Trận đánh táo bạo của biệt động Sài Gòn đập tan căn cứ radar Phú Lâm
Chọc thủng "mắt thần" Phú Lâm
QĐND - Ra đời trong khói lửa của phong trào vũ trang đô
thị, lực lượng Đặc công Biệt động Sài Gòn-Gia Định đã cùng quân và dân
Sài Gòn-Gia Định lập nên nhiều chiến công xuất sắc trong đấu tranh giải
phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Một
trong những chiến công tiêu biểu là trận đánh kinh thiên động địa của
Tiểu đoàn Biệt động 197 phối hợp với các đơn vị bạn đập tan căn cứ ra-đa
Phú Lâm (nay thuộc địa bàn quận 6)...
Năm 1951, đế quốc Mỹ thành lập trạm thông tin liên lạc nằm ở Phú Lâm,
phía tây nam Sài Gòn để theo dõi các sự kiện tại Việt Nam. Đến giữa năm
1962, trạm ra-đa Phú Lâm có 130 binh lính và nhân viên, chịu trách
nhiệm về hoạt động phát tin, tầm hoạt động vươn đến Thái Lan,
Philippines, Nhật Bản, Mỹ và một số khu vực khác. Số nhân viên làm việc ở
trạm ra-đa Phú Lâm đạt số lượng hơn 700 nhân viên vào năm 1968. Năm
1972, sau khi thực hiện chính sách “Việt Nam hóa chiến tranh”, quân đội
Việt Nam cộng hòa tiếp nhận căn cứ ra-đa này để điều hành cuộc chiến,
trở thành căn cứ ra-đa được trang bị những phương tiện tối tân nhất lúc
bấy giờ để phát hiện mục tiêu, lực lượng của đối phương từ xa. Quân đội
Mỹ và chính quyền tay sai tự hào gọi đây là “mắt thần”.
Một góc căn cứ ra-đa Phú Lâm. Ảnh tư liệu.
Đại tá, PGS, TS Hồ Sơn Đài, nguyên Trưởng phòng Khoa học quân sự Quân
khu 7, kể: Chính quyền Nguyễn Văn Thiệu lúc bấy giờ tăng cường tuyến
phòng thủ ở nội đô Sài Gòn và tổ chức, củng cố lực lượng xung quanh
thành phố. Trong đó, căn cứ ra-đa Phú Lâm đóng vai trò quan trọng trong
thông tin liên lạc, chỉ huy điều hành. Việc đánh chiếm, làm tê liệt căn
cứ ra-đa này có ý nghĩa rất quan trọng, vì đã chọc thủng “tai mắt” của
địch.
Khi cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 diễn ra, Tiểu
đoàn Biệt động 197 được lệnh phối hợp cùng Tiểu đoàn 23, Trung đoàn Đặc
công 429 tấn công phá hủy và làm tê liệt hoạt động của căn cứ ra-đa Phú
Lâm. Sau nhiều lần trinh sát nắm bắt tình hình, đêm 17-4-1975, Tiểu đoàn
Biệt động 197 cùng Tiểu đoàn 23 chia thành hai mũi tấn công căn cứ
ra-đa Phú Lâm. Để tiếp cận mục tiêu này, lực lượng biệt động của ta phải
tìm cách vượt qua nhiều lớp hàng rào dây thép gai, trên các lớp hàng
rào có cài nhiều mìn vướng nổ. Địch tổ chức canh gác cẩn mật quanh khu
vực căn cứ suốt ngày đêm. Ngoài ra, muốn vào được căn cứ, phải băng qua
một cánh đồng rộng, trống trải.
Được bộ đội địa phương dẫn đường, rạng sáng 18-4-1975, hướng tấn công
của Tiểu đoàn Biệt động 197 và Tiểu đoàn 23 vào vị trí triển khai, thực
hành nổ súng. Mũi tấn công hướng Tây Bắc của Tiểu đoàn Biệt động 197 đã
đột nhập vào trong, phá hủy một số trang thiết bị quan trọng của căn
cứ. Một số hướng mũi tiến công khác do địch chống trả quyết liệt, chưa
vào sâu bên trong nhưng cũng phá hủy nhiều thiết bị ăng ten, máy phát
sóng của địch… làm tê liệt hoạt động của căn cứ ra-đa Phú Lâm. Cựu chiến
binh Đỗ Ngọc Tiến, nguyên Trung đội trưởng Trung đội K83, Tiểu đoàn
Biệt động 197, một trong những người trực tiếp tham gia trận đánh, kể
lại: “Trước khi bước vào trận đánh quyết định này, 20 cán bộ, chiến sĩ
được giao nhiệm vụ mở cửa được đơn vị làm lễ truy điệu sống. Bên cạnh
thông tin của trinh sát báo về, đơn vị chỉ có tấm bản đồ cũ vẽ bằng bút
bi từ năm 1967 về hình thái chung của căn cứ. Chúng tôi lấy đèn tín hiệu
trên cột thu phát sóng làm vật chuẩn để tiến công”.
Cựu chiến binh Đào Văn Thịnh, nguyên chiến sĩ B40 Trung đội K83 cho
biết thêm: “Lúc thực hành mở cửa, quả bộc phá 5kg đầu tiên điểm hỏa
không nổ, phải đến quả bộc phá 5kg thứ hai đặt chồng lên quả thứ nhất
mới nổ, tạo sức công phá cộng hưởng cực mạnh, phá bung cánh cửa sắt và
một phần bức tường hai bên. Khi đó, những cánh ra-đa lớn hiện ra trước
mắt, tuy nhiên, chúng tôi không thể tiếp cận ngay được vì vướng hào nước
kết hợp hàng rào dây thép gai của địch. Chúng tôi sử dụng hỏa lực B41,
B40 nhắm thẳng mục tiêu ra-đa nhả đạn, mở toang cửa cho đồng đội xung
phong tiêu diệt địch, làm chủ hoàn toàn căn cứ”. Cựu chiến binh Trịnh
Văn Hòa, chiến sĩ thông tin Trung đội K83, bổ sung: “Điều tuyệt vời nhất
đối với chúng tôi là mặc dù đã xác định sẽ hy sinh hết, nhưng khi kết
thúc trận đánh giành thắng lợi giòn giã, lực lượng cảm tử đánh mở cửa
chúng tôi không có ai thương vong”.
Sau khi hoàn thành sứ mệnh lịch sử, các đơn vị Đặc công Biệt động Sài
Gòn-Gia Định giải thể. Hơn 42 năm đã trôi qua, phiên hiệu của lực lượng
Đặc công Biệt động Sài Gòn-Gia Định chỉ còn trong sử sách, nhưng những
ký ức về một thời hoa lửa vẫn mãi nguyên vẹn trong tâm trí của những cựu
binh đặc công biệt động ngày nào. Mảnh đất căn cứ ra-đa Phú Lâm ngày
xưa nay là doanh trại của Lữ đoàn Thông tin 596 (Binh chủng Thông tin
liên lạc). Chứng tích còn lại là tháp ăng-ten vi-ba, cùng những hình ảnh
tư liệu, những câu chuyện chiến đấu anh dũng của các đơn vị đánh vào
căn cứ ra-đa Phú Lâm trong những ngày tháng Tư lịch sử vẫn được bảo tồn
khá nguyên vẹn, trở thành bài học giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ
hôm nay.
50
năm sau cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968, Đại tá Trần
Minh Sơn vẫn còn nhớ như in trận đánh của biệt động Sài Gòn vào Đại sứ
quán Mỹ gây chấn động dư luận bấy giờ.
Đại
tá Trần Minh Sơn (92 tuổi, bí danh Bảy Sơn), nguyên Phó Tư lệnh Quân
khu Sài Gòn-Chợ Lớn-Gia Định, kiêm Tham mưu trưởng biệt động Sài Gòn, là
người chỉ huy cuối cùng của lực lượng biệt động Sài Gòn hiện vẫn còn
sống. Từng trực tiếp tham gia chỉ huy nhiều trận đánh oanh liệt nhưng
trận đánh vào Đại sứ quán Mỹ trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân
Mậu Thân năm 1968 là trận đánh "kinh điển" mà ông Sơn luôn nhớ mãi. Tối hậu thư của ông Sáu Dân
"Ngày 23 Tết Mậu Thân, tôi cùng anh Trần Hải
Phụng (tức Hai Phụng), Tư lệnh Phân khu 6, đến báo cáo với anh Võ Văn
Kiệt (tức anh Sáu Dân, lúc đó là Bí thư Khu ủy T.4 Sài Gòn-Gia Định) về
kế hoạch của lực lượng biệt động Sài Gòn tấn công các mục tiêu trong
chiến dịch Mậu Thân 1968… Năm đó tôi 42 tuổi", — ông Bảy Sơn hồi tưởng
lại.
Trong báo cáo, ông Bảy Sơn đề ra kế hoạch tập trung phá nát các mục
tiêu ở nội thành Sài Gòn là dinh Độc lập, Bộ Tổng tham mưu, Bộ Tư lệnh
hải quân, đài phát thanh, biệt khu thủ đô, tổng nha cảnh sát, khám Chí
Hòa…
"Nghe xong, anh Sáu Dân khen chuẩn bị như vậy
là tốt nhưng ngừng một chút, anh hỏi chúng tôi rằng tại sao không đánh
vào Đại sứ quán Mỹ, có phải vì chúng tôi sợ. Câu hỏi của anh Sáu khiến
chúng tôi do dự", — ông Bảy Sơn kể.
Thấy thái độ do dự của ban tham mưu, ông Võ Văn
Kiệt khi đó đã tuyên bố thẳng: "Không đánh vào Đại sứ quán Mỹ thì coi
như biệt động Sài Gòn không tham gia vào chiến dịch Mậu Thân!".
"Một tối hậu thư mà đồng chí bí thư đưa ra.
Bằng mọi giá biệt động phải đánh vào đại sứ quán nhưng không được điều
chỉnh quân số bày bố ở các điểm mục tiêu trước đó", — ông Bảy Sơn kể.
Sở dĩ, lực lượng biệt động Sài Gòn vẫn do dự trước đề nghị của ông Võ
Văn Kiệt là vì toàn bộ quân đã được bày bố cho việc đánh phá các mục
tiêu đã được đề ra.
"Nếu đánh đại sứ quán thì mọi thứ bắt đầu hoàn
toàn từ con số không, mà chỉ còn năm ngày nữa là phải tổng tiến công.
Không có quân, không có vũ khí, không có người chỉ huy, không có cơ sở
nào trong nội thành. Cán bộ còn ai đâu? Súng trong thành phố đã giao
hết. Lực lượng cũng đã phân bổ xong! Một bài toán quá khó nhưng buộc
phải có đáp số" — ông Bảy Sơn nhớ lại.
Năm ngày đêm chuẩn bị
Suy nghĩ kỹ, ông Bảy Sơn đã đề nghị với ông Hai còn một người có thể
đảm đương nhiệm vụ này là ông Ba Đen (chiến sĩ biệt động Ngô Thanh Vân),
người đang giữ chìa khóa của 14 hầm vũ khí trong nội thành!
Một câu hỏi được tổ chức đặt ra ngay lúc đó: Nếu không may Ba Đen bị
địch bắt thì liệu có khai ra 14 kho súng đạn đang quản lý và phụ trách
hay không? Cuối cùng, tổ chức vẫn quyết định, ông Hai Phụng đã giao
nhiệm vụ cho ông Ba Đen.
"Ba Đen rất quyết tâm và đề nghị tôi cùng tham
gia làm công tác chuẩn bị. Anh nhờ tôi kiếm cho anh 200.000 USD, tôi
chuyển lời cho bí thư thì được chấp nhận. Ba Đen bảo rằng sẽ "mua" đứt
đám chỉ huy các đồn bót từ Củ Chi đến Sài Gòn.
Ba Đen cần thêm một phó chỉ huy, một số anh em
và các loại vũ khí. Riêng vũ khí thì không quá lo lắng bởi đã có hầm
chứa vũ khí bí mật của chiến sĩ biệt động Trần Văn Lai (tức Mai Hồng
Quế) tại nội đô.
"Vấn đề còn lại là lấy đâu ra người? Ban tham
mưu tôi còn hơn 10 anh em chuyên lo giấy tờ chứ chưa đánh trận mạc bao
giờ. Nhưng Ba Đen bảo chớ có lo, để anh em tập bắn loại súng của ta và
của địch mấy ngày là được…" — ông Bảy Sơn nhớ lại.
Sau năm ngày đêm ráo riết chuẩn bị, đến ngày 28 Tết, mọi thứ đã sẵn sàng để đánh vào mục tiêu quan trọng: Đại sứ quán Mỹ! Khúc ca bi tráng…
Đêm 28 Tết, ông Bảy Sơn vào nội thành Sài Gòn, đón những ngày cuối
năm cùng anh em ở góc đường Minh Phụng (bùng binh Cây Gõ). Ông và các
anh em đã có một đêm tâm tình với nhau trước khi bắt đầu chiến dịch.
"Tôi hỏi các anh em có tự tin đánh trận này
không, đã sẵn sàng hết chưa? Rằng chắc chắn sẽ phải hy sinh trong trận
chiến rất cam go này, các đồng chí có muốn đánh không…" — ông Bảy Sơn
hồi tưởng. Ông kể lúc đó có một người nhỏ tuổi nhất tên là Vinh đã đứng
lên, dõng dạc trả lời: "Nuôi quân ba năm, sử dụng một giờ, chú Bảy đừng
lo, chúng tôi sẵn sàng hy sinh, sống mái với quân thù trong trận chiến
đấu này!".
"Anh em đã sẵn sàng hết rồi, đồng loạt hô lớn: Quyết tâm đánh! Tôi thấy xúc động vô cùng", — người lính biệt động già kể lại.
Ngay trong chiều mùng 2 Tết, Sở Chỉ huy ở số 7 Yên Đỗ — Phở Bình (nay
là đường Lý Chính Thắng, phường 8, quận 3) bị địch tấn công, nhiều
chiến sĩ bị bắt giữ. Chiều mùng 2 Tết, tôi nhận tin có đội 17 người thì
16 người đã hy sinh, người còn lại bị địch bắt.
Đại tá TRẦN MINH SƠN(Bảy Sơn)
1 giờ 45 sáng 31-1-1968 (mùng 2 Tết nguyên đán), đội trưởng của các
đội biệt động đồng loạt phát lệnh tấn công. Nội thành Sài Gòn rung
chuyển dữ dội bởi tiếng B40, tiếng bộc phá và các loại súng đồng loạt
khai hỏa.
Lực lượng biệt động đã lần lượt chiếm Đài Phát thanh Sài Gòn, Bộ Tổng tham mưu Sài Gòn, dinh Độc lập, Bộ Tư lệnh Hải quân…
Thời điểm đó, đội biệt động số 11 do ông Ba Đen chỉ huy cũng nhanh
chóng áp sát và chiếm giữ Đại sứ quán Mỹ. Còn các mục tiêu khác như Biệt
khu Thủ đô, tổng nha cảnh sát và khám Chí Hòa thì không thể tiếp cận
được vì bị địch chận lại, chỉ còn cách kết hợp đánh tại chỗ cùng quân
địa phương rồi rút lui theo kế hoạch.
Cuộc đối đầu đã diễn ra ác liệt giữa lực lượng biệt động với đối phương đông gấp trăm lần.
"Lúc đầu, nhiệm vụ của mỗi đội là đánh chiếm và
cố giữ mục tiêu trong vòng hai giờ đồng hồ, sau đó sẽ có đại quân đến
tiếp nhận. Nhưng các anh em chờ mãi mà lực lượng của địch phản công rất
quyết liệt. Các anh em người thì hy sinh, người thì bị thương, bị
bắt…" — ông Bảy Sơn kể.
Trong số những người hy sinh, ông Bảy Sơn kể có người chỉ mới 17 tuổi.
"Thằng Vinh nhỏ tuổi nhất đó, mà nó hy sinh
rồi… Vinh dự định sẽ cưới vợ sau khi trận đánh kết thúc… Có anh em từng
là lính do tôi quản lý cũng lần lượt hy sinh…" — ông ngậm ngùi.
Món nợ suốt đời không thể trả! "Người ta nói chiến sĩ biệt động thì có ý chí sắt đá lắm. Nhưng
không…" — ông Bảy Sơn, tức Đại tá Trần Minh Sơn, bỏ lửng câu nói, im
lặng một lúc lâu. Dù 50 năm đã trôi qua nhưng mỗi khi nhắc đến những người anh em
từng vào sinh ra tử với mình, ông Bảy Sơn vẫn không ngừng rơi nước mắt. "Điều đau lòng nhất là mình không biết anh em sinh ra ở đâu, cha
mẹ là ai. Anh em biệt động chúng tôi chỉ lấy cái tên là thằng Năm, thằng
Bảy, thằng Tám, thằng Mười… mà gọi nhau chứ không ai biết tên thật, gốc
gác của nhau cả. 19 anh em đánh vào Đại sứ quán Mỹ, có 16 người là lính
của tôi mà tôi cũng không biết là con của ai… Hy sinh nhiều lắm nhưng
không tìm được tung tích" — ông Bảy Sơn không kiềm được sự xúc động.
“Tới bây giờ cũng không tìm được xác của anh em đâu. Tôi mắc cái nợ đó đến suốt đời!” - Đại tá Trần Minh Sơn.
Ông Bảy Sơn kể có người đã bảo vệ ông từ chén cơm manh áo, đeo
balô phụ ông khi hành quân vì sợ quá nặng. Khi ông ốm đau thì anh em
chăm sóc nhưng khi họ hy sinh, ông cũng thể tìm được họ ở đâu… Sau chiến
dịch, ông đã tích cực tìm kiếm đồng đội từ nhiều phía nhưng vẫn không
thể tìm thấy. "Cha mẹ của những em nhỏ tuổi đến ôm chầm lấy tôi rồi khóc, hỏi
con tôi đâu chú Bảy ơi, tôi vẫn không trả lời được cho họ…" — ông Bảy
Sơn nói trong cơn xúc động — "Nợ tiền nợ bạc thì còn có thể trả được chứ
món nợ này, là máu của anh em, tôi không thể trả. Tôi mắc cái nợ đó đến
suốt đời!". Với ông, tình động đội, tình quân dân mãi mãi thiêng liêng. "Tôi
hoạt động ở nội thành nhiều, hiểu rõ được lòng dân. Mối quan hệ giữa bộ
đội với dân, với biệt động khó mà nói hết thành lời…". Người lính biệt động ngày nào nay đã 92 tuổi. Cuối đời mình, ông
Bảy Sơn vẫn chỉ đau đáu một điều: "Tình quân dân nó sâu nặng lắm. Tôi tự
thấy còn nợ người dân thành phố này nhiều…". Nguồn: PLO
Chiến sĩ biệt động Sài Gòn những ngày này lại khắc khoải với ký ức oai
hùng nhưng đau thương nửa thế kỷ trước, khi tấn công vào 10 trụ sở đầu
não của Mỹ và chính quyền Việt Nam Cộng Hòa.
Một ngày cuối tháng 1, ông Bảy Sơn (93 tuổi) thức dậy muộn trong căn
phòng rộng chừng 20 m2 của Bệnh viện Thống Nhất (TP HCM) - khu điều trị
dành cho cán bộ cao cấp.
Ngửa cổ trên xe lăn, ông được con dâu đẩy ra hành lang sưởi nắng, đôi
tay chằng chịt vết đồi mồi cầm tờ báo. Đưa cho người đồng đội già đã
chờ ở góc sáng nhất hành lang từ khá lâu, ông nhờ đọc bài viết nói về
cuộc Tổng tiến công Xuân Mậu Thân 1968 tròn nửa thế kỷ trước. Trong đó
có ông - Đại tá Trần Minh Sơn, chỉ huy cuối cùng của Biệt động Sài Gòn
và biết bao đồng đội.
“Đêm qua, những trăn trở lại ùa về...”, ông Sơn bỏ lửng câu nói, cũng chẳng để ý đến phản ứng của người bên cạnh.
“Anh em biệt động, người là thằng Năm, thằng Bảy, thằng Mười... 16
người hy sinh ở tòa Đại sứ quán Mỹ mà tôi không biết họ là con ai, quê ở
đâu. Biệt động mà, để tránh bọn chiêu hồi chỉ điểm, chúng tôi chỉ biết
nhau qua bí số, bí danh... Mặt cũng luôn bịt kín nên chỉ thấy nhau qua
ánh mắt. Sau trận đánh, tôi làm đủ cách để tìm kiếm hài cốt họ nhưng
không thấy. Đó là máu của anh em mà tôi nợ suốt đời”, ông Bảy Sơn nói.
Vẫn giọng nghèn nghẹn, ông bảo: “Cha mẹ các chiến sĩ biệt động đánh
vô tòa Đại sứ cứ hỏi tôi ‘chú ơi, con tôi đâu...’. Tôi không biết trả
lời họ làm sao”.
Ông Bảy Sơn kể về trận đánh vào tòa Đại sứ quán Mỹ năm 1968. Ảnh: Duy Trần.
Chiều 23 Tết Mậu Thân 1968, Bảy Sơn (Phó tư lệnh Quân khu Sài Gòn -
Gia Định, kiêm Tham mưu trưởng biệt động Sài Gòn) cùng tướng Trần Hải
Phụng (tức Hai Phụng, Tư lệnh Phân khu 6) đến gặp ông Võ Văn Kiệt (Sáu
Dân) khi đó là Bí thư Khu ủy Sài Gòn – Gia Định.
Họ báo cáo kế hoạch tấn công 10 mục tiêu ở trung tâm Sài Gòn cho một
chiến dịch lớn chưa từng có. Đó là những cơ quan đầu não của chính quyền
Sài Gòn như: Phủ Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa (Dinh Độc Lập), Đài phát
thanh, Đài truyền hình, Bộ Tư lệnh Hải quân, Bộ Tổng tham mưu, Tổng nha
Cảnh sát, Biệt khu Thủ Đô, Khám Chí Hòa...
"Tại sao không đánh vào Đại sứ quán Mỹ?", ông Sáu Dân đặt vấn đề.
"Thật ra chúng tôi không hiểu rõ tình hình chính trị thế nào, sợ phức
tạp không dám chuẩn bị", ông Hai Phụng đáp, sau một thoáng do dự.
"Không
đánh vào Đại sứ quán Mỹ, coi như biệt động Sài Gòn không tham gia vào
chiến dịch Mậu Thân", ông Sáu Dân quả quyết, rồi ra "tối hậu thư" bằng
mọi cách phải đánh vào cơ quan đầu não của Mỹ nhưng không thay đổi quân
số đã sắp xếp ở các mục tiêu khác.
Sau một đêm mất ngủ trước bài toán con người, Bảy Sơn báo với Tư lệnh
Hai Phụng và ông Sáu Kiệt, giao nhiệm vụ này cho Ngô Thanh Vân (Ba Đen)
- người dày dạn kinh nghiệm tổ chức chiến đấu trong nội thành của biệt
động Sài Gòn suốt những năm 1960. Ba Đen trở thành chỉ huy Đội 11 đánh
tòa Đại sứ.
Thực tế, sự chuẩn bị cho các đòn tấn công vào những cơ quan đầu não
của chính quyền Sài Gòn nói riêng, và trên cả nước nói chung, có nguồn
gốc từ kế hoạch ban đầu của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương nhiều năm
trước - Kế hoạch X.
Giai đoạn cuối của "chiến tranh đặc biệt" 1965, cục diện chiến trường
đã xuất hiện khả năng giành thắng lợi cho miền Bắc. Bộ Chính trị, Bộ
Tổng tham mưu quân đội nhân dân Việt Nam chủ trương tiến công quân sự
vào các thành phố, thị xã toàn miền Nam kết hợp với sự nổi dậy quần
chúng, làm phá sản chiến lược của Mỹ.
Trung
ương Cục Miền Nam, do tướng Nguyễn Chí Thanh trực tiếp xây dựng các
đoàn quân chủ lực mũi nhọn cùng Khu ủy Sài Gòn - Gia Định chuẩn bị cho
kế hoạch mùa khô 1964-1965, thường được gọi là Kế hoạch X.
Riêng Quân khu Sài Gòn - Gia Định đã xây dựng được 8 tiểu đoàn chủ
lực và địa phương, hơn 3.000 quân du kích. Tổng lực lượng vũ trang toàn
quân khu hơn 9.000 người. Quân khu cũng thành lập đoàn biệt động lấy
biệt danh F.100 do ông Nguyễn Đức Hùng (bí danh Tư Chu) làm chỉ huy
trưởng.
Năm 1967, sau hai cuộc phản công mùa khô thất bại, Mỹ bị nhân dân
trong nước phản đối chiến tranh. Giới cầm quyền Mỹ bắt đầu dao động,
chia rẽ.
Bộ Chính trị họp và ra nghị quyết chuyển cuộc đấu tranh cách mạng ở
miền Nam sang thời kỳ giành chiến thắng quyết định. Thời cơ chính là Mậu
Thân 1968.
Tiềm lực của Mỹ lúc này gấp 800 lần Việt Nam về kinh tế, quân sự, khoa học kỹ thuật.
Bộ đội hành quân trong cuộc tấn công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968.
Cuối
tháng 10/1967, Bộ Quốc phòng bắt đầu tổ chức lại chiến trường miền Đông
theo yêu cầu mới. Bộ Tư lệnh Miền tổ chức thành ba khối lớn: Khối biệt
động thành, Khối các phân khu và Khối chủ lực miền.
Quân khu Miền Đông, Quân khu Sài Gòn - Gia Định và tỉnh Long An
(thuộc Quân khu 8) được sáp nhập thành "khu trọng điểm", sau đó tổ chức
lại thành 6 phân khu.
"Cuộc tiến quân vào Sài Gòn - Gia Định được chia làm 5 hướng. Riêng
phân khu 6 chủ yếu là lực lượng biệt động, nhận nhiệm vụ đánh vào nội
đô, do Hai Phụng chỉ huy", ông Bảy Sơn cho biết.
Biệt động thành lúc này được bổ sung hơn 100 người từ đoàn F.100 giải
thể, tổ chức thành cụm để đánh các mục tiêu chiến lược. Nhiệm vụ của
biệt động là đánh chiếm các mục tiêu đầu não, giữ cho đến khi các tiểu
đoàn mũi nhọn đến tiếp sức.
"Dù kế thừa một phần Kế hoạch X trước đó, song thời gian chuẩn bị cho
trận đánh xuân Mậu Thân rất ngắn so với yêu cầu tổ chức lực lượng, kể
cả việc đưa vũ khí, phương tiện và người vào nội thành. Nhưng tất cả đã
hoàn thành", ông Bảy Sơn nói.
27 Tết Mậu Thân, Ba Đen dẫn Đội 11 đi trinh sát thực
địa ở Sài Gòn. Sơ đồ bên trong toà Đại sứ Mỹ đã có tình báo quân sự
cung cấp. Đội biệt động tiến vào nội đô trên những chiếc Honda, hoặc
đóng giả làm người chạy xích lô chở nhau đi thám thính.
Sau đó, ông Bảy Sơn đưa lực lượng đánh tòa Đại sứ vào ở sẵn các "lõm
chính trị" trong nội thành ăn Tết. 16 người lính tuổi đôi mươi quây quần
bên bữa ăn trên đường Minh Phụng (gần vòng xoay Cây Gõ, quận 6) với
bánh tét, mứt, trà...
Em út của đội, Vinh - 17 tuổi, hào hứng khoe: "Đánh xong trận này em
về quê cưới vợ". Khi ông Bảy Sơn hỏi về quyết tâm chiến đấu, Vinh khẳng
khái: "Chú Bảy đừng lo, nuôi quân ba năm dụng một giờ. Tụi con quyết
sống mái, dù có hy sinh".
Anh em đều vỗ tay hoan nghênh Vinh, trong lòng tin tưởng trận này sẽ thắng.
Cùng lúc, Đội 5 biệt động Sài Gòn đang ăn Tết tại cơ
sở ở Trảng Bàng (Tây Ninh). Mục tiêu công kích vẫn được giữ bí mật. Đội
trưởng Tô Hoài Thanh (Ba Thanh) nói "đây là trận đánh thập tử nhất
sinh, ai không muốn tham gia có thể xin lui".
"Đáp
lời chỉ huy lúc đó, chúng tôi ai nấy đều hừng hực khí thế cho trận
đánh. Trên đường từ Trảng Bàng về Sài Gòn, sau khi kiểm tra quân số, cấp
trên trao mỗi người 3.000 đồng. Đây được xem là... tiền tử", ông Phan
Văn Hôn (72 tuổi), thành viên Đội 5, kể.
Tại cuộc họp trước trận đánh chiều Mùng 1 Tết ở hầm vũ khí bí mật của
ông Trần Văn Lai trên đường Trần Quý Cáp (Võ Văn Tần ngày nay), ông Ba
Thanh thông báo mục tiêu của đội là Dinh Độc Lập, phải giữ trận địa
15-30 phút, chờ quân chi viện tới.
"Nghe thế tụi tui ồ lên vui sướng, bởi hãnh diện khi được đánh ở mục tiêu rất quan trọng", Bảy Hôn và đồng đội nói.
Đêm giao thừa Mậu Thân 1968, gần nửa quân Việt Nam
Cộng hòa nghỉ ngơi. Tuy nhiên, ám ảnh bởi cái bẫy Khe Sanh, chính quyền
Sài Gòn tăng cường phòng thủ. Khắp các giao lộ đều có nhiều xe Jeep gắn
đại liên, các đội tuần tra nhan nhản trên đường phố.
22h45 ngày 30/1/1968 (Mùng 1 Tết), ông Võ Văn Thạnh
(Ba Thắng) - Chính ủy Sở chỉ huy tiền phương Phân khu 6 đọc lời hiệu
triệu của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, đồng thời phổ
biến giờ G, ra lệnh cho các lực lượng biệt động tấn công những mục tiêu
trong kế hoạch.
2h Mùng 2 Tết, một bộ phận phối thuộc cho Tiểu đoàn
268 Phân khu 2 ở phía Tây Tân Sơn Nhất bắn tám quả pháo 82 ly vào sân
bay. Cả Sài Gòn coi đó là hiệu lệnh tấn công.
Nhận tín hiệu, ở hướng khác Ba Đen dẫn Đội 11 tiến gần tòa Đại sứ Mỹ.
Họ dùng xe bán tải có hoả lực B40 yểm trợ đột nhập thẳng cổng toà nhà.
Hai biệt động cầm AK quét nhiều loạt đạn, diệt hai quân cảnh Mỹ ở
cổng chính. Tiếp đó biệt động dùng thuốc nổ phá thủng tường, tiến đánh
vào trong.
Họ chia làm ba mũi: cổng trước, cổng sau (phía đường Mạc Đĩnh Chi) và
dãy nhà nhân viên hành chính. Đội 11 nhanh chóng chiếm gần hết tầng một
và tiến lên tầng 2-3.
Quân Mỹ trong trận biệt động đánh tòa Đại sứ năm 1968 ở Sài Gòn.
Tiểu
đoàn 716 quân cảnh Mỹ không đủ sức bảo vệ tòa Đại sứ, Fred Weyand (Tư
lệnh các lực lượng dã chiến Mỹ ở vùng ba chiến thuật) điều một bộ phận
từ lực lượng sư đoàn dù 101 đổ quân bằng trực thăng xuống nóc tòa nhà.
Tuy nhiên, chiếc trực thăng đầu tiên bị bắn quá mạnh, việc đổ quân không thể thực hiện khi trời chưa sáng.
5h, quân Mỹ vây bốn phía bên ngoài, trực thăng Sư đoàn dù 101 cũng kịp kéo tới.
7h, quân cảnh Mỹ mang mặt nạ xông vào cổng chính.
8h, trực thăng trở lại đổ quân xuống sân thượng, tấn công ngược trở lại biệt động. Sau 6 giờ tạm chiếm giữ bên trong tòa Đại sứ Mỹ, 15 người của
Đội 11, trong đó có Vinh tử trận. Chỉ huy Ba Đen ngất lịm sau một tiếng
nổ và bị bắt.
Từ Sở chỉ huy, ông Bảy Sơn bắt sóng đài BRC25 nghe tin từ bên trong
Đại sứ quán. "Tòa Bạch Ốc ở phương Đông đã bị tấn công" - thông tin đài
báo về Hoa Kỳ trong tiếng súng nổ thưa thớt dần.
"Đó là kỳ tích của biệt động Sài Gòn. Họ đã hoàn thành nhiệm vụ, chấp
nhận hy sinh", ông Bảy Sơn nói về đồng đội trong cuộc tấn công tòa Đại
sứ.
Cùng thời điểm, các đội biệt động khác đồng loạt nổ súng vào bốn cơ
quan của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa là Bộ Tổng tham mưu, Bộ Tư lệnh
Hải quân, Đài phát thanh, Phủ Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa.
Phối hợp với biệt động nội thành, các tiểu đoàn mũi nhọn của 5 phân
khu còn lại, các trung đoàn quân chủ lực Quân giải phóng tấn công hiệp
đồng vào một loạt mục tiêu quan trọng được bố trí bảo vệ vòng trong và
vòng ngoài Sài Gòn.
Bối cảnh sau trận biệt động tấn công Đại sứ quán Mỹ ở Sài Gòn năm 1968. Ảnh: LIFE.
Trên toàn miền Nam, quân giải phóng đồng loạt tấn công vào 4 thành
phố, 37 thị xã, hàng trăm thị trấn, quận lỵ; 4 sở chỉ huy quân khu và
quân đoàn; hầu hết các sở chỉ huy cấp sư đoàn; 30 sân bay và gần 100 cơ
sở hậu cần.
Bản tổng kết hoạt động hành quân của Trung tâm hành quân, Bộ Tổng
tham mưu Quân lực chính quyền Sài Gòn cho biết: "Từ ngày 30/1 đến
4/2/1968, tổn thất quân Mỹ - chính quyền Sài Gòn có 371 lính tử thương,
997 bị thương, 23 mất tích, 1.041 vũ khí bị mất".
Ngày 7/2/1968 -một tuần sau khi chiến dịch Mậu Thân nổ ra - ống kính
bắt được vẻ thất thần của Tổng thống Mỹ Lyndon B. Johnson và Bộ trưởng
Quốc phòng Robert McNamara trong một cuộc họp nội các.
Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968 được những nhà nghiên cứu lịch sử đánh giá là sự kiện có tính bước ngoặt trong cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam.
Đem lại một sự chuyển hướng không tránh khỏi trong chiến lược của Mỹ,
từ chỗ muốn đánh bại cộng sản Việt Nam, đến phải tìm cách để thoát ra
khỏi cuộc chiến "trong danh dự".
Tiến sĩ James Willbanks, cựu trung tá Bộ binh Mỹ tham chiến tại Việt
Nam với vai trò cố vấn, Giám đốc Ban lịch sử quân sự Mỹ, cho rằng những
diễn biến trên đã tác động mạnh đến quan điểm của người Mỹ. Họ cảm thấy
sốc khi trước đó hình dung và tin tưởng rằng, kẻ thù của nước Mỹ đang ở
bên bờ vực thẳm thì bất ngờ kẻ thù đó có đủ lực lượng để tiến hành cuộc
tổng công kích rộng khắp. Người Mỹ cảm thấy bất lực, mất niềm tin vào
nội các của Tổng thống Lyndon B.Johnson.
Người Mỹ biểu tình phản đối chiến tranh Việt Nam năm 1968.
Các
chính trị gia ở Mỹ gây sức ép lên chính phủ đòi xem xét lại cam kết
chiến tranh, hủy bỏ uỷ quyền cho chính phủ tiến hành chiến tranh.
Johnson thừa nhận rằng, một thắng lợi quân sự ở Việt Nam là không thể
đạt được và buộc phải đánh giá lại chiến lược của Mỹ. Ông tuyệt vọng vì
chính mình không thể có được khả năng đạt tới một giải pháp ở Việt Nam.
Trước sức ép của cuộc tấn công Tết Mậu Thân, Johnson thay Bộ trưởng
Quốc phòng và cách chức Westmoreland - Tổng chỉ huy quân Mỹ ở Việt Nam.
Ngày 31/3/1968, Johnson tuyên bố không tái tranh cử Tổng thống, đồng
thời đơn phương quyết định đình chỉ 30 ngày mọi cuộc ném bom bắn phá
lãnh thổ miền Bắc kể từ vĩ tuyến 20 trở ra.
Johnson cũng chỉ định Harriman và Thompson đại diện cho Hoa Kỳ gặp gỡ phái đoàn miền Bắc.
Ngày 3/5/1968, Johnson tuyên bố và ấn định cuộc đàm phán với Hà Nội vào ngày 10/5/1968 tại Paris.
Theo tài liệu của Trung tâm lưu trữ quốc gia II, trước việc Hoa Kỳ
đơn phương đàm phán với Hà Nội, Phủ đặc ủy Trung ương Tình báo chính
quyền Sài Gòn tỏ ra lo ngại. Nhất là sau bài diễn văn của Tổng thống
Johnson về ngưng oanh tạc và hòa đàm, họ lo ngại Hoa Kỳ "qua mặt" trong
vấn đề tiếp xúc với miền Bắc và tự xác lập việc xây dựng một lập trường
hòa đàm với miền Bắc và Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam.
"Bởi về thế chính trị, chính quyền Sài Gòn và Chính phủ Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa ngang nhau, thế mà Hoa Kỳ lại chấp nhận tiếp xúc riêng
với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa để bàn về hòa bình Việt Nam, trong đó có
vấn đề oanh tạc miền Bắc mà không có đại diện chính quyền Sài Gòn tham
dự", tài liệu ghi.
Ngày 24/6/1968, Trung tâm tham vấn hỗn hợp phòng Nhì Quân lực chính
quyền Sài Gòn nhận định, tình hình chính quyền, sức chiến đấu của quân
đội Sài Gòn giảm sút, mâu thuẫn nội bộ sâu sắc kể cả các tướng lãnh cùng
sự mâu thuẫn giữa dân sự và quân sự.
Phong trào chống chiến tranh lên cao. Hoa Kỳ bị cô lập hơn bao giờ
hết, khả năng tăng quân còn rất ít, muốn tăng quân cho Sài Gòn thì Hoa
Kỳ phải tổng động viên, nền kinh tế bị khủng hoảng, mâu thuẫn Hoa Kỳ
ngày càng sâu sắc…
"Tóm lại, tình hình chung của Hoa Kỳ và chính quyền Sài Gòn đang ở
trong thời kỳ sa sút nghiêm trọng, nhưng những nhược điểm ấy không có
khả năng củng cố và khắc phục", theo Trung tâm lưu trữ quốc gia II.
Binh lính đoàn không vận Mỹ giơ tay ra hiệu cho trực thăng cứu hộ hạ cánh để cứu đồng đội bị thương ở Huế. Ảnh: AP.
Sau hòa đàm Paris và cuộc tấn công đợt ba của quân giải phóng, ngày
31/10/1968, Tổng thống Johnson ra lệnh cho hải quân, không quân, pháo
binh ngưng vô điều kiện mọi cuộc oanh tạc lãnh thổ miền Bắc.
"Đồng đội hy sinh đều cùng làng cùng xã, giữa chiến trường khốc liệt
không có chỗ chôn, khi rút lui bị bao vây tứ phía đành đau đớn bỏ lại.
Chiến tranh thì chẳng có người thắng kẻ thua, chỉ có mất hết", giọng
Trung tá Bùi Hồng Hà (cựu chiến sĩ pháo binh Tiểu đoàn 16) đầy ngậm
ngùi.
Ông cũng luôn thấy khó thở mỗi khi nhắc đến hàng trăm đồng đội thiệt
mạng trong trận tấn công vào sân bay Tân Sơn Nhất. Hơn một nửa trong số
đó đến nay chưa tìm thấy hài cốt.
"Tiểu đoàn hơn 500 người nhưng rút ra không còn bao nhiêu, không biết
hy sinh thế nào. Sau này, đơn vị tập kết lại mới biết còn 380 người nằm
lại sân bay", ông nói, mắt đỏ hoe. Đợt tìm mộ tập thể trong sân bay hơn
20 năm trước, họ chỉ tìm thấy hài cốt của 181 người dưới một cái giếng
cạn.
Cảnh sát vũ trang Việt Nam Cộng hòa trên đống đổ nát ở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968. Ảnh: AP
Sau
cuộc tấn công, lực lượng biệt động Sài Gòn tổn thất lớn. Trong 82 chiến
sĩ trực tiếp chiến đấu thì 41 người đã hy sinh, 26 người bị bắt.
Ba ngày sau ông Ba Sơn âm thầm rời sở chỉ huy trong nội thành về căn
cứ Hố Bò ở huyện Củ Chi (TP HCM), sau đó được lệnh chuyển lực lượng, tập
kết vũ khí về căn cứ ở Bến Tre.
Tại đây, ông gặp tư lệnh Hai Phụng và phó tư lệnh Tư Chu. Quân khu
Sài Gòn – Gia Định gầy dựng lại lực lượng và bắt đầu hành trình hơn
1.000 ngày liên tục di chuyển căn cứ nhiều nơi do bị phản kích, truy
lùng, cho đến năm 1973 mới về lại Củ Chi.
Ở những ngày cuối đời, khi đồng đội đã hy sinh, qua đời gần hết, ông
Bảy Sơn nói: “Tình thế buộc phải đánh và đánh theo khả năng, để tạo sự
chấn động về chính trị”.
Tuy nhiên, người cựu binh vẫn còn nhiều trăn trở, nhất là về những
câu hỏi của gia đình các chiến sĩ biệt động vẫn đeo bám ông suốt 50 năm
qua. "Anh em hy sinh ngay trong khuôn viên Đại sứ quán Mỹ nhưng giờ vẫn
chưa tìm thấy hài cốt...", ông nói.
Ông đánh giá các cuộc hội thảo về chiến dịch Mậu Thân 1968 sau này
nói nhiều về khía cạnh thắng lợi về mặt chính trị của cuộc tổng tiến
công, nhưng không đánh giá đầy đủ về khía cạnh nổi dậy của quần chúng.
“Chúng ta đặt mục tiêu tổng tiến công và nổi dậy không phù hợp với
tình thế bấy giờ. Ở Sài Gòn không có nổi dậy”, ông Bảy Sơn nói và cho
rằng chiến dịch Mậu Thân ta thắng lợi về quân sự, nhưng sự tác động
không đủ liều lượng để đẩy lên một cuộc nổi dậy.
Cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 đánh dấu bước ngoặt
quan trọng của cuộc kháng chiến chống Mỹ, đã làm phá sản chiến lược
“chiến tranh cục bộ”, buộc Mỹ phải bước vào hội nghị đàm phán hòa bình 4
bên tại Paris. Những năm sau đó Mỹ từng bước xuống thang, chuyển sang
chiến lược “phi Mỹ hóa chiến tranh”.
Sau Hiệp định Paris 1973, Mỹ phải rút hết quân, tạo điều kiện và thời
cơ cho quân và dân ta thực hiện cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân
1975, thống nhất đất nước.
Bài: Mạnh Tùng - Tuyết Nguyễn - Trần Duy
Ảnh: Tiêu Trung
Đồ Họa: Xuân Việt
Những trận đánh nổi danh 'Biệt động Sài Gòn'
08:37 14/04/2015
Sài Gòn - Gia Định là địa bàn chiến lược, trung tâm, thủ phủ
của chính quyền Sài Gòn, giữ vai trò quyết định cuộc chiến tranh của Mỹ
ở miền Nam Việt Nam…
Nhận thức và đánh giá đúng vị trí, đặc điểm, tầm quan trọng
của địa bàn chiến lược Sài Gòn - Gia Định, trong từng giai đoạn của cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Bộ Công an, Ban An ninh Trung ương Cục
miền Nam đã chỉ đạo, định hướng cho An ninh Sài Gòn - Gia Định triển
khai các mặt công tác mang tầm chiến lược, giúp cho Đảng, Trung ương Cục
miền Nam và Bộ Công an đề ra những quyết sách đúng đắn.
Trong giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến, Bộ Công an, Xứ ủy Nam Bộ đã
chỉ đạo lực lượng An ninh T4 chủ động thế trận nắm vững nội bộ các cơ
quan đầu não của địch; làm rõ âm mưu, ý đồ của Pháp, Mỹ đối với miền
Nam; tình hình các đảng phái, tôn giáo; coi trọng công tác bảo vệ Đảng,
bảo vệ cán bộ; tập trung nắm tình hình về tổ chức, chương trình, kế
hoạch hoạt động của các lực lượng gián điệp, biệt kích Mỹ - ngụy; diễn
biến tư tưởng, thái độ, hoạt động chính trị của các cá nhân trong hàng
ngũ chóp bu chính quyền Sài Gòn trước, trong và sau cuộc đảo chính Diệm –
Nhu...
Lực lượng An ninh T4 (Sài Gòn – Gia Định) đào địa đạo chiến đấu bảo vệ Thành ủy.
Khi tình hình miền Nam có những chuyển biến mau lẹ, phức tạp, Bộ Công
an đã nhanh chóng chỉ đạo lực lượng An ninh T4 tập trung tổ chức lại
mạng lưới giao liên phục vụ công tác lãnh đạo chỉ đạo của Trung ương Cục
và Khu ủy; cung cấp tài liệu, sơ đồ mục tiêu phục vụ cuộc Tiến công và
nổi dậy Tết Mậu Thân; bộ phận trinh sát vũ trang nội đô phối hợp với
điệp báo an ninh tích cực chuẩn bị hậu cần, sử dụng nhiều hình thức ngụy
trang khôn khéo vận chuyển vũ khí, đạn dược, lương thực vào nội thành
phục vụ các trận đánh của lực lượng biệt động và trinh sát vũ trang.
Đặc biệt trong giai đoạn phục vụ cho trận quyết chiến chiến lược cuối
cùng, Bộ Công an, Ban An ninh Trung ương Cục miền Nam chỉ đạo An ninh
Sài Gòn - Gia Định tập trung thu thập tình hình nội bộ, thái độ của các
phe phái đối lập, lực lượng thứ ba; chỉ đạo các cơ sở nội thành mở rộng
công tác tuyên truyền công khai những thắng lợi của quân và dân ta, tác
động thúc đẩy nhóm Dương Văn Minh đòi lật đổ Nguyễn Văn Thiệu, đồng thời
nhanh chóng tiếp cận và cùng các lực lượng khác tác động Tổng thống
Dương Văn Minh sớm đầu hàng vô điều kiện.
Các tổ công tác của An ninh T4 phối hợp chặt chẽ, hợp đồng tác chiến
với các lực lượng cách mạng khác trong nội thành tổ chức phát động quần
chúng nổi dậy ở 26 điểm, giành quyền làm chủ; tác động tư tưởng bọn sĩ
quan ngụy án binh bất động; nhanh chóng đánh chiếm và tiếp quản những
mục tiêu được phân công (Bộ Chỉ huy cảnh sát đô thành, Bộ Tư lệnh Cảnh
sát quốc gia, các Ty Cảnh sát ngụy); tổ chức quản lý, tiếp quản hồ sơ
tài liệu, máy móc, phương tiện của địch nguyên vẹn, bảo vệ mục tiêu chờ
bàn giao cho lực lượng quân giải phóng vào tiếp quản thành phố… Trong đó
có nhiều bộ hồ sơ tài liệu có giá trị đặc biệt quan trọng góp phần phục
vụ thắng lợi nhiều chuyên án cũng như yêu cầu công tác an ninh trật tự
sau này.
Cùng với việc chỉ đạo công tác nắm tình hình chiến lược, Bộ Công an,
Ban An ninh Trung ương Cục đã chỉ đạo An ninh Sài Gòn - Gia Định tiến
hành lựa chọn các hình thức, cách thức đánh địch, tấn công vào các mục
tiêu trọng tâm, trọng điểm với phương châm “đánh sâu, đánh hiểm, đánh
trúng đối tượng” nhằm vào các cơ sở hạ tầng quan trọng của địch; tiêu
diệt, trừ khử những phần tử đầu sỏ ác ôn, có nhiều nợ máu với nhân
dân...
Tiêu biểu là các trận đánh nhanh gọn, táo bạo, của trinh sát vũ trang
nội đô An ninh T4, như: tổ chức diệt Nguyễn Xuân Chữ, Bộ trưởng Bộ
Chiến tranh tâm lý, một tên phản cách mạng khét tiếng gian ác, có nhiều
nợ máu với cách mạng (6/1966); tên Trần Văn Văn, Chủ tịch Quốc hội Sài
Gòn (12/1966); tên Thiếu tướng Nguyễn Văn Kiểm, Tư lệnh trưởng Biệt bộ
Phủ Tổng thống, phụ trách Phủ Đặc ủy Trung ương tình báo (2/1969)... và
nhiều trận đánh trực tiếp vào Tổng Nha Cảnh sát ngụy.
Những đòn tấn công táo bạo đó đã gây bất ngờ đối với địch giữa lòng
thành phố, tạo niềm tin cho quần chúng yêu nước, hỗ trợ đắc lực cho
phong trào đấu tranh chính trị trong nội đô, đồng thời gây hoang mang,
bất ổn, mâu thuẫn, phân hóa, chia rẽ hàng ngũ chóp bu của bộ máy chính
quyền địch.
Sau Tết Mậu Thân 1968, lực lượng cách mạng ở nội thành Sài Gòn - Gia
Định bị tổn thất, nhiều cán bộ điệp báo, trinh sát vũ trang, an ninh khu
vực của An ninh Sài Gòn - Gia Định bị địch bắt, tù đày hoặc hy sinh anh
dũng.
Bộ Công an, Ban An ninh Trung ương Cục miền Nam chỉ đạo Ban An ninh
Sài Gòn - Gia Định nhanh chóng củng cố lại các lực lượng nghiệp vụ mũi
nhọn hoạt động trong nội thành theo hướng cơ bản, lâu dài, đồng thời
tăng cường nhiều cán bộ lãnh đạo, cán bộ cốt cán am hiểu địa bàn nội
thành; xây dựng và phát triển lực lượng An ninh khu vực và cơ sở quần
chúng trong các quận nội thành, đảm bảo hậu cần, kỹ thuật, thông tin
liên lạc, đủ sức hoàn thành nhiệm vụ phát động quần chúng nổi dậy và
tiến công đánh chiếm các mục tiêu được phân công trong Chiến dịch Hồ Chí
Minh lịch sử.
Trong 21 năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, dưới sự lãnh đạo tuyệt
đối, trực tiếp toàn diện của Đảng, trực tiếp là Khu ủy, Thành ủy Sài Gòn
- Gia Định, sự chỉ đạo sâu sát về chuyên môn, nghiệp vụ và chi viện kịp
thời của Bộ Công an, Ban An ninh Trung ương Cục miền Nam, lực lượng An
ninh T4 đã không ngừng lớn mạnh và trưởng thành về mọi mặt, vượt qua
muôn vàn khó khăn thử thách, gian khổ hy sinh, lập nhiều chiến công xuất
sắc góp phần xứng đáng vào công cuộc giải phóng hoàn toàn miền Nam,
thống nhất đất nước.
Để có thắng lợi đó, hàng nghìn cán bộ chiến sĩ An ninh T4 bị bắt, bị
tra tấn dã man, bị giam cầm tù đày trong các nhà giam của Mỹ - ngụy,
nhiều đồng chí đã chiến đấu anh dũng, hy sinh oanh liệt vì nền độc lập
tự do của Tổ quốc. Chúng ta tự hào và mãi mãi tôn vinh những chiến công
to lớn, những thành tích xuất sắc của lực lượng An ninh T4 trong thời kỳ
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Ghi nhận những thành tích đó, lực lượng An ninh T4 đã được Đảng, Nhà
nước tuyên dương công trạng với 6 tập thể và 16 cá nhân được vinh danh,
phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân; hàng trăm tập
thể và cá nhân được nhận các phần thưởng cao quý khác của Đảng, Nhà
nước và lực lượng Công an trao tặng.
Thiếu tướng, PGS,TS Nguyễn Bình Ban (Viện trưởng Viện Lịch sử CAND)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét