Thứ Ba, 18 tháng 9, 2018

BÍ ẨN LỊCH SỬ 87 (Kho báu của Bảy Viễn)

(ĐC su6u tầm trên NET)
 
Các Tướng VNCH Đã Ngầm Chia Chác Kho Báu Của BẢY VIỄN Ra Sao
Các Tướng VNCH Đã Ngầm Chia Chác Kho Báu Của BẢY VIỄN Ra Sao Cũng thật khó mà nói rằng Bảy Viễn là anh hùng hay gian hùng? Lâu nay lịch sử vẫn hay nhìn nhận Bảy Viễn là một tay giang hồ cộm cán, một thủ lĩnh Bình Xuyên theo kiểu Lương Sơn Bạc của TQ ngày xưa. Điều này cũng không sai, nhưng xem chừng hơi khắc khe với con người này. 

Sự thật về kho báu của tướng Bình Xuyên Bảy Viễn

Đăng bởi: Tiểu Nhi on Thứ Năm, 19 tháng 9, 2013 | 19.9.13

Cũng thật khó mà nói rằng Bảy Viễn là anh hùng hay gian hùng? Lâu nay người đời vẫn hay nhìn nhận Bảy Viễn là một tướng cướp, một tay giang hồ cộm cán, một thủ lĩnh Bình Xuyên theo kiểu Lương Sơn Bạc của Trung Quốc ngày xưa.
Điều này cũng không sai, nhưng xem chừng hơi khắc khe với con người này.

Một con người từng chọc trời khuấy nước, ngang dọc một thời. Nhưng xem cung cách và lối hành xử của Bảy Viễn, từ vụ cướp đoạt cặp nhà voi lớn nhất của cha con ông cụ Dương Văn Ngôn, Dương Minh Hiển và cưới cô Hai Lúa, con gái Hội Đồng Đống ở làng Đa Phước thì ai cũng phải nể sợ vì kiểu hành xử rất giang hồ của Bảy Viễn.

Thành lập quân đội, đánh nhau tranh giành giang sơn nhỏ bé, lập Tổng hành dinh, lập cung tần mỹ nữ như lãnh chúa và gom góp của cải thiên hạ về lập kho báu…kết cuộc, vẫn là con số 0.

Chính giá trị tài sản kho báu Bình Xuyên trở thành một cuộc đấu giá khi cuộc cờ chính trị Bình Xuyên đã tàn.

 Bảy Viễn và gia đình ông ta phải trả giá bằng cái chết oan nghiệt của cậu con trai – “thế tử” Lê Paull mang quân hàm thiếu tá, mới 27 tuổi đời trong một cuộc giải cứu bất thành.

Vợ con là kho báu thứ nhất của Bảy Viễn

Bảy Viễn tên thật là Lê Văn Viễn, sinh năm Giáp Thìn (1904) tại Phong Đước, quận Cần Giuộc, tỉnh Chợ Lớn (nay là Long An).

Cha là Lê Văn Dậu, người Hoa gốc Triều Châu. Năm 1921, Bảy Viễn vào tù lần đầu với bản án 20 ngày tù giam khi mới 17 tuổi do phạm tội trộm xe đạp.

Năm 1927, Bảy Viễn phạm tội hành hung người khác và bị phạt giam 2 tháng tù.

Năm 1936, Bảy Viễn bị chính quyền Nam Kỳ tuyên án 12 năm khổ sai đày đi Côn Đảo do tội cướp có vũ trang (súng) đến năm 1940, Bảy Viễn vượt ngục thành công về đất liền sau 4 lần thất bại.

Năm 1942, Bảy Viễn bị bắt trong vụ tổ chức cướp xưởng mộc Bình Triệu.

Tòa án tuyên phạt 12 năm khổ sai đày ra Côn Đảo cộng thêm 8 năm còn thiếu trước đây là 20 năm.

Năm 1945 tham gia kháng chiến chống Pháp và trở thành Chi đội trưởng Chi đội 9 thuộc Liên khu Bình Xuyên, do Ba Dương (tức Dương Văn Dương) làm Tổng chỉ huy.

Ngày 20/2/1946 Ba Dương hy sinh trong một trận chống càn của Pháp ở Bến Tre khi chỉ huy một bộ phận quân Bình Xuyên vượt sông Soài Rạp từ Rừng Sác về cứu nguy cho mặt trận An Hóa - Giao Hòa.

Sau khi Ba Dương hy sinh, Bảy Viễn vận động để nắm chức Tư lệnh Bình Xuyên nhưng một số cán bộ chỉ huy trưởng các chi đội Bình Xuyên đã không tán thành.

Ngày 12/4/1946, Nguyễn Bình, Tư lệnh các lực lượng vũ trang Nam Bộ ký quyết định phong cho Năm Hà (tức Dương Văn Hà em cùng cha khác mẹ với Dương Văn Dương) làm Tư lệnh lực lượng Bình Xuyên thay cho Ba Dương.

 Tháng 5/1946 Nguyễn Bình ký quyết định phong cho Bảy Viễn làm Khu Bộ phó chiến khu 7 với ý định tách Bảy Viễn ra khỏi vị trí trực tiếp chỉ huy lực lượng Bình Xuyên và để Bảy Viễn không bất mãn bỏ kháng chiến về với Pháp.

Tháng 12/1947, Trung tá Savani (Phòng Nhì Pháp) cho người bí mật tiếp xúc với Bảy Viễn để chuẩn bị lập Chiến khu Quốc gia Rừng Sác.

Cuối tháng 5/1948 Bảy Viễn mang hai đại đội võ trang mạnh, thân tín nhất, có cả trung liên và đại liên, từ Rừng Sác, vượt sông Soài Rạp, băng qua lộ 4, xuôi theo dòng kênh Dương Văn Dương đến căn cứ địa của Nam Bộ, tại làng Nhơn Hòa Lập để họp và nhận chức Khu bộ trưởng Chiến khu 7.

Tại cuộc họp Trung Tướng Nguyễn Bình quyết định giải tán tổ chức Bình Xuyên phiên chế thành các Trung đoàn Vệ Quốc Đoàn để phá tan âm mưu chia rẽ quốc gia và Việt Minh của Phòng nhì Pháp.

Bảy Viễn phản đối quyết liệt nên rạng sáng ngày 27/5/1948, Bảy Viễn đã âm thầm rút quân Bình Xuyên rời chiến khu Đồng Tháp đến Đông Thành nơi Chi đội 4 của Mười Trí (bạn thân Bảy Viễn) đóng quân và cho bạn biết ý định về hợp tác với Pháp. Mười Trí không ngăn cản nhưng âm thầm phân tán lực lượng võ trang của Bảy Viễn.

Cho nên khi rút về tới xã Hưng Long, huyện Bình Chánh, Bảy Viễn chỉ còn có hai trung đội. Sau khi về hợp tác với Pháp, Bảy Viễn được Tướng De la Tour gắn lon Đại tá.

Năm 1952, Bảo Đại phong cho Bảy Viễn cấp bậc Thiếu tướng 2 sao (Général de Brigade).

Năm 1955 quân đội Ngô Đình Diệm tảo thanh quân Bình Xuyên và các giáo phái, Bảy Viễn đào thoát sang Pháp. Năm 1970 Bảy viễn qua đời tại Paris.

Bảy Viễn có 3 bà vợ chính thức và rất nhiều bà vợ, nhân tình khác rải rác khắp nơi. Tuy chưa có bất cứ tài nào ghi lại đầy đủ chi tiết về các bà vợ Bảy Viễn, nhưng qua lời kể của nhiều người, có hai lần Bảy Viễn cưới vợ theo kiểu giang hồ.
Chân dung Bảy Viễn
Chân dung Bảy Viễn
Một là chuyện Bảy Viễn cưới vợ là cô Hai Lúa, con gái rượu của Hội đồng Đống ở làng Đa Phước và “nợ duyên” với cô Hà Thị Tám-Kế toán hãng thuốc lá MIC trong một lần ăn chơi, Bảy Viễn “tìm bắt bò lạc” được nhà văn Nguyên Hùng nhắc đến trong tiểu thuyết “Người Bình Xuyên” đủ cho thấy tính cách ngang ngược, giang hồ của Bảy Viễn không khác gì các lãnh chúa ngày xưa.

Nhân chuyến công cán ủy lạo Bộ đội Phú Thọ năm 1946, Uỷ viên quân sự Bảy Viễn đã sai cận vệ mang tới nhà gửi cho Hội đồng Đống một gói quà đặc biệt.

 Phía bên ngoài ghi người gửi: ủy viên quân sự Lê Văn Viễn. Người nhận: ông Hội Ðồng Ðống, làng Ða Phước.

 Biết Hội đồng Đống là người rất mê súng ngắn dùng hộ thân trong thời buổi loạn lạc nên Bảy Viễn đánh trúng tâm lý. Vừa mở ra xem, Hội đồng Đống mừng húm, mắt sáng rực như đèn pha ô tô.

Cầm trên tay cây súng Colt có hình con ngựa, nước thép sáng xanh, chưa có dấu tay, ông mừng quýnh quáng réo con gái : “Lúa ơi, con đâu?”.

Cô Hai Lúa mới tròn 18 tuổi, xinh đẹp, vóc dáng phổng phao đang dở tay nấu nướng từ sau bếp, vội vàng chạy lên khi nghe cha gọi. Hội đồng Đống cầm khẩu súng khoe: “Con coi, thằng Ủy viên quân sự Lê Văn Viễn tặng cho ba nè”.

 Như để trấn an con gái đàn bà hễ thấy súng đạn là hoảng hốt lên, Hội đồng Đống giải thích: “Có gì mà sợ ! Ðây là võ khí để phòng thân. Thời buổi lộn xộn, mình là dân có máu mặt, là mục tiêu của bọn cướp Tư Ty ở cầu ông Thìn hay là đám Mười Nhỏ bên Xóm Cỏ.

 Thằng ủy viên quân sự tặng mình khẩu súng này thật là biết ý mình quá. Cho vàng cũng không mừng bằng !”.

Cô Lúa nhìn vào cái hộp và thấy một tấm danh thiếp in dòng chữ: Lê Văn Viễn, Ủy viên quân sự, mặt sau thấy có mấy dòng chữ viết tay: “Cháu xin cưới cô Hai Lúa và đây là sính lễ đầu tiên kính dâng bác”.

Cô đưa cho cha đọc xong, Hội đồng Đống bấm bụng nghĩ thầm: Thằng Ủy viên quân sự không tặng mình khẩu súng khơi khơi mà có điều kiện.

 Một kiểu cầu hôn ngang ngược lạ đời!. Ông chợt nhớ lại lần gặp gỡ trước đây không lâu nên gạn hỏi con gái đã có chuyện gì với nhau chưa? Cô Lúa một mực trả lời chỉ làm quen sơ sơ thôi…

Hội đồng Đống đem chuyện cầu hôn của Bảy Viễn bàn xuôi tính ngược với con gái vì biết Bảy Viễn là dân giang hồ thứ thiệt từng vào tù ra tội như đi chợ, hơn nữa giờ đây là Ủy viên quân sự, súng đạn và binh lính kè kè. Nếu từ chối cũng không phải là chuyện dễ.

 Chẳng dè cô Lúa vốn đã có tình ý, mê mẫu người hùng diệt bạo trừ gian, quân tử hành hiệp như Bảy Viễn nên cô nghĩ: Có hai loại người cầm súng, một là kẻ gian ác, hại người. Một là hành hiệp cứu người, trừ gian.
Người hùng Bảy Viễn của cô thuộc loại hai. Thế là một tuần sau Bảy Viễn nghiễm nhiên là rể quý ông Hội đồng Ðống. Con rể Bảy Viễn lớn hơn nhạc phụ…1 tuổi.

Lần cưới vợ khác của Bảy Viễn được xem là “duyên nợ” do ông trời sắp sẳn, bởi Bảy Viễn và mấy chiến hữu của ông đương lúc buồn đi tìm nơi giải trí rồi thách đố cá cược nhau tìm “bắt bò lạc” trong sòng bài Đại Thế Giới của Sáu Ngọ ở Chợ Lớn.

“Bò lạc” mà Bảy Viễn và các chiến hữu của ông nhắm đến là những phụ nữ còn sắc nước hương trời, nướng tiền trong các sòng bạc đến không còn một xu dính túi.

Khi đó, những “cao thủ” như Bảy Viễn xuất hiện ra tay hào hiệp “anh hùng cứu mỹ nhân”, chí ít cũng qua đêm hưởng lạc cho vui. Vì trên đời chẳng ai chọn vợ chốn đỏ đen bao giờ.

Thời Pháp thuộc, ở khu vực Chợ Lớn có lập một sòng bạc lớn nhất Sài Gòn mà cũng lớn nhất Ðông Dương có tên gọi Đại Thế giới nằm giữa Chợ Lớn (Q.5), gồm rất nhiều gian hàng, rạp hát, sân khấu xiếc, nhà hàng - vũ trường, quán giải khát lộ thiên.

 Ðặc biệt là dãy dài các gian hàng rộng lớn, trang trí sáng trưng, mỗi gian một vẻ: chơi theo người Việt là hốt me, chơi theo Pháp là roulette, chơi theo Tàu là tài xỉu. Ai thích món nào cứ tới gian hàng mình thích.

Suốt ngày đêm sòng bạc luôn nhộn nhịp người vào ra tấp nập như bầy ong vỡ tổ. Hầu hết những đại gia, điều chủ Nam Bộ, quan lại chính quyền Pháp, Việt đều lui tới sòng bạc.

Chính lò nướng tiền khổng lồ này đã thành danh nhiều câu chuyện để đời về Công tử Bạc Liêu, Bảy Viễn…

Thường thì gian roulette có mướn mấy cô đầm thứ thiệt, đầm lai cũng có đứng làm chim mồi và phụ giúp hướng dẫn các quan ngoại quốc lui tới giải vận đen.

Còn gian tài xỉu thì chủ sòng bạc bố trí các cô xẩm Hồng Kông, Quảng Đông rất trẻ đẹp, mặc áo xườn xám cổ cao, sát nách, bó sát ngực và mông, hai bên hông xẻ cao để lộ cặp đùi thon dài, trắng nõn nà.

 Các cô này đứng sau quầy số, tay cầm chiếc cào để vùa tiền và chung tiền cho khách chơi...

Bảy Viễn và Tư Thiên dạo quanh một vòng các gian trong sòng bạc rồi quyết định tìm bò lạc giải sầu.

 Cao hứng Tư Thiên nói luôn: “Tôi biết có nhiều “con bò lạc” đẹp dễ sợ. Ðó là mấy bà Thông, bà Phán trốn chồng vô đây chơi tài xỉu. Khi thua hết tiền thì đứng xớ rớ đâu đó chờ gặp người quen mượn tiền để gỡ gạc hoặc có tiền đi xích lô về nhà.

Nếu không gặp người quen thì túng quá, các bà làm liều, bắt bồ với mấy tay hảo ngọt...Nghe đến đây, máu dê của Bảy Viễn trỗi dậy liền cam kết với nhóm bạn hữu từng chung chiến hào nơi chiến khu trở về chia nhau đi tìm bò lạc.

Bảy Viễn vốn là một tay đào hoa và thông minh, vừa đảo một vòng gian tài xỉu trở đã nhìn thấy một giaI nhân sắc nước hương trời, ăn mặc rất thời trang, bắt mắt đang tiến tới gian hàng tài xỉu gần đó. Người đẹp có khuôn mặt rạng ngời, thanh tú tuy tuổi đã xấp xỉ 40 nhưng vóc mình thon eo, ngực nở, mông tròn.

Nàng mặc áo dài màu khói nhang làm nổi hẳn lên màu đen mướt của chiếc quần lãnh đen.

Nàng bước tới gần như một định mệnh sắp bày của tạo hóa, Bảy Viễn càng thú vị được chiêm ngưỡng khuôn mặt trái xoan thanh tú, đôi mắt to, hàng mi dài, sống mũi cao, đôi môi mọng hình quả tim.

 Mặc cho kẻ si tình đang trồng cây si ngẩn ngơ bên cạnh, người đẹp dường như không hề quan tâm đến ai bên cạnh mình, một tay nàng mở ví đặt xấp tiền lên bàn vào những con số mà nàng yêu thích.

Bảy Viễn không bỏ qua cơ hội ngàn năm có một để tiếp cận con mồi và làm quen. Bảy Viễn nhỏ nhẹ đặt tiền vào con số bên cạnh mỹ nhân rồi sẵn dịp làm quen: “Tôi xin phép hưởng chút hên của bà…”.

Mỹ nhân không thèm nghe, không thèm nhìn cặp mắt si tình của Bảy Viễn, nàng đang căng mắt ngọc nhìn vào cái chén trên tay tên bông vụ lắc thật mạnh. Khi hết lượt đặt tiền, ả lắc bông vụ hạ tay xuống bàn để 3 con xúc xắc quay tít rồi dừng lại, sau đó là tiếng hô báo kết quả. Lần này không may, người đẹp bị thua.

 Bảy Viễn kiên trì thuyết phục người đẹp nuôi con số, biết đâu tái xuất giang hồ trở lại.

 Chẳng dè vận may đã về lại với người đẹp, được thể Bảy Viễn tấn công bằng một cam kết xã giao, nếu ván thứ ba thắng, xin mời người đẹp một chầu xã giao bên phía vũ trường đối diện.

 Đó là điểm hẹn của Tư Thiên cùng mấy người bạn Bảy Viễn, ai bắt được bò lạc nhanh nhất người thua sẽ chiêu đãi một chầu. Nào ngờ duyên số lại dành cho Bảy Viễn vận may mắn hơn tất cả mọi người khác.

 “Bò lạc” mà Bảy Viễn kéo từ sòng bạc qua là cô Hà Thị Tám, kế toán hãng thuốc lá MIC và cũng từ sau cuộc gặp hôm ấy trở thành người vợ thứ ba của Bảy Viễn.

Trước đó là cô Hai Lúa, cô Hoa. Sau này, trong cuộc truy lùng kho báu Bình Xuyên vào năm 1955 khi chính quyền Ngô Đình Diệm dẹp tan quân đội Bình Xuyên, nhiều người nhận định rằng, phần lớn kho báu Bình Xuyên nằm trong tay 3 bà vợ Bảy Viễn, số tiền vàng mà quân đội Quốc gia thu được tại Rừng Sác, chỉ là một phần bé nhỏ trong kho báu Bình Xuyên.

 Sự thật ra sao thì không ai biết vì sau đó Bảy Viễn được đưa sang Pháp định cư và mất vào năm 1970 tại Paris.

Sự thật về kho báu Bình Xuyên

Liên quan đến kho báu Bình Xuyên có hai thông tin trái ngược nhau và khác nhau rất xa về số lượng, diễn biến và tính chất ý đồ chính trị liên quan.

Chuyện xảy ra vào năm 1971, Tướng Dương Văn Minh (Minh Lớn) định ra tranh cử Tổng thống, lập tức trong Phủ Đầu Rồng dấy lên cáo buộc tướng Minh biển thủ tài sản cả thùng phuy vàng kho báu Bình Xuyên.

Tờ báo Hòa Bình lên tiếng đặt vấn đề cho rằng tướng Minh Lớn biển thủ số tiền Đông Dương, phuy vàng và kim cương trong kho báu Bình Xuyên. Sau đó tờ báo này phải đính chính vì thông tin sai sự thật.

Số là ngày 3/3/1956, Thiếu tướng Dương Văn Minh có họp báo nói về các chiến dịch miền Tây và sự hợp tác của Tướng Trần Văn Soái.

Tướng Minh cho biết trong chiến dịch Hoàng Diệu, đã tịch thu 20 kí vàng và 16 triệu rưởi bạc, số tiền này sẽ dùng để xây cất một Cô Nhi Viện Quốc Gia ở Thủ Đức theo quyết định của Tổng thống Ngô Đình Diệm.

Trong báo cáo của Tiểu đoàn hải quân trong chiến dịch Hoàng Diệu, Thoại Ngọc Hầu thanh tảo Bình Xuyên tại Rừng Sác năm 1955 do Tướng Minh làm tổng chỉ huy có đoạn: “Tiểu Đoàn cũng có chạm súng lẻ tẻ với tàn quân Bình xuyên trong những ngày cuối cùng của Chiến dịch Hoàng Diệu, nhưng đã tịch thu được một số tiền rất lớn của Bảy Viễn chôn dấu tại Rừng Sác.

Tiền nhiều quá phải dùng giang đĩnh thuộc Giang đoàn xung phong của Đại úy Nguyễn Kiên Hùng vận chuyển tiền tịch thu được ra tàu Hải quân ở ngoài sông Lòng Tàu.

Không biết Bộ Chỉ huy hành quân đem số tiền này đi đâu và chia chác ra làm sao.
Doanh trại, tổng hành dinh của Bảy Viễn
Doanh trại, tổng hành dinh của Bảy Viễn

Khi Đại Đội 3 (tôi: Thiếu uý Ngô Văn Định) báo cáo tìm được nơi chôn giấu tiền, thì các ông Đại tá Dương Văn Minh, chỉ huy chiến dịch, Thiếu tá Phạm Văn Liễu Tham mưu trưởng Thủy quân Lục chiến đã có mặt ngay tại địa điểm đào thấy tiền chứa trong mấy chục cái lu sành bằng cỡ như thùng xăng 200 lít.

Chấm dứt hành quân trở về hậu cứ, Tiểu đoàn có nhận được một ngân khoản, Đại úy Tiểu đoàn Trưởng đã chia đồng đều cho mỗi anh em là 47 đồng” .

Tiền loại 100 đồng Đông Dương có mệnh giá tương đương 1,200 Franc vào năm 1955. Mặt sau tờ bạc có in hình ba cô gái Việt- Miên-Lào.

Liên quan đến kho báu này, một ký giả chiến trường có ghi lại báo cáo Liên đoàn nhảy dù phát hiện kho báu như sau: “Trận đánh quyết liệt trong ngày cuối cùng của chiến dịch 23/10/1955, tất cả bộ chỉ huy Bình Xuyên đều bị bắt sống.

Khi chiếm Tổng hành dinh Bảy Viễn tại Rừng Sác, Đại đội nhảy dù của Trung úy Nguyễn Văn Tâm - Tiểu Đoàn số 1 tình cờ phát hiện một kho bạc lớn.

Một binh sĩ dùng báng súng đập vỡ vách một phòng (vách làm bằng ván ép) từ trong tuôn ra những gói vuông dài như gạch.

Lượm lên mới biết đó là nhưng gói bạc của Bảy Viễn chưa kịp gửi kho bạc. Cặp ngà voi dài trên thước rưỡi và một thùng kẽm.

Số bạc quá nhiều, vì thế Trung úy Nguyễn Văn Tâm gọi máy truyền tin báo cho Đại tá Tư lệnh Đỗ Cao Trí, lập tức Đại tá Trí gọi truyền tin cho Đại tá Tư lệnh chiến dịch Dương Văn Minh” .

Cho đến năm 2001, khi ông Dương Văn Minh qua đời, một số tướng lĩnh Việt Nam cộng hòa (VNCH) sống dưới triều đại Ngô Đình Diệm và Nguyễn văn Thiệu lại dấy lên diễn đàn về kho báu Bình Xuyên.

Bại tướng Nguyễn Chánh Thi trong cuốn “Việt Nam một trời tâm sự” kể lại: “Sáng ngày thứ 4, một toán thuyền và độ vài trăm người có súng đi ra với nhiều lá cờ trắng xin đầu hàng.

Tiếp theo là một chiếc tàu chở ông Hồ Hữu Tường và ông Trần Văn Ân, cố vấn của Lê Văn Viễn ra điều đình.

Trong toán này có Thiếu tá Tư Nhỏ trước kia ở Quân đội VNCH đào ngũ theo Bình Xuyên vì y là con rể của Bảy Viễn. Tư Nhỏ ra đầu hàng và tình nguyện đi chỉ chỗ vàng bạc chôn giấu của Bảy Viễn.

 Hắn ta nói: “Trước đây một toán Bình Xuyên 8 người cùng chiếc du thuyền của Bảy Viễn chở 6 thùng 200 lít đựng bạc và một thùng đựng vàng, hột xoàn đem đi chôn giấu. Khi chôn xong rồi thì 8 người ấy đều bị giết ngay và lấp xuống ở gần đó.

 Khi tình hình ở đây được hoàn toàn yên ổn, tôi được quan sát tận mắt sự đào hầm giấu tiền và các bộ mặt căng thẳng của Bộ Tư lệnh của Đại tá Dương Văn Minh và Trung tá Nguyễn Khánh mà đâm ra hoài nghi.

Trung tá Nguyễn Khánh lúc đó chơi trò “cao bồi”, hai tay cầm hai khẩu súng lục, miệng nói: Cấm không ai được đến gần đây cả! “Tiền!” Thật là khó coi? Chán mắt! Tôi lạnh lùng cho chiếc tàu của tôi trở về vị trí đóng quân, trong lòng tôi suy nghĩ miên man về thái độ cử chỉ của bọn họ. Tin ít mà ngờ nhiều.”

Câu chuyện về tài sản của Bình Xuyên được Tướng Thi kể lại có nhiều điểm khác với câu chuyện do Đại tá Nguyễn Văn Y, cựu Tổng Giám đốc Cảnh sát Quốc Gia, tường thuật lại dưới đây.

Vì thế, một câu hỏi đã được đặt ra: Phải chăng đây là 2 số tiền và vàng khác nhau? Về sau, ông Diệm cũng chỉ ra lệnh điều tra về số tiền và vàng mà Đại tá Y đã tìm được, chứ không nói gì đến số tiền và vàng mà Tướng Thi đã kể.

 Đại tá Nguyễn Văn Y, cựu Tổng Giám đốc Cảnh sát Quốc Gia kiêm Đặc ủy Trưởng Phủ Đặc ủy Trung ương Tình báo của VNCH đã tường thuật như sau: Lúc đó ông ta là Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu Trưởng Chợ Lớn, chỉ huy Tiểu Đoàn 184.

Vào khoảng tháng 5/1955, sau khi đánh đuổi quân Bình Xuyên chạy vào Rừng Sác, ông đã thả các nhân viên Phòng Nhì đi thăm dò ven rừng.

Các nhân viên này thấy một người đang ngồi câu cá trên một chiếc xuồng ở một khu vắng, dáng điệu rất khả nghi, nên bắt về thẩm vấn.

Sau nhiều cuộc tra hỏi, người này thú nhận anh ta là một cận vệ của Bảy Viễn, được phái ở lại giữ hai thùng phuy vàng và bạc đã phải nhận chìm xuống nước trước khi chạy trốn. Ông đã cho thợ lặn xuống tìm nhưng không thấy.

Nhân viên Phòng 2 tiếp tục thẩm vấn, người này quả quyết nơi anh ta làm dấu đúng là nơi đã nhận 2 thùng phuy xuống.

 Thấy thái độ quả quyết của anh này, ông cho thợ lặn xuống mò một lần nữa, nhưng trong một phạm vi rộng hơn.

Quả nhiên, thợ lặn đã vớt được hai thùng này cách xa nơi đánh dấu khoảng 100 thước, vì bị nước cuốn trôi đi. Đây là thứ thùng phuy đựng dầu xăng loại 200 lít. Kiểm tra cho thấy một thùng đựng bạc giấy, còn một thùng đựng vàng.

Bạc giấy toàn là loại 500$, được gói trong những bao nilon nhỏ, có nhiều bao bị nước thấm ướt. Ông bảo nhân viên đem số bạc ướt phơi khô rồi đưa tất cả đi nạp vào ngân khố.

Còn thùng vàng được chở đến giao cho Đại tá Dương Văn Minh, Quân Trấn Trưởng Sài Gòn.

 Tướng Nguyễn Khánh, lúc đó là Trung tá Chỉ huy Phó của Đại tá Minh, cho biết số vàng này khi giao nạp đã được bỏ vào trong hai cái rương, nhưng rồi sau đó không còn nghe Dương Văn Minh nói gì về số vàng này.

Ông Diệm đã ra lệnh cho Thẩm phán Lâm Lễ Trinh, Biện lý Tòa sơ thẩm Sài Gòn, và Thiếu Tá Mai Hữu Xuân, Giám Đốc An Ninh Quân Đội, mở cuộc điều tra vụ này.

Tướng Minh đã sừng sộ và giận dữ nói rằng, ông Diệm là người bội bạc, ông đã giúp ông Diệm đánh dẹp Bình Xuyên mà còn hỏi cái gì.

Bản báo cáo hai trang của Đại tá Mai Hữu Xuân chỉ xác nhận số vàng Tiểu khu Chợ Lớn tịch thu được đã giao cho Đại tá Dương Văn Minh cất giữ và đề nghị nên đem ra chia nhau.

Thực tế Kho tàng Bình Xuyên, theo nhận định của rất nhiều người có thể chia làm 4 phần: Kho tàng do 3 bà vợ chính thức của Tướng Bảy Viễn nắm giữ.

Ðó là bà Lúa, con gái Hội đồng Ðống ở làng Ða Phước, bà Hà Thị Tám, nguyên Thư ký kế toán hãng thuốc lá MIC và bà Hoa; một phần là số tiền Đông Dương chôn giấu, mà Đệ nhất Tiểu đoàn Bộ Binh Thủy quân Lục chiến phát hiện ra; một phần nữa là số tiền Đông Dương và vàng do Liên đoàn Nhảy dù phát hiện, trong đó có cặp ngà voi khổng lồ rất quí giá, sau này trưng bày tại phòng Khánh tiết Dinh Độc Lập. Phần tài sản cuối cùng là vàng, kim cương và tiền Đông Dương do Trung tá Bảy Môn chôn giấu, tẩu tán.
Theo pntoday
 Bảy Viễn : Cuộc đời ngang dọc 


image
 

1- Mở bài

Bảy Viễn vào đời bằng một chuỗi tiền án không mấy vẻ vang gì, từ trộm vặt, hành hung người, rồi ăn cướp có vũ khí. Cuộc đời giang hồ vào tù ra khám, vượt ngục. Chữ nghĩa không có, thời thế đưa đẩy lên địa vị một tướng lãnh, nắm giữ bộ máy cảnh sát công an đô thành Sài Gòn Chợ Lớn. Một tướng cướp lại đóng vai trò người đi bắt cướp, giữ an ninh Đô thành, thì thật là quá mĩa mai cho một thời nhiễu nhương của người Việt.
 

image

2/- Vụ cướp tiệm vàng Kim Khánh

Năm 1942, Bảy Viễn với người bạn giang hồ là Mười Trí, lên kế hoạch đánh cướp tiệm vàng Kim Khánh, tại một nơi buôn bán ồn ào náo nhiệt trên đường Trần Hưng Đạo. Bảy Viễn giả làm ông chủ tiệm vàng giàu có ở Cần Thơ, dùng yếu tố bất ngờ, với khẩu súng Colt để cướp vàng và tiền bạc.

Theo kế hoạch, tài xế và Mười Trí đậu chiếc xe Huê Kỳ sang trọng trước tiệm vàng. Mười Trí giữ nhiệm vụ ra dấu hiệu để liên lạc và bảo vệ. Một đàn em giả làm dân dạo phố ngồi ở ngã tư, ra dấu làm hiệu, khi cảnh sát gác đường ra về đổi phiên.


Trưa hôm đó, chiếc xe Huê Kỳ bóng láng ngừng trước tiệm vàng Kim Khánh. Bảy Viễn oai vệ trong bộ đồ lớn màu hột gà, cà vạt đỏ, kiếng gọng vàng, nón Fletcher, giày 2 màu, xách cạt táp da, miệng ngậm xi gà, bước vào giở nón chào chủ tiệm:

- “Tôi định lên sớm, nhưng kẹt hai chiếc bắc Cần Thơ và Mỹ Thuận, nên giờ mới tới. Trưa trờ trưa trật rồi, bà chủ thông cảm cho”.


Bảy Viễn kéo tay áo xem giờ, để lộ chiếc đồng hồ Omega vàng, nói : “Kém 15 phút đầy 12 giờ, bà chủ chưa nghỉ trưa sao ?”

Bà chủ nhìn Bảy Viễn, nhìn ra chiếc xe Huê Kỳ, biết là khách sộp, tươi cười đáp :
- “Đúng 12 giờ, tiệm đóng cửa, ăn cơm và nghỉ trưa, nhưng có khách từ lục tỉnh lên, chúng tôi vui lòng đón tiếp, quá 12 giờ cũng không sao”.


Bảy Viễn trao danh thiếp : “Đây là tiệm vàng của tôi, mới khai trương hồi tháng trước, nhờ trời thương, làm ăn khá nên chuyến nầy lên Sài Gòn bổ hàng. Nghe các đồng nghiệp nói tiệm Kim Khánh là nơi đáng tin cậy, nên tôi tới làm quen”.

Bà chủ mời xem hàng trong tủ kiếng. Khi thấy Mười Trí dùng tờ báo xếp làm tư, quạt phe phẩy ra hiệu, cho biết cảnh sát đã rời ngã tư đi đổi gác, thì lập tức, Bảy Viễn dằn khẩu “colt đuôi” trên mặt kiếng và nói : “Không được la ! Hễ la là chết tức khắc”. Tất cả vàng trong tủ kiếng được dồn hết vào cặp da. Chiếc xe phóng nhanh đến ngã tư mới nghe tiếng bà chủ la làng. Chỉ trong 10 phút là xe đã ra tới mũi tàu Phú Lâm.
Phấn khởi trước thắng lợi quá dễ dàng, Bảy Viễn rủ Mười Trí ăn hàng xuởng mộc Bình Triệu.

3/- Cướp xuởng mộc Bình Triệu

Xưởng mộc Bình Triệu là nơi chuyên đóng ghế salon danh tiếng nhất Sài Gòn. Chủ là một người Tàu Chợ Lớn. Buổi tối chỉ có người tài phú ngủ lại xưởng, giữ số tiền chờ gởi nhà băng vào cuối tuần.
Sáu giờ chiều ngày 8/9/1942, Bảy Viễn và quân sư Mười Trí cùng hai tên đàn em là Ba Rùm và Tư Nhị, lên chiếc xe lộng lẫy mô đen mới sau cùng, vừa chạy hết “rô đai”, do một đại xì thẩu Chợ Lớn là Trần Tăng cho mượn.

Xe vượt qua cầu Bình Lợi đến thẳng xuởng mộc Bình Triệu. Khi tài phú người Tàu mở cửa cổng, thì tức khắc, Bảy Viễn kè sát tên Tàu, ấn mạnh khẩu colt đuôi vào ba sườn hắn, nói :


- “Tao tới đây mượn tiền ông chủ mầy, xài tạm trong cơn túng quẩn, muốn sống thì vô nhà mở tủ đưa hết tiền cho tao”.

Tư Nhị theo sát Bảy Viễn, quơ hết mớ bạc trong tủ bỏ vào túi kaki, trong khi đó, Mười Trí quan sát động tịnh bên ngoài. Trước khi rút, Bảy Viễn ra lịnh : “Mầy không được la làng, chờ cho xe tao đi xa rồi mới đuợc phép la, nghe chưa !”.

Khi xe đang ở giữa cầu Bình Lợi, thì phía sau có đèn pha xe hơi chớp sáng. Ba Rùm quay lại. Đèn pha mỗi lúc một tới gần. Ba Rùm la lên : “Thằng Tây trên xe nó bật đèn pha xin qua mặt xe mình đó anh Bảy”. Bảy Viễn nhấn ga, chiếc xe phóng nhanh, không cho qua mặt. Hai chiếc xe cứ lao hết tốc độ như cuộc đua chạy nước rút.


Trời bỗng chớp nhoáng, mấy tiếng sấm, rồi mưa bắt đầu rơi. Chiếc xe sau vẫn bám sát.

Mười Trí nói :
- Trời mưa, đường trơn, thôi cho nó qua mặt đi.
Bảy Viễn cự lại :
- Không được. Cho nó qua, nó sẽ báo cho đồn Bà Chiểu truy bắt tụi mình.

Bổng Mười Trí giật mình. Trước mặt là một chiếc xe bò, cà rịch cà tang đi sát lề, theo sau là chiếc thổ mộ (Xe ngựa). Thế rồi thổ mộ vượt qua xe bò. Con đường đã hẹp lại không có chỗ cho xe hơi vượt qua. Mười Trí toát mồ hôi lạnh khi thấy Bảy Viễn vẫn miết ga 120km/giờ. Vừa lúc xe thổ mộ qua mặt xe bò, rồi nép vào lề mặt, chiếc xe của Bảy Viễn vượt qua như ánh chớp. Mọi người thở phào, nhẹ nhõm. Chưa hết gian nan. Khi tới cầu Băng Ki, Bảy Viễn thình lình chặt cua, quẹo qua ngã ba Cây Thị để sửa lưng thằng Tây, cắt đuôi nó, thế nào nó cũng ngon trớn chạy thẳng.

Do quẹo gấp mà không bớt ga rà thắng, lại gặp đường trơn, chiếc xe sàng qua sàng lại rồi đâm đầu xuống ao cá vồ bên đường. Không thể kéo chiếc xe lên được. Mười Trí thở dài : “Thôi, chỉ có nước ôm tiền về nhà, sáng mai mướn xe kéo nó lên, o bế cẩn thận rồi trả lại cho Trần Tăng. Thế là cả nhóm bao một cuốc xe ngựa về nhà Bảy Viễn.

Cảnh sát truy ra chủ xe là Trần Tăng. Thế là cả nhóm bị tóm. Ra toà mỗi người lãnh 12 năm tù khổ sai, đày đi Côn Đảo. Riêng Bảy Viễn, cộng thêm 8 năm còn thiếu do vụ vượt ngục trước kia, thành 20 năm.

4/- Vài nét về Bảy Viễn

image


Bảy Viễn là một tướng cướp lừng danh trước năm 1945. Về sau, theo Việt Minh chống Pháp, rồi ly khai Việt Minh về hợp tác với chính phủ quốc gia của quốc trưởng Bảo Đại. Bảy Viễn, thủ lãnh Bình Xuyên chống chính phủ Ngô Đình Diệm, bị dẹp tan năm 1955. Bảy Viễn chạy sang Pháp lánh nạn và mất năm 1970.


Lê Văn Viễn sinh năm 1904 tại Phong Đước, quận Cần Giuộc, tỉnh Chợ Lớn. Cha là Lê Văn Dậu, người Tàu gốc Triều Châu. Bảy Viễn học hết tiểu học trường làng rồi đi bụi đời, học võ, học gồng. Mình xâm hình con rồng màu đỏ ở lưng, đầu rồng ở sau cổ, đuôi rồng xuống tới hậu môn. Hai vai, xâm hình đầm ở truồng, đầu rắn xâm ở đầu dương vật. Vì xâm mình rất đau, dùng kim đâm cho chảy máu rồi lấy mực tàu trét vào, cho nên những người chịu nổi thì thuộc về tay anh chị. Người cao 1,7 m.

Bảy Viễn lập băng đảng, nổi danh là tay anh chị chợ Bình Đông, bảo kê các trường đá gà, rồi đứng bến xe lục tỉnh.


- Năm 1921, bị tù lần đầu 20 ngày về tội ăn cắp xe đạp.
- Năm 1927. bị tù 2 tháng vì hành hung ông chủ, khi giữ chân gác sòng bài cho ông.
- Năm 1936. Ngày 28/8/1936, bị kết án 12 năm khổ sai, đày đi Côn Đảo về tội cướp tiệm vàng ở Giồng Ông Tố, thu được số tiền rất lớn là 6,000$. (Hồi đó, 1 đồng bạc mua được 5 giạ gạo).


image
Bảy Viễn Tướng Bình Xuyên

- Ngày 8/2/1940, ở tù được 4 năm thì vượt ngục lần thứ nhất về đất liền. Như vậy còn thiếu 8 năm, nên được cộng thêm vào án 12 năm trong vụ cướp xưởng mộc Bình Triệu.

5/- Cuộc vượt ngục lần thứ hai

Tù Côn Đảo chỉ có một phương tiện duy nhất là bứt mây rừng, đốn cây kết bè, chờ đến mùa gió chướng, thổi từ biển vào đất liền, rồi thả bè cho trôi theo chiều gió. Trong lịch sử vượt ngục Côn Đảo không tới 10 cuộc thành công.

Tù nhân được điểm danh mỗi ngày. Các bãi biển thả bè hướng về đất liền, luôn luôn được canh giữ cẩn mật, bởi những phạm nhân sắp mãn hạn tù, được cử làm “trật tự” chờ đợi ngày về Sài Gòn, ra khám.


Hơn nữa, vùng biển Côn Đảo có rất nhiều cá mập, ít có chiếc bè nào dám vượt qua mũi Cá Mập cả. Gian nan và nguy hiểm chập chùng trên đường vượt biển. Lắm khi giông bão nổi lên, cuốn bè trôi mất phương hướng, thay vì vào ven biển đất liền thuộc các tình miền Nam, lại trôi ngược lên tận đảo Hải Nam của Trung Hoa. Người chết vì đói và khát. Côn Đảo cách Vủng Tàu 120km.


Trong chuyến vượt ngục lần thứ hai nầy, trên bè có Mười Trí, Bảy Viễn, Tư Nhị và Năm Bé. Trước cảnh đồng hội đồng thuyền, sống chết trên biển, các tay giang hồ liền nhớ đến chuyện Đào viên kết nghĩa của bộ ba Lưu, Quan, Trương trong chuyện Tàu, nên đồng ý kết nghĩa huynh đệ giang hồ, có phước cùng hưởng, có họa cùng chia.



Trời hôm đó sáng rở, biển lặng, đúng giờ hoàng đạo, mỗi người tiểu chung vào một cái ca, lấy nước tiểu thay máu đào uống vào, kết nghĩa anh em theo kiểu tù vượt ngục. Mười Trí sinh năm 1903 làm đại ca, Bảy Viễn sinh 1904, làm nhị ca, tam ca là Năm Bé và em út là Tư Nhị.

6/- Đánh cướp chủ đồn điền Dầu Tiếng

Một hôm, đàn em Bảy Viễn báo cáo tình hình, tên giám đốc đồn điền cao su Dầu Tiếng, hàng tuần đều đến nhà băng lấy tiền về trả lương cho thầy, thợ.

Theo kế hoạch, Bảy Viễn đi mướn chiếc xe Huê Kỳ và đích thân lái. Mười Trí giữ vai cận vệ. Đúng giờ G sáng thứ bảy, Bảy Viễn cho xe đậu sát chiếc xe của Tây giám đốc đồn điền, rồi xách cặp da vào ngồi ở ghế chờ đợi, dành cho khách hàng, mở sổ sách ra giả vờ tính toán mà cặp mắt luôn theo dõi thằng Tây.

Khi tên giám đốc ôm tiền bước ra khỏi cửa nhà băng, thì Mười Trí chồm qua xe hỏi mượn bật lửa châm thuốc. Người tài xế vô tình mò tìm bật lửa, thì nhanh như cắt, Mười Trí dùng cạnh bàn tay chém vào gáy, làm tên tài xế bất tĩnh, gục xuống. Bảy Viễn chờ cho thằng Tây đến bên cửa xe mới tấn công. Một gói ớt bột đập ngay vào mắt, tên giám đốc tá hỏa, buông va li tiền và ôm mặt.

Nhanh tay, Bảy Viễn chụp túi bạc liệng lên xe rồi nhảy lên đạp ga vọt nhanh. Mọi việc xảy ra quá nhanh nên không nghe có ai la làng cả.


Bảy Viễn về đến sào huyệt cả tuần lễ, thì vụ cướp táo bạo giữa ban ngày mới được báo chí bàn tán xôn xao. Các phóng viên đồng ý với nhau rằng, kiểu cướp phóng xe Hoa Kỳ là sở trường của Bảy Viễn.


Sáng hôm đó, xe đạp Mười Trí cán đinh nên phải ghé lề đường vá xe. Thình lình, một xe chở đầy lính lướt qua, Mười Trí biết bị lộ, nên vọt thẳng xuống Sài Gòn. Bảy Viễn đang ngồi đánh bài thì được tin báo, xuống xuồng bơi qua sông thoát hiểm. Nhưng sau đó, bị bắt nguội và lại bị kết án đày đi Côn Đảo một lần nữa, là lần thứ ba.


Ở đảo, nhờ Ba Rùm giúp đở, nên Bảy Viễn và Mười Trí vượt ngục lần thứ ba.


Khi về tới đất liền thì tình hình chính trị thay đổi nhanh chóng, Nhật Hoàng tuyên bố đầu hàng Đồng minh vô điều kiện. Bọn Nhật ở Đông Dương buồn rầu hơn bố chết, nhiều sĩ quan, Harakiri, tự mổ bụng tự tử.
Theo báo chí, thì quân đội Anh-Ấn tước khí giới quân Nhật ở miền Nam, quân của Tưởng Giới Thạch do tướng Lư Hán chỉ huy, tước khí giới Nhật từ vĩ tuyến 16 trở lên Hà Nội. Thừa lúc Nhật bị tước khí giới, người Pháp còn bị Nhật giam, Việt Minh cướp chánh quyền, tuyên bố độc lập vào ngày 2/9/1945. Trong khi đó, quân đội Pháp từ Calcutta và Bombay, Ấn Độ, đang trên chiến hạm trực chỉ Sài Gòn để tái chiếm lại Nam Kỳ từ tay người Nhật.

Bảy Viễn dốt về chính trị, không biết nên ngã về phía nào, theo Việt Minh hay Pháp, cho nên áp dụng “nắng chiều nào, che chiều đó”, rồi quyết định mua súng, lập bộ đội. Súng đạn tụi Nhật rẻ như bèo, dại gì đem nạp cho quân Anh-Ấn.


Ngày 5/10/1945, tướng Pháp Leclerc đến Tân Sơn Nhất, sau khi chiến hạm Triomphant chở đầy lính cập bến Sài Gòn. Tướng Leclerc tuyên bố, Pháp sẽ quét sạch Việt Minh trong 3 tuần lễ. Quân Pháp bắt đầu đánh chiếm Biên Hòa, Thủ Dầu Một, Tân An, Mỷ Tho. Ủy viên quân sự Trần Văn Giàu cho các đơn vị vũ trang rút ra ngoại ô, tổ chức đánh du kích.

Thực dân Pháp bắt đầu chiến dịch truy tìm những thành phần theo Việt Minh và những nhóm anh chị giang hồ, đầu trộm đuôi cướp, vì thế, Bảy Viễn phải ra bưng.

image
Nữ quân Bình Xuyên

7/- Bộ đội Bình Xuyên

Bình Xuyên là tên của một ấp thuộc làng Chánh Hưng, quận Nhà Bè. Sau năm 1945, Bình Xuyên chỉ một lực lượng của dân giang hồ Nam Bộ, mà người đứng đầu là Ba Dương. Ba Dương (Dương Văn Dương) đang “đứng bến” tại bến xe Sài Gòn-Tây Ninh-Nam Vang (Phnom Penh), thì Pháp ban hành tình trạng khẩn cấp, hốt hết những “phần tử nguy hiểm” gồm Cộng Sản và dân giang hồ, nên phải chạy về ẩn trốn ở quận Cần Giuộc.

Ba Dương bị bọn chỉ điểm bắt về quận. Chủ quận là tay gian ác, buộc Ba Dương phải uống hết một chùm tóc rồi mới được thả. Tóc vô người, phá nát bộ tiêu hóa rồi chết lần chết mòn. Thời may, Ba Dương có một đệ tử trung thành trong quận, lãnh về thuốc men chữa trị nên sống sót.

Ba Dương quy tụ đàn em và đám giang hồ bị rượt đuổi, lập căn cứ tại ấp Bình Xuyên và theo Việt Minh chống Pháp. Mười Trí là bạn giang hồ của Ba Dương, nên cả bọn Bảy Viễn gia nhập bộ đội Việt Minh ở Bình Xuyên. Bảy Viễn giữ chức chỉ huy phó.

Khi Ba Dương bị Tây bắn chết, được VM phong chức thiếu tướng đầu tiên ở miền Nam. Bảy Viễn có tham vọng muốn lên thay Ba Dương làm chỉ huy trưởng, nhưng bị cán bộ VM ngăn chận, nên không thành. Lãnh đạo kháng chiến Nam Bộ là Thiếu tướng Nguyễn Bình, tên thật là Nguyễn Phương Thảo, em kết nghĩa với tướng cướp, nhà văn Sơn Vương Trương Văn Thoại.


Nguyễn Bình, một mặt muốn giữ lực lượng của Bảy Viễn theo VM, một mặt tách rời Bảy Viễn ra khỏi quyền lực, bằng cách phong chức Tư lịnh phó khu 7 cho Bảy Viễn.



image
Tướng Nguyễn Bình
Vì không được tin dùng, và do sự móc nối của tên trung tá phòng nhì Pháp Savani, nên Bảy Viễn mang 2 đại đội về hợp tác với quân đội Pháp, và được thăng chức Đại tá.

8/- Con lộ 15 


Hồi đầu kháng chiến, con đường Sài Gòn-Vủng Tàu dài 125km bị phá hủy nặng nề. Bị cuốc trốc lớp nhựa, cào bỏ đá xanh rồi trồng tre lên. Qua vài mùa mưa, tre mọc xanh um. Những nơi chưa kịp trồng tre, thì cây cối bị đốn ngã chụm vào nhau, con đường 15 biến mất. Cầu sắt hay cầu xi măng gì cũng bị phá sập hết. Chiếc cầu dài nhất trên tuyến đường là cầu Cỏ May bị sập nhịp giữa.


image
Đại tá Bảy Viễn được tướng Pháp De la Tour giao nhiệm vụ giải tỏa con đường nầy. Công binh Pháp xây cầu, làm đường tới đâu, thì quân Bình Xuyên đóng đồn bót giữ an ninh tới đó. Công việc giải tỏa con đường bắt đầu từ thời tướng De la Tour, kéo dài qua thời tướng Chanson và hoàn thành ở thời tướng Bondis, như thế là mất 3 năm.


image

Tướng Bondis vô cùng mừng rở khi công tác giải tỏa hoàn thành, và đề nghị Bảo Đại phong cho Bảy Viễn lên chức Thiếu tướng.

9/- Lót tay mua lọng

- Quân sư Huỳnh Đại : Một đêm đi cao lâu, Bảy Viễn gặp lại ân nhân, thuở xưa đã giúp đỡ trong khi mãn tù nghèo đói, lang thang, đó là Huỳnh Đại, một thương gia người Tàu có máu Mạnh Thường Quân, hiện làm chủ nhà hàng Đại La Thiên, sang trọng nhất nhì trong Chợ Lớn. Lịch sử Huỳnh Đại cũng tương tự như của chú Hoả, Hui Bon Hoa. Từ tay trắng làm nên sự nghiệp.
Cả hai, tay bắt mặt mừng, kéo nhau vào mở Sam banh chuyện trò tâm sự.

Huỳnh Đại gợi ý làm ăn : “Chức thiếu tướng coi thì oai thiệt, nhưng không bằng nhà kinh doanh. Tôi khuyên chú em nhân lúc có tướng, có quyền, nhảy ra thương trường, phát tài mau hơn.”


Bảy Viễn đáp lại : “Với Đại Thế Giới, mỗi ngày vô két nửa triệu bạc đủ rồi, đại ca còn bày vẽ chi nữa cho mệt”.
 


image

Huỳnh Đại cười, nói : Chuyện làm ăn gặp thời thì phải bung ra, nên nhớ, đời người chỉ có một thời mà thôi. Chú em hãy noi gương Chú Hỏa, với số vốn bạc tỷ, chú em có thể mua nhà băng, mua bán nhà cửa, một vốn bốn lời. Mình chỉ cách chú làm ăn, nhưng trước hết phải tìm người đỡ đầu. Có bao giờ chú em liên hệ với cựu hoàng Bảo Đại, nay là quốc trưởng chưa ?”

Bảy Viễn giật mình : – Chưa, tôi chưa bao giờ nghĩ tới, người ta ở trên cao còn mình ở dưới thấp làm sao mà vói tới được”.

Huỳnh Đại tiếp : – Cao thì cao, nhưng ông ta cũng vẫn cần tiền, vì một người ăn xài như vua, mà nay lương bổng hàng tháng thì làm sao cho đủ ? Chú mầy nên trích ra một số tiền hoa hồng hàng tháng, gởi cho cựu hoàng, gọi là giúp vào quỹ xã hội của ông ta. Đồng tiền đi trước là đồng tiền khôn. Sách có câu “thọ tài như thọ tiễn”, cựu hoàng sẽ có cách báo đáp xứng đáng”.
 

image
Quốc Trưởng Bảo Đại ở Hồng Kông và Pháp

- Nghĩa đệ của Bảo Đại : Nghe lời Huỳnh Đại, tướng Bảy Viễn tìm cách liên hệ với Bảo Đại, nhưng lót tay không phải là chuyện dễ. Bảy Viễn ra lịnh cho hai anh em quân sư là Lai Hữu Tài và Lai Hữu Sang lập hồ sơ về Bảo Đại…. Đọc xong lý lịch, Bảy Viễn quyết định lót tay Bảo Đại để có chiếc lọng che thân phòng khi bất trắc.


Bảy Viễn nhờ bào đệ của Bảo Đại là Vĩnh Cần làm trung gian cho biết, Bảy Viễn sẽ ủng hộ quốc trưởng mỗi tháng 240,000$.

Đầu năm 1954, Bảo Đại nhận Bảy Viễn là “nghĩa đệ” khi Bảy Viễn giúp 500,000 đô la Mỹ để Bảo Đại gởi qua Hồng Kông cho cô bồ Tàu lai Tây, tên Hoàng Tiểu Lan (Jenny Woong), đã có con gái với Bảo Đại, tên Nguyễn Phúc Phương Ân.


Bảy Viễn được giao phụ trách cảnh sát công an Sài Gòn Chợ Lớn.



image

Bảy Viễn mở rộng Đại Thế Giới (Casino Grand Monde), Kim Chung (Tiếng chuông vàng – Casino Cloche d’Or), được báo chí Pháp ca ngợi hết lời : “Một thành phố trong một thành phố”. Đại Thế Giới gồm gian hàng cờ bạc, 2 rạp chiếu bóng, 3 rạp cải lương, Tiều Quảng, vũ trường. Đại Thế Giới có 3 chi nhánh, một ở đường Camette, 2 ở trong Chợ Lớn.

Thủ tướng Trần Văn Hữu không ký Quyết định mở rộng Đại Thế Giới, nhưng Bảo Đại ký.


10/- Chọn Tham Mưu Trưởng cho Quân Đội Quốc Gia Việt Nam

image
Phan Văn Giáo & Bảo Đại ở phi trường Đà Lạt 1949
Bảo Đại mời một số chính khách lên biệt điện Đà Lạt để bàn thảo về việc chọn một Tham Mưu Trưởng cho QĐ/QG/VN. Trong các nhân vật được quốc trưởng đề cử, có tên Bảy Viễn. Thủ hiến Trung phần, dược sĩ Phan Văn Giáo, là người đả kích Bảy Viễn hơn ai hết. Không may cho ông, là ông chê bai Bảy Viễn trước mặt đại diện Lai Hữu Sang. Tư Sang điện khẩn vụ việc, báo cáo cho Bảy Viễn.


Bảy Viễn tức sôi máu, nhảy lên chiếc Jaguar, loại xe đua mới xuất xưởng, chạy một mạch lên Đà Lạt. Con đường có nhiều đèo cao, vòng vèo, kế bên vực thẩm, ở những khúc cua có những cái am nhỏ bên đường, để cúng cô hồn những người tử nạn, nhưng xe vẫn miết ga. Đến khách sạn Langbian, nơi có quan khách đến ở dự phiên họp với quốc trưởng, Bảy Viễn lớn tiếng hỏi Tư Sang :
- Thằng chó đẻ Phan Văn Giáo là thằng nào mà dám nói xấu Bảy Viễn nầy ?



image
Bảo Đại 


Một người bồi nhanh chân báo động, Phan Văn Giáo dông ra cửa sau, đón taxi lên biệt điện cầu cứu với Bảo Đại. Bảy Viễn và Tư Sang phóng xe lên biệt điện. Phan Văn Giáo trốn biệt. Bảo Đại phải đứng ra dàn xếp. Dù chết hụt, nhưng Phan Văn Giáo vẫn tiếp tục công kích Bảy Viễn :


- “Không hiểu quý ngài nghĩ thế nào, chớ riêng tôi, tôi cảm thấy vô cùng xấu hổ nếu một tướng cướp được chọn để giao chức Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Đội Quốc Gia Việt Nam. Trước đây, Đại Thế Giới do ông Lâm Giống, người gốc Ma Cau thầu khai thác. Để buộc Lâm Giống phải giao Đại Thế Giới lại cho mình, Bảy Viễn không ngần ngại sai đàn em ném lựu đạn vào sòng bạc Kim Chung, làm thiệt mạng 60 người. Rồi còn bắt cóc những người trong ban giám đốc để tống tiền.



image
Bảy Viễn


Các ngài có biết không, khi nhậm chức cầm đầu ngành cảnh sát công an Sài Gòn Chợ Lớn, Bảy Viễn liền cho lập xóm Bình Khang, một nhà chứa khổng lồ hoạt động công khai, phục vụ binh sĩ”.
Phan Văn Giáo là người xu nịnh Bảo Đại, đã gả em vợ tên Lê Thị Phi Ánh cho Bảo Đại làm thiếp.
image
TT Diệm cùng tướng Bảy Viễn


11/- Thủ tướng Ngô Đình DiệmQuân đội Pháp ngày càng thua trên các mặt trận, Bảo Đai qua Pháp, gọi là để theo dõi thời cuộc, cho rằng số phận VN sẽ được giải quyết tại bàn hội nghị giữa các cường quốc. Hoa Kỳ thuyết phục Bảo Đại chấp thuận cho Ngô Đình Diệm làm thủ tướng. Bảo Đại không ưa gì ông Diệm, nhưng tình thế bắt buộc nên phải đồng ý.


image



Ba Tướng đối lập với ông Ngô Đình Diệm : Nguyễn Văn Xuân, Nguyễn Văn Hinh, và Lê Văn Viễn (thủ lĩnh Bình Xuyên) đang diễn mua chuộc HHHG tại Dinh Độc Lập


Bảy Viễn lúc nào cũng theo dõi, nghe ngóng về Bảo Đại, vì đó là cái lọng che chở cho Bình Xuyên, cho cái ghế ngồi vững chắc của ông ta.

Ngô Đình Diệm về nước vào tháng 6 năm 1954. Thủ tướng Diệm dẹp Đại Thế Giới và Kim Chung, làm cho Bảo Đại và Bảy Viễn bất mãn, vì đó là cái túi tiền của cả hai. Trung tá Phòng Nhì Pháp, Savani cho Bảy Viễn biết, là ông Diệm quyết tâm dẹp các lực lượng vũ trang của các giáo phái và đảng Đại Việt ở miền Trung.
12/- Bình Xuyên tấn công quân chính phủ Ngô Đình Diệm

image

- Thành lập Mặt Trận Quốc Gia Toàn Lực : Khi thủ tướng Diệm đóng cửa Đại Thế Giới và Kim Chung, thì Bảo Đại và Bảy Viễn nhất quyết đánh ông Diệm. Mặt Trận Quốc Gia Toàn Lực (MTQGTL) quy tụ lực lượng vũ trang của các giáo phái, gồm Cao Đài, Hòa Hảo, Thiên Chúa và Bình Xuyên, để chống chính phủ Ngô Đình Diệm.


Bình Xuyên chỉ có 3 tiểu đòan. Năm Lửa Trần Văn Soái, Hòa Hảo, gởi 1 tiểu đoàn, Cao Đài biệt phái 1 tiểu đoàn, tướng Nguyễn Văn Hinh chi viện 1 tiểu đoàn lính Dù, như vậy MTQGTL có 6 tiểu đoàn.

Ngày 9/5/1955, Bảo Đại đánh điện triệu tập ông Diệm sang Pháp, nhưng ông không đi và tiến hành việc triệt hạ lực lượng vũ trang của các giáo phái.
12/2. Trung tướng Nguyễn Văn Vỹ đảo chánh Thủ tướng Ngô Đình Diệm. Theo lịnh của Bảo Đại, tướng Nguyễn Văn Hinh rời VN vĩnh viễn, và phải trao quyền Tổng Tham Mưu Trưởng QĐ lại cho Trung tướng Nguyễn Văn Vỹ.

Trong hồi ký “Việt Nam nhân chứng”, tướng Trần Văn Đôn thuật lại như sau :
“Nguyễn Văn Vỹ hấp tấp họp báo, tuyên bố rằng quân đội cùng ông đảo chánh Ngô Đình Diệm. Thiếu tướng Lê Văn Tỵ, tướng Trần Văn Đôn, Nguyễn Hữu Có, Dương Văn Đức được gọi đến. Thiếu tướng Lê Văn Tỵ hỏi :

- Các anh đang làm gì đó ?


Trung tướng Nguyễn Văn Vỹ trả lời : – Tôi làm đảo chánh.


- Anh lấy gì để làm đảo chánh ?


- Quân đội.


Tướng Lê Văn Tỵ lột sao trên vai của mình để xuống bàn, nói :


- Tôi lột lon trả lại cho anh. Tôi không theo anh đâu !” (Hết trích)

image
Tướng Lê Văn Tỵ
oOo


Nhị Lang, tên thật là Thái Lân, một nhà văn, nhà cách mạng lão thành, cố vấn chính trị và là người phát ngôn của thiếu tướng Trịnh Minh Thế, kể lại vụ việc như sau :


“Khi tôi tới nơi khoảng 6 giờ chiều, chúng tôi bắt gặp một số sĩ quan khoảng 50 người đang ngồi chật phòng khách, tầng dưới của Dinh Độc Lập. Trên lầu, tôi thấy Lê Văn Tỵ đang ngồi trong phòng khách với một sĩ quan mà tôi không biết tên.

Thấy hơi lạ, vì tại sao thủ tướng Diệm lại tiếp khách một lượt đông sĩ quan như thế ? Tôi bèn nhờ Đại úy tùy viên Tạ Thành Long kín đáo dọ xét tình hình, thì được biết, hồi chiều nầy, tướng Nguyễn Văn Vỹ thừa lịnh Bảo Đại, tước binh quyền trong tay Thiếu tướng Lê Văn Tỵ. Và tướng Tỵ bị các sĩ quan “áp giải” theo họ vào Dinh Độc Lập để tước đoạt nốt quyền lãnh đạo chính phủ của Thủ tướng Ngô Đình Diệm. Như thế có nghĩa là số 50 sĩ quan nầy đã đồng loã với tướng Vỹ, kéo vào Dinh Độc Lập, lấy số đông bao vây và áp đảo ông Diệm.

Xin nhắc lại, Bảo Đại đã không những triệu hồi Ngô Đình Diêm sang Pháp mà còn đòi cả Lê Văn Tỵ phải bỏ nhiệm vụ đi theo. Mặt khác, Bảo Đại còn phong cho trung tướng Nguyễn Văn Vỹ làm Tổng Tư Lịnh QĐ/QG/VN.

Lúc đó, Nhị Lang chỉa súng vào tướng Vỹ và lột lon ông ta. Trần Trung Dung bèn báo cáo, và Ngô Đình Nhu kéo tướng Vỹ vào phòng.

Nếu không có hành động phi thường, nhanh trí và quyết định chớp nhoáng của Nhị Lang, chỉa súng lột lon, và nếu không có khẩu Colt 45, thì tướng Vỹ đã thành công trong việc áp đảo ông Diêm từ chức, để đưa Bảy Viễn lên làm Thủ tướng, thì chắc chắn tình thế sẽ hỗn loạn và rối rắm muôn phần.


Trung tướng Vỹ và Nguyễn Tuyên bay lên Đà Lạt, từ đó bay sang Cao Miên rồi sang Pháp sống lưu vong.”


image

 

- Quân Bình Xuyên tấn công Dinh Độc Lập : Mâu thuẫn hai bên căng thẳng đến cực điểm, Bảy Viễn ra lịnh cho Bình Xuyên tấn công trước. Kế hoạch tác chiến được soạn thảo cẩn thận. Những chiếc cầu qua cù lao Chánh Hưng đã được bí mật gài mìn.

Chiều ngày 28/4/1955, lính Bình Xuyên do Bảy Môn chỉ huy, mở cuộc tấn công Dinh Độc Lập bằng súng cối làm chết một người và nhiều người bị thương. Các bót công an của Mai Hữu Xuân cũng bị tấn công. Vài phút sau, quân chính phủ phản pháo vào mục tiêu Chánh Hưng, tiến đến các đầu cầu. Mặt trận phía cầu Tân Thuận, giao cho lính Cao Đài về hợp tác với chính phủ, do thiếu tướng Trịnh Minh Thế chỉ huy.


Bảy Môn cho châm điện phá các cầu, chỉ có cầu Nhị Thiên Đường là còn nguyên vẹn. Hai bên quần nhau suốt 4 ngày, quân chính phủ do Đại tá Dương Văn Minh chỉ huy đã tiến vào tổng hành dinh của Bảy Viễn. Bình Xuyên rút về phía cầu Tân Thuận, là đầu cầu để xuống Rừng Sác.

Mặt trận cầu Tân Thuận gay go nhất, nhiều đợt xung phong qua cầu bị chận lại, nguy hiểm nhất là giang đỉnh của Bảy Viễn, từ dưới sông xả đại liên lên cầu, rồi súng cối nhắm vào đội hình của Trịnh Minh Thế mà tác xạ không ngừng. Một tin xôn xao. Đó là thiếu tướng Trịnh Minh Thế bị tử thương. Một nhà báo Mỹ nói về cái chết của Trịnh Minh Thế, đang đứng trên xe jeep để chỉ huy, tướng Thế gục đầu, quỵ xuống do một phát đạn trúng ngay vào đầu.

Ai giết Trịnh Minh Thế ? Ông Diệm lúng túng, khi kẻ chạy về với quốc gia mà chết khó hiểu như thế, thì còn ai dám chạy về với mình nữa ?.

 
image
Tin đồn cho biết, trong túi Trịnh Minh Thế còn một ngân phiếu 70 triệu đồng chưa lãnh. Thiên hạ đoán rằng, đó là tiền mà Hoa Kỳ thưởng cho tướng Thế đã về hợp tác với quốc gia. Và ông Ngô Đình Nhu là người mãn nguyện trước cái chết đó. Thật ra, trong tình hình như thế, có rất nhiều người muốn loại trừ tướng Trịnh Minh Thế, trong đó có nhóm người của tướng Nguyễn Văn Vỹ trong Quân Đội Quốc Gia VN.

image


Trận chiến ác liệt kéo dài 5 ngày, phía chính phủ có 26 tử thương và 52 người bị thương.

- Quân Bình Xuyên rút vào Rừng Sác : Rừng Sác là khu rừng ngập mặn thuộc quận Cần Giờ, nằm giữa các cửa sông Đồng Nai, Sài Gòn, sông Vàm Cỏ Đông và Vàm Cỏ Tây, diện tích 75,740 hecta.

Rút quân vào Rừng Sát là một sai lầm của Bảy Viễn, vì nước uống rất hiếm, bị bao vây lâu ngày, số nước ngọt dự trữ bị cạn kiệt, gây khó khăn cho mấy ngàn binh lính. Mặt khác, súng cối từ tàu hải quân quốc gia, cứ liên tục nã vào mà không có công sự vững chắc, nên bộ binh bị thương rất nhiều. Người Pháp viện trợ cho Bảy Viễn một chiếc xà lan mới toanh, trang bị đài phát thanh, do Trịnh Khánh Vàng phụ trách, chửi rủa ông Diệm ra rả suốt ngày.


Chính phủ mở Chiến Dịch Hoàng Diệu, do đại tá Dương Văn Minh chỉ huy đánh dẹp Bình Xuyên ở Rừng Sác. 6 tiểu đoàn Bình Xuyên bị bao vây, tinh thần quân lính hoang mang, suy sụp trước những trận pháo kích ác liệt của quân đội quốc gia. Yếu điểm của Bình Xuyên là vợ con binh lính chạy theo vào Rừng Sác rất đông, làm trở ngại tác chiến.


image


Ba tiểu đoàn : quân Dù, Cao Đài, Hòa Hảo không quen đánh giặc, ra quân lần đầu, gặp hỏa lực ác liệt nên buông súng bỏ chạy. Bảy Môn đưa thiếu tá Bay, tiểu đoàn trưởng quân Cao Đài ra hội đồng kỷ luật xét xử vì binh lính bỏ chạy gần hết.

13/- Bảy Viễn sang Pháp

 
Đang lúc bị bao vây ở Rừng Sác, bỗng nhận được tin của thiếu tá trưởng Phòng Nhì Pháp, Savani ra lịnh rõ rang : “Hai ông Tài và Sang hãy đưa thiếu tướng theo người của ta, cắt đường rừng ra Phú Mỹ, sẽ có xe đưa về Bà Rịa. Thế là bộ ba thoát hiểm trong gang tấc, vì quân chính phủ bao vây bắt sống toàn bộ chỉ huy Bình Xuyên.

Ba người chui vào một lô cốt bỏ hoang. Tư Sang dùng máy liên lạc với Vủng Tàu. Sáng hôm sau, một chiếc xe nhà binh Pháp đưa tất cả về Bà Rịa, từ đó, trực thăng đưa ra Vũng Tàu. Phi cơ nhà binh Pháp chở 3 tên tay sai sang Lào, rồi đến Pháp bằng Air France.

Ngày 7/11/1955, Bảy Viễn đến Paris một cách âm thầm như một du khách, vì Pháp muốn giữ bí mật về việc đã ủng hộ giáo phái chống Thủ tướng Diệm. Bảy Viễn an thân nhưng chưa an lòng, vì 3 bà vợ còn kẹt ở VN, và con trai là thiếu tá Lê Paul đang bị giam.


image
Lê Paul con trai Bảy Viễn bị bắn chết
Tướng tá Bình Xuyên bị hốt hết, rồi sau đó đưa ra Côn Đảo, gồm Trần Văn Ân, Hồ Hữu Tường, Trịnh Khánh Vàng, Jean Baptist Nguyễn Văn Đồng. Riêng Lê Paul được tách riêng ra và bị nhốt ở bót Phú Lâm.

Vì sao Lê Paul bị nhốt riêng và không bị đày đi Côn Đảo ?
Sau nầy, ký giả Hilaire Du Berrier cho biết, trong trận đánh cuối cùng, một binh sĩ đã dùng bán súng đập vào vách làm bằng ván ép, thì từ bên trong tuôn ra những bó tiền bằng viên gạch. Ngô Đình Nhu nghĩ rằng, có thể còn những chỗ dấu tiền khác nữa, nên hạch hỏi Lê Paul và bắt làm con tin buộc Bảy Viễn phải nhả tiền ra để cứu con trai.


Bảy Viễn đã cho biết tất cả những trương mục trong các ngân hàng, nhưng ông Nhu cho rằng tiền trong ngân hàng là tiền của quốc gia, không giấu giếm gì được. Việc mà ông muốn là những chỗ chôn dấu khác. Thật ra không có kho tàng nào cả. Thế là số phận của người con 27 tuổi bị xử theo luật giang hồ. Đó là ngày 14/4/1956, cảnh sát đưa Lê Paul ra khỏi bót Phú Lâm, chạy về hướng Phú Định, đến giữa đường xô xuống bắn chết.



 image

 
14/- Kết


Với Bảy Viễn, cuộc đời như một giấc mộng, từ tay không tạo ra tột đỉnh vinh quang bằng những nấc thang mánh mung, bất chánh, phi nghĩa, rồi khi tỉnh giấc, tay trắng hòan trắng tay, sống trong nghèo đói và chết âm thầm nơi đất khách quê người.



image

Cũng giống như nhân vật Vy Tiểu Bảo trong Lộc Đỉnh Ký của Kim Dung, thất học nhưng nhờ nhanh trí mánh khóe, gian xảo, biết nịnh bợ nên đã leo lên đến tột đỉnh vinh quang, nhưng cuối cùng cũng hoàn tay trắng, không vượt qua được số phận của những con người cùng chung cảnh ngộ.

Trúc Giang
Minnesota ngày 7/3/2012
(Blog Sơn Trung)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét