Trong năm 1790 Dalton đã định chọn ngành luật hay y khoa, nhưng dự định của ông không được khuyến khích của những người thân, nên ông vẫn ở lại Kendal đến tận mùa xuân năm1793 ông mới di chuyển đến Manchester. Dalton được bổ nhiệm làm một giáo viên dạy toán và khoa học tự nhiên ở Học viện Manchester. Ông ở vị trí này đến tận trường này đựoc di chuyển đến York vào năm 1803, khi đó ông trở thành một giáo viên dạy toán và dạy hóa, vừa dạy công và dạy tư.
Phương pháp sống của Dalton chịu ảnh hưởng sâu sắc của một tín đồ phái giáo hữu (Quaker), một nhà khí tượng học xuất sắc, người đã làm ông quan tâm đến những vấn đề của toán học và khí tượng học. Năm 1787 ông bắt đầu giữ các ghi chép của ông về khí tượng học [1] ông đã đưa vào đó hơn 200.000 những quan sát. Ấn bản đầu tiên của ông là Các luận văn và quan sát khí tượng (Meteorological Observations and Essays) (năm 1793), trong đó có nhiều ý tưởng là tiền đề cho các phát minh của ông sau đó.
Một tác phẩm khác của Dalton là Những nguyên lý cơ bản của Ngữ pháp tiếng Anh (Elements of English Grammar), được xuất bản năm 1801. Năm 1794 ông được bầu vào làm thành viên của Hội Triết học và Văn chương Manchester (ManchesterLiterary and Philosophical Society)
Thuyết nguyên tử
Các nguyên tử và phân tử khác nhau trong mô hình của John Dalton trong ấn phẩm Hệ thống mới của triết học hóa học (A New System of Chemical Philosophy (xuất bản năm 1808).
Vào năm 1808, John Dalton đã đưa ra lý thuyết nguyên tử của ông để giải thích định luật bảo toàn khối lượng và định luật tỷ lệ các chất trong các phản ứng hoá học. Lý thuyết của ông dựa trên năm giả thuyết. Giả thuyết thứ nhất phát biểu rằng tất cả vật chất đều được tạo thành từ các nguyên tử. Giả thuyết thứ hai là các nguyên tử của cùng một nguyên tố sẽ có cùng một cấu trúc và tính chất. Giả thuyết thứ ba là các nguyên tử không thể bị phân chia, không thể được sinh ra hoặc mất đi. Giả thuyết thứ tư là các nguyên tử của các nguyên tố khác nhau kết hợp với nhau để tạo ra các hợp chất. Giả thuyết thứ năm là trong các phản ứng hoá học, các nguyên tử có thể kết hợp, phân tách hoặc tái sắp xếp lại. Lý thuyết của Dalton không chỉ giải thích các định luật trên mà còn là cơ sở để xây dựng các lý thuyết khác về nguyên tử sau này.
Cha đẻ thuyết nguyên tử 2.600 năm trước
Nhà hiền triết và triết gia Ấn Độ Acharya Kanad được coi là người đặt nền móng đầu tiên cho thuyết nguyên tử hơn hai nghìn năm trước.
Chân dung nhà hiền triết Ấn Độ Acharya Kanad. Ảnh: Ayurvediccure
|
John Dalton (1766 - 1844), nhà vật lý và hóa học người Anh được biết đến
hiện nay là người đặt nền móng cho lý thuyết về nguyên tử. Tuy nhiên,
theo Ancient Origins, Acharya Kanad đã phát triển lý thuyết nguyên tử trước Dalton 2.500 năm.
Acharya Kanad sinh năm 600 trước Công Nguyên tại Prabhas Kshetra (gần Dwaraka), Ấn Độ. Tên thật của ông là Kashyap.
Cái tên Kanad (lấy từ Kan trong tiếng Phạn, nghĩa là "hạt nhỏ nhất") bắt
nguồn từ chuyến hành hương của ông đến Prayag. Những người hành hương
trong đoàn làm vương vãi hoa và gạo mà họ cúng tế tại chùa. Ông đi theo
nhặt từng hạt một. Khi được hỏi tại sao lại nhặt những hạt gạo mà cả ăn
xin cũng không lấy, ông nói rằng một hạt thì không có giá trị gì, nhưng
hàng trăm hạt sẽ đủ cho bữa ăn của một người, nhiều bữa ăn sẽ nuôi sống
một gia đình, và cuối cùng, toàn thể nhân loại được xây dựng lên từ
những gia đình. Do đó một hạt gạo đơn lẻ cũng quan trọng như tất cả của
cải giá trị trên thế giới. Acharya trong tên ông có nghĩa là "giáo
viên".
Kanad theo đuổi niềm đam mê với thế giới vô hình và khái niệm hóa các ý
tưởng về các hạt nhỏ nhất. Ông ghi lại những ý tưởng đó và dạy lại cho
người khác.
Khái niệm nguyên tử của Kanad có được khi ông cố gắng phá vỡ thực phẩm
thành những hạt nhỏ rồi nhận ra không thể phá vỡ được nữa vì các hạt quá
nhỏ. Ông gọi những hạt mà không thể phá vỡ thêm được là parmanu hay anu
(nguyên tử).
Acharya Kanad cũng cho rằng những vật chất nhỏ này con người không thể
cảm nhận qua các bộ phận hay quan sát bằng mắt thường, và bằng cách nào
đó mà các parmanu kết hợp với nhau. Khi hai parmanu của cùng một chất
kết hợp, chúng sẽ tạo ra một dwinuka (phân tử đôi).
Dwinuka có tính chất tương tự như hai parmanu sinh ra nó. Theo ông, các
chất khác nhau là do được tạo thành bởi các sự kết hợp khác nhau của các
parmanu. Ông cũng đưa ra ý tưởng rằng các nguyên tử có thể kết hợp theo
nhiều cách khác nhau tạo ra các thay đổi hóa học, nhờ có sự hiện diện
của các yếu tố khác, như nhiệt. Các dẫn chứng chứng minh ý tưởng này ông
đưa ra là sự chín của trái cây hay sự tạo thành của lớp nhọ nồi trên
nồi đất.
Tưởng tượng của Acharya Kanad về nguyên tử. Ảnh: Vedic Knowledge Online
|
Acharya Kanad mở trường dạy triết học để truyền đạt các ý tưởng về
nguyên tử và bản chất của vũ trụ. Ông viết một cuốn sách tựa đề
"Vaisheshik Darshan" về nghiên cứu của mình và được coi là "cha đẻ của
thuyết nguyên tử".
Ở phương Tây, trường phái nguyên tử bắt đầu được biết đến vào khoảng thế
kỷ thứ 5 trước Công Nguyên, với các tác giả Hy Lạp cổ đại Leucippus và
Democritus. Vấn đề văn hóa Ấn Độ có chịu ảnh hưởng của Hy Lạp hoặc ngược
lại, hay hai bên phát triển độc lập vẫn đang là một vấn đề tranh cãi.
Kanad được cho là đã viết "mỗi vật thể được cấu tạo bởi các nguyên tử
khi chúng kết nối với nhau để tạo thành phân tử". Tuy lý thuyết của ông
chỉ là các khái niệm trừu tượng sơ sài, bó buộc trong phạm vi triết học,
bởi chúng chỉ dựa trên logic chứ không có thí nghiệm hay thực nghiệm,
nhưng theo nhà nghiên cứu về Ấn Độ nhiều kinh nghiệm A.L. Basham thì
"chúng là những sự giải thích các cấu trúc vật lý bằng tưởng tượng tuyệt
vời, tương đồng với các khám phá vật lý hiện đại".
Nguyễn Thành Minh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét