Thứ Ba, 4 tháng 12, 2018

CÂU CHUYỆN LỊCH SỬ 7I/c (Sài Gòn)

(ĐC sưu tầm trên NET)
 
LÃNH BINH THĂNG Là Ai Mà Tên Được Đặt Cho CẦU ÔNG LÃNH – 5 Bà Vợ Cũng Lấy Tên Đặt Cho 5 Chợ Lớn Ở SG

4 ngôi chợ nổi tiếng có tên bắt đầu bằng chữ "Bà" ở Sài Gòn

Tứ Quý, Theo Trí Thức Trẻ 07:00 05/10/2015

Học giả Trương Vĩnh Ký cho rằng, Bà Chiểu, Bà Hom, Bà Điểm và Bà Quẹo đều là vợ của vị tướng Lãnh Binh Thăng và 4 ngôi chợ có tên trên được đặt theo tên các bà vợ.

Những địa danh như chợ Bà Chiểu (quận Bình Thạnh), Bà Hom (quận Bình Tân), Bà Điểm (huyện Hóc Môn) và Bà Quẹo (quận Tân Bình) dường như đã quá quen thuộc với người dân Sài Gòn từ xưa đến nay. Mặc dù có một số địa danh không còn giữ cái tên này nữa nhưng vì lịch sử gắn liền với hàng trăm năm nên người dân vẫn quen gọi theo tên cũ.

Theo học giả Trương Vĩnh Ký - một trong số các học giả nổi tiếng ở thế kỉ 19, bà Chiểu, bà Hạt, bà Hom, bà Điểm, bà Quẹo đều là vợ của một vị tướng có tên Lãnh Binh Thăng. Vị tướng này có tên thật là Nguyễn Ngọc Thăng (1798-1866), là một võ tướng của nhà Nguyễn thời vua Tự Đức. Ông được phong lãnh binh trong quá trình tham gia chống thực dân Pháp ở lục tỉnh Nam Kì. Tương truyền những vị quan thời xưa thường có đa thê, vì thế vị tướng lĩnh này cũng không phải ngoại lệ với 5 người vợ. 

Để tránh các bà vợ không đụng nhau thường xuyên, dễ bất hòa nên ông Lãnh Binh Thăng áp dụng phương pháp kinh tế tự túc từ thế hệ trước đó để xây cho mỗi bà một cái chợ để tự cai quản. Theo đó, vị lãnh binh đã lập 5 ngôi chợ nằm ở cách xa nhau và đặt tên theo tên các bà vợ. 

Trong khi học giả Trương Vĩnh Ký cho rằng 5 ngôi chợ có tên được đặt theo những bà vợ của vị tướng Lãnh Binh Thăng, còn theo một số học giả khác cũng như một số tài liệu ghi chép lại cho biết chỉ là tên của một vùng đất do những người phụ nữ khai hoang mở cõi. 

1. Chợ Bà Chiểu

Nói về lịch sử có tên chợ Bà Chiểu (thuộc khu vực trung tâm quận Bình Thạnh, TP. HCM) theo nhà văn Sơn Nam (nhà nghiên cứu văn hóa nổi tiếng ở Việt Nam) thì Bà Chiểu là tên vùng đất, chỉ mới xuất hiện thời vua Tự Đức. Từ "Chiểu" ở đây có nghĩa là ao nước thiên nhiên, còn Bà Chiểu là một nữ thần được thờ bên ao thiên nhiên.

cho ba chieu-248ea
Chợ Bà Chiểu ngày xưa... - Ảnh tư liệu

1-248ea
Và ngày nay vẫn luôn nhộn nhịp suốt cả ngày.
Chợ Bà Chiểu được xây dựng từ năm 1942 với tổng diện tích 8.465 m2, nhưng đến năm 1987 thì được nâng cấp sửa chữa. Chợ Bà Chiểu được chia làm 8 khu chính, bố trí cho gần 800 hộ kinh doanh 40 ngành hàng.

2. Chợ Bà Hom

Ngôi chợ đã được xây mới sau năm 2012, tọa lạc tại phường Tân Tạo (quận Bình Tân, TP. HCM). Trước khi được xây mới, chợ Bà Hom là chợ tự phát Hồ Văn Long, chủ yếu phục vụ cho công nhân của các khu công nghiệp ở đây. 

cho ba hom chup 2012-248ea
Chợ Bà Hom cũ trong khung cảnh tấp nập - Ảnh tư liệu chụp trước năm 2012.

4-248ea
Chợ Bà Hom hiện tại được xây dựng khang trang.

Cũng như các chợ khác mang tên "Bà" nhưng Bà Hom không được cho là vợ của tướng Lãnh Binh Thăng như học giả Trương Vĩnh Ký mà theo sách cũ ghi chép về Sài Gòn, Bà Hom có lẽ do Bàu Hom (bàu ngâm hom tre) nói chệch, vì Bàu Bèo, Bàu Hói, Bàu Môn cũng nói chệch thành Bà Bèo, Bà Hói, Bà Môn. Năm 1986 còn có một cái bèo nơi đây nhưng sau đó đã được lấp.

Sau này có chợ tự phát ở khu vực này cũng như một ngôi chợ mới được xây lên cũng đặt tên Bà Hom theo vùng này.

3. Chợ Bà Điểm

Chợ Bà Điểm thuộc xã Bà Điểm (huyện Hóc Môn, TP. HCM), theo tài liệu thì vùng này xưa kia nhiều rừng hoang sơ, cọp dữ. Canh ba, canh tư, dân gánh nông sản về Bến Nghé bán phải đi thành đoàn, đốt đuốc chống cọp. Bên cạnh đó, bên đây cũng là vùng trồng nhiều trầu cau với tất cả 18 thôn đều trồng loại cây này.

cho ba diem-248ea
Chợ Bà Điểm ở thời điểm hơn 1 thế kỷ trước - Ảnh tư liệu.

3-248ea
Chợ Bà Điểm hiện tại, đặc sản bán tại đây là trầu cau.

Bà Điểm là chợ đầu mối về trầu, cau cho Lục tỉnh từ thế kỷ 19 cho đến cuối thập niên 1980. Giữa thập niên 1990 vẫn còn bến xe ngựa. TS. Lê Trung Hoa - Nhà nghiên cứu ngôn ngữ học, cho rằng bà Điểm là chủ quán bán nước chè đầu tiên ở vùng này nên từ đó về sau này được gọi là vùng Bà Điểm. Về sau khi thành lập xã cũng đặt tên Bà Điểm và ngôi chợ lớn nhất nằm trong xã cũng đặt tên này.

4. Chợ Bà Quẹo

Chợ hiện nay được đổi tên thành chợ Võ Thành Trang, nằm trên đường Trường Chinh (đường Lê Văn Duyệt nối dài cũ, sau ngày 30/4 đổi là Cách Mạng Tháng Tám, sau lại đổi là Trường Chinh) thuộc 14, quận Tân Bình, TP. HCM.

Chợ Bà Quẹo thành lập từ năm 1967, với diện tích hơn 2.000 m2 theo kiểu nhà lồng, nằm lọt sâu giữa hai lối nhà cửa là những quán tiệm sạp hàng. Mặc dù sau năm 1975, chợ Bà Quẹo đã đổi tên thành Võ Thanh Trang nhưng hiện tại cái tên Bà Quẹo vẫn được người dân nhắc đến nhiều. 

cho ba queo-248ea
Chợ Bà Quẹo năm xưa - Ảnh tư liệu.

2-248ea
Sau năm 1975, chợ Bà Quẹo đổi thành chợ Võ Thành Trang.
Lý giải về tên Bà Quẹo theo học giả Vương Hồng Sển viết trong sách Sài Gòn xưa, tên này là do bị đọc chệch từ chữ Bờ Quẹo hoặc Bàu Quẹo. Trong sách, học giả này lý giải vì đường Thiên Lý cũ ngày xưa (khu Bà Quẹo) có một khúc quẹo rất rõ ở xã Phạm Văn Hai, huyện Bình Chánh có Cống Quẹo, ở xã Cần Thạnh, huyện cần Giờ, TP. HCM.

Ngoài 4 khu chợ này, còn có 1 khu chợ nữa cũng bắt đầu bằng chữ bà - chợ Bà Hạt (ở quận 10). Bà Hạt cũng là vợ của Lĩnh Binh Thăng và là người có công phát triển nghề bán bạc hà ở quận 10. Tuy nhiên, khu chợ này hiện không còn hoạt động.

Những chuyện chưa biết về Bà Chiểu xưa



Cô Tám nhắn tin trên facebook hỏi tôi có biết cái hẻm nhà cô hồi đó gọi là hẻm “Ba cây Sao” không?. Đó là cái hẻm trên đường Nơ Trang Long, xưa là đường Nguyễn Văn Học. Hẻm gần Ngã tư Bình Hòa, không xa cái nhà gỗ trên đường Rừng Sác nay là đường Nguyễn Thiện Thuật của ông Vương Hồng Sển.
Cũng không xa cái nhà xưa trên cầu Băng Ky, mà mùa hè năm trước tôi viếng thăm và đưa vào cuốn “Sài Gòn, chuyện đời của phố”. Đằng trước hẻm nhà cô Tám có trồng ba cây sao cao vút. Bây giờ nó chỉ còn cái tên cũ không mấy ai biết, chỉ biết đó là cái hẻm 109 mà thôi.
Một tin nhắn nhỏ khiến tôi nghĩ ngợi về vùng Bà Chiểu và thấy rằng mình luôn có cảm giác dễ chịu khi đến nơi đó. Đất Bà Chiểu, giống như Lái Thiêu hay Trảng Bàng, đều là những vùng dân cư luôn khiến người mang tình hoài cổ có cảm xúc khi vãng lai. Ở những nơi đó, xen giữa những nhà phố, thỉnh thoảng lại ló ra một căn nhà ngói rêu phong, một cây cổ thụ um tùm lá, một góc miếu thờ nhỏ hay mái đình to và ở đó dân cư thường hiền hòa, bình dị. Đi về Bà Chiểu như đi về một quá khứ không xa lắm. Trường vẽ Gia Định nay đã không còn mặt tiền xưa có những cái cột Toscan và các vòm cửa arcade rất đẹp, điều này khiến tôi luôn tự hỏi tại sao những người quản lý trường hay ở cấp cao hơn không tìm cách giữ lại một vẻ đẹp kiến trúc cổ điển và mang giá trị văn hóa, lịch sử và mỹ thuật rõ nét như vậy?. Đi ngang nhà ông Vương Hồng Sển, nhìn vào sân sau nhà thấy cây xoài thanh ca cuối sân đã chết nhưng vẫn cố đứng vững chịu đựng lũ dây leo quấn quanh chằng chịt. Kệ thờ ở dưới cái mái nhỏ trong sân giữa có di ảnh của ông và bà Năm Sa đéc nhìn ra cái hòn non bộ buồn thiu, vài cây chậu nhỏ tiêu sơ và cái nhà lớn cửa đóng im ỉm. Ngôi nhà gỗ mấy trăm năm tuổi này ngày càng xuống cấp, chờ đợi một phương án giải quyết không biết bao giờ thành hiện thực để có thể thực sự biến thành bảo tàng như ước nguyện cuối đời của ông. Bên ngoài đường, một đám múa lân rầm rộ mừng một ngân hàng vừa khánh thành, bóng loáng trên nhôm, trên kính và trên gương mặt vài vị quan chức.
Tòa bố Gia Định thời Pháp thuộc, nay là Ủy ban Nhân dân quận Bình Thạnh
Tòa bố Gia Định thời Pháp thuộc, nay là Ủy ban Nhân dân quận Bình Thạnh
Bà ngoại tôi, một tiểu thư của một gia đình hết thời từ phía Vĩnh Hội đầu thế kỷ 20 kể với má tôi rằng khi còn trẻ, bà thường có việc đi qua khu Bà Chiểu từ Gò Vấp trên xe thổ mộ theo đường làng số 15, bây giờ là đường Lê Quang Định. Xe đi qua xóm Gà, thường thấy hàng cây sao dài um tùm trong những buổi sáng sương sớm hay buổi chiều tối. Lúc đó là những năm 1925, 1926 khi bà vừa sinh ra má tôi.. Xe thổ mộ lóc cóc đi ngang Tòa Bố Gia Định (nay là Ủy ban nhân dân quận Bình Thạnh , góc Phan Đăng Lưu – Đinh Tiên Hoàng) vào ban ngày, khách đi đường thưa thớt và ban đêm tối âm u vì đèn đường cách nhau rất xa, đầy tiếng ếch nhái ểnh ương kêu inh ỏi. Tới Tòa Bố, xe quẹo cua vào đường Hàng Bàng ngay góc Lăng Ông. Đường Hàng Bàng là đoạn đường mang tên Đinh Tiên Hoàng từ đường Phan Đăng Lưu, quận Bình Thạnh ngày nay cho tới Cầu Bông. Thời đó, hai bên đường có mọc nhiều cây bàng dùng để đan đệm, không phải loại bàng lá to thân cứng, nên con đường này được gọi tên như vậy. Bà Chiểu khi đó còn có đường Hàng Gòn, Hàng Dừa, Hàng Sanh…đặt tên tùy theo cây trồng hai bên. Đường Hàng Gòn nay là Hồ Xuân Hương. Đường Hàng Sanh bây giờ là đường Bạch Đằng xưa rất vắng vẻ có trồng nhiều cây sanh có rể phụ như cây đa, cây si… Vài người già ở Bà Chiểu luôn cảm thấy bực mình khi chữ Hàng Sanh bị viết sai thành Hàng Xanh như lâu nay.
Đường Hàng Bàng, ngày nay là Đinh Tiên Hoàng thuộc Bình Thạnh. Ảnh: Nguyễn Đình
Đường Hàng Bàng, ngày nay là Đinh Tiên Hoàng thuộc Bình Thạnh. Ảnh: Nguyễn Đình
Khi gả con gái út vào một gia đình ở ngã Năm Bình Hòa, hiểu biết của bà ngoại tôi về vùng Bà Chiểu càng đầy lên qua những câu chuyện với ông bà sui là dân cố cựu ở đây. Lúc đó, khoảng đầu thập niên 1950 đã có đông người lao động nghèo về ở nhưng khỏang thập niên 1920 thì còn thưa vắng. Từ Cầu Bông về xóm Đình gần đó người ta còn làm ruộng, thậm chí còn thấy hai bên đường Hàng Bàng ruộng lúa tươi tốt chín vàng khi đến mùa gặt. Thú vui của dân xóm Đình gần đó là đi câu ếch và bắt cá lia thia, bắt còng. Cá lia thia ở đây là cá xiêm lai, đá rất giỏi nên cá các xóm Cầu Lầu, Thanh Đa hay Hàng Sanh, Thị Nghè gần đó đều chạy mặt.
Biên nhận gia công nữ trang năm 1929 tại Gia Định - Tư liệu gia đình bà Nguyễn Thị Nam,
Biên nhận gia công nữ trang năm 1929 tại Gia Định – Tư liệu gia đình bà Nguyễn Thị Nam,
Tuy nhiên, đám trẻ đi bắt cá lia thia ở quanh quẩn đường Hàng Bàng trong ngày nghỉ học thường không dám nán lại lâu vì sợ đến giờ Ngọ là giờ… ma đi. Giờ đó, mấy người thả trâu cũng đã về ăn cơm chứ không còn ai ngoài ruộng. Ai cũng sợ cô Ba Trâm… nhát ma. Nếu đi ngang con đường vào ban đêm thì thật là mừng nếu thấy có ánh đèn dầu của mấy anh soi ếch, bắc cóc gần đó. Đi từ cầu Bông thì khách bộ hành luôn mong cho nhanh tới Lăng Ông, vì phía trước Lăng có một dãy nhà phố và một cái lò đóng móng bò. Cái lò này chính là nơi trú lý tưởng khi gặp trời mưa, rồi từ đó đi tiếp về miệt Phú Nhuận, Bình Hòa hay Gò Vấp vì không có nhà cửa nào gần đó.
Giấy mướn ruộng ở Gia Định năm 1920. Tư liệu gia đình bà Nguyễn Thị Nam,
Giấy mướn ruộng ở Gia Định năm 1920. Tư liệu gia đình bà Nguyễn Thị Nam,
Đứng tại lò đóng móng bò, không bị nhà cửa nào che khuất nên có thể nhìn thấu tới xóm Đình, thấy cả một cây khô rất cao là chỗ cô Ba Trâm treo mình tự tử ở đó. Cây này không ai dám đốn hạ kể từ khi chuyện đó xảy ra vì ai cũng tin oan hồn cô vương vấn ở đó. Từ lò đóng móng bò ngó qua bên kia đường có một miếng đất trống và một cái nhà lợp thiếc, sườn bằng sắt. Đó là nơi phú de (fourrière, nơi chưa đồ vật của công an) nhốt chó, nhốt bò vô chủ đi lang thang. Sau một thời gian, phú de ấy dời đi. Trước kia ở đây là trại lính, cũng là nơi tập dượt của lính mã tà. Dân quanh vùng thường thấy từng tốp lính bốn năm người bồng súng có gắn lưỡi lê đứng tập theo khẩu lệnh của của mấy chú cai, thầy đội. Người dân còn nhớ câu khẩu hiện dù không hiểu nghĩa nhưng nghe riết thành thuộc lòng :
Chục ba la quăng băn tê !
Chục ba la de quách quả rề
Quách quả rê ! Rề bản lề ! Chục ba la về !
Về cô Ba Trâm, ông bà sui của ngoại tôi kể rằng: cô còn trẻ, con nhà khá giả. Cô treo cổ tự tử sau khi bị bà mẹ ghẻ tàn độc hành hạ và ép gả không theo ý mình. Nơi cô Ba Trâm tự tử là gốc cây trâm gần Trường Vẽ Gia Định (Đại học mỹ thuật TPHCM ngày nay). Nơi đó cây cối sấm uất, nhà cửa thưa thớt nên thân xác cô khi được phát giác đã không còn nguyên vẹn do bị thú ăn. Vì chết oan, lại chết thảm nên người dân tin là hồn cô không đầu thai được mà còn vất vưởng trên dương gian và họ đồn về đêm cô hay hiện về trong dáng vẻ một cô gái bận áo trắng đứng đón xe song mã ở Hàng Xanh đi dạo một vòng rồi về Gia Định. Xe nào đưa cô đi thì gặp may, từ chối thì gặp xui rủi và giở trò ong bướm sẽ bị vật chết. Bây giờ người ta cho rằng xóm Đình chính là đoạn đường Nguyễn Duy hiện nay, một con đường nhỏ còn tồn tại một số nhà kiểu xưa.
Văn bản ở đình Bình Hòa. Tư liệu gia đình bà Nguyễn Thị Nam,
Văn bản ở đình Bình Hòa. Tư liệu gia đình bà Nguyễn Thị Nam,
Câu chuyện này rộ lên từ cuối thập niên 1910 và mai một dần, hầu như dân cư ở đó không mấy ai biết. Tôi hỏi về câu chuyện đó, chú Lý Lược Tam, một nhà nghiên cứu cho biết đến đầu thập niên 1950, không thấy ai còn nhắc đến chuyện cô Ba Trâm nữa ngoài những câu chuyện của ông bà kể cho con cháu nghe. Đến lúc đó, đường Hàng Bàng đã trở thành đường Lê Văn Duyệt và nhà cửa đã đông đúc hơn. Phía bên trái, từ Lăng Ông đi Cầu Bông nhiều nhà hơn, sau này đến thập niên 1960 ở hẻm số 100 nhiều người biết vì trong đó có Tiệm bán khăn đóng “Khăn đen Suối Đờn” nổi tiếng từ Thủ Dầu Một xuống làm ăn. Gần Cầu Bông có bãi đất trống sau khi chặt bỏ những cây bàng. Buổi chiều người dân tụ lại thành khu chợ trời, bán đủ thứ phục vụ cho bữa ăn như nồi đất, bí bầu, gạo…có cả một ông thợ may được gọi là anh Năm đặt bàn máy may ở đó may quần áo cho khách. Có cả mấy cái quán cà phê.
Công Lăng Đức ông Lê Văn Duyệt. Ảnh: Nguyễn Đình.
Công Lăng Đức ông Lê Văn Duyệt. Ảnh: Nguyễn Đình.
Năm 1952, nghệ sĩ lão thành Năm Châu đến mua một trại cưa trong con đường dốc là nhánh của đường Hàng Bàng đổ xuống khu Miếu Nổi, làm thành chỗ ăn ở cho đoàn Việt kịch Năm Châu. Ở đó, gia đình ông ở một cái nhà sàn de ra sông, khỏang giữa dành làm sân khấu để tập tuồng và trong trại chia ra từng gia đình nghệ sĩ ở với cái bếp chung, ăn “cơm hội”. Gia đình nghệ sĩ Trần Hữu Trang cũng ở một cái nhà sàn gần đó. Cho đến sau 1975, đến lượt nhà văn Sơn Nam cũng về ngụ trên con đường này, rất tiện cho ông khi cần đi đến Lăng Ông để tham gia việc Lăng, hoặc đi giao dịch các tòa báo ở quận I, quận 3. Khi đến thăm ông năm 1999, ông nhắc lại một chuyện: Khi con trai là Nguyễn An Ninh còn măng trẻ muốn sang Pháp du học, cụ Nguyễn An Khương, một nhà nho yêu nước hưởng ứng phong trào Duy Tân và Đông Du đã đưa con đến Lăng Ông Bà Chiểu để tuyên thệ giữ vững khí tiết, không bị bả vinh hoa xứ người mê hoặc mà phản bội quê hương. Con trai ông không chỉ vượt qua mọi cám dỗ vinh hoa mà còn trở nên một nhà cách mạng lừng lẫy chống chế độ thực dân. Câu chuyện khiến tôi nghĩ nhiều về vai trò của Lăng Ông trong đời sống người Sài Gòn- Gia Định. Họ đến Lăng không chỉ để cầu xin buôn may bán đắt, thề thốt đúng sai với nhau mà còn là đến để có nơi chứng giám lòng kiên trinh với đất nước. Một nơi như vậy sẽ không bao giờ có cảnh hương tàn khói lạnh cho dù cuộc sống có biến đổi thế nào đi nữa.
Tranh Phạm Công Tâm.
Tranh Phạm Công Tâm.
Cơn mưa đầu hè khiến tôi trú lại khu chợ Bà Chiểu, ăn tô mì hòanh thánh bên cái xe có tranh kiếng màu đầy tích tuồng xưa cũ. Những mảng màu đã lợt lạt trên tranh. Tô hoành thánh không còn ngon như hồi được bà ngoại cho tôi đi ăn mỗi khi thăm bà bác, sui gia của bà ở đầu hẻm Ba cây Sao. Mưa đi qua vùng Bà Chiểu, như đã qua trăm năm trước, nhưng cảnh vật đã khác rất nhiều, trên một vùng đất văn hóa tiêu biểu của đất Gia Định .
Theo Phạm Công Luận/Sài Gòn – chuyện đời của phố
Thượng Công miếu, Lăng Ông – Bà Chiểu, hay lăng Ông, là khu đền và mộ của Tả quân Lê Văn Duyệt (1764-1832) hiện nay tọa lạc tại số 1 đường Vũ Tùng, phường 1, quận Bình Thạnh, Sài Gòn.
"Lê văn Duyệt" Đệ Nhất Khai Quốc Công Thần thời Gia Long
Lăng Ông Bà Chiểu (Ảnh qua wikipedia)

Lăng mộ và kiến trúc

Lăng Ông Bà Chiểu rộng 18.500 m² trên một gò đất cao, nằm giữa bốn con đường: Đinh Tiên Hoàng, Phan Đăng Lưu, Trịnh Hoài Đức và Vũ Tùng. Lăng nằm kế bên khu chợ Bà Chiểu nên mỗi khi nhắc đến tên chợ này là nghĩ ngay đến lăng Ông. Rất nhiều người nơi khác thường nhầm rằng đây là lăng thờ ông và bà tên Chiểu, thật ra không phải như vậy, đây là lăng thờ ông bà Lê Văn Duyệt và do lệ kiêng cữ tên không biết từ lúc nào người dân đã ghép hai từ “lăng Ông” với hai từ “Bà Chiểu” để chỉ khu lăng của Tả Quân. Theo cuốn sách năm xưa của cụ Vương Hồng Sến, tên Bà Chiểu là tên vùng đất, chỉ mới xuất hiện thời vua Tự Ðức. Chiểu có nghĩa là ao nước thiên nhiên, Bà Chiểu là nữ thần được thờ bên ao thiên nhiên. Ở Thủ Đức cũng có vùng đất tên là Linh Chiểu.
Chung quanh khu lăng có bức tường bao bọc dài 500m, cao 1,2 m được trổ bốn cổng ra vào theo bốn hướng, được xây dựng vào năm 1948. Năm sau, cổng Tam quan cũng được xây. Cổng có hàng đại tự nổi bằng chữ Hán Thượng Công Miếu, được đặt ở hướng Nam, mở ra đường Vũ Tùng, thời Đệ Nhứt và Đệ Nhị Cộng Hòa cổng này đã từng được chọn là biểu tượng của vùng Sài Gòn-Gia Định xưa và khu lăng được xây dựng trên một trục đường chính. Từ cổng Tam quan ở phía Nam vào qua một khu vườn cảnh là nhà bia nơi đặt bia đá ghi công đức Tả quân – Mộ Tả quân và vợ, có bình phong và tường hoa bao quanh Miếu thờ.
Lăng Ông Bà Chiểu. (Ảnh qua danang24h.vn)
Nhà bia được xây dựng như một ngôi điện nhỏ, tường gạch, mái lợp ngói âm dương. Bên trong có tấm bia đá khắc văn bia chữ Hán đề “Lê công miếu bi” (Bia dựng tại miếu thờ Lê công) do Kinh lược sứ Hoàng Cao Khải viết năm Giáp Ngọ (1894). Nội dung văn bia ca tụng công đức Lê Văn Duyệt đối với triều đình và nhân dân.
ADVERTISEMENT
Phần mộ gồm hai ngôi mộ song táng: Tả quân và vợ là bà Đỗ Thị Phận. Hai ngôi mộ đặt song song và được cấu tạo giống nhau, có hình dạng như nửa quả trứng ngỗng xẻ theo chiều dọc, úp trên bệ lớn hình chữ nhật. Trước mộ có một khoảnh sân nhỏ để làm lễ. Từ nơi nhà bia nhìn vào, mộ Lê Văn Duyệt phía bên phải. Bao quanh mộ là một bức tường bằng đá ong dày hình chữ nhật, thông ra tận sân đốt nhang đèn.
Nhà bia của khu lăng mộ. (Ảnh qua nghean24h.vn)
Ngoài ra, ở đây còn hai phần mộ nhỏ của hai cô hầu cách khu lăng mộ một khoảng sân rộng đến khu vực “Thượng công linh miếu”, nơi diễn ra các sinh hoạt tín ngưỡng của nhân dân trong việc thờ cúng Lê Văn Duyệt. Bố cục của miếu bao gồm tiền điện, trung điện và chính điện. Mỗi gian điện thờ cách nhau bằng một khoảnh sân lộ thiên, gọi là sân thiên tỉnh (giếng trời). Đối xứng hai bên trục nhà chính là hai dãy Đông lang và Tây lang, công trình mang dấu ấn của lối kiến trúc miếu thờ nhà Nguyễn, với những mái “trùng thiềm điệp ốc” và kỹ thuật kết nối khung nhà bằng các lỗ mộng. Ngoài ra, nhờ kỹ thuật chạm khắc gỗ, chạm khắc đá, khảm sành sứ mà nơi thờ cúng này còn giữ được vẻ đẹp cổ kính cho đến ngày nay.

Thân thế và sự nghiệp của Tả quân Lê Văn Duyệt

Con người này ít học nhưng lạ lùng thay lại có được cái nhìn cởi mở hơn nhiều những đại thần và cả nhà vua học rộng, giàu kinh sử của Khổng giáo. Ngài sống thanh liêm, muốn mở mang đất Gia Định này trù phú hơn mọi quốc gia khác ở trong vùng biển Đông…
Lê Văn Duyệt sinh năm Giáp Thân 1764 tại Cù Lao Hổ, cạnh vàm Trà Lọt, nay thuộc làng Hòa Khánh, tỉnh Tiền Giang. Nội tổ là Lê Văn Hiếu từ Quảng Ngãi đi vào Nam sinh sống. Sau khi ông Hiếu qua đời , cha Lê Văn Duyệt là Lê Văn Toại và thân mẫu là Phúc Thị Hào rời Trà Lọt đến ở tại vùng Rạch Gầm, thuộc làng Long Hưng tỉnh Tiền Giang ngày nay.
Thuở nhỏ Lê Văn Duyệt ít chịu học hành mà chỉ thích bắt chim, đánh cá, nhất là việc nuôi gà, đá gà và tụ tập các trẻ trong làng, chia phe tập trận đánh giặc. Sau này, ông còn là người rất mê xem đấu hổ, đấu voi. Ngoài ra ông cũng là người sành thưởng thức hát bội và thường tự tay cầm chầu. Tương truyền ông khỏe mạnh, thông minh, giỏi võ thuật, tuy không học nhiều, nhưng biết nhiều tuồng tích Tàu.
Lê Văn Duyệt luôn ước ao trở thành hào kiệt như trong truyện xưa miêu tả. Mới 15 tuổi, Lê Văn Duyệt đã nói “sinh ở đời loạn, không dựng cờ đánh trống đại tướng, chép công danh vào sử sách không phải là trượng phu”.
Lê Văn Duyệt Lăng Ông Bà Chiểu: Nơi thờ vị đệ nhất khai quốc công thần dưới triều vua Gia Long
Lê Văn Duyệt trên tờ tiền 100 đồng.
Năm Lê Văn Duyệt lên 17 tuổi, một cơ may đến với ông. Đêm hôm đó chúa Nguyễn Phúc Ánh bị quân nhà Tây Sơn đuổi gấp. Nhờ mưa to gió lớn thuyền của đối phương không đuổi kịp, tưởng vậy đã yên, nào ngờ khi vừa đến vàm Trà Lọt thì thuyền chở chúa bị sóng lớn làm cho suýt chìm. Lê Văn Duyệt xuất hiện đúng lúc, cứu Nguyễn Phúc Ánh thoát nạn.
Biết là gặp dòng dõi chúa Nguyễn, cụ Lê Văn Toại hết sức cung kính, cho tất cả tạm trú ở đây, nhân đó ông được Nguyễn Phúc Ánh tuyển dụng làm thái giám. Ít lâu sau, Lê Văn Duyệt được phong làm cai cơ trông coi nội binh. Từ năm 1789, ông bắt đầu đứng vào hàng tướng lãnh của chúa Nguyễn. Năm 1793, Lê Văn Duyệt cùng với Nguyễn Phúc Ánh đi đánh Qui Nhơn, lấy được phủ Diên Khánh và phủ Bình Khương.
Tháng 1 năm 1801, ông cùng chúa và các tướng lãnh khác như Nguyễn Văn Trương, Tống Phước Lương, Võ Di Nguy đánh chiếm cửa biển Thị Nại. Trận Thị Nại khiến quân Tây Sơn thua to. (Xem bài: Trận thủy chiến hỏa công bậc nhất sử Việt vào đầu thế kỷ 19)
Tháng 4, Nguyễn Phúc Ánh đem thủy quân ra Đà Nẵng. Đến tháng 5 vào cửa Tư Dung. Lê Văn Duyệt phá được quân Tây Sơn, bắt được phò mã Nguyễn Văn Trị và đô đốc Phan Văn Sách rồi vào cửa Eo. Vua Cảnh Thịnh mang quân ra giữ cửa Eo nhưng thua phải chạy ra Bắc.
Ngày 3 tháng 5, Nguyễn Phúc Ánh đem binh vào thành Phú Xuân.
Tháng 5 năm 1802, chúa Nguyễn lên ngôi, chọn đế hiệu: Gia Long. Vua phong Lê Văn Duyệt là Khâm Sai Chưởng Tả Quân Dinh Bình Tây Tướng Quân, lệnh cùng với Lê Chất mang quân thâu phục Bắc Hà. Chỉ trong vòng một thời gian ngắn thì xong việc.
Do có nhiều công lao lớn nên Lê Văn Duyệt được liệt vào hàng Đệ Nhất Khai Quốc Công Thần, với đặc ân được vào chầu vua không phải lạy (nhập triều bất bái) và được đặc quyền chém trước tâu sau (tiền trảm hậu tấu) nơi biên thùy. Cũng vì thế, sau này ông không chịu lạy vua Minh Mạng và đã giết Huỳnh Công Lý, cha một quí phi của ông vua này, vì tội tham nhũng.
Lê Văn Duyệt còn là người được vua Gia Long triệu vào cung hỏi ý kiến về việc chọn ngôi Thái tử. Tuy vua không nghe lời ông chọn con của Đông Cung Cảnh nối ngôi, thay vì hoàng tử Đảm là vua Minh Mạng sau này, nhưng ông vẫn phò tá cho đến hết đời, mặc dù lòng không kính phục ông vua trẻ.
Ngược lại, Minh Mạng cũng không ưa gì Lê Văn Duyệt nhưng vẫn phải dùng đến. Năm 1823, Lê Văn Duyệt được Minh Mạng ân thưởng ngọc đái với lời dụ: “Từ xưa hoàng tử, chư công chưa ai được ân tứ ngọc đái này, nay khanh đã nhiều công lao nên đặc biệt ân tứ vậy.”
Theo Saigonxua.org và Fanpage Saigonxua

Lăng Ông Bà Chiểu – Một trong những ngôi đền cổ xưa nhất Sài Gòn

Sài Gòn hoa lệ là một thành phố hiện đại nhưng ẩn mình trong nó vẫn còn nhiều công trình cổ xưa được gìn giữ tới tận ngày nay. Một trong số đó là Lăng ông bà Chiểu.
lăng ông bà chiểu
Lăng ông bà Chiểu vô cùng cổ kính

1. Địa chỉ

Lăng ông bà Chiểu hay Thượng Công miếu là khu đền và mộ của Tả quân lê Văn Duyệt ở địa chỉ số 1 đường Vũ Tùng, phường 1, quận Bình Thạnh, TP Hồ Chí Minh.
Nơi đây rất dễ tìm đường tới bởi được bao quanh bởi các con đường Đinh Tiên Hoàng, Phan Đăng Lưu, Vũ Tùng, Trịnh Hoài Đức và ở ngay gần chợ Bà Chiểu.
lăng ông bà chiểu
Khung cảnh cổ kính nơi đây ( Ảnh ST)
Tin liên quan: Danh sách 9 điểm du lịch ở Sài Gòn không thể bỏ qua

2. Tham quan lăng ông bà Chiểu

Lăng ông bà Chiểu là quần thể khu đền và ngôi mộ của Tả Quân Lê Văn Duyệt – Tống trấn thành Gia Định khi xưa và vợ là bà Đỗ Thị Phận. Ở đây còn có mộ của hai cô hầu nằm bên ngoài khuôn viên lăng. Tất cả nằm trong một khu đất rộng 18.500m2.
lăng ông bà Chiểu
lăng ông bà Chiểu
lăng ông bà Chiểu
lăng ông bà Chiểu
lăng ông bà chiểu
Khu đền nổi bật với sự cổ kính theo thời gian của mình ( Ảnh ST)
Rất nhiều người lầm tưởng rằng đây là lăng thờ ông bà tên Chiểu nhưng tuy nhiên không phải vậy. Do lăng nằm trên chợ Bà Chiểu và do tục lệ kiêng cữ tên nên không biết từ khi nào, người dân đã ghét hai từ “Lăng ông” với hai từ “bà Chiểu” để gọi tên địa điểm này.
Khu lăng mộ của Tả Quân Lê văn Duyệt được xây dựng từ năm 1948 và đây là một trong những nơi linh thiêng, cổ xưa của Sài Gòn. Lăng được bao bọc bởi tường dài 500m, cao 1,2m và có bốn cổng theo bốn hướng ra bốn con đường. Du khách tới đây có thể chụp ảnh tại những bức tường này sẽ cực kì ấn tượng với nét cổ điển nơi đây.
lăng ông bà chiểu
Bức tường vàng cổ kính tại đây ( Ảnh ST)
Phía bên trong Lăng Ông có kiến trúc cổ kính với một trục đường chính, từ phía cổng Tam quan vào có một khu vườn cảnh và nhà bia, lăng mộ, miếu thờ ở đây. Nhà bia của Lăng Ông được xây dựng như một ngôi điện nhỏ, tường gạch và mái ngói lợp âm dương. Ở trong còn có tấm bia đá khắc chữ Hán “Lê công miếu bi” do Kinh lược sứ Hoàng Cao Khải viết năm 1894 với nội dung ca ngợi công đức Lê Văn Duyệt đối với triều đình cũng như nhân dân.
lăng ông bà chiểu
Một phần lăng mộ nơi đây ( Ảnh ST)
Phía mộ thì gồm mộ của tả Quân và vợ là bà Đỗ Thị Phận đặt song song. Bao quanh mộ là một bức tường bằng đá ong dày hình chữ nhật thông ra tận sân đốt nhang đèn.
Công trình mang đậm dấu ấn, lối kiến trúc miếu thờ nhà Nguyễn với kỹ thuật chạm khắc trên gỗ, trên đá cực kỳ đặc biệt còn giữ được vẻ đẹp cho đến ngày nay. Khu miếu thờ có màu sắc chủ đạo là đỏ và vàng là nơi các bạn trẻ thường lựa chọn là background chụp hình vào những ngày lễ tết.

3. Ngày lễ tại đây

Hàng năm, vào ngày 29,30 tháng 7, mồng 1,2 tháng 8 âm lịch nơi đây tổ chức lễ giỗ Lê Văn Duyệt thu hút rất nhiều người dân và du khách thập phương tới đây. Người dân tới đây có thể cầu bình an, sức khỏe, tình duyên cho gia đình mình.
lăng ông bà chiểu
Khu đốt nhang tại đây ( Ảnh ST)
Chú ý là nếu các bạn trẻ có tới đây chụp hình ngày lễ thì nên chú ý bởi đây là chốn tâm linh nên chú ý giữ trật tự, vệ sinh chung, không xả rác tại đây.
 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét