Chủ Nhật, 9 tháng 12, 2018

NỖI CHIỀU (ĐL)



                                            CHIỀU MỘT MÌNH QUA PHỐ - Duy Khánh

Cảnh sắc hoang tàn, xơ xác mùa khô Đray Sáp

NỖI CHIỀU

Ta như mặt ruộng nhớ cày
Trời mưa nước lụt ngập lầy lệ đau
Chứa chan đành với cỏ lau
Loang loang váng đục một màu điêu linh

Tuổi thơ ngơ ngác khóc tình
Về già lạc lõng khóc mình cô đơn
Nói khôn, người bảo mất hồn
Lặng thinh uống rượu, thành ông bợm già
Hừng hực mà chê thây ma
Tưng bừng nhân ái lại ra cù lần!

Ước gì hóa cảnh non hòn
Bon sai mấy nhánh, vài hồn tiều phu
Đất trời mới chớm màu thu
Lão ông ngồi ngóng bạc đầu đìu hiu
Một làn nước lách khe rêu
Róc ra róc rách nỗi chiều buồn tênh...


                                                                 Trần Hạnh Thu

 
TIẾNG CHUÔNG CHIỀU THU - Tô Vũ - Duy Trác - BP

Phân tích bài thơ Tràng giang của Huy Cận

1 2.164

Phân tích bài thơ Tràng giang lớp 11

Phân tích bài thơ Tràng Giang của Huy Cận là tài liệu tham khảo hữu ích dành cho các bạn, đặc biệt các bạn đang ôn thi Đại học môn Văn. Hy vọng các bạn sẽ có thêm cảm nhận cũng như ý tưởng mới về tác phẩm sau khi tham khảo tài liệu: Phân tích bài thơ Tràng Giang của Huy Cận.

Phân tích bài thơ Tràng giang của Huy Cận

Phân tích bài thơ Tràng giang

Nhà thơ Huy Cận tên thật là Cù Huy Cận, với giọng thơ rất riêng đã khẳng định tên tuổi của mình trong phong trào thơ mới 1930-1945. Ông vốn quê quán Hương Sơn, Hà Tĩnh, sinh năm 1919 và mất năm 2005. Trước Cách mạng tháng Tám, thơ ông mang nỗi sầu về kiếp người và ca ngợi cảnh đẹp của thiên nhiên, tạo vật với các tác phẩm tiêu biểu như: "Lửa thiêng", "Vũ trụ ca", "Kinh cầu tự". Nhưng sau Cách mạng tháng Tám, hồn thơ của ông đã trở nên lạc quan, được khơi nguồn từ cuộc sống chiến đấu và xây dựng đất nước của nhân dân lao động: "Trời mỗi ngày lại sáng", "Đất nở hoa", "Bài thơ cuộc đời"... Vẻ đẹp thiên nhiên, nỗi ưu sầu nhân thế, một nét thơ tiêu biểu của Huy Cận, được thể hiện khá rõ nét qua bài thơ "Tràng Giang". Đây là một bài thơ hay, tiêu biểu và nổi tiếng nhất của Huy Cận trước Cách mạng tháng Tám. Bài thơ được trích từ tập "Lửa thiêng", được sáng tác khi Huy Cận đứng ở bờ Nam bến Chèm sông Hồng, nhìn cảnh mênh mông sóng nước, lòng vời vợi buồn, ám cảnh cho kiếp người nhỏ bé, nổi trôi giữa dòng đời vô định. Mang nỗi u buồn hoài như thế nên bài thơ vừa có nét đẹp cổ điển lại vừa đượm nét hiện đại, đem đến sự thích thú, yêu mến cho người đọc.

Bâng khuâng trời rộng nhớ sống dài
Sóng gợi tràng giang buồn điệp điệp
....
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Ngay từ thi đề, nhà thơ đã khéo gợi lên vẻ đẹp cổ điển lại hiện đại cho bài thơ. "Tràng giang" là một cách nói chệch đầy sáng tạo của Huy Cận. Hai âm "ang" đi liền nhau đã gợi lên trong người đọc cảm giác về con sông, không chỉ dài vô cùng mà còn rộng mênh mông, bát ngát. Hai chữ "tràng giang" mang sắc thái cổ điển trang nhã, gợi liên tưởng về dòng Trường giang trong thơ Đường thi, một dòng sông của muôn thuở vĩnh hằng, dòng sông của tâm tưởng.
Tứ thơ "Tràng giang" mang nét cổ điển như thơ xưa: Nhà thơ thường ẩn đằng sau cái mênh mông sóng nước, không như các nhà thơ mới thường thể hiện cái tôi của mình. Nhưng nếu các thi nhân xưa tìm đến thiên nhiên để mong hoà nhập, giao cảm, Huy Cận lại tìm về thiên nhiên để thể hiện nỗi ưu tư, buồn bã về kiếp người cô đơn, nhỏ bé trước vũ trụ bao la. Đó cũng là vẻ đẹp đầy sức quyến rũ của tác phẩm, ẩn chứa một tinh thần hiện đại.
Câu đề từ giản dị, ngắn gọn với chỉ bảy chữ nhưng đã thâu tóm được cảm xúc chủ đạo của cả bài: "Bâng khuâng trời rộng nhớ sống dài". Trước cảnh "trời rộng", "sông dài" sao mà bát ngát, mênh mông của thiên nhiên, lòng con người dấy lên tình cảm "bâng khuâng" và nhớ. Từ láy "bâng khuâng" được sử dụng rất đắc địa, nó nói lên được tâm trạng của chủ thể trữ tình, buồn bã, u sầu, cô đơn, lạc lõng. Và con "sông dài", nghe miên man tít tắp ấy cứ vỗ sóng đều đặn khắp các khổ thơ, cứ cuộn sóng lên mãi trong lòng nhà thơ làm rung động trái tim người đọc.
Và ngay từ khổ thơ đầu, người đọc đã bắt gặp những con sóng lòng đầy ưu tư, sầu não như thế:

Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song.
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Vẻ đẹp cổ điển của bài thơ được thể hiện khá rõ ngay từ bốn câu đầu tiên này. Hai từ láy nguyên "điệp điệp", "song song" ở cuối hai câu thơ mang đậm sắc thái cổ kính của Đường thi. Và không chỉ mang nét đẹp ấy, nó còn đầy sức gợi hình, gợi liên tưởng về những con sóng cứ loang ra, lan xa, gối lên nhau, dòng nước thì cứ cuốn đi xa tận nơi nào, miên man miên man. Trên dòng sông gợi sóng "điệp điệp", nước "song song" ấy là một "con thuyền xuôi mái", lững lờ trôi đi. Trong cảnh có sự chuyển động là thế, nhưng sao chỉ thấy vẻ lặng tờ, mênh mông của thiên nhiên, một dòng "tràng giang" dài và rộng bao la không biết đến nhường nào.
Dòng sông thì bát ngát vô cùng, vô tận, nỗi buồn của con người cũng đầy ăm ắp trong lòng:

Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Thuyền và nước vốn đi liền nhau, thuyền trôi đi nhờ nước xô, nước vỗ vào thuyền. Thế mà Huy Cận lại thấy thuyền và nước đang chia lìa, xa cách "thuyền về nước lại", nghe sao đầy xót xa. Chính lẽ vì thế mà gợi nên trong lòng người nỗi "sầu trăm ngả". Từ chỉ số nhiều "trăm" hô ứng cùng từ chỉ số "mấy" đã thổi vào câu thơ nỗi buồn vô hạn.
Tâm hồn của chủ thể trữ tình được bộc lộ đầy đủ nhất qua câu thơ đặc sắc: "Củi một càng khô lạc mấy dòng". Huy Cận đã khéo dùng phép đảo ngữ kết hợp với các từ ngữ chọn lọc, thể hiện nổi cô đơn, lạc lõng trước vũ trụ bao la. "Một" gợi lên sự ít ỏi, nhỏ bé, "cành khô" gợi sự khô héo, cạn kiệt nhựa sống, "lạc" mang nỗi sầu vô định, trôi nổi, bập bềnh trên "mấy dòng" nước thiên nhiên rộng lớn mênh mông. Cành củi khô đó trôi dạt đi nơi nào, hình ảnh giản dị, không tô vẽ mà sao đầy rợn ngợp, khiến lòng người đọc cảm thấy trống vắng, đơn côi.
Nét đẹp cổ điển "tả cảnh ngụ tình" thật khéo léo, tài hoa của tác giả, đã gợi mở về một nỗi buồn, u sầu như con sóng sẽ còn vỗ mãi ở các khổ thơ còn lại để người đọc có thể cảm thông, thấu hiểu về một nét tâm trạng thường gặp ở các nhà thơ mới. Nhưng bên cạnh đó ta cũng nhìn ra một vẻ đẹp hiện đại rất thi vị của khổ thơ. Đó là ở cách nói "Củi một cành khô" thật đặc biệt, không chỉ thâu tóm cảm xúc của toàn khổ, mà còn hé mở tâm trạng của nhân vật trữ tình, một nỗi niềm đơn côi, lạc lõng.
Nỗi lòng ấy được gợi mở nhiều hơn qua hình ảnh quạnh vắng của không gian lạnh lẽo:

Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
Hai từ láy "lơ thơ" và "đìu hiu" được tác giả khéo sắp xếp trên cùng một dòng thơ đã vẽ nên một quang cảnh vắng lặng. "Lơ thơ" gợi sự ít ỏi, bé nhỏ "đìu hiu" lại gợi sự quạnh quẽ. Giữa khung cảnh "cồn nhỏ", gió thì "đìu hiu", một khung cảnh lạnh lẽo, tiêu điều ấy, con người trở nên đơn côi, rợn ngộp đến độ thốt lên "Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều". Chỉ một câu thơ mà mang nhiều sắc thái, vừa gợi "đâu đó", âm thanh xa xôi, không rõ rệt, có thể là câu hỏi "đâu" như một nỗi niềm khao khát, mong mỏi của nhà thơ về một chút sự hoạt động, âm thanh sự sống của con người. Đó cũng có thể là "đâu có", một sự phủ định hoàn toàn, chung quanh đây chẳng hề có chút gì sống động để xua bớt cái tịch liêu của thiên nhiên.
Đôi mắt nhân vật trữ tình nhìn theo nắng, theo dòng trôi của sông:

"Nắng xuống, trời lên sâu chót vót,
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu."
"Nắng xuống, trời lên" gợi sự chuyển động, mở rộng về không gian, và gợi cả sự chia lìa: bởi nắng và trời mà lại tách bạch khỏi nhau. "sâu chót vót" là cảnh diễn đạt mới mẻ, đầy sáng tạo của Huy Cận, mang một nét đẹp hiện đại. Đôi mắt nhà thơ không chỉ dừng ở bên ngoài của trời, của nắng, mà như xuyên thấu và cả vũ trụ, cả không gian bao la, vô tận. Cõi thiên nhiên ấy quả là mênh mông với "sông dài, trời rộng", còn những gì thuộc về con người thì lại bé nhỏ, cô đơn biết bao: "bến cô liêu".
Vẻ đẹp cổ điển của khổ thơ hiện ra qua các thi liệu quen thuộc trong Đường thi như: sông, trời, nắng, cuộc sống con người thì buồn tẻ, chán chường với "vãn chợ chiều", mọi thứ đã tan rã, chia lìa.
Nhà thơ lại nhìn về dòng sông, nhìn cảnh xung quanh mong mỏi có chút gì quen thuộc mang lại hơi ấm cho tâm hồn đang chìm vào giá lạnh, về cô đơn. Nhưng thiên nhiên đã đáp trả sự khao khát ấy bằng những hình ảnh càng quạnh quẽ, đìu hiu:

Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng,
Mênh mông không một chuyến đò ngang.
Không cần gợi chút niềm thân mật,
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Hình ảnh cánh bèo trôi bồng bềnh trên sông là hình ảnh thường dùng trong thơ cổ điển, nó gợi lên một cái gì bấp bênh, nổi trôi của kiếp người vô định giữa dòng đời. Nhưng trong thơ Huy Cận không chỉ có một hay hai cánh bèo, mà là "hàng nối hàng". Bèo trôi hàng hàng càng khiến lòng người rợn ngộp trước thiên nhiên, để từ đó cõi lòng càng đau đớn, cô đơn. Bên cạnh hàng nối hàng cánh bèo là "bờ xanh tiếp bãi vàng" như mở ra một không gian bao la vô cùng, vô tận, thiên nhiên nối tiếp thiên nhiên, dường không có con người, không có chút sinh hoạt của con người, không có sự giao hoà, nối kết:

Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật.
Tác giả đưa ra cấu trúc phủ định. "...không...không" để phủ định hoàn toàn những kết nối của con người. Trước mắt nhà thơ giờ đây không có chút gì gợi niềm thân mật để kéo mình ra khỏi nỗi cô đơn đang bao trùm, vây kín, chỉ có một thiên nhiên mênh mông, mênh mông. Cầu hay chuyến đò ngang, phương tiện giao kết của con người, dường như đã bị cõi thiên nhiên nhấn chìm, trôi đi nơi nào.
Huy Cận lại khéo vẽ nét đẹp cổ điển và hiện đại cho bầu trời trên cao:

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc,
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa.
Bút pháp chấm phá với "mây cao đùn núi bạc" thành "lớp lớp" đã khiến người đọc tưởng tượng ra những núi mây trắng được ánh nắng chiếu vào như dát bạc. Hình ảnh mang nét đẹp cổ điển thật trữ tình và lại càng thi vị hơn khi nó được khơi nguồn cảm hứng từ một tứ thơ Đường cổ của Đỗ Phủ:

Mặt đất mây đùn cửa ải xa.
Huy Cận đã vận dụng rất tài tình động từ "đùn", khiến mây như chuyển động, có nội lực từ bên trong, từng lớp từng lớp mây cứ đùn ra mãi. Đây cũng là một nét thơ đầy chất hiện đại, bởi nó đã vận dụng sáng tạo từ thơ cổ điển quen thuộc.
Và nét hiện đại càng bộc lộ rõ hơn qua dấu hai chấm thần tình trong câu thơ sau. Dấu hai chấm này gợi mối quan hệ giữa chim và bóng chiều: Chim nghiêng cánh nhỏ kéo bóng chiều, cùng sa xuống mặt tràng giang, hay chính bóng chiều sa, đè nặng lên cánh chim nhỏ làm nghiêng lệch cả đi. Câu thơ tả không gian nhưng gợi được thời gian bởi nó sử dụng "cánh chim" và "bóng chiều", vốn là những hình tượng thẩm mỹ để tả hoàng hôn trong thơ ca cổ điển.
Nhưng giữa khung cảnh cổ điển đó, người đọc lại bắt gặp nét tâm trạng hiện đại:

Lòng quê dợn dợn vời con nước,
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
"Dợn dợn" là một từ láy nguyên sáng tạo của Huy Cận, chưa từng thấy trước đó. Từ láy này hô ứng cùng cụm từ "vời con nước" cho thấy một nổi niềm bâng khuâng, cô đơn của "lòng quê". Nỗi niềm đó là nỗi niềm nhớ quê hương khi đang đứng giữa quê hương, nhưng quê hương đã không còn. Đây là nét tâm trạng chung của nhà thơ mới lúc bây giờ, một nỗi lòng đau xót trước cảnh mất nước.
Bên cạnh tâm trạng hiện đại ấy là tứ thơ cổ điển được gợi từ câu thơ: "Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai" của Thôi Hiệu. Xưa Thôi Hiệu cần vịn vào sóng để mà buồn, mà nhớ, còn Huy Cận thì buồn mà không cần ngoại cảnh, bởi từ nỗi buồn nó đã sâu sắc lắm rồi. Thế mới biết tấm lòng yêu quê hương thắm thiết đến nhường nào của nhà thơ hôm nay.
Cả bài thơ vừa mang nét đẹp cổ điển, vừa mang nét hiện đại. Vẻ đẹp cổ điển được thể hiện qua lối thơ bảy chữ mang đậm phong vị Đường thi, qua cách dùng từ láy nguyên, qua việc sử dụng các thi liệu cổ điển quen thuộc như: mây, sông, cánh chim... Và trên hết là cách vận dụng các tứ thơ cổ điển, gợi cho bài thơ không khí cổ kính, trầm mặc của thơ Đường.
Vẻ đẹp hiện đại lan toả qua các câu chữ sáng tạo, độc đáo của nhà thơ như "sâu chót vót", dấu hai chấm thần tình. Nhưng vẻ đẹp ấy đọng lại cuối cùng là tâm trạng nhớ quê hương ngay khi đứng giữa quê hương, nét tâm trạng hiện đại của các nhà tri thức muốn đóng góp sức mình cho đất nước mà đành bất lực, không làm gì được.
Bài thơ sẽ còn mãi đi vào lòng người với phong cách tiêu biểu rất "Huy Cận", với vẻ đẹp cổ điển trang nhã sâu lắng và vẻ đẹp hiện đại mang nặng một tấm lòng yêu nước, yêu quê hương.

Phân tích bài thơ Tràng Giang mẫu 2

Huy Cận là nhà thơ nổi tiếng trong phong trào Thơ mới (1930-1945) với những tác phẩm có sự kết hợp giữ yếu tố hiện đại và cổ điển. Phong cách sáng tác của ông có sự khác biệt lớn gắn liền với hai thời điểm: trước cách mạng tháng Tám và sau cách mạng tháng Tám. Có thể nói đó là sự chuyển biến từ nỗi u sầu, buồn bã vì thời thế trước cách mạng cho đến không khí hào hứng vui tươi sau cách mạng gắn với công cuộc đổi mới. Bài thơ “Tràng giang” được viết trong thời kì trước cách mạng với một nỗi niềm chất chứa u buồn, gợi lên sự bế tắc trong cuộc sống của kiếp người trôi nổi lênh đênh. Bài thơi để lại trong long người đọc nhiều nỗi niềm khó tả.
Ngay từ nhan đề bài thơ, tác giả đã có thể khái quát được tư tưởng và cảm xúc chủ đạo của bài thơ. Hai chữ “Tràng giang” có thể nói là một con sông dài, mênh mông và bát ngát. Từ Hán việt này khiến người ta liên tưởng đến những bài thơ Đường của Trung quốc. Nhưng chính tràng giang này cũng gợi lên được tâm tư của người trong cuộc khi muốn nhắc tới những thân phận nổi trôi, bé nhỏ sống lênh đênh trên con sông dài tâm tưởng và sông của nỗi u uất như thế.
Lời đề từ “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” một lần nữa khái quát nên chủ đề của bài thơ chính là nỗi niềm không biết bày tỏ cùng ai khi đứng giữa trời đất mênh mông và bao la. Cả bài thơ toát lên được vẻ đẹp vừa hiện đại vừa cổ điển, cũng là đặc trưng trong thơ của Huy Cận.
Bước vào bài thơ, khổ thơ đầu tiên đã khiến người đọc liên tưởng đến một con sông chất chứa bao nỗi buồn sâu thẳm:

Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp

Con thuyền xuôi mái nước song song

Thuyền về nước lại sầu tram ngả

Củi một cành khô lạc mấy dòng
Với một loạt từ ngữ gợi buồn thê lương “buồn”, “xuôi mái”, “sầu tram ngả”, lạc mấy dòng” kết hợp với từ láy “điệp điệp”, “song song” dường như đã lột tả hết thần thái và nỗi buồn vô biên, vô tận của tác giả trong thời thế nhiều bất công như thế này. Ngay khổ thơ đầu, nét chấm phá của cổ điển đã hòa lẫn với nét hiện đại. Tác giả đã mượn hình ảnh con thuyền xuôi mái và hơn hết là hình ảnh “củi khô” trôi một mình, đơn lẻ trên dòng nước mênh mông, vô tận, vô đinh. Sức gợi tả của câu thơ thực sự đầy ám ảnh, môt con sông dài, một con sông mang nét đẹp u buồn, trầm tĩnh càng khiến người đọc thấy buồn và thê lương. Vốn dĩ thuyền và nước là hai thứ không thể tách rời nhau nhưng trong câu thơ tác giả viết “thuyền về nước lại sầu tram ngả”, liệu rằng có uẩn khúc gì chăng, hay là sự chia lìa không báo trước, nghe xót xa và nghe quạnh long hiu hắt quá. Một nỗi buồn đến tận cùng, mênh mang cùng sông nước dập dềnh. Điểm nhấn của khổ thơ chính là ở câu thơ cuối với hình ảnh “củi” gợi lên sự đơn chiếc, bé nhỏ, mỏng manh, trôi dạt khắp nơi. Có thể nói câu thơ đã nói lên được tâm trạng của các nhà thơ mới nói chung ở thời kỳ đó, một kiếp người đa tài nhưng vẫn long đong, loay hoay giữa cuộc sống bộn bề chật chội như thế này.
Đến khổ thơ thứ hai dường như nỗi hiu quạnh lại được tăng lên gấp bội:

Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều

Nắng xuống trời lên sâu chót vót

Sông dài, trời rộng, bến cô liêu
Hai câu thơ đầu phảng phất một khung cành buồn thiu, đìu hiu và vắng lặng của một làng quê thiếu sức sống. Đó có phải là quê hương của tác giả hay không. Hình ảnh “cồn nhỏ” nghe rất rõ tiếng gió đìu hiu đến tái lòng ở ven dòng sông dường như khoác lên mình một nỗi buồn mặc định. Ngay cả một tiếng ồn ào của phiên chợ chiều ở nơi xa cũng không thể nghe thấy, hay có chăng phiên chợ ấy cũng buồn đến hiu quạnh như thế này. Một câu hỏi tu từ gợi lên bao nỗi niềm chất chứa, hỏi người hay là tác giả đang tự hỏi bản thân mình. Từ “đâu” cất lên thật thê lương và không điểm tựa để bấu víu. Khung cảnh hoang sơ, tiêu điều nơi bến nước không có một bóng người, không có một tiếng động thật chua xót. Hai câu thơ cuối tác giả mượn hình ảnh trời và sông để đặc tả sự mênh mông vô đinh. Không phải trời “cao” mà là trời “sâu”, lấy chiều cao để đo chiều sâu thực sự là nét tài tình, tinh tế và độc đáo của Huy Cận. Hình ảnh sông nước mênh mông và một chữ “cô liêu” ở cuối đoạn dường như đã lột tả hết nỗi buồn sâu thẳm không biết ngỏ cùng ai ấy.
ở khổ thơ thứ ba, tác giả muốn tìm thấy sự ấm áp nơi thiên nhiên hiu quạnh này nhưng dường như thiên nhiêu không như long người mong ngóng:

Bèo dạt về đâu hàng nối hàng

Mênh mông không một chuyến đò ngang

Không cầu gợi chút niềm thương nhớ

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng
Sang khổ thơ thứ 3 dường như người đọc nhận ra một sự chuyển biến, sự vận động của thiên nhiên, không còn u buồn và tĩnh lặng đến thê lương như ở khổ thơ thứ hai nữa. Từ “dạt” đã diễn tả thật tinh tế sự chuyển biến của vạn vật này. Tuy nhiên từ ngữ này gắn liền với hình ảnh “bèo” lại khiến cho tác giả thất vọng vì “bèo” vốn vô đinh, trôi nổi khắp nơi, không có nơi bấu víu cứ lặng lẽ dạt “về đâu”, chẳng biết dạt về đâu, cũng chẳng biết dạt được bao nhiêu lâu nữa. Mặt nước mênh mông không có một chuyến đò. Tác giả chỉ đợi chờ một chuyến đò để thấy được rằng sự sống đang tồn tại nhưng dường như điều này là không thể.
Mong ngóng gửi niềm thương nỗi nhớ về quê hương nhưng tác giả nhận lại là sự im lặng của vạn vật quanh đây qua từ láy “lặng lẽ” đến thê lương và đìu hiu.

Ở khổ thơ cuối dường như bút pháp của tác giả được đẩy lên cao nhất, nét vẽ chấm phá dung rất đắc điệu:


Lớp lớp mây cao đùn núi bạc

Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa

Lòng quê dợn dợn vời con nước

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà
Có thể nói tư tưởng cũng như tâm tình của nhà thơ được gửi gắm qua khổ thơ này. Nét chấm phá “mây cao” và “núi bạc” giống như trong thơ Đường càng them sầu, them buồn hơn. Hình ảnh “chim nghiêng cánh” và “bóng chiều sa” là sự hữu hình hóa cái vô hình của tác giả. Bóng chiều làm sao có thể nhìn thấy được nhưng qua ngòi bút và con mắt của tác giả người ta đã hình dung ra được trời chiều đang dần buông xuống.
Hai câu thơ cuối cùng chính là nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương của tác giả chẳng biết gủi vào đâu, chỉ biết chất chứa đong đầy trong trái tim. Câu thơ của HUy Cận khiến chúng ta liên tưởng đến tứ thơ của Thôi HIệu:

Trên sông khói sóng cho buồn long ai

Là sóng của sông hay là sóng trong long người
Bài thơ “Tràng giang” của Huy Cận với sự kết hợp bút pháp hiện thực và cổ điển đã vẽ lên một bức tranh thiên nhiên u buồn, hiu quạnh.Qua đó khắc họa được tâm trạng cô liêu, đơn độc của con người và một tình yêu quê hương, mong ngóng về quê hương chân thành, sâu sắc của Huy Cận.

Phân tích bài thơ Tràng Giang của Huy Cận:


Tràng Giang là một bài thơ hay của Huy Cận và là một trong những bài thơ tiêu biểu của phong trào Thơ mới. Bài thơ thể hiện nỗi cô đơn, bơ vơ của con người ngay giữa quê hương mình. Tràng Giang in trong tập Lửa thiêng, xuất bản năm 1940. Bài thơ nói về nỗi buồn thế hệ, nỗi buồn không tìm được lối ra, nên như kéo dài triền miên.

Phân tích 4 câu thơ trong đoạn đầu

Hiện lên đầu tiên tác phẩm là bức tranh sông nước vắng vẻ và tĩnh lặng.

Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,

Con thuyền xuôi mái nước song song.

Thuyền về nước lại, sầu trăm ngả,

Củi một cành khô lạc mấy dòng.
Câu thơ đầu mở ra là bức tranh sông nước “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp” có hai hình ảnh được tái hiện đó là thiên nhiên và tâm trạng của con người. Từ “ tràng giang” không chỉ gợi ra độ dài mà còn là độ rộng. Dòng sông ấy có từ “ gợn” chỉ là gợn hơi, lăn tăn theo chiều gió nhẹ. Gợi không khí tĩnh lặng ôm trùm khắp không gian. Từ tâm trạng của thiên nhiên tác giả nói đến tâm trạng của con người, có thể nói có bao nhiêu song gợn ấy là bấy nhiêu nỗi buồn “ Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.
Điệp từ “ điệp điệp” diễn tả nỗi niềm trong lòng tuy nhẹ thôi nhưng dai dẳng triền miên. “ Con thuyền xuôi mái nước song song” Hình ảnh con thuyền xuôi mái nổi bật giữa dòng sông, trở nên nhỏ bé, đơn độc. “ Xuôi mái” ở trạng thái bị động mặc cho dòng nước trôi. Từ láy “ song song” “ Thuyền về nước lại sầu trăm ngã” tác giả đã sử dụng cặp từ ngược hướng phải chăng đây là sự chia lìa, để khởi nguồn cho nỗi sầu trăm ngã.
Ở câu cuối của khổ một, hình ảnh đơn sơ bình dị, hiện thực đó là “ cành củi khô”. Nghệ thuật đảo ngữ như nhấn mạnh vào sự tầm thường nhỏ bé và vô giá trị, không chỉ và vật rơi khô gãy. Lại một cành còn khô quá tầm thường nhỏ bé và đơn độc cạn kiệt sức sống. Trôi dạt vô hướng giữa không gian lớn rộng, ẩn chứa sau đó là những kiếp người và cái tôi lạc loài trong phong trào thơ mới của Huy Cận.


Phân tích 4 câu thơ đoạn 2

Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu,

Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.

Nắng xuống, trời lên sâu chót vót;

Sông dài, trời rộng, bến cô liêu.
Bức pháp chung trong miêu tả thiên nhiên trong thơ Huy Cận đó là gợi hơn tả.” Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu”. Từ láy “lơ thơ” gợi lên sự ít ỏi nhấn mạnh cái sự vắng vẻ nhỏ nhoi, sự cô quạnh giữa không gian mênh mông chỉ có một cồn nhỏ điều hiu vắng vẻ. Tác giả cố gắng lắng nghe tìm tiếng con người. “ Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều”, đây là câu hỏi tu từ, phủ nhận sự hiện diện của cuộc sống con người.
Hai câu thơ cuối của khổ thơ thứ hai, tác giả đã sử dụng biện pháp đối ”nắng xuống đối với trời lên”, “ sông dài đối với trời rộng”, “sâu chót vót với bến cô liêu”. Động từ ngược hướng lên xuống gợi nên cảm giác chuyển động rõ rệt. Gợi nên chiều cao và sâu không gian được mở vô biên. Nỗi buồn thấm vào tạo vật con người hiện lên với một trạng thái cô đơn.

Phân tích 4 câu thơ trong khổ thơ thứ 3

Bèo dạt về đâu, hàng nối hàng,

Mênh mông không một chuyến đò ngang.

Không cầu gợi chút niềm thân mật,

Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng.
Khổ thơ tiếp theo gợi nên sự vô định” cánh bèo” không phải đơn thuần là cánh bèo không tìm thấy hướng đi của thiên nhiên. Mà đó là cả một thế hệ thanh niên Việt Nam không tìm thấy hướng đi.
“Mênh mông không một chuyến đò ngang” trong toàn cảnh vũ trụ này tuyệt nhiên không có bóng dáng của con người. Bởi chuyến đò, cây cầu thì phải có con người nhưng tác giả đã nói là “ không”. Dùng cách nói phủ định để khẳng định ở đây chỉ có một cái có đó là “lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng” chỉ là thiên nhiên. Đó là sự cô đơn, cảm giác bất an của một cái tôi thơ mới. Chính nỗi niềm này đã được tác giả nói rất nhiều như ở lời đề từ “bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” tạo nên một điểm riêng cho nhà thơ Huy Cận con người ở đây cô đơn bất an, gợn người.

Phân tích 4 câu thơ trong khổ thơ cuối

Lớp lớp mây cao đùn núi bạc…

Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa

Lòng quê dợn dợn vời con nước,

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.
Khổ thơ cuối dường như mờ ảo dần, hình ảnh “ đùn núi bạc” là không gian hùng vĩ, tráng lệ, từ láy lớp lớp. Đối lập với không gian hùng vĩ tráng lệ đó là “chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa”. Nếu như dòng thơ trên ta thấy được dấu ấn cổ điển thì ở đây là yếu tố hiện đại, cánh chim bé nhỏ đang cố vươn cao lên trong buổi chiều tà ấy. Cái tôi thơ mới ấy mang một nỗi buồn tự thân, sự thức tỉnh. Cánh chim không chỉ chở nặng hoàng hôn mà còn trĩu nặng nỗi buồn của các nhà thơ mới.
Đến với hai câu cuối của bài thơ “lòng quê dợn dợn vời con nước, không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”. Đây là nỗi lòng hoài hương, cái hiện đại ở đây là sự phủ định sự tác động của ngoại cảnh đến tâm trạng. Nỗi nhớ nhà da diết hơn, cháy bổng hơn, đi trên quê hương mà thấy thiếu và nhớ quê hương. Từ láy “dợn dợn” như những cơn sóng lòng đang dồn nén trong Huy Cận.
Kết bài
Nhìn chung toàn bộ bài thơ là nỗi buồn, đây là tâm trạng của các nhà thơ lãn mạng lúc bấy giờ, nỗi buồn của cả thế hệ thanh niên lúc bấy giờ chưa giác ngộ được lý tưởng cách mạng, bài thơ này tiêu biểu cho hồn thơ Huy Cận “ sầu ảo não”. Bài thơ “ Tràng Giang” được đánh giá là bài thơ dọn đường cho thơ về quê hương đất nước. Cách sử dụng ngôn từ thơ cũng như biện pháp tu từ là tạo nên một tác phẩm hay và đặc sắc.
 
Tràng Giang hai khổ đầu tuyệt hay

Thơ Tình Về Biển Buồn Chứa Chan Tâm Sự

Thơ tình về biển buồn chứa chan tâm sự sau đây sẽ nói hộ tiếng lòng của bạn, của những người đang yêu.Từ lâu trong thi thơ những thi nhân vẫn dùng hình ảnh bờ cát, con sóng và biển để nói về những tình yêu dài lâu, hạnh phúc, tuy vậy, thơ buồn cũng không ngoại lệ. Vậy biển và sóng đã đi vào những hồn thơ tình buồn như thế nào? Mời các bạn xem qua vài bài thơ tình biển sóng sau đây nhé !

tho-tinh-ve-bien-buon-1

BIỂN MẶN

Thơ: Hoàng Hôn Tím
Không gió thổi, biển đâu còn sóng
Anh đi rồi, lẽ bóng riêng em…
Muôn vàn nỗi nhớ đan xen
Trùng dương cách trở lòng thêm ngậm ngùi
Hồn đắm chìm… nguồn vui đã hết
Duyên tình mình đoạn kết dỡ dang
Thuyền giờ tách bến sang ngang
Em ngơ ngác với một trang tình sầu.
Biển mặn như niềm đau đọng lắng
Bờ nối dài đã vắng dấu chân
Dã tràng cõng cát bâng khuâng
Hải âu nghiêng cánh…ngỡ gần hóa xa
Hoàng hôn buông tình ca biển hát
Khoảng lặng nào đắng chát trong tim
Người giờ như thể bóng chim
Mênh mông biển lớn…biết tìm chốn nao?!

TIỄN ĐƯA EM

Thơ: Chương Nguyễn
Cánh buồm nghiêng chênh chao trong gió
Chuyện hôm nào em có nhớ không??
Biển chiều gió lộng mênh mông
Bao nhiêu kỷ niệm cho lòng quặn đau
Bầu trời chiều nhuộm màu xám nhạt
Gió rì rào tiếng hát biển ru
Biết bao kỷ niệm mùa thu
Một chiều xưa đó sương mù giăng ngang
Trong giây phút ngỡ ngàng xa cách
Em đi rồi biết trách ai đây
Duyên tình như thể gió mây
Làm sao gom hết để xây mộng lành??
Đã dở dang nên đành từ tạ
Em đi về xứ lạ cùng ai
Cho tôi bao tháng ngày dài
Lòng riêng đau nhói không phai giọt tình.

tho-tinh-ve-bien-buon-2

ĐỜI PHÙ DU

Thơ: Đan Hạ
Biển chiều nay u buồn đến lạ
Thấy cánh buồm nghiêng ngã trong sương
Chạnh lòng nhớ đến người thương
Làm sao soi được bước đường ta đi
Sóng triều dâng bờ mi mọng ước
Bởi chúng mình bạc phước vô duyên
Khóc đời phận gái thuyền quyên
Làm sao anh hỡi nỡ quên tình này
Chúc cho anh được đầy mộng thắm
Bên người tình say đắm ngất ngây
Còn em cô lẽ nơi này
Đớn đau mong mỏi tháng ngày tìm quên
Nhịp sống phù du ưu phiền gác lại
Bến đợi thuyền vẫn mãi bơ vơ
Biết ai tìm kiếm mong chờ
Triều dâng ánh bạc ngẩn ngơ lòng mình.

BIỂN NHỚ

Thơ: Hoàng Lan
Em trở về bên biển lúc hoàng hôn
Biển lặng yên như dỗi hờn bờ cát
Chẳng xôn xao sóng vỗ về dào dạt
Khúc ân tình biển hát buổi chiều nao
Biển mênh mông nghe nỗi nhớ dâng trào
Thuở bên nhau ngọt ngào bờ môi thắm
Phút dỗi hờn ghét yêu thôi không giận
Phút xao lòng vô tận lạc niềm yêu
Biển chiều nay sao trống vắng cô liêu
Chỉ mình em chắt chiu từng kỷ niệm
Nhớ đến anh lòng em buồn loang tím
Phương xa nào anh có đếm cùng em?
Một kỷ niệm em không thể nào quên
Anh và em khắc tên trên bờ cát
Đã bao năm biển tràn dâng sóng gạt
Xóa đi rồi bờ cát phẳng không tên.
tho-tinh-ve-bien-buon-3

BIỂN CHIỀU KHÔNG ANH

Thơ: Cỏ Hoang Tình Buồn
Biển chiều nay sóng buồn nằm im ắng
Em thẩn thờ đứng lặng góc đường xưa
Ngày mình xa Thu vừa chớm sang mùa
Câu hứa cũng đong đưa buồn theo gió.
Không còn thương hẹn hò đành bỏ ngỏ
Trời mưa thu chẳng có nắng hanh vàng
Lòng ngậm ngùi tình dang dở trái ngang
Nước mắt cứ dâng tràn…môi mặn đắng.
Buồng tim em mang vết hằn thầm lặng
Đang thắt gào dưới giọt nắng chiều Thu
Trời trong xanh bỗng sương phũ mịt mù
Nên thương cạn…lời ru buồn khao khát.
Cuối hoàng hôn sóng bạc đầu ngơ ngác
Cũng nghẹn ngào đánh dạt đám bèo trôi
Chiều không nhau…lòng quá đổi bồi hồi
Ôi thương lúc chung đôi cùng nhau bước.

BIỂN NHỚ .!.


Anh lại về với phố Biển chiều nay
Hoàng hôn rơi xa chân mây Biển vắng
Những con tàu lướt nhanh trên sóng lặng
Nhớ em nhiều chẳng biết ngỏ cùng ai
Đứng ngắm Biển xa trên bãi cát dài
Đàn Hải Âu vẫn miệt mài tung cánh
Gió Biển êm chiều nay sao lành lạnh
Bỗng thấy chạnh lòng bởi chút cô đơn
Ngày xa em nỗi nhớ cứ dài hơn
Em hãy hiểu đừng giận hờn anh nhé
Biển quê hương là tình yêu của Mẹ.!.
Canh giữ đêm ngày ngăn kẻ xâm lăng
Để mùa thu đẹp những ánh trăng rằm
Soi sáng mãi hằng năm mùa lễ hội
Em yêu ơi thương cuộc đời bộ đội
Suốt đêm trường lặn lội với khơi.. xa .!.
tho-tinh-ve-bien-buon-4

BIỂN CÔ ĐƠN

Thơ: Vũ Thắm
Có một chiều không ngăn nổi bước chân
Em trở lại lang thang miền kí ức
Biển đón em giữa hai miền mơ thực
Có lẽ nào biển biết chuyện đôi ta?
Sóng rì rào hỏi những chuyện đã qua
Đứng trước biển em trở thành bé nhỏ
Biển biết không…ngàn nỗi đau giằng xé
Khi con thuyền chẳng cập bến tình yêu
Trước đại dương em nói biết bao điều
Biển dồn dập đưa từng cơn sóng vỗ
Ngày yêu anh cuộc đời em cứ ngỡ
Một lâu đài trên cát đứng trăm năm
Biển cũng buồn từng con sóng xa xăm
Chẳng nghe hết những điều em kể
«Và em biết dù biển rộng dài thế
Vắng cánh buồm thì biển cũng cô đơn!

BIỂN VÀ TÌNH EM

Em vẫn biết tình ta như biển cả.
Có lúc nào được êm ả đâu anh.
Biển mênh mông biêng biếc trong xanh.
Nhưng tình ta luôn chòng chành con sóng.
Biển bao la suốt bốn mùa mưa nắng.
Sóng vuốt ve bờ cát trắng ngày đêm.
Như tình mình có những lúc bình yên.
Anh bên em những khi thuyền cập bến.
Anh ôm em bao yêu thương trìu mến.
Từ lúc bình minh cho đến hoàng hôn.
Khi sóng ra khơi bờ cát cô đơn.
Khi anh xa em…em hờn em khóc.
Anh đi rồi ai vuốt ve mái tóc.
Ai vỗ về lau lệ ngọc em rơi.
Hoàng hôn về bờ cát cũng chơi vơi.
Chờ con sóng phía chân trời xa tắp.
Chiều buông xuống em muốn ta gặp mặt.
Anh không về tình xa cách nhớ thương.
Anh theo tàu lênh đênh sóng trùng dương.
Em bên bờ tình vấn vương mong nhớ.
Mặc cho cuộc đời còn nhiều trắc trở.
Tình chúng mình không dang dở đâu em.
Như sóng biển ôm bờ cát dịu êm.
Tình chúng mình sẽ ngày đêm hạnh phúc.
***********
Trên đây là chùm thơ tình về biển buồn chứa chan tâm sự. Tình yêu là vậy, buồn vui luôn song hành, có những phút giây buồn vô cớ, có những phút giây  cô đơn không thể gọi thành tên nên người ta thường gửi gắm qua những vần thơ đầy tâm trạng. Hãy cùng Gocbao.com chia sẻ bạn nhé !

Thơ Tình Buồn Hay Nhất Được Tuyển Chọn


THƠ TÌNH BUỒN HAY NHẤT: THƠ LỤC BÁT MƯA BUỒN

>Thơ: Cỏ Hoang Tình Buồn
>Thể thơ: Lục bát
>Ngửa tay hứng giọt mưa tuôn
>Nhớ về kỷ niệm lòng buồn miên man
>Cố ngăn dòng lệ đã tràn
>Của tình xưa đã sang ngang không về.
>Gió lùa mây trắng lê thê
>Cành khô rơi rụng tứ bề…mưa giăng
>Chân in trên cát còn hằn
>Người đi quên cả bóng Trăng một thời.
>Nuốt vào từng hạt mưa rơi
>Ngỡ như giọt đắng tình đời hẩm hiu
>Ngẩn ngơ chết lặng bao chiều
>Ôm sầu lẻ bóng cô liêu…tháng ngày.
>Mùa Thu cuốn chiếc lá bay
>Mà tình bên ấy tháng ngày còn không?
>Để thơ trôi nổi bềnh bồng
>Lời ru rớt giữa bão giông…ngậm ngùi.

Thơ Tình Buồn Hay Nhất Được Tuyển Chọn
Cảm thấy cô đơn khi nhớ một người thời gian sẽ xoa dịu cho bạn

THƠ TÌNH BUỒN HAY NHẤT: MƯA BUỒN NHỚ AI

>>Thơ: Chử Văn Hòa
>Thể thơ: Song thất lục bát
>Nhìn giọt nuớc mưa rơi lặng lẽ
>Câu thơ tình ai bẻ làm đôi
>Nửa theo giọt nuớc kia rồi
>Nửa còn ở lại trong tôi chút buồn
>Có phải tại khởi nguồn là thế
>Trời làm mưa ai dễ cầu xin
>Mưa rơi che khuất tầm nhìn
>Để giờ anh phải biết tìm em đâu
>Vì khoảng cách hai đầu nỗi nhớ
>Nghe trong lòng tiếng thở buồn sao
>Bởi mưa ruột nóng cồn cào
>Nhờ mây hỏi gió ra vào đón ai
>Nghe thoáng vọng bên tai lời nói
>Như người yêu đang gọi khẽ khàng
>Giơ tay với gọi em sang
>Phải chăng nhớ quá đa mang thêm nhiều
>Có lẽ vậy em yêu anh nhớ
>Mong cùng em mình ở một nhà
>Để cho ấm bởi tình ta
>Mưa không buồn nữa em là niềm vui.

THƠ TÌNH BUỒN HAY NHẤT…LẺ BÓNG !

>Thơ: Ngọc Lê
>Thể thơ: Lục bát
>Đường chiều lất phất mưa bay
>Hồn hoang đơn lạnh tim này lẻ loi
>Lang thang muôn nẻo đường đời
>Bước chân vô định tìm nơi trú hồn
>Lặng nghe tiếng hạt mưa tuôn
>Ngỡ như khúc nhạc đêm buồn nhớ ai
>Tâm tư vương vấn mãi hoài
>Đêm đêm trằn trọc canh dài vì em
>Khi xưa hạnh phúc êm đềm
>Tay trong tay bước bên em mỗi chiều
>Bây giờ lạc lối tin yêu
>Mình anh lạc bước giữa chiều không em !

Ảnh Tình Buồn
Nếu bạn gục ngã trong tình yêu thì đừng lo rồi mọi chuyện sẽ ổn thôi

THƠ TÌNH BUỒN HAY NHẤT: MƯA THÌ THẦM 

>Thơ: Diệp Ly
>Thể thơ: Bát ngôn
>Từng giọt lệ từ trời cao lặng lẽ
>Mưa thì thầm khe khẽ gọi tên ai
>Tim đơn côi nghe làn gió thở dài
>Lời thơ lạnh lạc loài vào đêm lạnh.
>Mộng vẫn đây sao tình buồn hiu quạnh
>Sầu tang thương định mệnh đã an bày
>Trả một đời vì trót một lần vay
>Nên hẹn ước xa bay cùng mây gió.
>Người đã đi khi thu vừa chạm ngõ
>Nắng chiều phai vàng võ cả khung trời
>Xác lá buồn thầm lặng giữa đơn côi
>Khi đêm xuống chơi vơi cùng chiếc bóng
>Mưa thì thầm mà niềm riêng dậy sóng
>Tìm không ra hình bóng của người thương
>Mưa thì thầm sao sầu ngút ngàn phương
>Cho lắng đọng đoạn trường tình oan trái.
>Mưa thì thầm cho hồn thơ hoang dại
>Cho đêm dài vời vợi một trời thương…

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét