chợ Lớn - 1930
Chùa
Cây Mai ngày xưa là chùa Cao Miên, bao bọc tứ phía bởi đầm lầy. Trong
các đầm này có các cuộc đua thuyền trong ngày lể Phật. Chùa này đã được
người Việt phục hồi lại. Dưới thời Minh Mạng, Nguyễn Tri Phương đến Nam
Kỳ cùng với Phan Thanh Giản, đã cho xây một tầng nhà cảnh. Tên chùa và
đồi nhỏ ở đây là từ cây mai, một loại cây có bông trắng rất được ưa
chuộng và cho là quý bởi người Hoa và người Việt.
Nhà kiểm tra (tòa hành chánh) ở Chợ Lớn trước kia là nơi ở của tri huyện Tân Long ”.
Hình 5 : Nhà người Hoa ở Chợ Lớn 1872
nguồn: Bs Albert Morice – La revue Tour du Monde 1875 (6) (7) (Đây có thể là khu gần chùa Cây Mai vì kiến trúc nhà
là Khmer có mái cong, không phải là nhà theo kiến trúc người Hoa)
Hình 6 : Phòng thanh tra (Bureau de l’Inspection) Chợ Lớn 1910.
Kế bên trái Phòng thanh tra là Tòa đô chánh (Hotel de ville) Chợ Lớn.
Chợ Lớn lúc này là tỉnh lỵ của tỉnh Chợ Lớn.
Hình 7 : Nhà hát Trung hoa – đường Phùng Hưng (rue de Paris) – Chợ Lớn.
Trên đường Phùng Hưng, chủ yếu là người gốc Phúc Kiến ở,
cũng có một nhà thờ đầu tiên xây năm 1866 dành cho người Hoa,
nay là văn phòng báo Sài Gòn Giải phóng.
Trong
thời gian Pháp còn đang đánh chiếm Sài Gòn-Chợ Lớn, chuẩn đề đốc
(contre-amiral) Page đã nhanh chóng cho xây dựng các kho hàng và mở cửa
cảng Sài Gòn-Chợ Lớn cho việc buôn bán với bên ngoài. Chợ Lớn trở thành
trung tâm thương mại, tiếp viện hàng, thực phẩm cho quân Pháp. Cũng
chính vì yếu tố này mà Nguyễn Tri Phương từ đồn Kỳ Hòa đã cho quân đánh
cắt đường của Pháp từ đồn Cây Mai vào Chợ Lớn, những trận chiến lớn ban
đầu là giữa đồn Cây Mai, đồn clochetons
(hình tháp chuông) và chiến tuyến chiến hào mà người Pháp gọi là đồn
Redoute của quân triều đình cách đó không xa khoảng 400 hay 500m giữa
đầm ruộng đầy mồ mả quanh đồn (chùa) Cây Mai (17).
Nắm
được Chợ Lớn là nắm vị trí chiến lược. Rạch trong Chợ Lớn chằng chịt và
vì thế các tàu chiến Pháp đều đến án trong các rạch. Tàu Jaccaréo, một
loại chiến thuyền “Lorcha” gốc Bồ Đào Nha của hải quân Pháp đã tải súng
đạn và tiếp viện cho đồn Cây Mai. Sau này trong Chợ Lớn, người Pháp đặt
tên con đường Jaccaréo nơi chiến hạm Jaccaréo đã vào án ngự (Tản Đà ngày
nay). Theo Leopold Pallu (17), trong khi đoàn quân Pháp đánh Sài Gòn
thì người Pháp đã mở cảng, buôn bán với người Hoa trong Chợ Lớn trong
giai đoạn này và đã thu được lợi nhuận khổng lồ :
“ Bảy
mươi tàu và một trăm ghe thuyền chuyên chở sáu mươi ngàn tấn gạo trong
vòng bốn tháng cho thị trường Hồng Kông và Singapore, đem đến một lợi
tức khổng lồ cho ta. Đồn Cây Mai giúp cho việc buôn bán dễ dàng, người ở
một số làng đổ đến vì thấy cái lợi lớn mà người Pháp đã đem tới cho họ ;
số người Pháp trong đồn ít và không làm khó dễ họ gì cả. Người Hoa tiếp
tục theo tính cách của họ, tìm cách bảo vệ việc buôn bán bằng cách lấy
lòng cả hai bên An Nam và Pháp. ”
“ Thành phố người Hoa (tức Chợ Lớn, ghi chú người dịch) là chìa khóa của tất cả thương mại ở Nam Kỳ miền dưới (basse Cochinchine) (tức miền Tây, ghi chú người dịch). Ai kiểm soát được thành phố này là nắm hết khả năng sinh hoạt của người dân trong phần đất An Nam này ”.
Pallu nói về người Hoa ở Chợ Lớn :
“ Nhiều
người thật giàu có ; một số trong họ thuê trực tiếp các tàu người Âu để
liên hệ với Ấn Độ, đảo Réunion hoặc Trung Quốc. Phải xác nhận là ngày
nay tình thế khó khăn do sự chiếm đóng của người Pháp, gây nên sự bất
định về thông tin mà các thương gia ở Sài Gòn thì phải dựa vào giá cả ở
thị trường HongKong và Thượng Hải, vì thế người Hoa họ đã lập hẳn một hệ
thống chuyển thư riêng của họ giữa Sài Gòn và Quảng Châu....
Trung
tâm mà người Hoa vào An Nam là thành phố Chợ Lớn, chỉ cách Sài Gòn có
hai dặm. Đó là thành phố hoàn toàn người Hoa cư ngụ. Người Hoa ở đây gồm
có bảy bang, mỗi bang có một người lãnh đạo gọi là Hong Phoo ; các
người Hong Phoo đều đeo một nút màu vàng biểu hiện cho sự khoan dung và
uy quyền. Sau trận đánh ở chùa Clochetons vào năm 1860, ta thấy hết sức
rõ ràng là thị trường người Hoa sẽ vĩnh viễn lọt vào tay ta, cho nên các
người Hong Phoo đều đến xin ta bảo trợ, và ta đã chấp thuận ”.
Chỉ
vài năm sau khi Pháp đánh chiếm Sài Gòn - Chợ Lớn, Chợ Lớn đã thay đổi
nhanh chóng. Lúc phái bộ Phan Thanh Giản trở về Sài Gòn năm 1864 sau khi
qua Pháp điều đình, đại úy Boresse đã dẫn Phan Thanh Giản và một số tùy
tùng đến bến cảng Chợ Lớn dọc kênh Tàu Hủ tham quan. Dưới ô lọng che,
Phan Thanh Giảng đã chứng kiến sự biến dạng cảng thương mại to lớn tột
cùng. Trong lòng ông, đã thay đổi, nhưng còn triều đình ?
Thị
trưởng thành phố Chợ Lớn trong thời gian 1880-1884 là ông Antony
Landes. Ông Landes còn là hội viên Hội nghiên cứu Đông Dương (Société des études indochinoises), tác giả nhiều bài viết và sách về văn hóa, văn minh Việt Nam và Chăm nổi tiếng (như Contes Tjames 1887, 1886, Contes et légendes annamitesNotes sur les moeurs et superstitions populaires annamites 1880, dịch tác phẩm Nhị Độ mai ra tiếng Pháp, Les pruniers refleuris ; poème Tonkinois,
1883). Ông mất lúc còn trẻ cùng với vợ và một cô bạn gái trong một tai
nạn đụng tàu trên sông Sài Gòn ngày 23 tháng 2 năm 1893. Tàu Donnai
(Đồng Nai) trong chuyến dạo thăm Biên Hòa, lúc trở về vào gần giữa đêm
đụng phải tàu hơi nước Le Mouhot của công ty vận tải đường sông
(Messageries fluviales), tàu Donnai chìm làm cả ba chết đuối, không tìm
được xác (10). Hội nghiên cứu Đông Dương mất đi một nhà nghiên cứu văn
hóa xuất sắc. Tất cả sách vở, bản thảo, tư liệu của ông sau này được gia
đình người em trai của ông tặng cho Hội Á Châu (Société Asiatique) ở
Paris (12). Gần đây, nhà khảo cổ Nguyễn Thị Hậu cho biết là năm 1998,
một chiếc tàu chìm được khám phá ở thượng lưu sông Sài Gòn như sau :
“ Một
di chỉ khác nằm cách thượng lưu sông Sài Gòn khoảng 1km, có niên đại
khá muộn, được Bảo tàng Quân Khu 7 phát hiện năm 1998. Đó là một con tàu
đắm có vỏ bọc bằng sắt, bên trong chứa nhiều hiện vật như : thanh gươm
có khắc tên chủ nhân là người Pháp ; một chiếc gậy chống bằng gỗ bịt bạc
ở đoạn cuối, đoạn tay cầm là một chiếc răng nanh heo rừng nối với thân
gậy bởi một khoen bằng bạc chạm hình rồng, một thùng rượu bằng gỗ được
ghép bằng vành đai kim loại, một đồng xu lớn đề chữ Indochine Française
(Đông Dương thuộc Pháp) phát hành năm 1886, một bình bông treo tường đáy
nhỏ, miệng loe bằng gốm men xanh trắng (Phúc Kiến) có đắp nổi hình một
ông tiên, trên đầu là hình cây đào, cành mai chạm lộng ; một nồi Supde
có đường kính thân 170cm, cao 200cm, bằng sắt đã bị hư hỏng nặng. Theo
lời kể của các thợ lặn, còn có 2 sọ người nằm ở vị trí con tàu nhưng
không được vớt lên. Vỏ tàu cũng đã bị rỉ sét, mục nát nhiều.
Theo
các nhà nghiên cứu, đây có thể là một con tàu tuần tiễu trên sông bằng
sắt, chạy bằng hơi nước của chính quyền Pháp tại Sài Gòn. Thời điểm tàu
chìm là trong khoảng thời gian từ 1886 đến đầu thế kỷ XX.”
Như
vậy khả năng rất lớn là chiếc tàu chìm được khám phá vào năm 1998 chính
là tàu Donnai bị chìm năm 1893 mà ông Landes đã đi dạo trên thuyền cùng
với vợ và bạn tháng 2 năm 1893.
Hình 8
: Tòa đô chánh thành phố Chợ Lớn (ngày nay không còn), trước kia nằm
trên khu đất mà ngày nay là khuôn viên Đại học Y Khoa Sài Gòn. Tòa nhà
nhìn ra đường Cây Mai (Nguyễn Trãi) và Avenue de Jaccaréo (Tản Đà) (ngay
ngã ba đường Cây Mai và Jaccaréo, đường Jaccaréo đâm thẳng vào là đụng
tòa đô chánh. Trong bản đồ 1893 Tour du Monde, đường Jaccaréo từ rạch
Tàu Hủ đến đường Cây Mai là chấm dứt, chưa thông qua đường Charles
Thomson) và đường xe tramway Chợ Lớn - Sài Gòn, bên phải là rue des
Clochetons (Phù Đổng Thiên Vương) và phía sau là Boulevard Charles
Thomson (Hồng Bàng) và đường xe lửa Sài Gòn - Mỹ Tho. Đường Jaccaréo
được người Pháp đặt theo tên một chiến hạm Jaccaréo, trong chiến dịch
vây đánh Sài Gòn - Chợ Lớn năm 1859, đã đậu trên con rạch dẫn vào Chợ
Lớn và đồn Cây Mai (nay đã lấp trên đường Tản Đà) thông với kênh Tàu Hủ.
Hình 9 : Cây cổ thụ góc đường Tản Đà và Nguyễn Trãi, trong khuôn viên bệnh viện,
là vết tích duy nhất cạnh tòa đô chính Chợ Lớn còn lại.
Hình 10 : Những căn nhà của khu phố cổ còn sót lại ở đường Tản Đà
Từ
năm 1889, tỉnh Chợ Lớn được thành lập gồm thành phố Chợ Lớn, huyện Bình
Chánh, một phần của tỉnh Long An ngày nay (Gò Đen, Đức Hòa,..) trong
khi Sài Gòn thuộc tỉnh Gia Định. Sự độc lập làm thành phố Chợ Lớn phát
triển mạnh mẽ hơn. Sau khi sáp nhập tỉnh sau 1975, thì Sài Gòn - Chợ Lớn
trở thành một phần của địa phận thành phố Hồ Chí Minh, Chợ Lớn không
còn trở thành cái nôi kinh tế như trước đó. Tuy vậy sức mạnh kinh tế
trong Chợ Lớn vẫn đa số nằm trong tay người Hoa.
Các
thương gia người Hoa ở Chợ Lớn cũng thường tiếp xúc, lên hệ với các
người Hoa ở Đông Nam Á : họ đã có những liên hệ thương mại mật thiết với
các cộng đồng người Hoa ở Indonesia, Singapore và Mã Lai. Ở Chợ Lớn có
hai câu lạc bộ của người Hoa Singapore, một thiết lập năm 1878 tọa lạc ở
số 64 đường Paris (Phùng Hưng kế đường Phúc Kiến) và một thành lập năm
1886 ở số 105 đường Rue des marins (Đồng Khánh sau này là Trần Hưng Đạo
nối dài) sau khi có sự đòi hỏi từ lãnh sự Anh ở Sài Gòn năm 1885 (5).
Chủ yếu họ mua bán lúa gạo, nông phẩm, thầu xây dựng địa ốc, sản xuất
thuốc phiện. Lúa gạo và các sản phẩm nông nghiệp từ các tỉnh miền tây
mang vào Chợ Lớn - Sài Gòn và xuất khẩu qua nhiều nước ở Đông Nam Á.
Có
từ hai mươi đến ba mươi gia đình người Hoa ở Malacca và Singapore trú
tại Chợ Lớn, phần lớn trên đường Phúc Kiến, vì thế đường này được họ gọi
là “đường Baba” (rue des Baba). Baba là tên những người Hoa ở vùng
Strait Settlement (Singapore và Malaysia) tự gọi (5). Qua sự liên hệ
thương mại giữa người Hoa ở Chợ Lớn và các thành phố khác ở Đông Nam Á
như Singapore, Hong Kong, ta cũng không lạ gì nhiều nhà máy xay lúa ở
Chợ Lớn nhập máy xay bằng hơi nước hiệu “Barley Mill” từ Anh qua
Singapore hay Hong Kong mặc dầu có sự phàn nàn từ người Pháp do không
mua máy của Pháp (11). Các thương gia nổi tiếng người Hoa từ Singapore
là ba anh em Tan Keng Ho (Trần Khánh Hòa), Tan Keng Hoon (Trần Khánh
Vân), Tan Keng Sing (Trần Khánh Tinh) và ông Gan Wee Tin (Nhan Vĩ Thiên)
đều có nhà máy xay lúa hay phần hùn trong đó.
Người
Pháp gọi ông Gan Wee Tin (Nhan Vĩ Thiên) bằng tên Ban-hap (Vạn Hòa).
Vạn Hòa là tên công ty mà ông Wee Tin lập ra ở các tỉnh miền Nam trồng
và buôn bán thuốc phiện, lúa gạo trong các năm ở thập niên 1850, trước
khi người Pháp đến (5)(14). Công ty Vạn Hòa sau đó làm ăn phát đạt mở
rộng đến Cam Bốt với các đặc quyền từ vua nước này cho phép trồng, sản
xuất thuốc phiện năm 1869 và ở Nam Kỳ năm 1869 được chính quyền Pháp
tiếp tục cho phép độc quyền mặc đầu bị sức ép của các thương gia và công
ty Pháp muốn cạnh tranh ở Cam Bốt. Ban-hap còn có độc quyền ở Cam Bốt
sản xuất bán vé số, mở các tiệm cầm đồ, sòng cờ bạc, trại nuôi và bán
thịt heo. Ông Trần Khánh Hòa cũng thành công và có thế lực kinh tế không
kém ông Vạn Hòa. Ngày 8/7/1869, đề đốc Ohier đổi tên Ủy ban thành phố
(Commission municipale) mà trước đó vào năm 1867 thống đốc de la
Grandière đã thành lập sau khi Pháp vừa chiếm Sài Gòn, thành tên chính
thức Hội đồng thành phố Sài Gòn (Conseil municipal de la ville de
Saigon), gồm 1 thị trưởng và 13 hội đồng viên với nhiệm kỳ 2 năm (7
người được bầu và 6 người được thống đốc chọn), trong đó có Trương Vĩnh
Ký và Tang keng Ho (Trần Khánh Hòa). Đây là Hội đồng thành phố đầu tiên
của Sài Gòn (16).
Nhà
máy xay lúa bằng hơi nước đầu tiên ở Việt Nam được thành lập ở Chợ Lớn
vào năm 1874. Đó là nhà máy của ông Spooner bỏ tiền ra đầu tư, hầu hết
các xưởng nhỏ còn lại dùng cối xay lúa gạo là của người Hoa ở Chợ Lớn.
Nhưng
không lâu sau, các người Hoa cũng xây các nhà máy xay lúa chạy bằng hơi
nước. Cuộc cách mạng kỹ nghệ ở Chợ Lớn bắt đầu. Năm 1897, có 9 nhà máy
xay lúa (8 ở Chợ Lớn và 1 ở Khánh Hội), trong đó có 7 nhà máy là vốn của
người Hoa và 2 nhà máy vốn của người Pháp, Đức và Hoa. Đến đầu thế kỷ
20, năm 1900 thì cả thảy 9 nhà máy ở Chợ Lớn đều là của chủ người Hoa,
với giám đốc điều hành là người Pháp (8).
Hình 11 : Nhà máy xay lúa, dọc kênh Tàu Hủ ở Chợ Lớn
Hình 12 : Gạo xay rồi được mang lên tàu ở kênh Tàu Hủ
Hình 13 : Gạo chất ở bến
Hình 14 : Một nhà máy xay lúa ở Chợ Lớn. Hình ảnh của ông Nadal,
nhiếp ảnh người Pháp xuất bản trong sách Album illustré de 456 gravures sur cuivre tựa đề La Cochinchine (Nam Kỳ), xuất bản năm 1926, nguồn La Belle Indochine.
Tất
cả các nhà máy xay lúa đều ở gần bờ sông rạch để tiện mang lúa xuống từ
các ghe, thuyền ở các tỉnh miền Tây đến và để mang gạo mới xay đi xuất
cảng ra các nước khác. Nước dùng cho máy xay bằng hơi nước lấy từ nguồn
rất thuận lợi ngay tại sông, rạch dọc nhà máy. Nhiên liệu được dùng để
đốt chạy máy hơi nước là vỏ trấu.
Có
3 loai gạo : gạo “Baixau” hột dài và thon (giá cao nhất), gạo Vĩnh Long
hột dài và to và gạo Gò Công hột ngắn, to mập (11). Bốn nhà máy của
người Hoa có bắt điện ban đêm và họ thiết lập các cột đèn (arc lamp) có
độ sáng cực mạnh dọc bến tàu để hoạt động và chuyển lúa gạo lên xuống
suốt đêm
Nhà
máy hoạt động xay lúa cho riêng chủ hay xay lúa cho các nguời khác qua
hợp đồng xay. Trong lúc xay riêng, nhà máy mua thẳng lúa từ nông dân vào
lúc đầu mùa gặt vào khoảng tháng 12 và tháng 1 và được chứa trong kho
để xay khi có nhu cầu xuất khẩu hay mua lúa từ các nhà buôn trong các
tháng khác. Vì mua với số lượng nhiều, số vốn của nhà máy vì vậy bỏ ra
rất lớn. Một vài nhà máy có trong kho trữ luợng lúa trị giá đến 1,5
triệu dollar (11).
Đường
Phùng Hưng (rue de Paris) và đường Triệu Quang Phục (rue de Canton) là
hai con đường chính buôn bán sầm uất, được coi là trung tâm sinh hoạt
thương mại và văn hóa chính của người Hoa ở cuối thế kỷ 19 đến giữa thế
kỷ 20. Xưa kia ông Vương Thái (Wang-Tai), một triệu phú người Hoa gốc
Quảng Đông từ Hồng Kông, có một nhà ở đường Triệu Quang Phục. Hai con
đường này nằm ở hai bên khu chợ Chợ Lớn cũ nằm giữa. Sau này chợ Chợ Lớn
được dời đến chợ Bình Tây.
Hình 15 : Một góc trên đường Triệu Quang Phục (rue de Canton) ngày nay.
Nhà văn Marguerite Durras đã có đề cập đến sinh hoạt của người Hoa ở đường Phùng Hưng trong tác phẩm L'Amant
của bà. Đường Phùng Hưng là nơi nhiều người Hoa gốc Phúc Kiến đến định
cư. Cũng không lạ gì mà trước đây các thương gia Singapore và Mã Lai gốc
Phúc Kiến đã tụ tập ở đường Phùng Hưng. Tại đây ở số 203 Phùng Hưng là
tòa nhà lớn của Tổng Thương hội Hoa kiều mà trước đây có đề cập nhiều
trong sách Hoa Kiều Chí
của các nhà nghiên cứu Đài Loan hồi thập niên 1960s (thông tin do bác
Trần Đại Tân ở Hội Văn học Nghệ thuật người Hoa cho tác giả biết). Sau
này trong thập niên 1990 là trụ sở của Ngân hàng Việt-Hoa, và ngày nay
là trụ sở của báo Sài Gòn Giải Phóng.
Đường
Triệu Quang Phục xưa là đường Canton (Quảng Đông) trong thời Pháp và
được coi là trung tâm Chợ Lớn. Nhà Xã Tây (Hotel de Ville) ở cạnh đây
(gọi là Xã Tây vì là tòa nhà hành chính của Pháp chuyên lo chuyện nhập,
xuất cảnh và giấy tờ). Vùng này ngày xưa cũng được gọi là Minh Hương xã.
Hình 16 : Chợ Bình Tây – Để ý phía trái, rạch bãi Sậy vẫn còn
Rạch
Bãi Sậy (còn gọi là kinh hay rạch Hàng Bàng) xưa rất trù phú, nhà cửa
hai bên san sát. Rạch nối với rạch Lò Gốm và xa nữa là Rạch Cát. Rạch
Bãi Sậy sau đó (bắt đầu từ năm 1968) dần bị người dân xây lấn nhà quanh
rạch, và hiện nay hầu như hoàn toàn bị lấp để trở thành đường Bãi Sậy và
Phạm Văn Khỏe. Trước đây, dọc theo rạch Bãi Sậy là nhà cửa người Hoa
san sát nhau và hai bên có trồng các cây bàng rất đẹp mắt và cho nhiều
bóng mát (vì thế gọi là kinh Hàng Bàng). Năm 1945, quân Nhật đã chặt các
cây bàng để làm hầm núp phía cầu Bình Điền gần đó (4).
Hình 17
: Bến Bãi Sậy và cầu Ba Cẳng (phần phía trên của hình), cầu Palikao ở
giữa hình. Ngày nay rạch bãi Sậy đã hầu như bị lấp hoàn toàn. Cầu
Palikao trở thành đường Ngô Nhân Tịnh. Cầu Ba Cẳng đã sập, không còn và
rạch phía sau chợ Kim Biên đã bị lấp. Cầu Palikao được người Pháp đặt
tên theo một câu gần Bắc Kinh, gọi là Bát lí kiều (cầu tám dặm),
nơi liên quân Anh-Pháp vào năm 1860 đánh với quân nhà Thanh. Quân Thanh
thua và Bắc Kinh bị chiếm và cung điện mùa hạ bị đốt cháy. Hòa ước
Thiên Tân sau đó được ký kết. Lúc này cũng là lúc quân Pháp cùng với đề
đốc Page và Charner rút quân chủ lực ở Sài Gòn qua Trung Quốc, chỉ để
lại số ít cầm cự với quân triều đình do Nguyễn Tri Phương chỉ huy ở đại
đồn Chí Hòa (Kỳ Hòa), phản công để lấy lại Sài Gòn-Chợ Lớn.
Theo
bác Nguyễn Thành Long trong ban quản trị Nghĩa Nhuận hội quán gần rạch
Bãi Sậy, mà tác giả đã có dịp tiếp xúc, thì giữa cầu Ba Cẳng và cầu
Palikao xưa kia có 5 kiosque bán trà, chuối, nước giải lao cho các tàu
đi trên rạch Bãi Sậy. Cầu Palikao bị dẹp và trở thành đường Ngô Nhân
Tịnh vào năm 2003, cùng khoảng thời gian cầu Ba Cẳng bị sập và phá bỏ
hoàn toàn.
Hình 18 : Cầu trên rạch bãi Sậy
Hình 19 : Rạch Bãi sậy còn sót lại, trên Đường bến Bãi Sậy ngày nay
– hình chụp từ trên “cầu Gò Công” (cầu nhỏ chỉ xe gắn máy đi được)
Hình 20 : Tàn dư của Rạch Bãi Sậy ngày nay, hình chụp từ “cầu Gò Công”
Gần cuối rạch bãi Sậy, nơi rạch rẽ quẹo phải vào kênh Tàu Hủ có cầu Ba
Cẳng (phía sau chợ Kim Biên), hai chân nằm ở bến Bãi Sậy và bến Nguyễn
Văn Thành và chân kia ở bến Vạn Tượng. Đoạn cuối rạch này vẫn chưa lấp,
và cầu tồn tại đến năm 1990 thì bị sập. Gần cầu Ba Cẳng, ở ngã ba rạch
Bãi Sậy từ kênh Tàu Hủ và rạch chạy đến đường Kim Biên (tiếng Quảng Đông
nghĩa là Cao Miên, vì trước đây gọi là đường Cao Miên hay rue de
Cambodge) là đường Gò Công, đây là đường từ Chợ Lớn đi xuống Gò Công
(cầu Ba Cẳng có bậc đi xuống đường Gò Công). Trụ sở và xưởng sản xuất
“xà bông Việt Nam” nổi tiếng của ông Trương Văn Bền trong những thập
niên giữa thế kỷ 20 nằm ngay trên đường Kim Biên.
Hình 21 : Pont des 3 arches (Cầu Ba Cẳng) xây bởi công ty Brossard et Mopin
(công ty này cũng xây Chợ Bến Thành ở Sài Gòn vào năm 1914). Nhà báo
Nguyễn Văn Sâm và nhà bên vợ (em gái ông Trương Văn Bền) bỏ tiền đứng ra xây cầu.
Hình 22 : Khu vực cầu Ba Cẳng (góc rạch trước kia nối rạch Bãi Sậy ở phía trái và rạch Tàu Hủ).
Chợ Kim Liên ở đằng sau hình. Nay hoàn toàn nghẽn.
Hình 23 : Đoạn này trên Đại lộ Đông-Tây, trước kia nối kênh Tàu Hủ
với rạch Bãi Sậy qua đoạn cầu Ba Cẳng.
Rạch
Chợ Lớn (cũng gọi là rạch Cầu Đường) từ kênh Tàu Hủ đi lên trung tâm
Chợ Lớn ngày nay, sau đó lên tận đến rạch Lò Gốm gần đồn Cây Mai. Khúc
gần Cầu Đường là bến Gaudot (quai de Gaudot) nơi có trụ sở nhà buôn
Thông Hiệp của Quách Đàm. Gaudot là tên của một trung úy hải quân Pháp,
chỉ huy một nhóm thủy binh đánh đồn Kỳ Hòa ngày 25/2/1861, sau làm phó
quản trị thành phố Chợ Lớn và năm 1868 chỉ huy cảng thương mại Sài Gòn.
Gaudot mất ở Côn Đảo vì bệnh năm 1872 (13). Rạch Chợ Lớn chảy từ Kênh
Tàu Hủ lên bến Gaudot, kế đó là đến bến Foukien (quai de Foukien, nay là
đường Trang Tử - bến xe Chợ Lớn) và cho đến đoạn gần rạch Lò Gốm ngày
nay (đoạn này bây giờ là đường Lê Quang Sung).
Sau
khi rạch Chợ Lớn bị lấp, bến Gaudot trở thành đường Quai de Gaudot (năm
1955 là đường Khổng Tử, ngày nay là đường Hải Thượng Lãn Ông). Tương
truyền Quách Đàm rất mê tín, tin phong thủy được thầy bói Tàu nói là nơi
trụ sở bến Gaudot là nơi “đầu một con rồng” mà khúc đuôi nằm ở biển cả.
Vì thế Quách Đàm không bao giờ đổi trụ sở dù là nhà mướn, đi nơi khác
sau khi rất giàu có thành công trên đường làm ăn. Nên khi xảy ra sự việc
lấp kinh thành đường thì ông tin rằng cơ sản làm ăn lụn bại vào lúc
thời khủng hoảng kinh tế thế giới 1929 là do việc lấp kinh Chợ Lớn này
(4). Rạch Chợ Lớn trên khúc Quai de Gaudot là Quai de Fou-kien (bến Phúc
Kiến) sau khi lấp đi làm thành đường Trang Tử trước bến xe Chợ Lớn ngày
nay. Khu đường Hải Thượng Lãn Ông, Trang Tử và Phùng Hưng là khu mà
ngày nay vẫn còn nhiều người Hoa gốc Phúc Kiến cư ngụ. Ở đây, góc đường
Hải Thượng Lãn Ông và Phùng Hưng, có miếu Nhị Phủ (chùa ông Bổn) của
người Phúc Kiến và kế miếu là trường trung học Trần Bội Cơ (trước gọi là
Ecole de Foukien). Trường, nằm trong một phần đất của miếu, được xây từ
đầu thế kỷ 20 (1907) rất đẹp với kiến trúc Pháp. Gần đấy ở góc đường
Hải Thượng Lãn Ông và Đỗ Ngọc Thanh ngày nay có một kênh nhỏ (nay đã bị
lấp) gọi là kinh Bến tắm ngựa vì nơi đây các ngựa xe thổ mộ làm chổ nghĩ
ngơi và tắm ngựa.
Đường
Hãi Thượng Lãn Ông, ngày nay bắt đầu từ Đại lộ Đông Tây ở kênh Tàu Hủ,
là con đường chính ở Chợ Lớn. Ở đường này vẫn còn một ít các tòa nhà cổ,
to lớn và có thể được coi là đẹp nhất ở Chợ Lớn. Xưa kia, trong thập
niên 1960, “vua bột ngọt”, ông Trần Thành cư ngụ trên con đường này.
Hình 24 : Tòa nhà cổ vẫn còn ở đường Hãi Thượng Lãn Ông giữa sự thay đổi nhanh chóng
(ảnh Kinh Luân : Thời báo Kinh tế Sài Gòn)
Hình 25 : Đường Hãi Thượng Lãn Ông đang thay đổi với các tòa nhà cổ bị áp lực
(ảnh Kinh Luân : Thời báo Kinh tế Sài Gòn)
Hình 26 : Đường Hãi Thượng Lãn Ông
Hình 27 : Nhà cổ trên đường Hãi Thượng Lãn Ông
Hình 28 : Một góc đường trên đường Hãi Thượng Lãn Ông
Từ Sài Gòn vào Chợ Lớn vào đầu thế kỷ 19 có hai con đường chính : Nguyễn Trãi (route haute) và đường dọc theo rạch Bến Nghé - kênh Tàu Hủ (route basse).
Sau này đầu thế kỷ 20, con đường Avenue Galliéni (Trần Hưng Đạo) và Rue
des Marins (Trần Hưng Đạo nối dài) mới được thành lập nối chợ Sài Gòn
vào Chợ Lớn.
Hình 29 : Một góc phố xưa trên đường Trần Hưng Đạo nối dài
Hình 30 : Phố xưa trên đường Trần Hưng Đạo nối dài
Cảnh quan đường Trần Hưng Đạo ngày nay hầu hết đều biến dạng thay đổi.
Các tòa nhà đầu thế kỷ 20 gần như biến hết, chỉ còn một số ít cuối đường
Trần Hưng Đạo nối dài ở Chợ Lớn.
Hình 31 : Chợ vùng Chợ Lớn
Hình 32 : Khu chợ, Chợ Lớn
Hình 33 : Chợ Lớn, Nhà máy rượu, đường Gò Công ngày nay
Hình 34 : Xe điện dọc bến rạch Chợ Lớn, nay là bến xe Chợ Lớn
Theo
Eugene Bonhoure (8), năm 1900 dân số Chợ Lớn là 121 987 người, trong đó
có 41 588 người Hoa, 80 061 người Việt, 166 người Âu (trong đó có 135
người Pháp, số còn lại là người Miên, Ấn, Mã Lai, Nhật và Tagal (gốc Phi
Luật Tân)). Lúc này Chợ Lớn thông thương với Sài Gòn qua 1 đường xe lửa
chính, 2 đường xe lửa (tram) chạy bằng hơi nước và các đường bộ và có 9
nhà máy xay lúa sản xuất gạo mà chủ là người Hoa. Số lúa xay là 96 000
picul (1 picul, hay tạ Trung quốc là 68kg), sản xuất được 44 000 piculs
gạo “cargo” (không trắng và láng) và 24200 piculs gạo trắng.
Hình 35 : Phú Lâm – một góc chợ
Hình 36 : Phú Lâm – đường đi Mỹ Tho, tiệm cầm đồ
Người
Hoa nổi tiếng ở Sài Gòn - Chợ Lớn cuối thế kỷ 19 là ông Cheung Ah Lum
(Trương Á Lâm, hay Zhang Peilin, Trương Bội Lâm). Cũng như ông Ban-hap
(Vạn Hòa, tên thật là Gan Wee Tin hay Nhan Vĩ Thiên), người Pháp gọi ông
là Wang-Tai (Vương Thái). Wang-Tai là tên công ty ông lập ở Sài Gòn sau
khi ông đến từ Hồng Kông vào năm 1862 để giao các tàu buồm (junks) mà
một sĩ quan người Pháp, đại diện cho chính quyền Pháp mới thành lập ở
Sài Gòn, đã đến Macao trước đó vào năm 1860 để đặt hàng đóng các tàu từ
công ty của ông ở Macao (14). Sau khi giao tàu xong, ông quyết định ở
lại định cư hẳn tại vùng Sài Gòn - Chợ Lớn. Có kinh nghiệm ở Hồng Kông
khi người Anh đến ở đó để lập thuộc địa, công ty Wang-Tai đi ngay vào kỹ
nghệ xây cất, thiết lập các xưởng gạch và xây các nhà kiểu Âu châu khi
người Pháp còn chân ướt chân ráo. Các nhà này được cho mướn cho chính
quyền Pháp và Phòng Thương mại mà ông là một hội viên từ lúc ban đầu.
Ông trở thành phát đạt và giàu có còn hơn lúc ở Hồng Kông.
Lúc
còn ở Hồng Kông, có lần ông suýt bị rơi vào vòng lao lý khi một hôm,
vào ngày 15/1/1857, công ty làm bánh mì của ông (Esing Bakery) sản xuất
bánh mì có chứa độc tố arsenic làm nhiều người bị ói mửa ngày đó. Trong
số rất nhiều thợ mà ông không kiểm soát được, có một số đã bỏ arsenic để
đầu độc đa số các người Anh ở Hồng Kông. Ông bị đưa ra tòa, nhưng vì
không có chứng cớ và với luật sư giỏi ông được tha bổng, nhưng không
được lui tới ở Hồng Kông trong 5 năm. Vì thế ông đến Macao (nơi ông học
buôn bán lúc còn nhỏ với chú ông) mở tiệm và xưởng sau biến cố này, và
chính ở Macao ông gặp đại diện Pháp nhờ ông đóng tàu (15).
Công
ty Wang-Tai đi vào các lãnh vực khác của kinh tế như mua bán, sản xuất
gạo. Ông Zhang Peilin (Trương Bội Lâm) sau được chọn bầu vào công ty
China Merchants’ Steam Navigation Company (Công ty hàng hải tàu hơi nước
của thương nhân Trung Hoa) để xuất khẩu gạo sang Trung quốc. Đến các
năm của thập niên 1880, ông là chủ của nhiều đất đai nhà cửa ở Sài Gòn,
trong đó có khu Wang-Tai (la cité Wang-tai), một khu nghèo và dơ mà các
người di dân Trung quốc đến Sài Gòn - Chợ Lớn lúc ban đầu cư ngụ chung
với gà, vịt, trái cây và các đồ nhập khẩu (14). Năm 1879, ông gởi con
ông và một người Hoa Quảng Đông khác là Lưu Chap (Pháp gọi là A Chap hay
“Taokhe” Tào Kê Chap) sang Cam Bốt mở tiệm cầm đồ ở Nam Vang. Sau này
Lưu Chap là một người giàu có khét tiếng có thế lực ở Nam Vang.
Ông
Trương Bội Lâm (Wang-Tai, hay Vương Thái) mất năm 1900, thọ 73 tuổi
(sinh năm 1827). Các con trai và cháu nội ông ở Chợ Lớn mang quan tài
ông về quê hương, làng Ya-kang, huyện Hoàng Sơn ở Quảng Đông để chôn
cất. Rất nhiều người Hoa, Pháp, Việt và quan chức, chức sắc ra bến tàu
để tiễn ông.
Sau
ông Trương Bội Lâm, ở thế kỷ 20 có nhiều nhà kỹ nghệ và doanh nghiệp
nổi tiếng ở Chợ Lớn và có ảnh hưởng khắp miền Nam như các ông Quách Đàm,
Trương Văn Bền, Hứa Văn Bon, Trần Thành, Vương Đạo Nghĩa… Tinh thần
thương mại, đầu óc mở đường, kiên trường và gan dạ trong thương trường
của những người Hoa và người Việt gốc Hoa đã đóng góp to lớn vào sự hưng
thịnh không những cho thành phố Chợ Lớn mà cho cả nền kinh tế Việt Nam
trước kia và cho đến ngày nay.
Nguyễn Đức Hiệp
THAM KHẢO :
(1) Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thông chí, Lý Việt Dũng dịch và chú giải, Nxb Đồng Nai, (bản điện tử)
(2) Jean Baptiste Pétrus Trương Vĩnh Ký (1837-1898), Souvenirs historiques sur Saïgon et ses environs, conférence faite au collège des interprètes par M. P. Truong Vinh Ky, Éditeur : Impr. coloniale (Saïgon), 1885.
(3) Les colonies françaises : notices illustrées / publ. par ordre du sous-secrétaire d'état des colonies sous la dir. de M. Louis Henrique, Quantin (Paris), 1889-1890.
(9) Lê Văn Lưu, Pagodes chinoises et annamites de Cholon (orné de 26 photogravures), Imprimerie Tonkinoise, Hanoi,1931.
(10) Séance du 2 mars 1893, Bulletin de la Société des études indochinoises, année 1893, pp. 63, 1893, Société des études indochinoises (Saïgon).
(11) Pierre Passerat de la Chapelle, L’industrie du décorticage du riz,
Bulletin de la Société des études indochinoises, année 1901, 1901/1
(no. 41)-1901/6, pp. 53, Société des études indochinoises (Saïgon).
(12) Louis Finot, Les papiers de Landes, Bulletin de l'Ecole française d'Extrême-Orient,1903, Vol. 3, No. 3, pp. 657-660.
(14) Nola Cooke, King Norodom’s Revenue Farming System in Later-Nineteenth-Century Cambodia and his Chinese Revenue Farmers (1860-1891), Chinese Southern Diaspora Studies, Volume One, 2007. (http://csds.anu.edu.au/volume_1_2007/Cooke.pdf).
(15) Choi Chi-Cheung, Cheung Ah-Lum A biographical note, Journal of the Hong Kong. Branch of the Royal Asiatic Society, v. 24 (1984), pp. 282-7.
Chợ
Lớn, cách Sài Gòn khoảng 6km, trước đây từng được coi là thủ đô lúa gạo
của toàn Đông Dương. Vai trò của Chợ Lớn là cực kỳ quan trọng trong nền
kinh tế Nam Kỳ xưa kia và ngay cả ngày nay. Lịch sử Sài Gòn gắn liền
với lịch sử Chợ Lớn. Chợ Lớn được thành lập trước Sài Gòn. Sài Gòn thật
ra là tên trước đây đặt cho khu Chợ Lớn và chính tên Sài Gòn có thể có
nguồn gốc từ “Tai Ngon” hoặc ‘Tin-Gan” (Hán Việt là Đề Ngạn, chỉ thành
phố gần đê dọc kênh tàu Hủ) mà người Quảng Đông đọc là “Thầy Ngòn” hay
“Thì Ngòn” (4).
Bài
này có mục đích giới thiệu lịch sử địa lý, kinh tế và văn hóa thành phố
Chợ Lớn trong hơn 200 năm qua từ lúc người Hoa đến định cư đông đảo từ
Cù Lao phố, Biên Hòa. Sự thăng trầm của Chợ Lớn trực tiếp gắn liền với
lịch sử Việt Nam trong các thế kỷ đã qua. Chủ yếu là trung tâm thương
mại, không có quyền lực và ảnh hưởng chính trị, Chợ Lớn không được đánh
giá đúng mức về tiềm lực văn hóa, kinh tế trong các nỗ lực ưu tiên đầu
tư để phát triển kinh tế, hạ tầng cơ sở xứng đáng với tầm vóc của thành
phố này, cũng như phát triển văn hóa và bảo tồn các đặc trưng mà con
người, trong đó người Hoa và Minh hương là chủ đạo, đã góp phần tạo
thành đặc tính con người văn hóa Nam bộ.
Trong
các năm gần đây, cảnh quan đô thị thành phố Sài Gòn-Chợ Lớn đã thay đổi
thật nhanh chóng qua sự bùng nổ dân số và kinh tế cùng các cơ sở hạ
tầng và sự phình rộng đô thị với nhiều quận mới được thành lập. Không
cần một bản báo cáo nghiêm túc về tình hình phát triển và quản lý đô thị
vùng Sài Gòn-Chợ Lớn, hỏi bất cứ cư dân và của những khách viếng thăm
về tổng quan về môi trường sinh thái, văn hóa thành phố Hồ Chí Minh thì
tất cả đều có cùng nhận xét như người viết :
-
Phát triển thiếu bền vững : quá tải, ô nhiểm môi trường khí, nước, vấn
đề xử lý chất thải rắn. Giao thông ùn tắc, thiếu cây xanh, nước ngập do
lấp kênh rạch (Sài Gòn - Chợ Lớn lịch sử là thành phố sông nước)
-
Bảo tồn di sản và phát huy giá trị văn hóa lịch sử : sự biến mất gần
đây của nhiều kiến trúc, cảnh quan có giá trị văn hóa lịch sử (Bến Bình
Đông, Chương Dương, Hàm Tử) qua lợi ích trước mắt chứ không đặt trên cơ
sở tìềm năng lâu dài.
Phong
thái, phong cách kiến trúc, cảnh quan văn hóa và sinh thái của một
thành phố làm nên cá tính của thành phố ấy. Chưa nói đến vấn đề sinh
thái, cây xanh (đứng trên tòa nhà cao tầng ở quận 4, chỉ thấy nhà là nhà
mới mọc chen chúc mà không có cây xanh nào trong toàn quận), tác giả đã
đi qua và ghi lại những gì đã thay đổi trong các năm qua và qua bài này
dóng lên tiếng báo động về sự biến mất của những khu phố cổ, những cảnh
quan đô thị có giá trị văn hóa được thay bằng những tòa nhà không đồng
bộ, nhếch nhác không có đặc thù kiến trúc qua sự thiếu hoạch định các
khu phố của chính quyền địa phương.
Đặc
biệt nhất là dọc theo rạch Bến Nghé, kênh Tàu Hủ trên đại lộ Đông Tây
vừa xây và các đường tiếp cận gần đại lộ đi Chợ Lớn. Những nơi này là
nơi mà sự thay đổi đã làm các khu phố thay đổi hầu như toàn diện. Các
hình ảnh xưa trong bài có nguồn từ (6) và hình ảnh gần đây là của tác
giả và nhiếp ảnh gia Kinh Luân, báo Thời báo Kinh tế Sài Gòn.
Chợ Lớn bây giờ ở đâu?
(2SaiGon) – Có lẽ
với bất cứ ai đã từng cư ngụ tại Thành phố Hồ Chí Minh đều nghe qua danh
xưng Chợ Lớn, hay một cụm từ thông dụng hơn mà mọi người ở cái xứ “nam
kỳ lục tỉnh” này vẫn hay gọi “Sài Gòn – Chợ Lớn”. Danh xưng Chợ Lớn có
tự lúc nào? Nó nằm ở con phố nào giữa một TP.HCM rộng lớn? Và Chợ lớn
chứa đựng những giá trị gì mà bất kì ai khi đến TP.HCM đều muốn tìm
hiểu?
Theo
học giả Vương Hồng Sển, thì “Chợ Lớn như nay ta còn gọi, đối với Hoa
kiều là Thầy Ngôồn (Đề Ngạn) hay Xi Cóon (Tây Cống); còn sách cũ Pháp
viết là Cholon hay Cholen, Cho Leun”. Ảnh: Tư Liệu
Chợ Lớn hay Chợ Cũ?
Trước khi Pháp đến Nam Kì (trước năm 1859), Chợ Lớn vốn mang tên Sài Gòn. Trịnh Hoài Đức trong “Gia Định thành thông chí” nói đây là nơi phố thị buôn bán sầm uất, sinh hoạt văn hóa, kinh tế nhộn nhịp cuối thế kỷ 18 như sau:
“Chợ Sài Gòn cách phía nam trấn 12 dặm, đường hai bên tả hữu quan lộ,
ấy là đường phố lớn thẳng suốt 3 đường giáp đến bờ sông….Các con đường
ấy xuyên giáp nhau như hình chư điền, phố xá liên tiếp sát mái nhau,
người Tàu và người ta ở chung lộn dài 3 dặm”.
Khi dời chợ Sài Gòn về nơi hiện nay (Chợ
Bến Thành) thì vẫn còn nhiều người buôn bán ở nơi cũ và biến thành “chợ
cũ”. Và người ta gọi chợ Sài Gòn được xây dựng khang trang ở khu
Borresse nay là đường Hàm Nghi là “chợ mới” (Chợ Bến Thành) để phân biệt
với chợ cũ. Và theo thời gian danh từ Chợ Cũ ( khu chợ Sài Gòn xưa) tọa
lạc ở Chợ Lớn ngày nay mất dần và ít ai còn nhớ. Tới nay chưa có nhà
nghiên cứu nào nói rõ điều này!
Chợ Lớn (Chợ Cũ) do người Hoa thành lập
năm 1778 (theo Vương Hồng Sển, Sài Gòn năm xưa), nằm gọn trong khu vực
từ đường Tản Đà tới Kim Biên và từ Nguyễn Trãi xuống kinh Tàu Hủ. Năm
1782, kết thúc giao tranh giữa Nguyễn Ánh và Tây Sơn, khu vực này bị tàn
phá. Những tưởng Chợ Lớn sẽ đi vào dĩ vãng, nhưng ít lâu sau người Hoa
từ cù lao Phố (Biên Hòa) di cư xuống với gốc nhóm người Minh Hương (nhóm
người Hoa đã sinh sống ở khu vực này từ trước) đã xây dựng lại một Chợ
Lớn sung túc và nhộn nhịp hơn.
Khi Pháp chiếm Nam Kì, danh từ Chợ Lớn
được dùng đặt làm Thành phố. Ngày 6/6/1865 đô đốc Roze kí quyết định
thành lập. Theo quyết định này địa giới Chợ Lớn nằm trong khu vực phía
bắc giáp đại lộ Beylie (Ngô Quyền), phía Tây giáp đại lộ Charles
Thompson (Hùng Vương), phía Nam là kinh Bao Ngạn (Đường Nguyễn Thị Nhỏ
và Lò Siêu) phía đông là Kinh Tàu Hủ. Cả thành phố chia làm 5 khu vực.
(theo “Địa chí quận 5”).
Bản đồ Chợ Lớn năm 1874. Ảnh: Tư Liệu
Cho đến năm 1969, Chợ Lớn trở thành quận
của thành phố Sài Gòn và nằm gọn trong khu vực các đường Trần Hoàng
Quân (Nguyễn Chí Thanh), Hùng Vương giáp quận 10,11 ở phía Tây, đại lộ
Cộng Hòa (Nguyễn Văn Cừ) giáp quận 2 phía Bắc, Kinh Bến Nghé (Tàu Hủ)
giáp quận 8 phía đông và đường Ngô Nhân Tịnh – Dương Công Trừng (Nguyễn
Thị Nhỏ) giáp quận 6 phía Nam.
Và đến ngày nay, danh từ Chợ Lớn được
dùng để chỉ vùng đất bao gồm quận 5, quận 6, quận 10 và một phần của
quận 11. Trong đó quận 5 là khu vực sinh sống chủ yếu của cộng đồng
người Việt gốc Hoa tại thành phố. Các giá trị văn hoá, kiến trúc, tôn
giáo của hàng trăm năm trước vẫn còn được bảo tồn, đặc biệt là nét văn
hoá ẩm thực Trung Hoa hiện diện trong các quán ăn, nhà hàng rất phong
phú và hấp dẫn. Khi thành phố lên đèn, cũng là lúc các nhà hàng – khách
sạn như: Đồng Khánh, Ngọc Lan Đình, Ái Huê, Á Đông…Ngoài vai trò là
trung tâm thương mại, ăn uống, giải trí, Chợ Lớn còn có một khu phố Đông
Y lý tưởng và những công trình kiến trúc Trung Hoa cổ kính đang chờ du
khách khám phá.
Nhà
hàng khách sạn Đồng Khánh tọa lạc tại Chợ Lớn. Thương hiệu Đồng Khánh
đã nổi tiếng trên 50 năm với tiêu chuẩn 3 sao là sự kết hợp hoàn hảo
giữa nét đặc sắc Trung Hoa và thiết kế tinh tế của Việt Nam.
“China Town” giữa lòng Sài Gòn
Được xem là “China Town” giữa lòng Sài
Gòn, Chợ Lớn đã trở thành địa danh du lịch nổi tiếng mà bất cứ du khách
nào khi đến Sài Gòn cũng muốn ghé thăm. Đây là nơi sinh sống và buôn bán
nhộn nhịp của cộng đồng người Việt gốc Hoa. Với những xưởng sản xuất
tiểu thủ công nghiệp sầm uất, những khu phố ẩm thực hấp dẫn, cùng vô số
hàng quán, tiệm ăn mang phong vị Trung Hoa nằm san sát nhau trên từng
con phố.
Hội quán Tuệ Thành (Chùa Bà Thiên Hậu).
Những giá trị văn hóa mà cộng đồng
người Hoa lưu dấu nơi đây trở thành sức cuốn hút mạnh mẽ với khách du
lịch phương xa, nhiều hội quán chứa đựng nét đẹp kiến trúc, tín ngưỡng
của người Hoa như Tuệ Thành (chùa Bà Thiên Hậu), Ôn Lăng, Hà Chương,…Đến
với từng hội quán, du khách cảm nhận được sự linh thiêng và trang
trọng, điêu đó cho thấy đời sống tinh thần tâm linh của người Hoa rất
lớn và họ hết sức sùng bái. Bên cạnh đó còn có các công trình mang giá
trị kiến trúc như Chợ Bình Tây, đứng ở góc đường Tháp Mười, bạn sẽ thấy
ngôi chợ nổi bật giữa không gian nhộn nhịp, không chỉ dừng ở mức độ phục
vụ buôn bán, mà người xưa còn tô điểm cho nó trang trọng, thể hiện sự
sung túc và sầm uất của nơi giao thương, vì chợ và sinh hoạt ở chợ là
nét văn hóa của người Việt xưa.
Chợ Bình Tây còn được biết với tên gọi là Chợ Lớn Mới được xây dựng vào những năm 20 của thế kỷ XX.
Chợ Lớn còn có những giá trị lịch sử của
riêng nó. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tạm trú tại Sài Gòn trước khi ra đi
tìm đường cứu nước. Trong thời gian đó Người ở tại cơ sở của phân cuộc
Liên Thành thương quán tại số 1-2-3 Quai Testard (bến Testard) – Chợ
Lớn. Sau đó kênh được lấp đi, năm 1915 đổi thành đường Tổng Đốc Phương,
nay là đường Châu Văn Liêm – quận 5. Trong ba căn nhà đó, một căn được
giữ lại di tích lưu niệm về Hồ Chủ Tịch. Đó là căn nhà số 5 đường Châu
Văn Liêm.
Và đặc biệt hơn khi bạn di chuyển trên
đường Võ Văn Kiệt (Đại lộ đông-tây) qua bệnh viện Nhiệt Đới, ngày trước
nơi đây gọi là Bệnh viện Chợ Quán, là bệnh viện xưa nhất ở Sài Gòn được
xây dựng xong năm 1864. Bệnh viện chuyên điều trị các loại bệnh truyền
nhiễm và bệnh tâm thần. Do nhu cầu điều trị bệnh tâm thần nên trong bệnh
viện có xây một khu riêng biệt để nhốt các bệnh nhân tâm thần. Khu nhốt
bệnh nhân đó nay đã trở thành một di tích lịch sử văn hóa. Cố Tổng Bí
Trần Phú đã bị giam và hy sinh tại đây.
Chợ Lớn đã sinh ra giữa lòng Sài Gòn
huyên náo, là nơi giao thường buôn bán từng vang danh khắp xứ Đông Dương
và cho đến ngày nay giá trị ấy vẫn còn nguyên vẹn. Chắc rắng trong thời
gian tới Chợ Lớn sẽ ngà càng được quan tâm phát triển hơn, không dừng
lại ở mức độ buôn bán mà những giá trị văn hóa lịch sử sẽ được liên kết
và động lực thúc đẩy du lịch của thàn phố nói chung và quận 5 nói riêng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét