Dai Chung la su suy ngam cua toi ve cuoc doi, xa hoi, nhan sinh
BÍ ẨN LỊCH SỬ 64
Nhận đường liên kết
Facebook
X
Pinterest
Email
Ứng dụng khác
-
(ĐC sưu tầm trên NET)
TOP 12 bí ẩn con người vẫn chưa có lời giải
Bí ẩn thành phố vàng huyền thoại của người Inca
(Kiến Thức) - Thành phố vàng huyền thoại
Paititi bí ẩn của người Inca được cho là nằm ở Peru. Nơi này đã biến mất
trong nhiều thế kỷ, không để lại dấu tích.
Người
Inca đã giấu rất nhiều kho báu của họ trong thành phố bí ẩn này để khối
tài sản đó được an toàn trước những cuộc xâm lược của Tây Ban Nha.
Do lo sợ vùng đất của họ sẽ xảy ra
chiến sự, người Inca đã giấu vàng, bạc và đá quý trước khi bỏ đất đai,
nhà cửa đi lánh nạn. Các nhà khảo cổ cho rằng, thành phố vàng bí ẩn này
có thể nằm ở phía đông nam Peru. Nó nằm trong một khu rừng sâu và tách
biệt với cuộc sống của con người. Một số người suy đoán, thành phố vàng
bí ẩn Paititi có thể nằm dọc biên giới của Brazil hoặc có thể ở vùng tây
bắc Bolivia.
Trong thời gian tồn tại, Paititi được
đánh giá, miêu tả là một thành phố thịnh vượng, giàu có, nằm phía sau
những ngọn núi và ở một nơi có rất nhiều thác nước chảy.
Cho đến nay, các chuyên gia vẫn chưa tìm ra tung tích thành phố vàng bí ẩn Paititi của người Inca.
Cuộc chiến tranh giữa Tây Ban Nha với người Inca kéo dài khoảng 40 năm.
Mãi cho đến năm 1572, người Tây Ban Nha cuối cùng cũng đã chinh phục
được các vùng đất của người Inca và có được thành phố cuối cùng của
người Inca là Vilcabamba. Sau khi người Tây Ban Nha đã đánh chiếm được
các thành phố, những câu chuyện về thành phố vàng huyền thoại Paititi
ngày càng lan rộng. Nhiều người có trong suốt nhiều thế kỷ đã tìm kiếm
tung tích mảnh đất huyền thoại trên nhưng đều không tìm được một chút
manh mối nào. Mãi đến thế kỷ 20, hàng loạt thợ săn truy tìm kho báu đã
đến dãy núi Andes và một số người đã tuyên bố tìm thấy thành phố vàng
huyền thoại của người Inca. Tuy nhiên, họ không thể cung cấp những bằng
chứng xác đáng chứng minh cho tuyên bố của mình.
Năm 2001, nhà khảo cổ học người Italy
Mario Polia đã phát hiện tài liệu của một thầy tu ở Roma có nói đến nhà
truyền giáo Andrea Lopez nhắc đến một thành phố lớn có rất nhiều vàng,
bạc và đá quý. Tài liệu trên được xác định ra đời vào những năm 1600. Nó
xác nhận về sự tồn tại của thành phố Paititi và cũng tuyên bố rằng,
thành phố trên nằm ẩn sâu trong cánh rừng nhiệt đới và được bao quanh
bởi những thác nước.
Tài liệu này cũng đề cập chi tiết đến
việc Giáo hoàng Vatican Clement XIII đã nắm giữ và che giấu vị trí của
thành phố Paititi như một bí mật.
Ngày 29/12/2007, người dân ở Kimbiri,
Peru đã tìm thấy các ấu trúc bằng đá sa thạch cỡ lớn giống như những bức
tường thành cao. Những tàn tích này nằm trên một diện tích rộng lớn
40.000 m2. Nó được các chuyên gia suy đoán có thể là tường thành để bảo
vệ thành phố Paititi.
Nhiều tài liệu lịch sử thời kỳ thuộc
địa (thế kỷ 16 - 18) đã chỉ ra những địa điểm có thể là vị trí của thành
phố vàng huyền thoại Paititi và những nhà thám hiểm đã thực hiện các
chuyến đi thực nghiệm, khảo sát tình hình nhằm truy tìm vị trí chính xác
thành phố huyền thoại của người Inca. Một số tài liệu viết về thành phố
vàng trên là của Juan Maldonado Álvarez (1570), Gregorio Bolívar
(1621), Juan Recio de León (1623-1627), Juan de Ojeda (1676)...
Tâm Anh (theo BE, Archaeology Knoji)
Sự thật đằng sau truyền thuyết về thành phố vàng bí ẩn
Hàng trăm năm qua,
nhiều kẻ tham lam đến từ châu Âu đã bỏ mạng trong cánh rừng đầy cạm bẫy ở
Nam Mỹ với hy vọng tìm ra thành phố vàng El Dorado.
Việc Columbus đặt chân đến châu Mỹ năm
1492 là chương đầu tiên trong cuộc đụng độ văn hóa góp phần thay đổi thế
giới. Đó là một cuộc chiến tàn bạo của 2 phong cách sống và hệ thống
tín ngưỡng hoàn toàn đối lập.
Huyền thoại của người châu Âu cho rằng,
El Dorado là một thành phố vàng mất tích và đang chờ sự khám phá của các
nhà thám hiểm. Điều đó phản ánh khát vọng vô tận của người châu Âu với
vàng và động cơ khai thác những vùng đất mới để tận thu của cải.
Trong khi đó, truyền thuyết của người
Nam Mỹ về El Dorado lại cho thấy bản chất thực sự của thành phố này và
những người sống ở đó. Với người Nam Mỹ, El Dorado chưa bao giờ là một
địa điểm, mà là một nhà lãnh đạo giàu có. Người này được cho là có thói
quen phủ vàng khắp cơ thể từ đầu tới chân mỗi buổi sáng và rửa sạch
chúng trong một hồ nước thiêng liêng vào buổi tối.
El Dorado thực chất là một nhà lãnh đạo của người Muisca thích
phủ vàng, chứ không phải thành phố vàng như truyền thuyết.
Sự thật đằng sau truyền thuyết đang dần
sáng tỏ trong những năm gần dây, khi các nhà khoa học kết hợp các tư
liệu lịch sử có từ lâu và nghiên cứu khảo cổ mới. Ở tâm điểm của truyền
thuyết thành phố vàng là câu chuyện có thực về một nghi lễ thực hiện bởi
người Muisca, vốn sống ở miền Trung Colombia từ năm 800 sau Công nguyên
đến ngày nay.
Nhiều sử gia Tây Ban Nha khác nhau đã
đến lục địa xa lạ này vào đầu thế kỷ 16 để ghi chép về nghi lễ này của
El Dorado và một trong những tư liệu tốt nhất là của Juan Rodriguez
Freyle. Trong cuốn sách của Freyle có tên Cuộc chinh phục và thám hiểm
tân vương quốc Granada được phát hành năm 1636, nhà sử học này cho biết,
khi một nhà lãnh đạo trong cộng đồng người Muisca qua đời, một “nhân vật vàng” sẽ được chọn lựa và diễn ra quá trình thừa kế.
Lãnh đạo mới được lựa chọn thường là
cháu của người vừa từ trần, sẽ tham dự một nghi lễ kế thừa kéo dài và
đỉnh điểm là việc chèo một con thuyền trên hồ nước linh thiêng, tương tự
như hồ Guatavita ở miền Trung Colombia.
Vây quanh bởi 4 thầy tế có địa vị cao
nhất mặc đồ gắn lông chim, đội vương miện vàng và người đầy trang sức,
tân lãnh đạo trong tình trạng khỏa thân nhưng phủ bụi vàng sẽ tiến hành
nghi lễ hiến tế vàng bạc châu báu cho các vị thần bằng cách ném chúng
xuống hồ.
Trên bờ hồ, nhiều người dân đứng theo
dõi buổi lễ, chơi nhạc cụ và đốt lửa nghi ngút từ những chiếc chậu. Trên
bè cũng có 4 ngọn lửa tỏa khói hương trầm lên bầu trời. Khi bè trôi đến
giữa hồ, thầy tế sẽ phất một lá cờ yêu cầu đám đông im lặng. Thời điểm
này là lúc đám đông thể hiện sự trung thành với lãnh đạo mới bằng cách
hô vang sự ủng hộ từ trên bờ hồ.
Qua một số nghiên cứu khảo cổ, nhiều
khía cạnh nói về sự kiện trên được xác nhận là có thật. Có nghiên cứu
cũng cho thấy kỹ năng tuyệt vời và quy mô sản xuất vàng ở Colombia vào
thời điểm người châu Âu đặt chân đến châu Mỹ năm 1537.
Với người Muisca, vàng hay cụ thể hơn là
hợp chất vàng, bạc và đồng đều được gọi là tumbaga. Những kim loại này
được đánh giá cao không phải vì giá trị về mặt vật chất mà là phương
diện tinh thần. Chúng được cho là có khả năng kết nối với các vị thần và
mang đến sự cân bằng, hòa hợp trong xã hội Muisca.
Một món đồ bằng vàng của người Muisca.
Một hậu duệ của người Muisca là Enrique Gonzalez giải thích, với họ vàng không biểu tượng cho sự thịnh vượng. “Với
người Muisca ngày nay, cũng như tổ tiên của chúng tôi trước đây, vàng
chỉ có giá trị như một lễ vật và không đại diện cho sự giàu có”.
Những nghiên cứu gần đây của Maria
Alicia Uribe Villegas ở Viện Khảo cổ UCL cho thấy rằng, người Muisca tạo
ra vật phẩm bằng vàng là để làm đồ hiến tế cho các vị thần, nhằm cầu
mong họ tạo ra sự cân bằng trong vụ trụ và đảm bảo sự ổn định với môi
trường.
Theo nhà khảo cổ Roberto Lleras Perez,
một chuyên gia về vàng và hệ thống tín ngưỡng của người Muisca, sự chế
tác và sử dụng vàng của người Muisca là rất khác biệt ở Nam Mỹ. “Theo
tôi biết, cho đến nay chưa có xã hội nào khác lại dùng đến 50% lượng
vàng sản xuất được để dùng làm đồ hiến tế. Tôi nghĩ điều đó thật đặc
biệt”, ông Perez nói.
Vì tất cả đồ bằng vàng trong mỗi lần
hiến tế có những đặc điểm hóa chất giống nhau và nét riêng biệt, điều đó
cho thấy những đồ vật này được làm riêng cho một đợt hiến tế và chỉ tồi
tại trong vài giờ hoặc vài ngày trước khi bị vứt đi.
Đặc biệt, hình vẽ một chiếc bè vàng đúng
như miêu tả trong sách của Juan Rodriguez Freyle, được 3 người dân tìm
thấy trong một hang động nhỏ ở phía nam Bogota năm 1969. Hình vẽ cho
thấy một người đàn ông phủ vàng đi ra một hồ thiêng. Điều đó càng khẳng
định câu chuyện thực về El Dorado.
Mô tả về thành phố vàng El Dorado theo truyền thuyết của người châu Âu.
Việc El Dorado bị biến thành một thành
phố vàng huyền thoại cho thấy sự thèm khát nguồn kim loại quý giá của
những kẻ chinh phục đến từ châu Âu. Họ biết rất ít về giá trị thực sự
của xã hội Muisca. Tâm trí của người châu Âu chỉ đơn giản là cảm thấy
choáng ngợp trước cảnh tượng rất nhiều vàng được ném xuống nước hồ và
được chôn trong những địa điểm linh thiêng ở Colombia.
Năm 1537, câu chuyện đồn thổi về El
Dorado đã thu hút nhà chinh phạt người Tây Ban Nha, Jimenez de Quesada
và đội quân gồm 800 người của ông ta, với sứ mệnh tìm ra đường đi trên
bộ đến Peru và quê hương Andean của người Muisca lần đầu tiên.
Quesada và binh sĩ của ông ta bị dụ sâu
vào trong những vùng đất xa lạ, khắc nghiệt và cướp đi tính mạng của
nhiều người. Tuy nhiên, thứ mà đội quân của Quesada tìm thấy lại khiến
họ kinh ngạc, vì những món vàng của người Muisca không giống như những
thứ họ từng thấy trước đó. Các món đồ bằng vàng tinh tế được chế tác
bằng kỹ thuật độc đáo chưa từng xuất hiện ở châu Âu.
Đáng tiếc là các cuộc săn vàng trong vô
vọng vẫn tồn tại đến ngày nay. Các nhà khảo cổ trên thế giới đang đấu
tranh để ngăn nạn cướp phá đang tăng lên. Giống những kẻ chinh phạt châu
Âu trong thế kỷ 16, bản sao của họ lại tiếp tục cướp phá quá khứ của
Nam Mỹ và lấy đi những câu chuyện tuyệt vời đằng sau món đồ bằng vàng
của người Muisca.
Số lượng vàng do những tên cướp hiện đại
tìm ra thật đáng kinh ngạc. Trong những năm 1970 khi các địa điểm mới
được bọn trộm phát hiện ở phía bắc Colombia, đã khiến thị trường vàng
thế giới chao đảo.
Nạn cướp bóc kim loại quý của người
Muisca đồng nghĩa với một số lượng lớn đồ bằng vàng trước thời Columbia
bị nấu chảy và khiến giá trị khảo cổ của chúng về nền văn hóa cổ đại
cũng biến mất vĩnh viễn.
Thật may mắn là một số bộ sưu tập đồ
bằng vàng khác đang được cất giữ ở bảo tàng Museo del Oro tại Bogota,
Colombia và Bảo tàng Anh ở London, Anh. Chúng góp phần cung cấp cái nhìn
rõ nét quan niệm khác biệt của người Muisca về giá trị vật chất, sự
nhận thức con người và quan trọng nhất là kể cho chúng ta câu chuyện
thực sự về truyền thuyết El Dorado.
Cập nhật: 21/01/2013Theo Xã Luận
Đền Parthenon: Kiệt tác kiến trúc cổ đại, ngôi đền bí ẩn của những con số
Đền Parthenon uy nghi và bí ẩn ở Athens, Hy Lạp. (Ảnh: BigStock image)
Đền Parthenon, đứng sừng
sững trên thành cổ Acropolis ở Athens, đã được nhiều nhà sử học và khảo
cổ học nhìn nhận là biểu tượng của nền dân chủ Athen và cái nôi của nền
văn minh phương Tây.
Công
trình này cũng được đánh giá là một trong những tòa nhà tốt nhất mọi
thời đại bởi một số lượng lớn các kiến trúc sư trên toàn cầu, thu hút
hàng triệu lượt khách du lịch mỗi năm. Phidias, nhà điêu khắc nổi tiếng
nhất thời cổ đại, là người thiết kế công trình này, trong khi đó hai
trong số các kiến trúc sư có tầm ảnh hưởng lớn nhất, Ictinus và
Callicrates, là người trực tiếp giám sát quá trình thi công.
Các bí ẩn xoay quanh ngôi đền cổ đại
Các nhà
khoa học hiện đại đã thừa nhận rằng – bất chấp việc Parthenon là tòa nhà
được sao chép nhiều nhất trong lịch sử – ngay cả với công nghệ hiện đại
và các kỹ thuật kiến trúc đương thời, thì ngày nay chúng ta vẫn gần như
không thể tái lập công trình này một cách hoàn toàn chính xác.
Thành cổ Acropolis ở Athens, Hy Lạp, trên đỉnh là đền thờ Parthenon. (Ảnh: BigStock image)
Nhưng
tại sao đền thờ Parthenon lại đặc biệt đến vậy? Điều gì khiến nó khác
biệt đến vậy so với tất cả những cái khác? Những chi tiết và bí mật nào
con người thời cổ đại biết nhưng đã bị thất lạc theo dòng lịch sử? Tại
sao chúng ta không thể kiến thiết một tòa nhà tương tự bản gốc ngay cả
khi trình độ công nghệ, máy móc, và kỹ thuật kiến trúc đã phát triển rất
xa so với thời đó? Có rất nhiều ẩn đố đằng sau việc xây dựng đền thờ
Parthenon, và chỉ một vài trong số đó hiện mới bắt đầu được làm sáng tỏ.
Đền
Parthenon có thể phải cần nhiều thập kỷ để khôi phục lại trong thời hiện
đại, nhưng bằng cách nào đó người dân Athens cổ đại đã hoàn thiện công
trình này trong chưa tới một thập kỷ, trong giai đoạn 447-438 TCN.
Đền
thờ này được xây dựng theo đề xuất của Pericles, vị tướng lĩnh lãnh đạo
Athens trong thế kỷ 5 TCN. Tượng bán thân Pericles, bản mô phỏng La Mã
của một nguyên bản Hy Lạp có niên đại từ khoảng 430 TCN. (Ảnh:
Wikimedia)
Công
trình biểu tượng này là một đền thờ theo kiểu kiến trúc Doric, có 8 cột ở
phía mặt tiền, với 4 mặt tạo thành hình chữ nhật, mỗi mặt đều có một
hàng cột, với một vài đặc điểm của kiến trúc Ionic, bao xung quanh bởi
các dãy gồm 8 cột theo chiều ngang và 17 cột theo chiều dọc (4 cột ở
góc được đếm hai lần).
Cổng
chính dẫn vào đền thờ hướng về phía Đông, trong khi chiều dài phía trong
là 30,8 m. Tuy rằng những con số này trông có vẻ ngẫu nhiên, nhưng trên
thực tế nhiều nhà sử học tin rằng có nhiều thông số đo lường kích thước
tương đối được biểu diễn dựa trên những con số này.
Thành cổ Acropolis và đền thờ Parthenon của Hy Lạp. (Ảnh: BigStock image)
Các thông điệp trong kích thước đền thờ
Một feet
Athens là khoảng 0.30803 m, hay 1/2 φ, trong đó φ = 1.61803, cũng được
biết đến là Tỷ lệ Vàng. Con số vàng F, hay con số 1,618, thường được tìm
thấy trong tự nhiên, trong các đặc điểm trên khuôn mặt (người), trong
các số đo kích thước cơ thể người, trong các bông hoa và các loài thực
vật khác, trong nghệ thuật, trong hầu hết các sinh vật sống trên Trái
Đất, trong vỏ ốc, trong tổ ong, v.v.. nhưng quan trọng nhất là, nó
thường được liên hệ với cấu trúc vũ trụ và quỹ đạo chuyển động của các
hành tinh trong Hệ Ngân hà.
Tỉ lệ vàng có mặt trong mọi thứ, từ thực vật, cơ thể người, cho đến các thiên hà xa xôi… (Ảnh: DeviantArt)
Ngoài
ra, trong môn khoa học đòi hỏi tính thẩm mỹ, Tỷ lệ Vàng thường được nhìn
nhận là tiêu chuẩn chính xác nhất cho sự hoàn hảo. Vậy nên, liệu tất cả
những điều này có thể chỉ đơn thuần là một sự trùng hợp ngẫu nhiên?
Không nhất định, vì bên trong đền thờ Parthenon chúng ta còn tìm thấy
một thứ ấn tượng hơn nữa – Dãy số Fibonacci, một dãy số trong đó một số
bất kỳ là tổng của hai số đằng trước: 1, 1, 2, 3, 5, 8, 13, 21, 34, 55,
89, 144, v.v… Thậm chí còn kỳ lạ hơn, tỷ số giữa hai số liên tiếp bất kỳ
trong dãy số này có giá trị xấp xỉ với Tỷ lệ Vàng, hay số φ. Hai số này
càng lớn bao nhiêu, thì giá trị tỷ số giữa chúng càng gần với số φ bấy
nhiêu.
Hình chữ nhật vàng với các cạnh tuân theo Tỷ lệ Vàng, trong đó tỷ số giữa cạnh dài chia cạnh ngắn = φ (Ảnh: Flickr)
Ngoài
ra, bên trong đền thờ chúng ta cũng có thể tìm thấy con số Pi (π),
3.1416, xuất hiện dưới dạng thức toán học 2F2/10, nhưng điều ấn tượng
hơn là, chúng ta cũng bắt gặp con số e = 2,72, vốn là hằng số toán học
quan trọng nhất và cơ số của Lôgarit tự nhiên.
Hé lộ bí ẩn đền Pantheon
Sau gần 2.000 năm, các nhà khoa học đang tìm ra lời giải cho cấu trúc kỳ lạ của ngôi đền La Mã cổ đại, Pantheon.
Khám phá bí ẩn ngôi đền 2.000 tuổi của đế chế La Mã
Một cuộc tranh luận đang diễn ra rằng, liệu nó có
phải là một chiếc đồng hồ mặt trời hay không? Nếu câu trả lời là đúng
thì với kích thước cao 43 m, dài 84 m, và rộng 58 m, Pantheon sẽ là
chiếc đồng hồ mặt trời lớn nhất hành tinh.
Ngôi đền đồ sộ ở thủ đô Roma được xây dựng từ năm 118 - 126 dưới triều vua Hadrianus, đây là một trong những công trình kiến trúc lớn nhất thời cổ đại được hoàn thành vào năm 128 sau Công nguyên.
Mặt tiền của Pantheon tương tự những ngôi đền phong cách Hy Lạp với 8 cột trụ bằng đá hoa cương xám,
đỉnh cột kiểu Corinthian, trụ cột bằng đá cẩm thạch trắng. Tiếp đến là
ba hàng cột trụ đá hoa cương hồng chia tiền sảnh đền làm ba phần, trong
đó phần giữa dẫn vào phía trong đền.
Trung tâm đền là tòa nhà hình trụ tròn, bên trên có
vòm hình bán cầu với đường kính 43,44m. Đây là mái vòm lớn nhất trong
suốt 13 thế kỷ, cho đến khi mái vòm nhà thờ Santa Maria del Fiore ở
Florence của Brunelleschi lấy mất ngôi vị quán quân này.
Mái vòm này được làm bằng bê tông trộn với đá nham
thạch để giảm trọng lượng. Trên đỉnh của mái vòm có một vòng tròn trống
đường kính 8,92m, là chỗ duy nhất đưa ánh sáng tự nhiên vào phía trong
đền.
Khi đến thăm ngôi đền, Robert Hannah thuộc ĐH Otago, Dunelin, New
Zealand đã nhận ra rằng Pantheon không đơn giản chỉ là một ngôi đền.
Trong hai ngày xuân phân và thu phân, vào tháng 3 và tháng 9, ánh
sáng mặt trời chiếu qua lỗ hổng sẽ đến đúng chỗ nối giữa tường và mái
vòm ở cửa lớn phía bắc của ngôi đền.
Vào buổi trưa ngày xuân
phân hoặc thu phân, ánh sáng mặt trời sẽ chiếu qua mắt của ngôi đền đến
một căn phòng nằm phía trên cửa ra vào.
Một căn phòng phía trên cửa ra vào cho phép một phần
nhỏ ảnh sáng chiếu xuống sân trong của tiền sảnh. Sẽ chỉ có một khoảng
thời gian ngắn trong năm nhìn thấy được ánh sáng mặt trời nếu các cửa
chính của ngôi đền được đóng lại.
Hannah không cho rằng đó là sự trùng hợp ngẫu nhiên.
Một bán cầu rỗng với một lỗ hổng trên đỉnh là một kiểu đồng hồ mặt trời
dùng để tính thời gian của người La Mã. Mặc dù trong trường hợp này, nó
được dùng để biểu diễn thời gian của một năm.
Khi mái vòm của Pantheon khá phẳng (nhẵn) ở bên ngoài, nó làm thành một bán cầu hoàn hảo ở bên trong. “Đây là một đặc điểm của một thiết kế có tính toán", Hannah nói.
Pantheon nghĩa là “nhà của các vị thần”,
chính mái vòm của công trình tượng trưng cho vòm trời, nơi các vị thần
ngự trị, theo tín ngưỡng của người La Mã. Hannah nghĩ rằng, bằng cách
đánh dấu các ngày phân điểm, Pantheon sẽ là nơi đưa các vị hoàng đế La Mã lên vương quốc của các vị thần.
James Evan, một sử gia thiên văn học ở ĐH Puget Sound, Washington phát biểu: “Kiến
trúc sư của ngôi đền Pantheon chắc hẳn có kiến thức kết nối biểu tượng
giữa vũ trụ và đế quốc La Mã, giữa mặt trời và hoàng đế.” Tuy
nhiên, ông không tin giả thuyết này đã được làm sáng tỏ vì không tồn tại
các ký hiệu ở Pantheon liên quan đến đồng hồ mặt trời.
“Nó là một phần của nền văn hoá, những người xây dựng Pantheon không cần giải thích về công trình của họ”, Hannah phản bác ý kiến của Evan.
Cập nhật: 13/11/2015Tổng hợp
Những điều bí ẩn đền Parthenon vùng đất Athen của Hy Lạp
Đền Parthenon là một biểu tượng
lớn của vùng đất Athens và cũng là cái nôi của nền văn minh phương Tây,
nhưng nơi đây ẩn chứa rất nhiều bí ẩn đền Parthenon mà với các nhà khảo cổ học thì đây vẫn là một ẩn số. Đền Parthenon là một trong những đền
có kiến trúc đồ sộ và tốt nhất thế giới được nhà điêu khắc Phidias thiết
kế nên. Ngôi đền ẩn chứa nhiều giá trị tinh hoa dân tộc nhân loại của
thế giới nói chung và Athens nói riêng. Hiện nay, có rất nhiều bí ẩn đền Parthenon đang được các nhà khảo cổ học khai quật và tìm tòi. Đền Parthenon là công trình kiến trúc vĩ đại của thế giới Bí ẩn đền Parthenon: Sự hình nhanh chóng Theo tính toán của những nhà xây dựng
kiến trúc nổi tiếng hiện nay thì để xây dựng nên đền thờ Parthenon với
những công cụ và máy móc hiện đại nhất hiện nay phải mất tới vài thập
kỉ, nhưng có một điều mà ai cũng phải kinh ngạc rằng người dân Athens đã
xây dựng nên công trình đồ sộ này với những công cụ rất thô sơ với sức
người nhỏ bé thời bấy giờ chỉ chưa tới một thập kỉ. Đây là một sự bí ẩn đền Parthenon vô cùng kì diệu mà hiện nay mà chúng ta cần mất thêm nhiều thời gian để tìm ra lời giải đáp.
Tỷ lệ vàng đang là một bí ẩn đền Parthenon
Bí ẩn đền Parthenon: Tỷ lệ vàng trong kích thước: Tỷ lệ vàng là thước đo chuẩn cho sự
hoàn hảo đến từng centimet, tỷ lệ vàng thường xuất hiện trong các số đo,
kích thước cơ thể người, trong các bông hoa và các loài thực vật hay
trong các dải ngân hà. Nhưng người ta lại tìm thấy điều này trong sự bí ẩn đền Parthenon. Những
con số thể hiện kích thước của đền hoàn hảo đến một cách lạ thường như
dãy số Fibonacci 1, 1, 2, 3, 5, 8, 13, 21, 34, 55, 89, 144,… kì diệu hơn
là, tỷ số giữa hai số liên tiếp bất kì trong dãy số này có tỷ lệ xấp xỉ
với tỷ lệ vàng. Ngoài ra, ở đền Parthenon người ta còn tìm được số
pi=3,1416 xuất hiện dưới dạng thức toán học 2F2/10 hay hằng số toán học
quan trọng nhất và cơ số của lôgarit tự nhiên e= 2,72.
Đền Parthenon trường tồn theo thời gian
Bí ẩn đền Parthenon: các bí ẩn toán học và sự tính toán đến tỉ mỉ:
Tỷ lệ vàng được nghiên cứu và công
nhận khi nhà toán học Ơ-clít xuất hiện thế nhưng trước đó thì đền
Parthenon lại hội tụ đầy đủ mọi yếu tố vàng đó và từ đây câu hỏi được
đặt ra là: làm sao Phidias và những người Hy Lạp cổ đại biết được điều
đó? vẫn còn là một điều bí ẩn. Năm 1202, dãy số Finabocci được chính
thức công nhận nhưng ở đền thờ Parthenon được hình thành từ 447-438 TCN
đã xuất hiện dãy số này. Và đặc biệt nhất là mặt tiền và các yếu tố khác
của đền lại được xây bao bọc trong hình chữ nhật ngoại tiếp mà vào thời
điểm đó không hề có những thiết bị hiện đại như ngày nay. Đây là một
trong những bí ẩn đền Parthenon lớn nhất và được đặt ra rất nhiều giả thiết cũng như tranh cãi khác nhau.
Bí ẩn đền Parthenon và các dấu hiệu dưới ánh nắng mặt trời:
Ta lại có thêm một bí ẩn đền Parthenon
đang cần tìm lời giải đáp rằng khi ánh sáng chiếu vào ngôi đền thì cái
bóng của ngôi đền đổ xuống mặt đất có chỉ đến một địa điểm nhất định nào
của Hy Lạp không? Có quá nhiều ý kiến được đưa ra xoay quanh vấn đề này
nên tất cả đã không thể đưa ra được một giải pháp chung.
Mặt tiền nhà Trắng (Mỹ) có thiết kế giống đền Parthenon
Có quá nhiều bí ẩn xung quanh ngôi
đền Parthenon mà nhân loại chưa thể giải đáp, nhưng cho dù những bí ẩn
đền Parthenon có được giải đáp hay không thì con người cũng vô cùng tự
hào khi được ngắm nhìn một công trình kiến trúc tuyệt đẹp tới như vậy,
cái nôi của nền văn minh phương Tây. Đền Parthenon cũng là công trình
kiến trúc lâu đời nhất và thu hút được rất nhiều khách du lịch tới đây
tham quan hằng năm và đây cũng là công trình kiến trúc được sao chép
nhiều nhất hiện nay như: mặt tiền nhà Trắng, sở giao dịch chứng khoán
New York, tòa nhà Reichstang ở Berlin (Đức). Bí ẩn đền Parthenon là một
trong những bài toán khó của nhân loại nhưng hy vọng rằng những bí ẩn đó
sẽ được các nhà khảo cổ học tìm ra trong tương lai.
Tu sửa đền Parthenon
3. Núi Palpa Flat, đây là một trong những hiện tượng tự nhiên bí ẩn
được cho liệt vào danh sách "Những bí ẩn mãi mãi là bí ẩn", bởi không
ai có thể giải thích được. Có rất nhiều ngọn núi có ngọn phẳng như núi
Palpa nhưng núi Palpa được cho là một ngọn núi phẳng ấn tượng nhất với
những "đường băng" phẳng tuyệt đối cùng những bản vẽ cổ xưa ấn tượng.
(Nguồn List25)
Vụ MH370: Có một hành khách bí ẩn trên máy bay?
Thứ Tư, ngày 08/03/2017 19:00 PM (GMT+7)
Các tài liệu về chuyến bay của hãng hàng không Malaysia cho thấy có một người “bí ẩn” trên chuyến bay MH370, Express đưa tin.
Máy bay mang số hiệu MH370 của hãng hàng không Malaysia Airlines mất tích 3 năm trước được cho là chở 239 người (Ảnh minh họa)
Máy bay của hãng hàng không Malaysia Airlines mất tích 3 năm trước
được cho là chở 239 người, bao gồm hành khách và thành viên phi hành
đoàn.
Tuy nhiên, nhà điều tra tự nguyện và người sáng lập hãng công nghệ
quốc phòng Unicorn Aerospace, ông Andrey Milne, tin rằng mình đã phát
hiện dấu hiệu của một hành khách khác.
Trong phần cuối của một báo cáo chính thức về vụ MH370 - một bản liệt
kê hàng hoá trên máy bay – thông tin ghi rằng có 228 hành khách lên máy
bay.
Nhà điều tra Andrey Milne vừa đưa ra giả thuyết có một người "bí ẩn" trên máy bay
Ông Milne nói với Express: "228 là số chỗ được bán trong 2 giờ trước
khi bay. Con số 228 không bao gồm 2 trẻ em ngồi cùng cha mẹ.
"Từng có những bản tuyên bố nói rằng 4 người đã không lên máy bay. Điều đó có nghĩa là số ghế cuối cùng được sử dụng chỉ là 224.
"Thêm 2 đứa trẻ và bạn có 226 hành khách. Bây giờ thêm 12 thành viên
phi hành đoàn. Bạn chỉ có 238 người mất tích, không phải là 239 như con
số được công bố chính thức.
"Vì vậy, chúng tôi đang nghĩ rằng có một “người” nào đó khác trên chuyến bay MH370."
Ông Milne khẳng định người “bí ẩn” có thể là không tặc và gây ra vụ biến mất chưa có lời giải.
Ông nói thêm: "Hành khách này có thể hành động cùng với sự hỗ trợ lớn
từ bên ngoài để chiếm quyền chỉ huy và kiểm soát buồng lái của MH370."
Con số chính thức của các nhà chức trách đưa ra là 227 hành khách trên máy bay
Trả lời giả thuyết trên, một phát ngôn viên của đội điều tra an toàn
bay MH370 nói: "Chúng tôi biết về sự khác biệt giữa các con số kể trên.
Tuy nhiên, số hành khách thực tế trên máy bay lúc đó chỉ là 227.
"Báo cáo đó được gửi đi khoảng 2 giờ trước khi máy bay cất cánh. Con
số thực tế có thể khác với con số được in trên báo cáo vì những thay đổi
vào phút chót”.
Nhiều giả thuyết đã được đưa ra về vụ mất tích MH370.
Các chuyên gia tin vào siêu nhiên cho rằng người ngoài hành tinh có
thể đã cho nổ tung máy bay. Nhiều người thì nói MH370 đã hạ cánh xuống
một căn cứ của CIA gần đó.
Một số người thậm chí còn tuyên bố sự cố từng được tiên đoán bởi ca
sĩ hát rap Pitbull trong lời bài hát “Get it started” năm 2012 của anh. >>> Bấm xem thêm:Cơ trưởng MH370 đâm xuống biển để cứu hàng ngàn người?
Theo Trà My - Express (Dân Việt)
Manh mối mới về địa điểm rơi của chiếc máy bay MH370, mất tích cách đây hơn 3 năm
Dù đã hơn 3 năm trôi qua, địa điểm rơi chính xác của chiếc máy bay MH370
vẫn là một dấu chấm hỏi. Mới đây, các phân tích trôi dạt đã chỉ ra vị
trí mà có khả năng là nơi MH370 đã rơi xuống, chếch về hướng Bắc so với
địa điểm tìm kiếm ban đầu.
Chiếc máy bay MH370
mất tích khi đang bay từ Kuala Lumpur đến Bắc Kinh vào năm 2014 với 239
người trên máy bay. Sau nhiều năm tìm kiếm vô vọng, cơ quan chức năng
ba quốc gia Malaysia, Trung Quốc và Úc đã ra thông báo chính thức dừng
tìm kiếm máy bay MH370 từ tháng 1/2017.
Tuy nhiên, các nghiên cứu
phân tích vẫn được tiến hành trong phòng thí nghiệm. Theo BBC đưa tin,
dựa vào việc phân tích mô hình trôi dạt của phần cánh máy bay Boeing
777, các nhà khoa học đã chỉ ra một vị trị mới, được cho là nơi MH370
đâm xuống.
Các nhà khoa học cho rằng địa điểm máy bay MH370 rơi nằm ở phía Bắc của khu vực tìm kiếm ban đầu trên vùng biển Nam Ấn Độ Dương.
Vị trí này có vùng bán kính khoảng 25,000 km2, nằm ở phía Bắc của khu vực tìm kiếm ban đầu trên vùng biển N3am Ấn Độ Dương.
"Kiểm
tra phần cánh thực tế giúp chúng tôi khẳng định chắc chắn hơn về địa
điểm máy bay rơi như bản báo cáo từ tháng 12 năm ngoái", tiến sĩ David
Griffin từ hiệp hội nghiên cứu công nghiệp và khoa học khối Thịnh Vượng
chung của Australia cho biết.
Các nghiên cứu ban đầu đã sử dụng phần phiên bản mô phỏng lại cánh máy bay được tìm thấy từ đảo Reunion.
"Chúng
tôi nhận ra rằng phần cánh máy bay thực sự trôi dạt về phía trái 20 độ
và nhanh hơn mô hình, đúng như những gì chúng tôi nghĩ", tiến sĩ Griffin
cho biết.
"Chính vì vậy, việc phần cánh của MH370 trôi dạt về phía đảo Reunion vào tháng 7/2015 là hoàn toàn hợp lý".
Năm
ngoái, bộ trưởng bộ giao thông Australia cho biết những bản báo cáo về
nơi có khả năng tìm thấy máy bay MH370 sẽ không được tiến hành triển
khai tìm kiếm thực tế do không chỉ ra địa điểm chính xác. Phát biểu vào
hôm thứ sáu vừa qua, tuy vẫn còn hoài nghi về địa điểm mới này nhưng ông
đã gửi bản báo cáo cho phía Malaysia xem xét.
Máy bay MH370 mất tích - Bí ẩn 3 năm không lời giải
Thứ Bảy, 21/1/2017 07:25 GMT+7
(PLO) - Chính phủ ba nước Australia,
Malaysia và Trung Quốc đã chính thức ngừng chiến dịch tìm kiếm máy bay
MH370. Việc kết thúc chiến dịch tìm kiếm quy mô lớn và tốn kém nhất
trong lịch sử ngành hàng không thế giới tại vùng biển phía Nam Ấn Độ
Dương, được cho là nơi máy bay rơi đã khiến MH370 vẫn là một “ẩn số”.
Hành trình định mệnh của chuyến bay MH370
Ngày 17/1/2017, Chính
phủ Australia, Malaysia và Trung Quốc thông báo chiến dịch tìm kiếm máy
bay mất tích MH370 của Hãng hàng không Malaysia Airlines (MAS) đã chính
thức kết thúc sau 3 năm mà không đạt được kết quả.
Vô vọng
Tuyên bố của ba nước
nêu rõ máy bay MH370 đã không ở trong khu vực tìm kiếm rộng 120.000km2
của Ấn Độ Dương. Bất chấp mọi nỗ lực sử dụng các công nghệ tiên tiến và
khoa học hiện có, cũng như mọi giả thuyết và lời khuyên từ các chuyên
gia giỏi nhất trong lĩnh vực, công cuộc tìm kiếm đã không thể xác định
được chiếc máy bay. Do đó, việc tìm kiếm MH370 chính thức dừng lại.
Chính phủ Australia,
Malaysia và Trung Quốc nhấn mạnh việc ngừng chiến dịch tìm kiếm do
Malaysia đề xuất vào đầu tháng này là do cho tới thời điểm hiện tại,
không phát hiện thêm được thông tin mới nào để xác định được vị trí cụ
thể của máy bay. Ba nước bày tỏ hy vọng thông tin mới sẽ xuất hiện và
vào một thời điểm nào đó trong tương lai, chiếc máy bay xấu số sẽ được
tìm thấy.
Tìm kiếm quy mô lớn
Chuyến bay mang số hiệu
MH370 khởi hành từ Kuala Lumpur của Malaysia, dự kiến tới Bắc Kinh,
Trung Quốc lúc 6 giờ 30 phút sáng ngày 8/3/2014 giờ địa phương (tức 22
giờ 30 phút ngày 7/3 theo giờ GMT). Trên máy bay khi đó chở 239 người,
bao gồm 227 hành khách và 12 thành viên phi hành đoàn. Trong số hành
khách có 153 người Trung Quốc, 38 người Malaysia, 12 người Indonesia, 7
người Australia, 4 người Mỹ, 2 người Canada, 2 người New Zealand, 2
người Ukraine và một số người từ các nước khác.
Tuy nhiên, 2 tiếng sau
khi khởi hành, vào khoảng 2 giờ 40 phút sáng ngày 8/3/2014 theo giờ địa
phương (tức 18 giờ 40 phút ngày 7/3/2014 giờ GMT), máy bay đã bất ngờ
mất liên lạc với Trạm kiểm soát lưu không Subang tại vị trí 6 độ 56 phút
Bắc, 103 độ 35 phút Đông, thuộc vùng biển cách mũi Cà Mau của Việt Nam
120 hải lý (khoảng 230 km) về phía Tây Nam. Ngay sau khi nhận được thông
báo chiếc máy bay mất tích, Việt Nam đã tích cực tham gia và dẫn đầu
nhóm tìm kiếm quốc tế trên khu vực thuộc lãnh hải Việt Nam nhưng không
ghi nhận kết quả khả quan nào.
Ngày 15/3/2014, Thủ
tướng Malaysia Najib Razak xác nhận máy bay mang số hiệu MH370 đã bay ít
nhất 7 giờ kể từ khi mất liên lạc với mặt đất. Chính quãng thời gian
bay nhiều giờ sau khi mất liên lạc đã khiến công tác khoanh vùng định vị
khu vực tìm kiếm chiếc máy bay MH370 càng thêm khó khăn. Việc tìm kiếm
hầu như phải dựa vào hình ảnh được chụp từ vệ tinh do các quốc gia chia
sẻ, mà vốn dĩ những hình ảnh này cũng không rõ ràng và chính xác. Tuy
nhiên, Malaysia và cộng đồng quốc tế vẫn không từ bỏ hy vọng giải đáp bí
ẩn về chiếc Boeing 777-200 này.
Từ Biển Đông, công tác
tìm kiếm cứu nạn sau đó đã được mở rộng tới phía Tây bờ biển Australia,
nơi mà các chuyên gia phát hiện hàng loạt tín hiệu liên lạc giữa MH370
với vệ tinh liên lạc Inmarsat, cùng với phỏng đoán của giới chức hàng
không về chuyến bay MH370 có thể đã đổi hướng bay và kết thúc hành trình
tại vùng biển phía Nam Ấn Độ Dương.
Chiến dịch tìm kiếm cứu
nạn do Australia dẫn đầu đã được thực hiện một cách quy mô và liên tục.
Rất nhiều tàu thuyền cùng với các trang thiết bị tối tân đã được đưa
vào sử dụng, trong đó có một số thuyền được trang bị công cụ hiện đại có
thể tìm kiếm ở độ sâu lên tới 6.000m dưới mực nước biển hay tàu ngầm
không người lái có khả năng tiếp cận các vách núi ngầm hoặc vực sâu.
Khoảng 120.000km2 dưới đáy biển Nam Ấn Độ Dương đã được khảo sát, tìm
kiếm, tuy nhiên vẫn không cho thấy một dấu hiệu khả quan nào. Nhiều giả
thuyết khác về chuyến bay đã được đưa ra, nhưng phần lớn số đó đều chưa
được kiểm chứng.
Ngày 29/1/2015, Chính
phủ Malaysia đã chính thức tuyên bố vụ máy bay của hãng hàng không quốc
gia thực hiện chuyến bay MH370 mất tích là một tai nạn, hành khách và
phi hành đoàn trên chuyến bay được coi là đã thiệt mạng. Hãng hàng không
Malaysia Airlines đã cam kết bồi thường thỏa đáng cho gia đình các nạn
nhân đồng thời hối thúc gia đình các nạn nhân, nộp đơn yêu cầu bồi
thường trước khi thời hạn nhận đơn 2 năm theo Công ước Montreal năm 1999
về hàng không kết thúc vào ngày 8/3/2016.
Bí ẩn không lời đáp
Những nỗ lực tìm kiếm
đã lóe lên tia hy vọng khi cuối tháng 7/2015, mảnh vỡ đầu tiên của máy
bay MH370 được tìm thấy trên đảo Reunion thuộc Pháp và các công tố viên
Pháp xác nhận đây là phần cánh của chiếc máy bay MH370.
Tháng 9/2015, mảnh vỡ
thứ hai cũng đã được tìm thấy trên đảo Pemba ngoài khơi bờ biển
Tanzania. Tháng 5/2016, một mảnh vỡ của chiếc máy bay xấu số MH370 trôi
dạt vào đảo quốc Mauritius và được tìm thấy. Theo phân tích của Cục An
toàn Giao thông Australia (ATSB), mảnh vỡ này phù hợp với phần lái ở
đuôi cánh máy bay, dựa trên phát hiện một phần mã số trên mảnh vỡ. Trong
khi đó, nhà sản xuất cánh máy bay cung cấp hồ sơ cho thấy mã số đặt
hàng này được in bên ngoài cánh máy bay Boeing 777 có mã dây chuyền sản
xuất 404, chính là chiếc máy bay với mã số đăng ký 9M-MRO (tức chuyến
bay số hiệu MH370).
Ngày 22/7/2016, Chính
phủ Malaysia, Australia và Trung Quốc đã thông báo ngừng tìm kiếm chiếc
máy bay trên sau khi các cuộc tìm kiếm tại khu vực được cho là máy bay
rơi không đạt kết quả.
Tháng 9/2016, Bộ trưởng
Giao thông Malaysia Liow Tiong Lai thông báo ít nhất 22 mảnh vỡ đã được
tìm thấy dọc bờ biển và ngoài khơi các nước Nam Phi, Mozambique,
Mauritius và Tanzania. Trong số đó, có một số mảnh nhiều khả năng thuộc
về chiếc máy bay thuộc hãng hàng không Malaysia bị mất tích. Dù nhiều
mảnh vỡ của MH370 đã được các nhà chức trách ba nước Malaysia, Australia
và Trung Quốc tìm thấy, nhưng đến nay vẫn chưa xác định được vị trí
cuối cùng của chiếc máy bay xấu số.
Gần 3 năm đã trôi qua kể từ ngày MH370 mất tích, hàng không thế giới vẫn chưa tìm được lời giải cho vụ mất tích đầy bí ẩn này.
4. Vụ mất tích của máy bay MH370, Đây chắc chắn là một trong những bí ẩn lớn nhất của thập kỷ
này, máy bay mang số hiệu MH370 của hãng hàng không Malays/ia biến mất
cùng với 239 hành khách và toàn bộ phi hành đoàn vào ngày 8/3/2014 năm
2014 khi đang trên đường tới Bắc Kinh từ Kuala Lumpur. Mặc dù các cuộc
tìm kiếm liên tục diễn ra với sự tham gia của một số quốc gia hùng mạnh
nhất thế giới, bao gồm Nga, Trung Quốc, Pháp, và Mỹ, chúng ta vẫn không
có bất cứ manh mối về những gì đã xảy ra ngày hôm đó. (Nguồn List25)
Chủ nhân của dấu chân này dường như không ngại bất cứ chướng
ngại vật nào, từ mái nhà, ống nước, tường cho đến đống rơm,
tất cả đều phủ tuyết và bị in dấu chân lên đó.
Mời độc giả tiếp tục khám phá những câu chuyện bí ẩn "rợn
tóc gáy": 5. Dấu chân của quỷ
Trên thế giới ghi nhận nhiều báo cáo về "dấu chân của
quỷ" nhưng nổi tiếng nhất là ở Devon, Anh. Cụ thể, sau một
trận bão tuyết vào buổi tối ngày 8-9/2/1855, người dân
bản địa đã phát hiện một chuỗi những dấu vết như móng
guốc xuất hiện trên nền tuyết trắng.
Những dấu chân này rộng khoảng từ 4-6,5cm và cách nhau
khoảng 24cm, kéo dài hơn 160km, có những đoạn chuyển hướng
nhưng đa phần là đi thẳng. Chủ nhân của dấu chân này dường
như không ngại bất cứ chướng ngại vật nào, từ mái nhà,
ống nước, tường cho đến đống rơm, tất cả đều phủ tuyết
và bị in dấu chân lên đó.
Lời đồn đại từ đó lan truyền đi khắp nơi và những
người dân trong khu vực bắt đầu trang bị vũ khí để bảo vệ
gia đình. Nhưng cuối cùng chẳng có chuyện gì xảy ra cho
đến đêm ngày 12/3/2009, dấu chân đó lại một lần nữa xuất
hiện. Một số dừng lại giữa chừng ở những nơi hoang vu và
không còn để lại bất kỳ dấu vết nào, một số khác thì tiếp tục
xuất hiện ở một nơi cách xa điểm đã dừng. Người dân địa phương đồn
thổi những dấu chân lạ lùng này chính là của quỷ dữ. 4. Felicia Felix-Mentor
Felicia Felix-Mentor được xác nhận là đã chết vào năm
1907, sau một cơn bạo bệnh. Tuy nhiên, năm 1936, cô lại bất ngờ
xuất hiện trên đường phố và đi về phía một trang trại. Người phụ
nữ quần áo rách rưới này khăng khăng rằng đó là tài
sản thuộc về cha cô.
Những người bản địa sống lâu năm thảng thốt thừa nhận,
đây chính là Felicia Felix-Mentor – người ã chết cách
đó rất lâu. Thậm chí, chồng của Felix-Mentor cũng đã không
dám tin về điều này. Người ta cho rằng cô đã "đội mồ" sống
dậy mà không ai phát hiện từ trước.
Một bác sĩ chăm sóc cho Felicia đã miêu tả những
hành vi của Felix-Mentor như sau: “Thi thoảng cô ấy lại phá lên cười mà chẳng vì lý
do gì, mặt cũng không biểu lộ cảm xúc. Cô ấy còn thường
xuyên tự nói chuyện với mình, thậm chí còn tự mình đóng
hai vai. Cô ấy mất hoàn toàn khái niệm về thời gian và tỏ
ra cực kỳ xa lạ với những đồ vật xung quanh.” 3. Chupas
Chupas là một vật thể bí ẩn được cho là vật thể bay
UFO) bất ngờ được phát hiện trong đêm ở khu rừng phía
đông Brazil. Chúng được miêu tả là một vật thể kim loại,
nhỏ, bay trên đầu những ngọn cây, gây ra âm thanh giống như
tiếng kêu của tủ lạnh.
Vì hầu hết người dân sống trong khu vực đó đều rất
nghèo nên họ thường xuyên ra ngoài vào buổi đêm để săn bắn
hươu nai. Trong lúc trèo lên cây và nằm chờ con mồi xuất
hiện, họ khẳng định đã nhìn thấy vật thể bay kì lạ
phát ra một thứ ánh sáng màu trắng chói lòa.
Sau đó, khu vực này xảy ra một số vụ mất tích kỳ lạ. Nhiều
người buộc tội những vật thể này đã bắt cóc rồi trả họ về
với những vết thương dai dẳng kéo dài từ ngày này qua tháng
khác, có khi là vài năm. Thậm chí có nhiều người còn
bị chết bởi những tia sáng phát ra từ chupas. Cũng
có người dùng súng thử bắn vào chupas nhưng chẳng đem
lại kết quả gì.
Chủ nhân của dấu chân này dường như không ngại bất cứ chướng
ngại vật nào, từ mái nhà, ống nước, tường cho đến đống rơm,
tất cả đều phủ tuyết và bị in dấu chân lên đó.
2. SS Ourang Medan
Tháng 2/1948, rất nhiều cuộc gọi cứu nạn từ tàu chở
hàng Ourang Medan của Hà Lan báo về các tàu gần
Indonesia. Một trong những thông điệp rùng rợn được gửi đi
có đoạn: “Tất cả mọi người bao gồm cả thuyền trưởng
đã chết trong cabin và trên boong tàu. Có thể là toàn bộ
thủy thủ đoàn cũng đã chết.” Theo sau thông điệp
là một chuỗi các đoạn mã Morse không thể đọc được và
cuối cùng là lời nói…"Tôi chết mất".
Vài tiếng sau đó, khi tàu cứu hộ đầu tiên đến hiện
trường, họ đã cố gắng gọi Ourang Medan nhưng không nhận
được phản hồi nào. Cuối cùng, mọi người quyết định
điều một chiếc máy bay đến kiểm tra. Kết quả là những
gì mà họ nhìn thấy vô cùng kinh hoảng.
Tất cả những thuyền viên và thủy thủ đoàn trên tàu
Ourang Medan đều đã chết trong trạng thái mắt mở
to nhìn về phía mặt trời, những cánh tay dang rộng và
nét mặt biểu lộ rõ sự sợ hãi, khủng hoảng.
Khi bước vào trong phòng hơi, thủy thủ trong đoàn cứu hộ
bỗng cảm thấy ớn lạnh mặc dù nhiệt độ ở đó là gần 43,5
độ C. Khi đã có quyết định kéo thuyền về cảng thì
bỗng nhiên có một luồng khói bốc lên từ phía thân tàu.
Các thủy thủ đoàn cứu hộ phải rời tàu và gần như ngay
lập tức, chiếc tàu Ourang Medan phát nổ và chìm dần xuống
đáy đại dương.
Cho đến tận ngày hôm nay, số phận chính xác của Ourang
Medan và các thuyền viên trên đó vẫn còn là một điều bí
ẩn. 1. Gef
Tháng 9/1931, gia đình Irving gồm James, Margaret và cô con
gái Voirrey 13 tuổi đều quả quyết rằng họ đã nghe thấy
những tiếng cào, tiếng sột soạt vang lên đằng sau bức
tường bằng gỗ trong ngôi nhà đang sinh sống. Đầu tiên,
họ nghĩ đó là một con chuột, nhưng rồi sinh vật kì lạ đó
bắt đầu phát ra những âm thanh khác nhau như tếng rít của
một con chồn, tiếng gầm gừ của chó hay tiếng líu ríu của
một đứa bé.
Sau đó người ta phát hiện đây là một con cầy mangut biết
nói– thường được gọi là Gef. Sinh vật này được cho là sinh
ra ở New Delhi, Ấn Độ vào năm 1852.
Theo Voirrey, người duy nhất nhìn thấy rõ ràng sinh vật
đó cho biết, nó có kích cỡ như một con chuột nhỏ với
bộ lông vàng và cái đuôi rậm rạp (thực tế thì loài cầy
Ấn Độ lớn hơn rất nhiều so với một con chuột và không có
một cái đuôi rậm).
Trong một bài phỏng vấn cuối cùng của bà, Voirrey cho
biết, Gef không phải là sản phẩm do bà tạo ra.
Theo Hải Yến (Theo Listverse) (Khampha.vn)
Vụ thảm sát bí ẩn đeo bám cảnh sát Đức gần 100 năm
Trang Ly |
17
Hình ảnh mang tính chất minh họa.
Vụ thảm sát khiến 6 người chết một cách bí ẩn tại "trang trại ma ám"
Hinterkaifeck cho đến nay là bí ẩn gần 100 năm chưa thể giải mã trong
lịch sử nước Đức.
Mặc dù đã qua hàng chục cuộc điều
tra quy mô lớn với hàng trăm kẻ tình nghi bị điều tra xét hỏi, nhờ đến
sự can thiệp của cả những nhà ngoại cảm nổi tiếng nhưng nguyên nhân và
hung thủ trong vụ án mang tên Hinterkaifeck vẫn là một ẩn số của Đức.
Hinterkaifeck, tên một trang trại lớn
nằm gần khu rừng Groebern nằm cách thành phố Munich (Đức) khoảng 70km,
đã trở thành cái tên đầy ám ảnh của cảnh sát và người dân Đức.
Với cái chết đầy bí ẩn của 6 người trong một gia đình trong thập niên 1920, "vụ án Hinterkaifeck" trở thành trường hợp bí ẩn nhất trong lịch sử án hình sự Đức.
Dù các chi tiết không được công bố rộng
rãi, nhưng vụ án này đã trở nên nổi tiếng. Rất nhiều bộ phim và tiểu
thuyết đã được xây dựng từ câu chuyện này và thu hút một lượng lớn khán
giả.
Poster của bộ phim lấy cảm hứng từ vụ án Hinterkaifeck
Thảm kịch bí ẩn bắt đầu...
Vào đầu những năm 1920, gia đình nhà Andreas Gruber đã đến Hinterkaifeck và trở thành chủ trang trại rộng lớn.
Gia đình Andreas Gruber gồm 5 người, gồm
vợ chồng Andreas Gruber và Cazilia Gruber, cô con gái Viktoria và hai
người cháu họ của Cazilia (là bé Cäzilia (7 tuổi) và Joesef (2 tuổi)).
Vì trang trại cách xa đường phố và khu
dân cư nên rất ít người quan tâm đến nên cả gia đình Andreas Gruber đã
sống cô lập, không quan tâm đến thế giới bên ngoài.
Trang trại Hinterkaifeck nhuốm màu chết chóc
Cuộc sống thầm lặng của họ có lẽ vẫn trôi đi nhẹ nhàng nếu không có bi kịch giáng xuống đầu.
Dấu hiệu bất thường đầu tiên xuất hiện vào cuối năm 1921, người hầu gái trung thành của gia đình đột ngột bỏ việc vì cho rằng trang trại bị ma ám.
Đến tận cuối tháng 3/1922, gia đình Gruber mới tìm được người hầu mới tên là Maria Baumgartner.
Cũng trong thời gian này, những hiện
tượng lạ bắt đầu diễn ra liên tiếp. Andreas kể với hàng xóm rằng ông
thấy những dấu chân lạ từ rừng dẫn tới trang trại, nhưng điều kì quặc là
không thấy dấu chân quay trở lại rừng.
Sau đó, ông bắt đầu nghe thấy tiếng bước
chân trên gác xép. Không những thế, các hiện tượng kỳ lạ liên tiếp xảy
ra: Một chùm chìa khóa biến mất; một tờ báo không phải loại gia đình
Gruber đặt được tìm thấy gần đó.
Andreas Gruber đã tìm kiếm, lục soát toàn bộ căn nhà và khu trang trại nhưng không thấy bất cứ một dấu vết gì của người lạ.
Tài sản cũng như đồ đạc trong nhà không
có hiện tượng bị lục soát. Andreas Gruber vẫn nghĩ rằng có kẻ lạ mặt
đang lẩn trốn trong nhà nên ông ta ra sức tìm kiếm nhưng đều thất bại.
Cả gia đình nhà Andreas Gruber trở nên hoang mang tột độ
Và vào thứ 6 ngày 31/5
là ngày cuối cùng mà người ta nhìn thấy các thành viên trong gia đình
Andreas Gruber bởi những ngày sau đó không ai còn nhìn thấy bất cứ thành
viên nào trong gia đình của Andreas Gruber.
Ngày 4/4, sự vắng mặt của gia đình Gruber tại nhà thờ và trường học khiến hàng xóm bắt đầu lo ngại.
Người dân thị trấn bắt đầu đến khu trang
trại và tiến hành tìm kiếm. Ngay khi tìm đến, một cảm giác lạnh lẽo, u
ám bao trùm tất cả những người có mặt tại đó.
Theo kết quả tìm kiếm ban đầu thì, chưa ai tìm ra bất cứ một dấu vết gì của những thành viên trong gia đình Andreas Gruber.
Mọi đồ vật trong nhà vẫn ngay ngắn như
vốn dĩ chúng đã thế. Mọi người quyết định tìm kiếm bên trong nhà kho,
khi cánh cửa nhà kho mở ra thì một cảnh tượng hãi hùng ngoài sức tưởng
tượng của mọi người hiện ra:
Các thi thể được xếp chồng lên nhau và
phủ lên trên bởi đống cỏ khô. Đầu tiên là thi thể của Andreas Gruber, vợ
và con gái, tiếp theo là thi thể của người hầu gái và hai cháu bé trong
phòng ngủ.
Các xác chết bị vùi trong cỏ khô
Tất cả thi thể đều dính đầy vết máu khô.
Người dân thị trấn ngay lập tức gọi cảnh sát và trong vài giờ điều tra
của Sở Cảnh sát Munich tại hiện trường.
Vào ngày 5/4,
kết quả khám nghiệm tử thi cho thấy, cả gia đình Gruber đều bị giết bằng
cuốc chim. Các nạn nhân đều tử vong vào ngày 31/3/1922.
Nạn nhân bao gồm: Hai vợ chồng Andreas
Gruber (63 tuổi) và Cazilia Gruber (72 tuổi), cô con gái Viktoria
Garbiel (35 tuổi), bé Cäzilia (7 tuổi), Joesef (2 tuổi) và người hầu gái
Maria Baumgartner (44 tuổi).
Những bí ẩn khó hiểu tại hiện trường
Điều tra thêm, cảnh sát cho biết, tất cả các nạn nhân đều đang mặc quần áo ngủ, ngoại trừ bé Cazilia và Viktoria.
Bên cạnh đó, người hầu gái và cháu bé
hai tuổi bị chết trên giường, chứng tỏ rằng vụ giết người đã xảy ra vào
buổi tối muộn, khi các nạn nhân đang ngủ.
Nơi phát hiện 3 thi thể trong nhà
Theo nhận định của cảnh sát, có thể bọn
tội phạm đã tìm cách kéo Andreas Gruber, vợ và con gái vào nhà kho rồi
dùng cuốc chim giết chết họ, sau đó mới vào nhà để tiếp tục giết chết
những thành viên còn lại ngay tại giường ngủ.
Hung thủ giết người còn cố tình che đậy
các thi thể trong nhà kho bằng cỏ khô, những thi thể trong phòng ngủ
được che đậy bằng ga trải giường.
Có nhiều nhận định được đưa ra nhưng vẫn
chưa có một kết luận chính xác nhất bởi theo lời kể của một số nhân
chứng thì ngày người ta phát hiện ra các thi thể của gia đình nhà
Andreas Gruber.
Họ vẫn nhìn thấy khói bếp bốc ra từ trang trại chứng tỏ rằng ngôi nhà vẫn có người ở.
Bên cạnh đó, bàn ăn, giường ngủ còn được
nhận định rằng, có người vừa mới ăn và cũng vừa mới ngủ chứ không phải
là bàn ăn, giường ngủ đã vắng bóng người dùng.
Chưa hết, gia súc vẫn được cho ăn và
chăm sóc trong thời gian đó. Đồ ăn thừa còn khá mới được tìm thấy trong
bếp. Số tiền khá lớn mà gia đình Gruber tích trữ được vẫn còn nguyên.
Cuộc điều tra bế tắc
Cảnh sát điều tra đã gặp phải rất nhiều
khó khăn trong công việc điều tra để có thể tìm ra manh mối của vụ án.
Những cuộc tranh cãi liên tục xảy ra nhưng không thể tìm được một kết
luận chung.
Họ chỉ có thể kết luận rằng kẻ sát nhân đã giết gia đình Gruber và sau đó ở lại trang trại vài ngày trước khi biến mất.
Quan tài chứa thi thể những người trong gia đình Gruber. Ảnh: Historicmysteries
Thủ phạm là người biết cách điều hành
một trang trại, quen chăm sóc gia súc và không phải người lạ với chú chó
của gia đình Gruber, đủ khỏe để dùng cuốc chim giết người, không quan
tâm tới tiền bạc và có động cơ giết người hoàn toàn cá nhân.
Dù đã điều tra kĩ lưỡng trên quy mô lớn, họ vẫn không tìm được bất cứ kẻ tình nghi nào cho vụ án ở trang trại Hinterkaifeck.
Cảnh sát đã tuyệt vọng tới mức gửi xương
sọ của nạn nhân tới cho các nhà ngoại cảm để tìm manh mối, nhưng vẫn
không có kết quả gì.
Những gì còn lại trong vụ thảm sát 6 người chết là một loạt những câu hỏi không lời giải đáp:
Tại sao người hầu gái Maria đã bị ám ảnh
đến mức thần kinh hoảng loạn? Tại sao kẻ giết người lại ở lại ngôi nhà
gần một tuần, rồi ăn uống, ngủ nghỉ sau khi đã gây án giết chết toàn bộ
thành viên trong gia đình không ghê tay?
Mục đích của thủ phạm là gì thì vẫn chưa
ai có thể trả lời được. Nhiều người đã khẳng định trang trại
Hinterkaifeck đã bị ma ám chứ không có kẻ giết người nào lại cao siêu
đến vậy.
Giết người hàng loạt mà không để lại bất
cứ dấu vết nào tại hiện trường. Những dấu chân bí ẩn trên tuyết, những
tiếng động lạ trên căn gác vẫn không thể nào giải thích được.
Qua gần 100 năm, vụ án mang tên Hinterkaifeck vẫn chìm sâu trong bí ẩn cùng nỗi sợ hãi của người dân cùng thời.
*Bài viết tham khảo các nguồn: Wikipedia, Zing
Bí ẩn dịch bệnh "điệu nhảy tử thần" khiến tất cả giới khoa học bó tay
Cách đây hơn 500 năm tại Strasbourg (Pháp), một dịch bệnh kì lạ đã khiến hàng trăm người cùng nhau nhảy múa cho tới chết.
Nhắc tới cụm từ đại dịch, hẳn chúng ta sẽ nghĩ tới những căn bệnh
đáng sợ cướp đi sinh mạng của rất nhiều người trong lịch sử. Đó là "Cái
chết đen" thời Trung Cổ, là HIV/AIDS cuối thế kỷ XX và mới đây nhất là Ebola ở châu Phi.
Tuy nhiên, có những dịch bệnh không
chỉ đáng sợ mà còn vô cùng bí ẩn đến mức cho tới nay, con người vẫn
chưa thể lý giải được nguyên nhân. Thảm kịch xảy ra vào tháng 7/1518 tại
Strasbourg (Pháp) là một trong những câu chuyện điển hình như vậy.
Bắt nguồn từ điệu nhảy điên cuồng của một người phụ nữ...
Mùa
hè tháng 7 năm 1518, người phụ nữ có tên Frau Troffea bước vào một con
hẻm nhỏ ở Strasbourg (Pháp). Trước sự chứng kiến của đám đông, cô bắt
đầu nhảy múa "dữ dội".
Không hề có tiếng nhạc,
cũng không lấy một cảm xúc trên khuôn mặt nhưng cô ấy cứ vô tư nhảy như
thể có cả dàn nhạc vây quanh. Đặc biệt hơn, Troffea nhảy liên tục cả
ngày lẫn đêm mà không hề tỏ ra mệt mỏi. Cho tới ngày thứ sáu, điệu nhảy
đã dừng lại khi cô gái kiệt sức mà chết.
Ban
đầu, mọi người nghĩ rằng cô có vấn đề về thần kinh hay do bị quỷ ám nên
mới có những hành động bất thường như vậy. Nhưng sau khi Troffea nhảy
múa, một người khác bắt đầu nhảy theo, rồi thêm một người nữa. Một tuần
sau, người ta đếm được 34 người đã bắt chước hành động giống hệt như
Troffea tại khắp các con đường của thành phố.
Đường phố Strasbourg - nơi "điệu nhảy tử thần" tàn phá thành phố này.
Sự
việc càng ngày càng trở nên kì lạ khi chỉ sau một thời gian ngắn,
khoảng 400 người dân ở Strasbourg tham gia vào điệu nhảy này. Và giống
như những trường hợp trước, họ nhảy múa điên cuồng cho tới chết. Theo
các ghi chép của cơ quan y tế thời đó, các nạn nhân tử vong do đau tim
và kiệt sức.
Những
cư dân thời đó cho rằng, họ hoàn toàn có thể chữa được căn bệnh lạ có
tên gọi "dịch bệnh nhảy múa" trên bằng cách lấy độc trị độc. Vì vậy, họ
dựng các sân khấu bằng gỗ và mời nhạc công đến để giúp các nạn nhân nhảy
múa.
Kết quả là, họ không những không dập tắt
được "dịch bệnh", mà ngược lại còn khiến hàng chục người nhảy múa không
ngừng và tạm biệt cuộc sống vì nhồi máu cơ tim.
... tới những giả thuyết bí ẩn đằng sau đó
Thoạt
nghe, thảm kịch trên có vẻ giống những câu chuyện dân gian để dọa trẻ
em. Bởi trên lý thuyết, Frau Troffea và những người nhảy múa điên cuồng
đúng ra đã chết vì mất nước sau khi liên tục vận động như vậy. Theo các
bác sĩ, họ chỉ sống tối đa được ba ngày.
Thế
nhưng các tài liệu cổ lại khẳng định họ vẫn tiếp tục nhảy múa trong
nhiều ngày liền mà không hề ăn uống. Ngay cả những vận động viên điền
kinh, vận động viên marathon giỏi nhất hiện nay có lẽ cũng không thể làm
được điều đó.
Tuy
nhiên, các nhà nghiên cứu cũng đã đặt ra rất nhiều giả thuyết nhằm giải
đáp nghi vấn về dịch bệnh kì lạ trên. Phần đông mọi người đều cho rằng,
rất có thể Troffea và các nạn nhân đều đã mắc một chứng bệnh thần kinh
vì stress nặng và gây ảnh hưởng tới cả cộng đồng.
Tuy nhiên, nguyên nhân của chứng bệnh này được lý giải với nhiều căn cứ khác nhau.
Giả
thuyết đầu tiên cho rằng sở dĩ Troffea và những người khác mắc chứng
nhảy múa điên loạn tới chết là bởi quá đói nghèo. Vào thời điểm xảy ra
câu chuyện, Strasbourg đang chật vật trong nạn đói khủng khiếp.
Do
đó, nhiều người có thể đã bị stress quá nặng và mắc bệnh. Tuy nhiên,
lập luận này cũng có nhiều điểm sai sót, bởi mô tả từ các tài liệu cổ
đều khẳng định, nạn nhân rất khỏe mạnh chứ không hề có biểu hiện co
giật, vận động yếu ớt như bị đói.
Giả
thuyết thứ hai lại hướng tới khả năng các nạn nhân đã bị trúng độc. Cụ
thể, Troffea và những người khác đã ăn phải lúa mạch đen bị mọc nấm cựa
gà.
Khi ăn lúa mạch đen bị mốc sẽ khiến cơ thể
co giật như nhảy múa. Song nếu đây là sự thật thì lẽ ra các nạn nhân đã
qua đời ngay lập tức bởi nấm cựa gà cực độc, có thể gây chết người khi
ăn.
Giả
thuyết thứ ba do giáo sư John Waller Đại học bang Michigan đưa ra. Ông
cho rằng căn bệnh rối loạn tâm lý quần chúng này bắt nguồn tự sự mê tín
dị đoan.
Nạn nhân của chúng phần lớn đều là
những người đang chết đói, họ chẳng còn gì, không biết nương tựa vào đâu
ngoài tín ngưỡng, sự sợ hãi tràn ngập trong tâm trí họ. Vì vậy, có thể
họ đã nhảy múa với mong muốn được Đấng Tối cao giúp đỡ cho tới khi qua
đời.
*
Cho tới nay, tranh luận về câu chuyện này vẫn còn chưa ngã ngũ. Và dịch
bệnh "Điệu nhảy tử thần" vẫn còn nằm lại trong kho tàng những bí ẩn
chưa lời giải đáp của nhân loại.
Nguồn: Wikipedia, Historic Mysteries
Những vụ phát điên tập thể kỳ lạ nhất thế giới
Thứ sáu, 30/01/2015 11:07
Hãy là một trong những người thích nội dung này
Chia sẻ
Trong lịch sử từng ghi nhận khá nhiều vụ phát
điên tập thể của hàng ngàn người mà đến nay khoa học vẫn chưa có câu trả
lời đích xác.
Nhắc tới cụm từ đại dịch, hẳn chúng ta sẽ nghĩ tới
những căn bệnh đáng sợ cướp đi sinh mạng của rất nhiều người trong lịch
sử. Đó là "Cái chết đen" thời Trung Cổ, là HIV/AIDS cuối thế kỷ XX và
mới đây nhất là Ebola ở châu Phi.
Tuy nhiên, có những dịch bệnh
không chỉ đáng sợ mà còn vô cùng bí ẩn đến mức cho tới nay, con người
vẫn chưa thể lý giải được nguyên nhân. Đó chính là "đám đông điên loạn"
hay "phát điên tập thể".
Đây là một thuật ngữ mô tả tình huống
trong đó các triệu chứng về thể chất hoặc tâm lý xuất hiện hàng loạt và
lây lan nhanh chóng trên khắp các cộng đồng, các làng xóm, thị trấn, và
thậm chí còn lan qua nhiều quốc gia.
Trong mỗi đợt bùng phát, một
cá nhân có thể có triệu chứng nói cười mất kiểm soát, chóng mặt, cơ bắp
rã rời, ngất xỉu hoặc những triệu chứng khác mà không phải do bất kỳ
tác động cơ học nào. Nhiều trường hợp điên loạn đã được ghi chép lại từ
nhiều thế kỷ qua trên khắp thế giới.
Tới thời trung cổ, người ta
thay thế lý thuyết này và đổ lỗi cho phù thủy, ma quỷ chiếm xác, hoặc do
bệnh điên thực sự. Trong khi các triệu chứng đám đông điên loạn tiếp
tục khiến cộng đồng y học bối rối, ngày nay người ta thường cho rằng
hiện tượng đó có liên quan tới khả năng căng thẳng về cảm xúc và thần
kinh.
Nhảy múa điên loạn thời Trung Cổ (thế kỷ XIII - XVII)
Mùa
hè tháng 7/1518, người phụ nữ có tên Frau Troffea bước vào một con hẻm
nhỏ ở Strasbourg (Pháp). Trước sự chứng kiến của đám đông, cô bắt đầu
nhảy múa "dữ dội".
Tranh khắc của Hendrik Hondius mô tả ba người phụ nữ mắc “chứng khiêu vũ” – (Dancing Plague), dựa vào bức tranh của Peter Brueghel, người được cho là nhân chứng đã chứng kiến căn bệnh bùng phát ở Flanders vào 1564.
Không
hề có tiếng nhạc, cũng không lấy một cảm xúc trên khuôn mặt nhưng cô ấy
cứ vô tư nhảy như thể có cả dàn nhạc vây quanh. Đặc biệt hơn, Troffea
nhảy liên tục cả ngày lẫn đêm mà không hề tỏ ra mệt mỏi. Cho tới ngày
thứ sáu, điệu nhảy đã dừng lại khi cô gái kiệt sức mà chết.
Ban
đầu, mọi người nghĩ rằng cô có vấn đề về thần kinh hay do bị quỷ ám nên
mới có những hành động bất thường như vậy. Nhưng sau khi Troffea nhảy
múa, một người khác bắt đầu nhảy theo, rồi thêm một người nữa. Một tuần
sau, người ta đếm được 34 người đã bắt chước hành động giống hệt như
Troffea tại khắp các con đường của thành phố.
Sự
việc càng ngày càng trở nên kì lạ khi chỉ sau một thời gian ngắn,
khoảng 400 người dân ở Strasbourg tham gia vào điệu nhảy này. Và giống
như những trường hợp trước, họ nhảy múa điên cuồng cho tới chết. Theo
các ghi chép của cơ quan y tế thời đó, các nạn nhân tử vong do đau tim
và kiệt sức.
Những cư dân thời đó cho rằng, họ hoàn toàn có thể
chữa được căn bệnh lạ có tên gọi "dịch bệnh nhảy múa" trên bằng cách lấy
độc trị độc. Vì vậy, họ dựng các sân khấu bằng gỗ và mời nhạc công đến
để giúp các nạn nhân nhảy múa.
Kết
quả là, họ không những không dập tắt được "dịch bệnh", mà ngược lại còn
khiến hàng chục người nhảy múa không ngừng và tạm biệt cuộc sống vì
nhồi máu cơ tim.
Chứng Bệnh Nhảy này xảy ra ở Châu Âu nhiều lần
vào thời Trung Cổ, bùng phát ở Ý, Luxembourg, Pháp, Đức, Hà Lan, và Thụy
Sĩ. Đầu tiên bệnh được cho là do lời nguyền từ một vị thánh có tên là
John The Baptist, hoặc là thánh Vitus.
Rất nhiều người chết vì bệnh này.
Cái
tên này sau cũng được dùng để gọi cho tình trạng này. Những người mắc
chứng này phải đi tới những nơi thờ phượng những vị thánh nói trên để
cầu xin được giải thoát khỏi các phiền não. Và có vẻ như phương cách này
đã có hiệu quả giúp nhiều người thời đó phục hồi lại một cơ thể khỏe
mạnh.
GS John Waller Đại học bang Michigan cho rằng căn bệnh rối
loạn tâm lý quần chúng này bắt nguồn tự sự mê tín dị đoan. Nạn nhân của
chúng phần lớn đều là những người đang chết đói, họ chẳng còn gì, không
biết nương tựa vào đâu ngoài tín ngưỡng, sự sợ hãi tràn ngập trong tâm
trí họ. Vì vậy, có thể họ đã nhảy múa với mong muốn được Đấng Tối cao
giúp đỡ cho tới khi qua đời.
Nữ tu Pháp kêu như mèo (Thế kỷ XIX)
Trong
quyển sách viết năm 1844 “Dịch bệnh thời kỳ Trung Cổ” của J.F.C.
Hecker, có kể về một trường hợp các nữ tu kêu như mèo ở một tu viện ở
Pháp.
Trước năm 1900 cũng có nhiều báo cáo về sự phát cuồng tập
thể diễn ra bên trong các cơ sở tôn giáo. Đặc biệt, các nữ tu viện châu
Âu thường là nơi bùng phát hiện tượng này. Trong một vụ, các triệu chứng
bệnh được thể hiện bằng một hành động tập thể kỳ quặc. Một nguồn tin từ
năm 1844 đưa tin rằng “một nữ tu sĩ, tại một nữ tu viện rất lớn ở Pháp,
bắt đầu kêu meo meo như mèo; không lâu sau đó, các nữ tu sĩ khác cũng
kêu meo meo không ngừng”.
Ít
nhất, tất cả các nữ tu sĩ cũng cùng nhau kêu meo meo mỗi ngày, vào một
thời điểm nhất định trong nhiều giờ liền. Việc kêu như mèo tiếp diễn cho
tới khi những người hàng xóm lên tiếng phàn nàn và các binh sĩ được
triệu đến, đe dọa đánh roi các nữ tu sĩ cho tới khi họ ngừng kêu tiếng
mèo.
Trong thời kỳ này, niềm tin vào sự chiếm hữu (ví dụ như bị
động vật hay quỷ ám) rất phổ biến và mèo đặc biệt bị nghi kỵ là có liên
quan đến quỷ Satan. Các vụ bùng phát gây tiếng kêu hoặc cử chỉ như động
vật thường kéo dài một vài ngày tới vài tháng, mặc dù một số trường hợp
tiếp diễn tới hàng năm.
Bệnh cười ở Tanganyika (1962)
Chứng bệnh cười ở Tanganyika bắt đầu vào ngày 30/1/1962, tại một trường nữ sinh do các nữ tu quản lý ở Kashasha, Tanzania.
Chứng
bệnh cười bắt đầu từ ba nữ sinh nhưng nhanh chóng lây lan ra toàn
trường, kéo dài nhiều giờ, thậm chí hàng tuần, dẫn tới việc trường phải
đóng cửa vào ngày 18/4/1962.
Nhưng không dừng ở đó, sau khi
trường bị đóng cửa, chứng loạn thần kinh lây lan ra các ngôi làng gần
đó. Hàng ngàn trẻ em bị ảnh hưởng, và 14 trường học buộc phải đóng cửa.
Chứng loạn thần kinh cuối cùng cũng kết thúc 18 tháng sau đó.
Phiên tòa phù thủy Salem (1692 – 1693)
Một
trong những trường hợp ghê rợn nhất của chứng loạn thần xảy ra ở Salem
(Massachusett, Hoa Kỳ) năm 1692. Hàng chục nữ sinh có triệu chứng la hét
và nhăn nhó, làm dấy lên những cáo buộc phù thủy ở địa phương.
Kết
quả là hàng loạt phiên tòa hành hình những người bị cáo buộc có dính
dáng tới ma thuật phù thủy, gọi là "Những phiên tòa phù thủy" ở Salem.
Có 25 người đã bị chết ở Salem và các thị trấn lân cận.
Các phiên
tòa phù thủy ở Salem, vốn rất có ảnh hưởng trong lịch sử Hoa kỳ, đã
được dùng trong chính trị và văn chương để nhấn mạnh về sự nguy hiểm của
chủ nghĩa cô lập, cực đoan tôn giáovà kẽ hở của tư pháp.
Theo Khỏe & Đẹp
Bí ẩn hơn 40 năm qua của tín hiệu "Wow!" đã được giải mã
Phong Nguyen Spiderum |
1
Hình minh họa.
1977 là năm đầu tiên chúng ta nhận được một tín hiệu vô tuyến đến từ
bên ngoài Trái Đất và nghe được bằng tai thường. Nhà thiên văn học
Jerry Ehman khi sử dụng kính viễn vọng vô tuyến (radio telescopes) Big
Ear của Đại học Ohio, đã phát hiện ra các tín hiệu “Wow!” đến từ không
gian.
Hết sức xin lỗi các fan hâm mộ khoa học viễn tưởng và người ngoài hành tinh
Big
Ear là một máy nhận sóng vô tuyến có khả năng khuyếch đại, ghi lại và
xác định hướng của các sóng vô tuyến ngoài không gian.
Thời
điểm đó khi hướng máy vào một nhóm các ngôi sao gọi là Chi Sagittarii
trong chòm sao Cung Thủ (Sagittarius) và quét xung quanh các ngôi sao,
Ehman đã bắt được một chu kỳ sóng kéo dài 72 giây: ông dịch ngược và
viết "Wow!:” vào ngay bên cạnh, rồi nó trở thành tên của tín hiệu nổi tiếng suốt 40 năm qua.
Ehman
đã bắt được một chu kỳ sóng kéo dài 72 giây: ông dịch ngược và viết
"Wow!:" vào ngay bên cạnh, rồi nó trở thành tên của tín hiệu nổi tiếng
suốt 40 năm qua.
40 năm qua, tín hiệu
luôn được lấy ra làm bằng chứng cho việc chúng ta không phải là những
kẻ cô đơn giữa thiên hà. Các chuyên gia vũ trụ và những nhà văn viễn
tưởng bỗng nhiên cùng chung một niềm tin rằng chúng ta có hi vọng về
cuộc sống ngoài hành tinh.
Bí ẩn được giải
Tuy
nhiên giờ đây, GS thiên văn học Antonio Paris ở Đại học St Petersburg,
đã khám phá ra lời giải thích phù hợp cho “bằng chứng” này: một cặp sao chổi đã tạo ra tín hiệu Wow. Công bố đã được xuất bản trên tạp chí Washington Academy of Sciences.
Cặp
sao chổi được biết dưới tên 266P/Christensen và 335P/Gibbs, đã tạo ra
những đám mây khí hydro xung quanh chúng với đường kính hàng triệu cây
số. Tín hiệu Wow! được phát hiện ở tần số 1420 MHz, đơn giản là tần số
radio được phát ra từ khí hydro khi thay đổi trạng thái năng lượng trong
tự nhiên.
Tín
hiệu Wow! được phát hiện ở tần số 1420 MHz, đơn giản là tần số radio
được phát ra từ khí hydro khi thay đổi trạng thái năng lượng trong tự
nhiên.
Đáng chú ý, nhóm nghiên cứu đã
xác minh được các sao chổi nằm trong vùng lân cận vào thời điểm đó, và
họ báo cáo rằng các tín hiệu radio đang phát ra từ 266/P Christensen
trùng khớp với những “tín hiệu Wow!” khi xưa.
Bài
báo vấp phải một số nghi ngờ từ các nhà khoa học khác vì chưa từng phát
hiện bức xạ 1420 Mhz từ một sao chổi hay 266/P Christensen tương đối ít
hoạt động ngay cả ở điểm gần mặt trời nhất tuy nhiên nhóm của Paris đã
kiểm nghiệm lại khi quan sát các dữ liệu thiên văn và kết luận không
thay đổi.
Tuy gây đôi chút thất vọng
cho những fan hâm mộ điện ảnh về người ngoài hành tinh, nhưng với việc
giải mã được tín hiệu mạnh nhất từ không gian, là một bước tiến minh
chứng cho khả năng nhận và giải mã chính xác các tín hiệu từ vũ trụ của
con người.
Điều này cho chúng ta hi
vọng và động lực để giải mã hàng trăm tín hiệu "quái dị, ngoài hành
tinh" đến từ những ngôi sao khác được quan sát gần đây, từ các tay chơi
nghiệp dư cho đến những tín hiệu được phát hiện bởi Viện Tìm kiếm Nền văn minh ngoài trái đất (SETI).
Những dự án của tương lai
SETI
sử dụng hệ thống kính viễn vọng vô tuyến để tìm tín hiệu, và dự án tham
vọng nhất của họ cho đến nay là “Dự án Phoenix”, với mục tiêu tìm kiếm
trí tuệ ngoài trái đất một cách “chi tiết và toàn diện nhất thế giới”.
Họ
sử dụng ba kính viễn vọng vô tuyến lớn nhất thế giới: kính Parkes ở Úc
đường kính 64 mét, đài thiên văn vô tuyến quốc gia ở West Virginia -
đường kính 40 mét và Đài quan sát Arecibo ở Puerto Rico đường kính 300
mét.
Họ cũng đã xây dựng nên kính viễn vọng vô tuyến Allen Array với sự hỗ trợ tài chính từ Paul Allen – đồng sáng lập Microsoft
Trong
khi công nghệ dò tìm các thông điệp vũ trụ đứng im trong nhiều năm qua,
những phương tiện giao tiếp, liên lạc của chúng ta bằng vệ tinh vẫn
đang tiến triển rất nhanh. Các ý tưởng khả thi hơn đã xuất hiện, bao gồm
thông tin bằng cách truyền tín hiệu laser vào vũ trụ và thiết lập ra
một mạng vệ tinh không gian.
theo Trí Thức Trẻ
10 âm thanh bí ẩn khoa học không thể giải thích
12:02 24/08/2014
Tín hiệu Wow, âm thanh của các hành tinh, Slow down, ... là những âm thanh bí ẩn mà đến nay khoa học vẫn chưa thể giải thích.
Slow Down
Ngày 19/5/1997, Bộ cảm biến âm thanh dưới nước ở vùng Xích đạo Thái Bình
Dương của Cục quản lý Đại dương và Khí quyển Quốc gia Mỹ (NOAA) phát
hiện một âm thanh kỳ lạ. Các nhà khoa học gọi nó là "Slow Down" (giảm
dần) vì tần số âm thanh giảm dần theo chu kỳ 7 phút. Đến nay, con người
vẫn chưa xác định được nguồn phát của Slow Down. Một số nhà nghiên cứu
cho rằng đây là âm thanh băng ở Bắc cực di chuyển từ từ. Tuy nhiên, họ
không có đủ bằng chứng để đưa ra kết luận về Slow Down.
EVP là hiện tượng giọng nói điện tử, ghi âm giọng nói của thế giới
tinh thần. Các nhà nghiên cứu về hiện tượng kỳ bí cho rằng họ đã phát
hiện những cuộc trò chuyện kỳ lạ khi tua đi tua lại nhiều lần các cuộn
băng ghi âm, máy ghi kỹ thuật số hoặc video.
EVP có thể là một từ, cụm từ, câu hoặc cả đoạn hội thoại. Một số người
tin đây là tiếng nói của các linh hồn. Nhưng một số khác cho rằng đây
chỉ là hiện tượng nhiễu âm thanh do tự nhiên. Giả thuyết apophenia (ảo
quan) cho rằng EVP xuất phát từ trí tưởng tượng của con người. Còn theo
giả thuyết pareidolia (ảo giác bổ sung), EVP sinh ra từ việc não người
cố biến những âm thanh vô nghĩa thành có nghĩa. Quacker - tiếng vịt kêu
Tàu ngầm của quân đội Liên Xô trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh
Trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, các thiết bị công nghệ cao thu nhận
tín hiệu từ lòng đại dương của Liên Xô đặt tại Bắc cực và Đại Tây Dương
đã ghi lại một tiếng động lạ tương tự âm thanh một con ếch bị ngập nước.
Họ gọi nó là "Quacker" (tiếng vịt kêu). Nhiều người cho rằng đây là âm
thanh của một loại tàu ngầm. Quacker tự động tránh các tàu ngầm và sóng
siêu âm. Tốc độ của nó lên đến 200 km/h, lớn hơn nhiều so với tốc độ tàu
ngầm. Giả thuyết trên bị phủ nhận. Đến những năm 1980, Quacker dần ít
xuất hiện. Các nhà khoa học đặt ra nhiều giả thuyết khác như đây là âm
thanh của loài sinh vật biển kỳ lạ, của người ngoài hành tinh hay tiếng
động từ các công nghệ quân sự bí mật. Tuy nhiên, không ai đưa ra lời
giải thích hợp lý cho Quacker. Âm thanh của hành tinh
Các hành tinh không thể tạo ra âm thanh, hay ít nhất, âm thanh không
thể truyền qua các hành tinh vì giữa chúng là môi trường chân không. Tuy
nhiên, sóng radio lại có thể truyền đi trong vũ trụ. Trong quá trình
các tàu vũ trụ phát sóng radio gửi thông tin về trái đất, một số âm
thanh lạ lẫn vào trong đó.
Nhiều người cho rằng các hành tinh và mặt trăng đã phát ra âm thanh
tương tự như tiếng huýt sáo hoặc tiếng hú. Các thiết bị thu âm trên tàu
vũ trụ ghi lại chúng, chuyển thành sóng âm khiến con người có thể nghe
được. Dù vậy, những âm thanh này vẫn là điều bí ẩn. Tiếng hú bí ẩn
Một video đăng tải trên Youtube ghi lại những tiếng hú kỳ lạ đã thu
hút hơn nửa triệu lượt xem. Nhiều người cho rằng âm thanh đó phát ra từ
sâu bên trong một khu rừng gần thị trấn nhỏ Conklin, tỉnh Alberta,
Canada.
Âm thanh tương tự cũng xuất hiện ở thị trấn Pass, tỉnh Manitoba. Những
âm thanh này gây ra nhiều cuộc tranh cãi với hàng loạt các ý kiến khác
nhau. Nhiều người nghĩ đây là tiếng nhạc, số khác lại tin đây là tiếng
hú từ ngoài trái đất, thậm chí, có ý kiến cho rằng nó là âm thanh của
địa ngục. Người dân ở thành phố Glasgow (Scotland), Chicago (Mỹ) và Đan
Mạch cũng ghi lại được những tiếng hú tương tự. Tuy nhiên, khoa học vẫn
chưa xác định được nguồn gốc của chúng. Mistpouffer
Mistpouffer là tên gọi chung cho những âm thanh kỳ lạ và ngẫu nhiên
phát ra từ những vùng nước lớn như Great Lakes (Hồ Lớn) ở Bắc Mỹ, sông
Hoàng Hà ở Ấn Độ. Một số người cho biết chúng nghe như tiếng sấm. Tuy
nhiên, Mistpouffer lại phát tại thời điểm không có bão. Mistpouffer có thể tạo ra sóng xung kích mà con người đứng cách xa
nhiều dặm vẫn cảm nhận được. Các nhà khoa học đã đưa ra hàng loạt giả
thuyết về nguồn gốc của Mistpouffer như do khí nén, hang động dưới nước
sụp đổ, các thiên thạch rơi xuống hay do áp suất không khí tăng nhanh.
Các nhà nghiên cứu vẫn chưa tìm ra lý giải thích hợp. Âm thanh bí ẩn ở Trung tâm Thương mại Một Thế giới
Một âm thanh bí ẩn đã khiến cư dân ở khu vực gần Trung tâm Thương mại
Một Thế giới sững sờ. Nó giống như một tiếng vo ve buồn bã hay tiếng
khóc yếu ớt. Những người đi bộ có thể nghe thấy âm thanh phát ra từ các
tòa nhà trong khu vực. Khi âm thanh được phát hiện lần đầu tiên trong
cơn bão Sandy, năm 2012, người ta cho rằng đây là tiếng máy hút gió ở
các tòa nhà đang xây dở. Tuy nhiên, sau cơn bão và cả khi các tòa nhà đã
xây xong, họ vẫn nghe thấy các âm thanh bí ẩn. Thậm chí nhiều người tin
đây là tiếng nói của linh hồn người chết. Bloop
Jack Đồ tể: Sát nhân bí ẩn bị lộ mặt sau 120 năm trong bóng tối?
Trang Ly |
29
Hình minh họa.
Sau hơn 120 năm kể từ ngày gây nên nỗi ám ảnh kinh hoàng cho thành
London, cái tên "Jack Đồ tể" vẫn luôn là đề tài hấp dẫn của giới nghiên
cứu tội phạm học.
Trong hồ sơ tội phạm thế giới, Jack Đồ tể (Jack the Ripper) là một trong những sát nhân hàng loạt bệnh hoạn và bí ẩn nhất trong lịch sử.
Từng sát hại dã man 11 nạn nhân với cách
thức giết người "không thể tin được" vào những năm 1880 tại London
(Anh), qua hàng trăm năm, Jack Đồ tể vẫn là đối tượng nghiên cứu, điều
tra hàng đầu của giới cảnh sát và các nhà khoa học.
Jack the Ripper - Cơn ác mộng thực sự của thành London những năm 1880. Hình minh họa.
Jack Đồ tể - Sát nhân hàng loạt đầu tiên trong lịch sử
Câu chuyện về cái tên Jack Đồ tể bắt đầu
từ hàng loạt các vụ án giết người bệnh hoạn nhưng đầy bí ẩn. Trong suốt
thời gian từ năm 1888 đến 1891, 11 nạn nhân, trong đó phần lớn là phụ
nữ, lần lượt bị giết hại với cách thức dã man.
Dù đã mở rất nhiều cuộc điều tra, thẩm
vấn hàng trăm đối tượng tình nghi, nhưng cảnh sát London thời bấy giờ
vẫn không thể nào tìm được đích danh kẻ sát nhân hàng loạt bí ẩn này.
Như muốn trêu ngươi và thách thức cảnh
sát cũng như truyền thông Anh, kẻ sát nhân còn ngạo nghễ gửi một bức thư
"xưng tội" kể về cách thức giết người và thừa nhận trách nhiệm về tội
ác mà mình gây ra viết bằng chính máu của các nạn nhân.
Bức thư thách thức viết bằng máu mà Jack Đồ tể gửi cho cảnh sát.
Đáng buồn thay, dù đã có trong tay "mối
liên hệ" duy nhất với kẻ sát nhân, các nhà điều tra vẫn không sao lần
được chút manh mối nào của kẻ tự nhận là Jack the Ripper - "tác giả" của
hàng loạt các vụ án không được khép lại của hồ sơ.
Sự tàn độc trong cách thức giết người,
những bí mật đen tối không thể giải mã và việc công khai thách thức cảnh
sát Anh thời bấy giờ của Jack Đồ tể là chủ đề cho giới truyền thông
London khai thác triệt để.
Cái tên Jack Đồ tể nhanh chóng trở thành
nỗi sợ hãi tột cùng của người dân London. Cả khu vực Whitechapel ở East
End, nơi Jack gây án, trở nên hoảng loạn điên cuồng.
Lần đầu tiên trong lịch sử tội phạm học, Jack Đồ tể trở thành kẻ giết người hàng loạt được ghi nhận.
4 kẻ tình nghi lớn nhất
Những thi thể bị sát hại đầy kinh dị gần như bóp nghẹt tinh thần của người dân thành London gần cuối thế kỷ 19.
Khi không có được kết luận chính thức từ
cảnh sát, người ta rỉ tai nhau về Jack Đồ tể. Kẻ đứng sau mặt nạ máu bí
ẩn kia có thể là một bác sĩ y khoa điên rồ, một kẻ tâm thần không ổn
định, hay một gã từng có tuổi thơ bị lạm dụng...
Cảnh sát lúc đó gần như bất lực trong
việc tìm ra chân tướng thủ phạm. Trong bản hồ sơ còn dang dở, chỉ có 4
nhân vật tình nghi là Jack the Ripper lớn nhất, gồm: Francis J. Tumblety, Montague John Druitt, Michael Ostrog và Kosminski.
5 nạn nhân đầu tiên của Jack Đồ tể đều là nữ giới, sống ở các khu ổ chuột trong thành London.
Trong đó, Francis J. Tumblety
là một lang băm người Mỹ. Kẻ này đã bị bắt vào tháng 11/1888 vì tội
quấy rối tình dục. Về sau, hắn đã chuồn khỏi nước Anh sau khi được bảo
lãnh tại ngoại.
Kẻ nằm trong danh sách tình nghi thứ hai là Montague John Druitt, một luật sư kiêm giáo viên. Vào tháng 12/1888, Druitt đã tự tử tại nhà riêng.
Kẻ thứ ba là Michael Ostrog. Kẻ này chuyên sống bằng nghề trộm cắp và lừa đảo. Kosminski là
kẻ bị tình nghi thứ 4. Hắn là một người Ba Lan gốc Do Thái sống tại khu
ổ chuột Whitechapel (một trong những địa bàn hoạt động của Jack Đồ tể).
Vì không có bất cứ bằng chứng cụ thể
nào, nên cuối cùng, 4 kẻ nằm trong danh sách bị tình nghi lớn nhất này
vẫn chỉ là... tình nghi.
Jack Đồ tể ngạo nghễ nhìn cảnh sát Anh loay hoay phá án. Hình minh họa.
Sau nhiều năm điên đầu điều tra, cảnh sát đã khép lại hồ sơ với đáp án bỏ ngỏ. Jack the Ripper chưa bao giờ bị mang ra xét xử.
Nhận dạng Jack Đồ tể sau hơn 120 năm
Tuy nhiên, trường hợp đặc biệt của Jack Đồ tể luôn thu hút sự chú ý của dư luận, các nhà điều tra và tội phạm học.
Với mong muốn đưa Jack ra ánh sáng và
xóa bỏ đi bức màn đen vốn che đậy hắn bấy lâu, nhiều chuyên gia đã
nghiên cứu và đưa ra những nhận dạng về kẻ sát nhân hàng loạt bí ẩn này.
Hàng loạt các nghiên cứu dưới đây thể
hiện mối quan tâm sâu sắc đến hồ sơ vẫn được coi là bí ẩn bậc nhất
trong giới tội phạm học:
Nhận dạng tính cách
Dựa trên các phân loại của FBI (Cục Điều
tra Liên bang Mỹ) về tội phạm giết người hàng loạt, Jack Đồ tể thuộc
loại giết người "không suy tính trước".
Kẻ giết người loại này thường có các vấn
đề về thần kinh, kém giao tiếp và kỹ năng xã hội. Theo ý kiến của các
nhà tâm lý tội phạm, Jack Đồ tể là kẻ có xu hướng sống khép kín và không
thể kiểm soát hành vi khi gặp đúng "con mồi".
Bằng chứng được thể hiện trên các vết cắt, rạch dã man của Jack trên các cơ thể nạn nhân.
Nhận dạng khuôn mặt
Năm 2011, thám tử Trevor Marriott đã trình tập hồ sơ dày hàng nghìn trang về trường hợp của Jack Đồ tể lên sở cảnh sát London.
Với quyết tâm đưa Jack the Ripper ra ánh
sáng, Trevor Marriott đã nghiên cứu tất cả các tư liệu, giấy tờ điều
tra về trường hợp của Jack từ năm 1888 đến 1912.
Theo vị thám tử này, kẻ tình nghi số 1
mang bí danh Jack the Ripper là Carl Feigenbaum. Năm 1894, Carl
Feigenbaum bị kết tội giết người và phải chịu án tại nhà tù Sing Sing ở
New York (Mỹ).
Carl Feigenbaum - Kẻ được cho là Jack the Ripper. Ảnh BBC.
Theo Trevor Marriott, kẻ này đã từng ở
Anh và thực hiện loạt tội ác man rợ tại các khu ổ chuột của London trước
khi chạy trốn sang Mỹ. Từ tư liệu thu thập được, Trevor Marriott đã
dựng hình ảnh của tên tội phạm được cho là Jack Đồ tể.
Kết luận của Trevor Marriott nhận được
nhiều ý kiến trái chiều từ các nhà điều tra về Jack. Họ cho rằng, hình
ảnh về Carl Feigenbaum không phải là kết luận cuối cùng về tên đồ tể.
Nhận dạng nơi ở
Vào năm 2014, Tiến sĩ Kim Rossmo và
Steve Le Comber thuộc Đại học London (Anh) đã sử dụng thuật toán và tư
duy logic để truy tìm nơi ở của Jack Đồ tể.
Vị trí 5 nạn nhân nữ đầu tiên bị Jack Đồ tể sát hại.
Theo các nhà khoa học, dựa trên 5 địa
điểm thực hiện tội ác này, họ cho rằng, Jack Đồ tể sinh sống gần với các
khu Flower và Dean Street.
Theo logic, Jack chọn thời điểm hoạt
động là ban đêm. Trước khi ra tay, hắn phải nắm được lịch trình của các
nạn nhân. Để làm được điều nó, hắn phải là người thông thạo địa bàn nơi
đây.
Do đó, có nhiều khả năng Jack là người
sống ở các khu vực này. Hai nhà nghiên cứu cho biết, đây là mấu chốt
quan trọng để lần theo dấu vết của Jack. Tuy nhiên, đáng tiếc thay, cảnh
sát London bấy giờ đã bỏ sót chi tiết này.
Tạm kết
Hơn 120 năm kể từ chuỗi ngày đen tối mà
Jack the Ripper gây ra tại Anh, đã có hàng trăm nghiên cứu về tên tội
phạm bí ẩn bậc nhất trong lịch sử này.
Tuy nhiên, vì sự việc đã xảy ra quá lâu
cộng với việc các nhà điều tra chỉ thực hiện từ trên hồ sơ giấy tờ nên
những bí ẩn về Jack the Ripper đến nay vẫn chưa hoàn toàn được giải mã.
Nhưng không vì thế mà các nhà điều tra
tội phạm học ngừng công việc này. Hi vọng, trong tương lai, cái tên Jack
Đồ tể không còn là một trong những bí ẩn lớn nhất trong lịch sử tội
phạm.
*Nguồn: Historytoday, Telegraph, Wikipedia
theo Trí Thức Trẻ
Xác định danh tính kẻ giết người hàng loạt Jack the Ripper khét tiếng
(Thethaovanhoa.vn) –
Sau 126 năm, dấu hỏi về danh tính Jack the Ripper – gã đồ tể man rợ
chuyên giết hại phụ nữ ở Anh hồi năm 1888, cuối cùng đã có lời giải.
Tờ Daily News đưa tin rằng trong cuốn sách mới Naming Jack the Ripper,
doanh nhân và là người yêu thích điều tra trinh thám Russel Edwards đã
công bố những tiết lộ mới nhất về danh tính kẻ giết người hàng loạt có
biệt danh Jack the Ripper. Gã sát thủ này thường nhắm vào các cô gái
hành nghề mại dâm ở khu Whitechapel nghèo khổ gần thủ đô London. Các nạn
nhân hầu như đều bị cắt lưỡi, đánh đập dã man.
Chân dung phác thảo về kẻ giết người hàng loạt Jack the Ripper.
Sau
hơn một thập kỷ điều tra, với hàng loạt lý thuyết được đưa ra bởi những
chuyên gia hàng đầu, đến ngày hôm nay danh tính thực sự của sát thủ này
mới được xác định. Theo nghiên cứu của Tiến sĩ Jari Louhelainen, một
chuyên gia di truyền (DNA) nổi tiếng thế giới, Jack the Ripper là một gã
nhập cư 23 tuổi người Ba Lan có tên Aaron Kosminski. Louhelainen nói
rằng hoạt động xét nghiệm DNA mẫu máu lấy từ chiếc khăn choàng của nạn
nhân Catherine Eddowes đã cho kết quả trùng khớp với DNA của Kosminski.
Một trong những hung khí gây án của Jack the Ripper
Chiếc
khăn đã được truyền qua nhiều thế hệ trong gia đình Eddowes và cuối
cùng đã được đem bán đấu giá 7 năm trước. Russel Edwards là người mua
được vật chứng này và ông đã tiến hành một cuộc điều tra mang tính quyết
định để đưa ra kết luận về danh tính tên sát nhân bí ẩn. “Tôi đã có
chứng cứ pháp lý duy nhất trong toàn bộ lịch sử vụ án. Tôi đã dành 14
năm tìm hiểu và giải quyết dứt điểm những bí ẩn về tên đồ tể Jack. Cảm
ơn Chúa đã ban cho chúng tôi chiếc khăn chưa bao giờ được rửa sạch và vì
thế vẫn giữ trong đó bằng chứng quan trọng” - ông nói.
Tranh minh họa về một cuộc điều tra hiện trường của cảnh sát Anh năm 1888.
Edwards đã nhờ Louhelainen tiến hành xét nghiệm
mẫu ADN và ông đã so sánh mẫu ADN thu được với mẫu của Kosminski, kẻ tự
sát trong một bệnh viện tâm thần vào năm 1899. Kết quả cho thấy
Kosminski chính là kẻ giết người hàng loạt, đã gây ra cái chết cho 11
phụ nữ một cách tàn bạo và bệnh hoạn chỉ trong vòng 3 tháng.
Phân tích của một cảnh sát cho rằng Kosminski chính là hung thủ giết người man rợ.
Theo
tờ Mirror của Anh, thực tế từ lâu Kosminski đã bị đưa vào diện nghi vấn
là Jack the Ripper. Nghiên cứu của Russel Edwards và cộng sự đã giúp
xác nhận nghi vấn này là đúng.
Hải Yến
Theo Daily News
Những sự cố UFO kỳ bí nhất
Cho tới hiện tại,
bất chấp việc những tiến bộ khoa học và công nghệ đã hé lộ nhiều điều
từng được coi là bí ẩn đối với loài người, chúng ta vẫn chưa có được các
câu trả lời thỏa đáng cho một số sự cố liên quan đến những vật thể bay
không xác định (UFO) xuất hiện gần đây.
Các vụ UFO kỳ dị nhất nhất thế giới
1. Các quả cầu lửa kỳ lạ trên bầu trời
Trong suốt Chiến tranh thế giới lần thứ hai, các phi công lái máy bay chiến đấu của Mỹ, Anh, Đức và Pháp đều thông báo nhìn thấy những quả cầu phát sáng lớn,
kỳ lạ trên bầu trời. Mặc dù một số nhân chứng cho rằng đó có thể là các
vũ khí bí mật của kẻ thù - phát xít Đức, nhưng quân Đồng minh chưa bao
giờ lý giải được hiện tượng này. Phần lớn thông tin về vụ việc cũng chưa
từng được các cơ quan tình báo của liên quân hé lộ.
2. Sự cố Hopeh, Trung Quốc
Bức ảnh này được chụp vào năm 1942 và
sau đó được phát hiện trong một album ảnh. Chủ sở hữu của album tuyên bố
đã mua bức ảnh đặc biệt này từ một nhiếp ảnh gia đường phố ở Trung
Quốc. Theo lời một số người, vật thể bay không xác định (UFO) trông
giống như một chiếc mũ hoặc một con chim trong khi những người khác nói
đó là một đĩa bay.
3. Người đàn ông vận đồ đen
Năm 1947, một thủy thủ tuyên bố đã nhìn
thấy 6 UFO hình chiếc bánh rán đang bay trên bầu trời phía trên đảo
Maury, ngoài khơi vùng đất trũng Puget Sound ở Washington, Mỹ. Một trong
các vật thể lạ đã thả rơi mảnh vỡ xuống boong tàu phía
dưới, làm bị thương con trai của người thủy thủ nọ và giết chết con chó
của anh ta. Sáng hôm sau, người thủy thủ kể có một người đàn ông vận đồ
đen, lái một chiếc xe Buick màu đen xuất hiện trước cửa nhà anh và có
những cử chỉ hàm ý đe dọa rằng, gia đình người thủy thủ sẽ gặp nguy hiểm
nếu anh ta đã nói chuyện về sự cố vừa qua với bất kỳ ai.
4. Thông báo đĩa bay đầu tiên
Chỉ một vài ngày sau sự cố "người đàn ông vận đồ đen", Kenneth Arnold thông báo đã nhìn thấy 9 UFO bay trên vùng trời gần núi Ranier, Washington. Báo chí đặt ra thuật ngữ "đĩa bay"
để mô tả các vật thể này. Arnold khăng khăng câu chuyện của mình và trở
thành một người nổi tiếng trong thế giới của những điều huyền bí.
5. Sự biến mất của Felix Moncla
Trong khi theo đuổi một UFO phía trên hồ Superior
vào năm 1953, phi công thuộc Không quân Mỹ Felix Moncla đã biến mất
không để lại dấu vết. Trạm kiểm soát mặt đất đã ghi được hình ảnh của cả
Moncla và UFO trên màn hình radar, và các nhân chứng kể cả hai đã "sáp nhập, rồi biến mất".
Năm 1968, các bộ phận của một máy bay
được tìm thấy trong hồ Superior, nhưng chưa bao giờ được xác thực chúng
có thuộc máy bay của phi công Moncla xấu số hay không.
6. Sự cố Kecksburg
Vào đêm ngày 9/12/1965, cư dân ở
Kecksburg, bang Pennsylvania, Mỹ thông báo có một cái gì đó khá lớn đã
đâm xuống khu rừng trong vùng. Đó là một vật thể hình quả sồi với các chữ viết tượng hình
ở xung quanh thân. Quân đội Mỹ nhanh chóng bao vây khu vực. Năm 2005,
Cơ quan vũ trụ Mỹ (NASA) lên tiếng giải thích rằng, vật thể bị rơi (được
tái mô phỏng ở trên) có thể là mảnh vỡ từ một vệ tinh của Nga, nhưng
các nhân chứng quả quyết lý giải này không phù hợp với những gì họ nhìn
thấy.
7. Tổng thống Mỹ phát hiện UFO
Tổng thống Mỹ Jimmy Carter
kể đã nhìn thấy một vật thể màu sáng trắng, sau đó chuyển màu từ xanh
tới đỏ, đen rồi trở lại thành trắng trước khi lùi xa dần về phía Leary,
bang Georgia (Mỹ) năm 1969. Mặc dù sau này ông tuyên bố không bao giờ
nghĩ vật thể đó là một tàu vũ trụ của người ngoài hành tinh nhưng Tổng thống Carter vẫn quả quyết: "Có
một điều chắc chắn, tôi sẽ không bao giờ nhạo báng những người nói họ
đã nhìn thấy các vật thể bay không xác định trên bầu trời".
Năm 1976, một năm trước khi ông đắc cử chức tổng thống Mỹ (1977 - 1981), ông Caters từng quả quyết: "Nếu
trở thành tổng thống, tôi sẽ công khai mọi thông tin mà nước Mỹ có về
việc quan sát được UFO cho công chúng và các nhà khoa học".
8. Người đàn ông kỳ dị
Lần đầu tiên được phát hiện sau một sự cố UFO ở bang New Jersey, "Người đàn ông cười nhăn nhở" bắt đầu xuất hiện khắp nơi ở Mỹ tiếp sau các vụ việc tương tự khác và nói với các nhân chứng tên ông ta là "Indrid lạnh giá".
Các nhân chứng cũng mô tả người đàn ông này trông giống con người, cao
lớn nhưng không có mũi hoặc tai. Khuôn mặt chỉ có mắt duy nhất và một nụ
cười ngoác rộng.
9. Sân bay quốc tế O'Hare
Vào thứ Ba, ngày 7/11/2006, Cục quản lý
hàng không Mỹ (FAA) nhận được các báo cáo rằng, 12 nhân viên hàng không
tại phi trường O'Hare ở Chicago đã phát hiện một tàu bay hình đĩa kim loại
trôi lởn vởn phía trên một trong những cổng khởi hành. Theo lời các
nhân chứng, đĩa bay bay liệng khoảng 2 phút, nhưng khi mọi người ra
ngoài để xem xét thì nó đột ngột bay xuyên qua các đám mây. FAA kết
luận, đó là ảo giác do thời tiết tạo ra trong mắt người dân, nhưng các
nhân chứng tiếp tục khẳng định đó là một UFO.
10. Sự cố UFO ở Thổ Nhĩ Kỳ
Năm 2008, một người gác đêm ở Thổ Nhĩ Kỳ
có tên Yalcin Yalman đã quan sát được rất nhiều UFO trong khi trực và
quyết định ghi lại những gì mình nhìn thấy. Yalman đã cung cấp đoạn băng
ghi hình dài 2 tiếng rưỡi về các vật thể bay lạ thường cho Trung tâm
nghiên cứu không gian UFO Sirius, thúc giục cơ quan này gọi đoạn video
đó là "những hình ảnh UFO quan trọng chưa từng có" mặc dù tính chân thực của nó vẫn chưa được chứng minh.
11. Đốm sáng Lubbock kỳ dị
Một trong các vụ nổi tiếng nhất là sự cố các đốm sáng Lubbock kỳ dị ở
Taxas, Mỹ được 3 vị giáo sư phát hiện vào ngày 30/8/1951. Theo báo cáo,
các nhân chứng đang ngồi ở sân sau nhà của một giáo sư khi nhìn thấy 20
- 30 đốm sáng bay liệng phía trên đầu.
Vi phim về các đốm sáng Lubbock kỳ dị. (Ảnh: USAF)
Một trong các vị giáo sư mô tả, các vật thể "dường như có kích cỡ tương đương một chiếc đĩa thức ăn và phát tỏa ánh sáng huỳnh quang yếu ớt màu xanh dương pha xanh lục". Người này nói, các UFO trông nhỏ hơn mặt trăng tròn ở đường chân trời và chắc chắn có hình tròn. USAF kết luận, nhiều khả năng nhất các đốm sáng này do một loài chim
có tên gọi là chim choi choi gây ra, vì phần ngực màu trắng của có thể
phản xạ ánh sáng từ các thành phố phía dưới. Tuy nhiên, đây vẫn hoàn
toàn là một phỏng đoán.
12. Nghi án UFO ở Oklahoma
Nghi án UFO ở Oklahoma cho tới nay vẫn chưa có lời giải đáp. (Ảnh: Wikipedia)
Cảnh tượng UFO tương tự cũng xảy ra ở Tulsa, bang Oklahoma, chỉ một tháng sau đó vào ngày 12/7/1947. "Chúng bay theo một hình chéo, trải dài khoảng 8km từ đầu tới cuối và giật lắc thất thường. Ông
Arnold ước tính chúng di chuyển với vận tốc hơn 1.609km/h khi bay từ
núi Rainier tới núi Adams. Ông ấy mô tả các vật thể lạ giống như một
chiếc đĩa lúc bạn ném chúng qua mặt nước. Thuật ngữ đĩa bay vì thế bắt
nguồn từ mô tả chuyển động của vật thể lạ, thay vì hình dạng của chúng. Đã có rất nhiều cách lý giải cho vụ việc, từ ảo ảnh, máy bay bí
mật tới sự di trú của bồ nông, nhưng chúng đều không thuyết phục. Đây
vẫn là một bí ẩn hóc búa", ông Watson viết.
Cập nhật: 04/11/2015Tổng hợp
UFO ở Roswell: một sự thật bị che đậy?
Mọi chuyện
bắt đầu từ buổi sớm ngày 25/6/1947, khi phi công Kenneth Arnold báo cáo
về căn cứ trung tâm phát hiện một vật thể lạ trên vùng Mt Rainier,
Washington. Kể từ lúc đó, thời đại của UFO chính thức ra đời.
(Ảnh: karenlyster)
Thông tin rò rỉ qua đường điện tín bị giới báo chí chộp đường, và thế là
mùa hè năm đó, không chỉ riêng Roswell mà ngay cả nước Mỹ nóng hừng hực
bởi những câu chuyện kể đụng độ đĩa bay. Rùm beng nhất trong số đó là “lần chạm trán” ở trại nuôi gia súc Foster ngoại ô Corona, New Mexico.
Đầu tháng 7/1947, sau khi đọc các bài báo về Arnold,
ông chủ trang trại Mac Brazel tức tốc tìm gặp Cảnh sát trưởng Hạt Chaves
để “khoe” mảnh kim loại kỳ lạ nhặt được trong khu đất nhà mình - mà theo ông quả quyết chắc chắn là một mẩu lớn văng ra từ “đĩa bay”.
Thông tin này ngay lập tức được cảnh sát trưởng George Wilcox báo cáo lên Lực lượng không quân Roswell (Roswell AAF).
Không chậm trễ, thiếu tá tình báo Jessie Marcel lãnh
trách nhiệm điều tra tỉ mỉ nội tình vụ việc. Mảnh vỡ được quân cảnh thu
hồi tại nhà Wilcox, đưa về Căn cứ không quân số 8 ở Fort Worth, Texas
rồi sau đó “bay” sang Washington D.C.
4 giờ chiều cùng ngày hôm ấy, mùng 7/7/1947, Lydia
Sleppy - nhân viên đài phát thanh KSWS của Roswell - dùng máy điện báo
truyền tin “đĩa bay rơi ở trang trại Foster” về tổng đài, tuy nhiên đường truyền này vô cớ bị gián đoạn, chắc hẳn có bàn tay can thiệp của FBI.
Sáng ngày 8/7, Đại tá Blanchard của Roswell AAF yêu
cầu Trung úy Walter Haut phát đi bản thông cáo báo chí, tuyên bố Quân
đội đã bắt được những phần rơi rớt lại của đĩa bay. Liền sau đó, nhất
loạt báo chí cả nước lấy lại thông tin này. Dân tình nước Mỹ được phen
chấn động với thông tin “từ một nguồn không thể kém tin cậy hơn”.
"Mảnh vỡ" của đĩa bay (Ảnh: magma)
Ngay trong chiều hôm ấy, Tổng Tư lệnh Clemence
McMullen ở Washington hội đàm khẩn cấp qua điện thoại với Ngài đại tá
Thomas DuBose - chỉ huy Căn cứ Không quân Fort Worth, ra lệnh nhanh
chóng dập tắt câu chuyện rùm beng về chiếc đĩa bay và gửi ngay “mảnh vỡ kỳ lạ” về Washington để xác minh sáng tỏ.
Vậy là chiều muộn hôm 8/7/1947, một cuộc họp báo gấp
rút diễn ra tại Sở chỉ huy Lực lượng không quân số 8 tại Fort Worth,
đích thân tướng Roger Ramey tuyên bố: vụ đĩa bay rơi ở trang trại Foster
chỉ là 1 sự nhầm lẫn đáng tiếc; mảnh vỡ đĩa bay chẳng qua chỉ là quả
khí cầu đo thời tiết mang radar được làm bằng nhôm và gỗ balsa. Để lời
che đậy thêm phần thuyết phục, ông này đã đưa ra một miếng vỡ nát vụn và
khẳng định đó là vật thu thập được ở hiện trường.
Thông cáo báo chí của AAF trên tờ Roswell Daily Record ngày 8/7/1947 (Ảnh: rense)
Chicago Daily News, Los Angeles Herald Express, San Francisco Examiner và Roswell Daily Record là những tờ báo lớn duy nhất có cơ hội đăng tải bản thông cáo “sai lệch” kia của AAF vì là báo ra buổi tối. Những báo uy tín khác như New York Times, Washington Post hay Chicago Tribune ra lò sáng sớm hôm sau đành ngậm ngùi đưa lên câu chuyện đã được che đậy kĩ càng.
Một cách khó hiểu, cho đến nay không ai có thể tìm
lại bản gốc của bản thông cáo báo chí tai tiếng năm 1947 đó nữa. Cũng
may, việc AAF “hiệu đính” nhầm lẫn đã nhanh chóng “hạ sốt” cho dân tình. Đến cuối tuần, tin “đĩa bay Roswell” gần như không còn độc tôn vị trí đầu trang, và cuối năm đó thì sự việc “lặn tăm” như thể chưa bao giờ người ta nhắc đến nó.
Về phần nông dân Mac Brazel, anh này sau đó bị quản
thúc trong Căn cứ quân sự suốt 1 tuần, một thời gian sau đó trở về nhà
với sự giám sát chặt chẽ của nhân viên an ninh. Cũng từ đó trở đi,
Brazel không bao giờ kể về câu chuyện “đĩa bay xuất hiện trong trang trại”, thậm chí còn nói rằng đó là sự nhầm lẫn gây tai tiếng.
Một số hình ảnh "người ngoài hành tinh Roswell"
(Ảnh: people.com.cn)
(Ảnh: ufocasebook)
(Ảnh: iwasabducted)
(Ảnh: iwasabducted)
Hải Minh
Cập nhật: 01/03/2007Theo Roswellfiles, Dân trí
10. Đĩa bay Kenneth Arnold, ngày24/6/1947, Kenneth Arnold tuyên bố ông
đã nhìn thấy một chuỗi gồm 9 vật thể bay không xác định bay qua núi
Rainier. Mô tả của Arnold về những đối tượng vật thể bay không xác định
này cũng khiến báo chí bắt đầu sử dụng thuật ngữ "đĩa bay". Cho đến tận
bây giờ, cụm từ "đĩa bay" vẫn được sử dụng rộng rãi cho các phát hiện về
UFO không lời giải đáp. (Nguồn List25)
Profile: Vật Thể Bay Không Xác Định:
UFO là chữ viết tắt của cụm từ " Unidentified Flying Object" tức " Vật
Thể Bay Không Xác Định", đây là một cụm từ tiếng Anh dùng để chỉ những
vật thể bay hoặc hiện tượng thị giác bay lơ lửng trên trời mà không thể
xác định được đó là gì, thậm chí sau khi được qua nhiều quá trình nghiên
cứu kỹ càng. Trong nhiều trường hợp, UFO mang đặc tính lạ như có
thể lơ lửng trong không trung mà không phát ra âm thanh ( Điều này nền
văn minh của Trái Đất vẫn chưa đạt đến được), có gia tốc cực lớn mà
không có thiết bị máy móc nào ở Trái Đất hiện nay có thể đạt đến
được,... Vì thế, nhiều người cho rằng UFO đến từ một nền văn minh ngoài
Trái Đất với công nghệ tiên tiến hơn công nghệ chúng ta rất nhiều. Tuy
nhiên vẫn chưa có chứng cứ nào trong lĩnh vực Khoa Học Tự Nhiên có thể
chứng minh rằng tàu vũ trụ có thể tồn tại như vậy, dù đã qua nhiều chứng
cứ dấu vết được tranh cãi trong cộng đồng. Nhiều nhà nghiên cứu
UFO cho rằng chính phủ đang che dấu những chứng cứ tồn tại nhằm tránh
sự sợ hãi lan rộng và sự chia rẽ nếu để lộ những thông tin như vậy. [Lịch sử] Từ những sự kiện bắt nguồn từ xa xưa.... Trong lịch sử, có rất nhiều vụ mục kích sở thị UFO ở trên bầu trời lẫn mặt đất được ghi lại:
+ Cuốn kinh Cựu Ước Ezekiel đã mô tả hình ảnh tựa như sự lên xưống của
một vật thể trên bầu trời với khói và các bánh xe lồng vào nhau. +
Trong suốt thời kỳ ngự trị của Pharaoh Thutmose III khoảng những năm
1450 trước công nguyên, đã lời mô tả về nhiều "vòng tròn lửa" sáng hơn
cả mặt trời, kích thước chừng 5 mét xuất hiện trong nhiều ngày . Cuối
cùng chúng biến mất sau khi bay cao lên trời. + Nhà thơ La Mã
Julius Obsequens đã viết như thế này vào năm 99 trước công nguyên: "ở
Tarquinia lúc chạng vạng tối, một vật thể tròn giống một khối cầu, một
cái khiên tròn, bay lên bầu trời từ hướng tây sang hướng đông". +
Quân đội của Alexander Đại đế năm 329 TCN khi băng qua một con sông để
tới Ấn Độ đã từng nhìn thấy "hai cái khiên bằng bạc" trên bầu trời. Năm
322 trước công nguyên, khi Alexander đang vây hãm Týros ở Phoenicia, một
"cái khiên bằng bạc" khác lại chuyển động theo dạng tam giác nhỏ hơn
"những cái khiên" đã xuất hiện nhưng khả năng câu chuyện này đã được
thần hóa là rất cao. + Trong những ghi chép La Mã cổ thỉnh thoảng
cũng đề cập đến "những cái khiên" hay thậm chí "những tên lính" được
nhìn thấy trên bầu trời. + Ngày 24 tháng 11 năm 1235, đại tướng
Yoritsume và quân lính nhìn thấy những quả cầu sáng bay theo đội hình
bất thường trên bầu trời ban đêm gần Kyoto, Nhật Bản. Quân sư của ông
nói rằng ông đừng bận tâm - đó chỉ đơn thuần là gió thổi làm các ngôi
sao đung đưa mà thôi. + Một bản báo cáo riêng đã được dâng lên Nhật hoàng, và những sự xuất hiện khác cũng xảy ra tương tự ở Nhật Bản vào năm 1361.
+ Ngày 14 tháng 4 năm 1561, bầu trời vùng Nürnberg bị che phủ bởi nhiều
vật thể hình khối trụ và cầu, hệt như một trận chiến trên không trung.
Sự kiện này đã được hàng trăm người làm chứng, nó cũng giống như sự kiện
ở Basel năm 1566, khi mà vô số quả cầu đen, cháy sáng rực xuất hiện
Những hiện tượng đó đều được gán cho là điềm báo tương lai, về mặt tôn
giáo tâm linh, những hiện tượng ấy được gán với những vị thần hay sự
hiển linh của thánh... Theo một số nhà nghiên cứu, chúng gần như tương
đồng với những báo cáo về UFO hiện nay. .... cho đến những báo cáo đầu tiên ở thời hiện đại....
Trước khi thuật ngữ " Đĩa bay" hay " UFO" ra đời, đã có nhiều vụ chứng
kiến về hiện tượng kỳ lạ trên không trung xuyên suốt thế kỷ 19 và 20: + Tháng 7 năm 1868 được coi là báo cáo lần đầu tiên trong thời hiện đại về UFO, ghi nhận ở thành phố Copipapo, Chile.
+ Ngày 25 tháng 1 năm 1878, nhật báo Denison đăng tin một nông dân địa
phương là John Martin đã nhìn thấy một vật thể rất lớn, tối, hình tròn
giống như một cái khí cầu bay với tốc độ "kinh khủng". + Ngày 17
tháng 11 năm 1882, nhà thiên văn E.W.Maunder của đài thiên văn Greenwich
mô tả trên báo cáo quan sát "một vị khách từ bầu trời" với "dạng đĩa",
"hình cá đuối". Nó có nhiều đặc điểm khác so với một quả sét hòn. Nhiều
năm sau, Maunder viết rằng nó trong y hệt khí cầu Zeppelin. Vật thể lạ
đó cũng được nhiều nhà thiên văn châu Âu quan sát thấy. + Năm
1896–1897, những con tàu bay bí ẩn được ghi nhận ở Mỹ, mặc dù một vài
trong số các báo cáo này ngày nay đã biết là do những trò đùa cố ý. Bí
ẩn đĩa bay cũng xuất hiện ở Anh trong suốt Thế chiến thứ nhất. Nó được
cho là những khí cầu do thám của Đức trước khi tham chiến trên bộ. Nỗi
sợ hãi tương tự cũng có ở New Zealand và Úc năm 1909. + Có rất
nhiều báo cáo về những con tàu biết bay bí ẩn ở các nước vùng
Scandinavia vào những năm 1930. Ở châu Âu, suốt Thế chiến thứ hai,
"Foo-fighter" (những quả bóng sáng chói trong đêm tối đuổi theo máy bay)
được phi công của cả phe Đồng Minh và phe Trục báo cáo. Năm 1946, có
một "làn sóng" xôn xao về những chứng kiến "những quả rocket ma" xuất
hiện trên bầu trời vùng Scandinavia. + Giai đoạn UFO hiện đại bắt
đầu với sự kiện thương gia người Mỹ Kenneth Arnold khẳng định rằng mình
đã tận mắt trông thấy UFO gần đỉnh Rainier, tiểu bang Washington.
Arnold nói rằng ông ta đã nhìn thấy chín vật thể bay với "tốc độ không
thể tin nổi" và ở độ cao ít nhất cũng phải 10.000 ft (3.000 m). Tuy
nhiên, những UFO mà Arnold miêu tả chưa hoàn toàn đúng là dạng đĩa, ông
ta miêu tả sự chuyển động của nó tương tự như cái đĩa nhảy vụt lên khỏi
mặt nước, đó là nguồn gốc của thuật ngữ đĩa bay. Một bước tiến
quan trọng trong lĩnh vực nghiên cứu UFO đó là sự ra đời của quyển sách "
Chariots of the Gods " vào năm 1970 của tác giả " Erich von Däniken ".
Quyển sách đã nói rằng " Những sinh vật ngoài hành tinh và UFO đã từng
viếng thăm Trái Đất rất nhiều năm trước đây" và đưa ra dẫn chứng từ thời
Ai Cập cổ đại đã có nhiều hình ảnh " giống UFO" được lấy từ nhiều tư
liệu khảo cổ " bí ẩn đến mức không thể giải thích nổi" ( chẳng hạn như
quá trình xây và dựng nên những Kim Tự Tháp Ai Cập với những con số Toán
học cực kỳ chính xác ). Giả thuyết " Những Nhà Du Hành Vũ Trụ
Cổ Xưa" đã tạo cảm hứng cho nhiều người đọc, mở ra cho họ những suy diễn
tiếp theo, trong đó có một quyển sách với tựa đề " Kinh Thánh và Đĩa
Bay" ( The Bible and Flying Saucers) của Barry Dowing đã làm sáng tỏ
được nhiều hiện tượng kỳ lạ trên không trung được ghi lại trong Kinh
Thánh mà thực tế có thể đây là những dấu vết đã từng tiếp xúc với người
ngoài hành tinh. Cũng có nhiều giả thuyết cho rằng người ngoài hành tinh
là chất xúc tác để tạo nên quá trình tiến hoá của con người ( nôm na là
abcxyz với người cổ đại ấy). Từ Nguyên: Ngày 25 tháng 1
năm 1978, nhật báo Deninson viết rằng John Martin, một nông dân địa
phương, ngày hôm trước đã báo cáo về sự kiện mình nhìn thấy một vật thể
to, đen, dạng đĩa bay giống với cái khí cầu đang bay "với vận tốc kinh
khủng", và cũng sử dụng từ "cái đĩa" để miêu tả vật thể bay không xác
định. Khoảng 70 năm sau đó, năm 1947, phương tiện truyền thông sử dụng
thuật ngữ "đĩa bay" để miêu tả những vật thể bay không xác định như
Kenneth Arnold đã thấy. Chín vật thể mà Kenneth Arnold đã nói tới
chưa hẳn là có hình dạng "đĩa bay". Arnold lúc đầu miêu tả và vẽ hình
tám vật thể mỏng, phẳng, phía đầu thuôn tròn còn phía sau vát cụt trở
thành một điểm. Hình vẽ vật thể thứ chín, có phần to hơn, dạng
boomerang hoặc hình lưỡi liềm. Dù sao đi nữa, nhiều năm sau, Arnold đã
đề nghị sửa cụm từ "giống một cái đĩa" thành "đĩa bay". ( Trong tiếng Anh, một thuật ngữ khác được dùng để mô tả đĩa bay là Flying Disks , nó cũng đồng nghĩa với Flying Saucers )
"Đĩa bay" là thuật ngữ thông dụng dùng cho hầu hết mọi vật thể bay
không xác định trên không trung suốt từ cuối thập niên 1940 đến thập
niên 1960, thậm chí ngay cả khi chúng không thật sự có dạng đĩa. Thuật
ngữ này càng trở nên phổ biến hơn vào cuối thập niên 1960. Việc sử dụng
"UFO" thay cho "đĩa bay" được đề nghị lần đầu tiên năm 1952 bởi Edward
J.Ruppelt - chủ biên Project Blue Book của không quân Hoa Kỳ, ông ta cảm
thấy "đĩa bay" không đủ khả năng nắm bắt mọi khác biệt trong các hiện
tượng đang nói tới. Đề nghị của ông ta nhanh chóng được lực lượng không
quân chấp nhận. Thuật ngữ UFO đã dẫn đến nhiều cuộc tranh luận về
ngữ nghĩa. Những người hoài nghi cho rằng "UFO" chỉ đơn giản nghĩa là
vật thể "không xác định" khi quan sát chứ không phải là không thể giải
thích được, như vậy thì ít liên quan đến sự sống ngoài Trái Đất. Ngược
lại, có nhà nghiên cứu lại cho rằng thuật ngữ trên hoàn toàn đã giới hạn
trong những gì nhìn thấy, mở ra đòi hỏi phải nghiên cứu tiếp, đặt ra
thách thức cho những lời giải thích thông thường. Trong qui chế
của không quân Mỹ năm 1954, có định nghĩa về UFOB (Undentified Flying
Obbject) là các vật được chuyên chở bằng máy bay trong những nhiệm vụ,
có tính khí động học hoặc có những điểm đặc biệt, không chuyên dụng cho
máy bay, tên lửa hiện hành, không được nhận diện chính xác như các loại
thông thường, hơn nữa UFOB dành riêng cho mục đích bí mật quốc gia và
chắc chắn "mang tính chất chuyên môn". Rõ ràng UFBO không thể áp dụng để
giải thích những sự kiện nhìn thấy UFO, chẳng hạn hiện tượng ảo giác tự
nhiên hay vật thể nhân tạo, ngoại trừ, có lẽ máy bay chưa từng được
biết đến có nguồn gốc từ nước khác. Như vậy, chữ "U" trong UFO,
thay vì "không xác định (unidentified) thì thích hợp hơn phải là chưa
thể giải thích được (unexplained) hay bất thường (unconventional).
Trong tiếng Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và Pháp, thuật ngữ tương ứng với
UFO là OVNI (tiếng Tây Ban Nha: Objeto Volador No Identificado; tiếng Bồ
Đào Nha:Objeto Voador Não Identificado; tiếng Pháp: Objet Volant Non
Identifié). Về phát âm: Ruppelt đề nghị rằng "UFO" nên
được phát âm thành một từ – "you-foe". Điều này chỉ phổ biến ở Anh, còn ở
Mỹ, người ta thích đọc theo cách viết tắt hơn, rõ từng chữ một:
"U.F.O.". Nhà vật lý Eward Condon đề nghị nên phát âm là "ooh-foe", song
điều này hầu như bị bác bỏ. UFO và Văn Hoá: Không cần đợi
đến những lời giải thích cuối cùng, UFO đã trở thành một hiện tượng văn
hóa toàn thế giới. Kể từ giữa những năm thập niên 1900, UFO đã là một
chủ đề rộng rãi của nhiều cuốn sách, điện ảnh, bài hát, phim tài liệu và
các phương tiện truyền thông khác. Chủ đề UFO là chủ đề phổ biến sớm
nhất trên phương tiện truyền thông máy tính. Hàng triệu người có những
mức độ ưa thích khác nhau về chủ đề này. UFO đóng một phần vai
trò trong du lịch, chẳng hạn ở Roswell, New Mexico, nơi một UFO có thể
bị rơi vào năm 1947. ( Bài này đã được đăng rất nhiều lần trong page,
các bạn có thể tìm lại và đọc) Một báo cáo thống kê năm 1996 chỉ
ra rằng 71% người Mỹ tin rằng chính phủ đang che giấu thông tin về UFO.
Một kết quả báo cáo khác năm 2001 nói rằng 33% số người được hỏi tin
rằng "người ngoài Trái Đất đã từng viếng thăm Trái Đất một vài lần trong
quá khứ". Hai kết quả khảo sát dường như đã làm lộn xộn và mâu thuẫn
khi xem xét rằng chỉ có giả thuyết sự sống ngoài Trái Đất mới là lời
giải thích cho UFO. Năm 2002, khảo sát do kênh truyền hình Sci Fi
thực hiện cho kết quả tương tự nhưng tăng thêm số người tin UFO là khí
cụ bay ngoài Trái Đất. Lại có khoảng 70% cảm thấy chính phủ không chia
sẻ mọi thông tin mà họ biết về UFO và sự sống ngoài Trái Đất. 56% nghĩ
UFO là thật và 48% tin UFO đã từng viếng thăm Trái Đất. Dường như người
càng trẻ lại càng có niềm tin đó. UFO trong Khoa Học: UFO học là ngành khoa học khảo sát, nghiên cứu các báo cáo, nhân chứng về UFO.
Trong khi đa số mọi người đều muốn lờ đi về vấn đề này thì một số khác,
trong đó có một số nhà khoa học nghiệp dư ( không chuyên), những người
đam mê ( điển hình là Admin và đồng bọn) và những nhà khoa học chuyên
nghiên cứu về UFO vẫn còn tiếp tục nghiên cứu mặc cho dư luận mỉa mai.
Tuy nhiên, chất lượng của những người nghiên cứu không chuyên nghiệp lại
không đồng đều. Có một lỗi phổ biến khi cho rằng chỉ có một câu
hỏi duy nhất được đặt ra trong chủ đề này là liệu sự xuất hiện của UFO
có phải là đại diện cho sinh vật có trí tuệ ngoài Trái Đất hay không
(như thế sẽ làm thu hẹp lĩnh vực này và hạn chế tranh luận). Đặt tính
xác đáng vật lý của UFO ra một bên, khi nghiên cứu UFO trong lĩnh vực
văn học dân gian và nhân chủng học thì ít nhất cũng có thể tìm thấy
những khám phá mới trong lĩnh vực tâm lý học (cá thể và xã hội).
Từ cuối thập niên 1940, mọi người trên khắp thế giới đã trở nên quen
thuộc với báo cáo về UFO. Các báo cáo có phạm vi rộng lớn với nhiều
trường hợp, gồm có các hành tinh, ngôi sao, hệ thống sắp xếp các đám
mây, sét hòn, trò đùa cố ý, thử nghiệm máy bay chiến đấu, ảo giác và tàu
vũ trụ của sinh vật ngoài Trái Đất. Bất chấp số lượng lớn các báo cáo
và sự chú ý của dư luận, cộng đồng khoa học rất ít quan tâm đến UFO. Một
phần là do trên thực tế không có những quỹ hỗ trợ cộng đồng hay chính
phủ nhằm trợ giúp việc nghiên cứu UFO lẫn sự bác bỏ, chê cười của dư
luận lên những nhà nghiên cứu này. ( Đừng ai dạy con cái rằng những cái
như đĩa bay hay ma quỷ là không tồn tại, đôi khi bản thân bạn giết chết 1
nhà khoa học thiên tài tương lai đấy :3 )
UFO là chủ đề của nhiều nghiên cứu khác nhau trong suốt nhiều năm và
đang được mở rộng phạm vi sang khoa học chính xác. Một số cơ quan chính
phủ và quân đội của Hoa Kỳ, Canada, Anh, Pháp, Thụy Điển, Bỉ, Brasil,
Mexico, Tây Ban Nha và Liên bang Xô Viết đã nhiều lần đưa ra các báo cáo
nghiên cứu UFO. Mặc dù gặp vô cùng bối rối trong nhiều trường hợp, song
không chính phủ nước nào dám công khai đề xuất rằng UFO đại diện cho
dạng sinh vật có trí tuệ ngoài Trái Đất. Bất chấp nhiều trường
hợp không giải thích được, ý kiến nói chung của cộng đồng khoa học là có
thể tất cả mọi chứng kiến về UFO, về cơ bản là kết quả do nhầm lẫn khi
quan sát hiện tượng tự nhiên hay nhân tạo, trò đùa cố ý hoặc hiện tượng
tâm lý như ảo giác hoặc bệnh lý trong giấc ngủ (thường giải thích hiện
tượng thấy bị người ngoài Trái Đất bắt cóc). Thống kê của lực lượng
Không quân Hoa Kỳ cho biết những giải thích như thế chỉ chiếm 1% trong
tổng số các trường hợp. Song vẫn còn nhiều giảng viên, giáo sư cảm thấy
chủ đề này thật là lãng phí thời gian, các chứng cứ thiếu độ tin cậy, vì
thế thường bỏ qua những chi tiết này. Mặc dù vậy, cũng có ít
giáo sư, giảng viên đang tự nghiên cứu chủ đề này. Theo một cuộc khảo
sát, do việc ít tìm hiểu, nghiên cứu chủ đề đã làm tăng số người theo
phe phản đối, đồng thời tạo nên một xu hướng "không chịu chấp nhận".
Có lẽ giả thuyết nổi trội hơn cả giữa những người ủng hộ là giả thuyết
sinh vật ngoài Trái Đất viếng thăm mặc dù giả thuyết huyền bí về UFO
cũng có khi được đưa ra. Dưới đây là những trích dẫn, thể hiện thái độ coi thường về vấn đề này:
+ Lý luận rằng sinh vật ngoài Trái Đất không thể có lúc đó bởi lẽ
khoảng cách và năng lượng đòi hỏi cho việc di chuyển qua không gian,
giữa các hành tinh trong thời gian hợp lý (theo như các định luật vật lý
đã biết hiện nay). + Nhiều báo cáo không đáng tin cậy hoặc thiếu thỏa đáng về mặt vật lý nói riêng và khoa học nói chung.
Nhiều hoàn cảnh có thể dẫn đến nhầm lẫn khi quan sát vật thể thông
thường, chẳng hạn khi nhìn qua một khoảng cách trên bầu trời - cách tiếp
cận như thế có thể gây nên ấn tượng mạnh ngay từ cái liếc nhìn ban đầu.
+ Sự cảm tính nói chung bao trùm khắp chủ đề, trong đó có thể kể đến
cách nhìn nhận của nhiều người nghiên cứu nghiệp dư thiếu những trang bị
kiến thức khoa học đúng đắn. Nhiều nhà khoa học đồng ý rằng hình
ảnh tàu vũ trụ của sinh vật ngoài Trái Đất là không có thật, lại có ý
kiến cho rằng thái độ báo cáo thiếu suy luận cá nhân mà chỉ hiểu được
nguyên theo giả thuyết đó. Tại sao, ví dụ, hiện tượng xuất hiện với tần
số lớn trong hàng thập kỷ mà lại không thấy nỗ lực cố gắng của sinh vật
ngoài Trái Đất nhằm thể hiện sự xuất hiện mơ hồ của chúng? Hay là, nếu
một nền văn minh ngoài Trái Đất đã dự định vẽ bản đồ hoặc khảo sát Trái
Đất, như giả thuyết, tại sao nó phải thực hiện trong thời gian dài đến
thế, trong khi với kỹ thuật của chúng lúc nay, chẳng hạn vệ tinh, có thể
làm việc đó rất nhanh chóng? + Phần nhiều trong số lý lẽ nghi
ngờ chỉ dựa vào việc đoán chừng, giả thuyết về ý đồ và kỹ thuật của sinh
vật ngoài Trái Đất. Tại sao chúng phải che giấu sự tồn tại của chúng?
Tại sao mối quan tâm của chúng chỉ hạn chế hướng vào các quan sát vật lý
đơn giản? Tại sao việc di chuyển giữa các hành tinh gần như không thể,
tóm lại, về căn bản chỉ biết thừa nhận kỹ thuật và khoa học của chúng
hiện đại, cao cấp hơn nhiều so với nhân loại ngày nay. + Một số
lý lẽ thiếu sự hiểu biết. Rất nhiều các hiện tượng, ví dụ "ánh sáng kỳ
lạ trên bầu trời", có thể dễ dàng là do nhầm lẫn đơn giản, còn cấu trúc
vật thể thay đổi ở mức độ hẹp, thường do hiệu ứng vật lý Theo một
cuộc khảo sát chính thức năm 1977 của Hiệp hội Thiên văn Hoa Kỳ
(American Astronomical Society) thì đa số người trả lời (1356 người, hơn
một nửa số thành viên cơ quan) nghĩ UFO xứng đáng được nghiên cứu và tỏ
ý muốn đóng góp thời gian và chuyên môn cho cho việc nghiên cứu. Dưới
đây là chi tiết cụ thể: + 53% cảm thấy UFO chắc chắn hoặc có thể
là một chủ đề đáng được nghiên cứu khoa học trong tương lai, đối lập
với 20% cảm thấy chắc chắn hay có lẽ không phải vậy. + 80% bày tỏ thiện chí đóng góp trong việc giải đáp bí ẩn UFO.
+ Việc thiếu kiến thức đã làm cho những người theo phe phản đối thiếu
ham muốn nghiên cứu. Chỉ 29% trong số người dành ít hơn 1 giờ để đọc chủ
đề cảm thấy nghiên cứu sâu hơn nữa là hợp lí, đối lập với 68% số người
đã dành trên 300 giờ. + Những nhà khoa học trẻ có đam mê hơn những nhà khoa học lớn tuổi.
+ Số người theo phe phản đối chống giả thuyết sinh vật ngoài Trái Đất
viếng thăm tăng cao. Có lẽ cách giải thích thông thường như trò lừa đảo
hoặc máy bay thông dụng/không thông dụng hay hiện tượng tự nhiên đã tăng
số người theo phe hoài nghi từ 30% đến 23%, đối lập với 3% tin UFO thực
sự là phi thuyền của sinh vật ngoài Trái Đất. Một khảo sát khác
thực hiện năm 1973 trên 400 thành viên Viện Hàng không Vũ trụ Hoa Kỳ,
khoảng 2/3 nghĩ rằng UFO có thể có thật, có lẽ hoặc nhất định là một vấn
đề có ý nghĩa khoa học. 5% nói rằng họ đã từng chứng kiến UFO, 10% nghĩ
UFO đến từ vũ trụ. Tác giả khảo sát đã trên chú ý tính chất
nghiêm túc trong những người trả lời, có thể họ sợ sự chỉ trích từ phía
các đồng nghiệp và danh tiếng bị nhạo báng. Nhiều nhà khoa học quan tâm
nghiên cứu UFO nhưng thích làm việc yên tĩnh một mình hơn bởi sợ bị nhạo
báng. Những ghi chép về hình dạng tiêu biểu của UFO: + Dạng đĩa, phía trước thóp nhỏ.
+ Những ánh sáng chuyển động nhanh - mà đã được ghi nhận sớm nhất rằng
chuyển động của nó như "chiếc đĩa nhảy vụt lên khỏi mặt nước". Đĩa bay
đôi khi được ghi nhận là có chuyển động "lảo đảo" ở tốc độ thấp. + Dạng hình tam giác lớn hoặc nguồn sáng hình tam giác + Hình điếu thuốc với những cửa sổ sáng. + Các dạng khác: hình chữ V, hình cầu, vòm, hình thoi, khối không có hình dạng xác định màu đen, hình trứng và hình trụ. Dưới đây là phân loại theo Valee: Loại I:
Bao gồm những vật thể lạ hình cầu, đĩa hoặc dạng khối hình khác, đáp
trên hoặc gần mặt đất (chừng độ cao cây, hoặc thấp hơn, có thể đi kèm
dấu vết như nhiệt độ cao, chói sáng hoặc có hiệu ứng lên máy móc. Đặc điểm: + Trên hoặc gần mặt đất + Trên hoặc gần mặt nước + Hoạt động hoặc dấu hiệu tạo nên sự chú ý
+ Vật thể như " trinh sát" hoặc theo dõi những phương tiện Trái Đất (
Máy bay, Ô tô, tàu thuỷ,... trong một vài trường hợp, người đi bộ một
mình bị bắt cóc) Loại II Vật thể lạ có dạng hình trụ đứng
trên bầu trời, kèm theo một đám mây. Hiện tượng này thường được đặt cho
nhiều cái tên như "điếu thuốc-mây" hay "khối cầu-mây". Đặc điểm: + Chuyển động một cách bất thường trên bầu trời + Bất động và sinh ra các vật thể con (thường gọi là "vật thể vệ tinh") + Được nhiều vật thể con bao quanh. Loại III Vật thể lạ có dạng khối cầu, đĩa hay ellip. Đặc điểm: + Chuyển động theo kiểu "lá rơi" xuống, hoặc lên và xuống hay đung đưa + Đang chuyển động liên tục thì đột ngột dừng lại, rồi chuyển động tiếp + Thay đổi hình dạng khi đang bay, chẳng hạn thay đổi độ sáng, sinh ra các vật thể con... + Dạng "cá đuối" hay đi thành đám nhiều vật thể ( Loại này thường bị nhầm với đám mây hình đĩa)
+ Đột ngột thay đổi quỹ đạo khi đang bay liên tục, chuyển thành bay
chậm trên một khu vực nhất định, hoặc đột ngột chuyển hành trình ( Dễ
dàng tìm thấy trong các báo cáo nhìn thấy Đĩa Bay của Phi công) Loại III Vật thể bay liên tục Đặc điểm: + Bay liên tục ( như đã giải thích) + Quỹ đạo phụ thuộc vào chiếc máy bay ở gần ( thường thấy trong báo cáo của các phi công) + Bay theo một khối tổ chức + Quỹ đạo zig-zag Loại IV Vật thể lạ mờ ảo, ví dụ không rõ vật liệu, không hữu hình hoàn toàn, không có dạng vật chất đặc. Đặc điểm: + Mờ ảo + Vật thể dạng điểm sáng như ngôi sao + Lướt nhanh qua bầu trời, có thể với quỹ đạo kỳ lạ Vật Thể bay đã xác định:
Khoảng 90% các báo cáo nhìn thấy UFO cuối cùng đã được giải thích.
Trong khi chỉ có một tỉ lệ nhỏ báo cáo là cố ý tung tin sai lệch, hầu
hết là do nhầm lẫn trong khi quan sát các hiện tượng tự nhiên và nhân
tạo. Tuy nhiên, tỷ lệ thực tế giữa UFO và IFO phụ thuộc vào người nghiên
cứu và thay đổi lớn tùy theo tiêu chuẩn. Những vật thể bay thường bị nhầm với UFO là: + Khí cầu ( Khí cầu dự báo thời tiết hay Khí cầu du lịch) + Máy bay quân sự ( do có gia tốc cao, hình dạng tam giác, khá giống với các báo cáo phổ biến về UFO ) + Ánh đèn nhấp nháy của máy bay thông dụng khi hạ cánh + Máy bay đặc biệt hoặc kỹ thuật cao cấp (như SR-71 Blackbird, máy bay ném bom B-2 Steath) + Máy bay quảng cáo. + Diều + Pháo hoa + Trò đùa nghịch cố ý Những nhầm lẫn thông thường khi quan sát hiện tượng tự nhiên là: + Mặt trăng, ngôi sao và các hành tinh. + Thời tiết bất thường + Những hiện tượng thiên nhiên kỳ lạ + Sao băng ở khoảng cách gần hoặc kích cỡ lớn + Đám mây hình đĩa + Đàn chim + Đàn côn trùng + Sét Hòn + Cực Quang Những cách giải thích UFO phổ biến:
Tùy thuộc vào tác giả ước đoán, có từ 3% đến 30% trong tổng số các
trường hợp vẫn còn chưa thể giải thích nổi. Một vài trong số những giả
thuyết phổ biến nhất cho những sự kiện UFO chưa thể giải thích nổi là: + Giả thuyết sinh vật ngoài Trái Đất viếng thăm (phổ biến nhất). + Giả thuyết huyền bí. + Giả thuyết cỗ máy thời gian hay khí cụ bay do tương lai gửi đến. ( Liên hệ bác Mon :v ) Tương tự, những người theo phe phản đối cũng đưa ra các giả thuyết: + Giả thuyết tâm lý xã hội ( Theo phong trào chém gió cho vui :v ) + Giả thuyết các hiện tượng tự nhiên có thể giải thích được, ví dụ sét hòn + Giả thuyết khí cụ bay nhân tạo ( Máy bay không người lái, máy bay chiến đấu cấp cao với vận tốc nhanh, gia tốc lớn...) Hiện tượng huyền bí
Lĩnh vực UFO không phải lúc nào cũng trùng với sự kiện huyền bí, mặc dù
thường thì là như vậy. Một vài nhà nghiên cứu cho rằng có mối liên hệ
trực tiếp giữa UFO và hiện tượng huyền bí. Tương tự, một số giáo phái đã
đưa UFO thành phần trung tâm của tín ngưỡng họ. ( Đại khái là về mặt
tâm linh) Nhiều bức tranh tôn giáo rất cổ xưa mà cũng đã chứa
hình ảnh về UFO và sinh vật ngoài Trái Đất. Cũng nhiều người tin rằng
trong suốt lịch sử, sinh vật ngoài Trái Đất đã có ít nhiều ảnh hưởng đến
phong tục tập quán nhiều khu vực. Những âm mưu: Đôi khi
người ta gán cho UFO là một phần trong những âm mưu kỹ lưỡng mà chính
phủ đang cố ý che giấu sự tồn tại của sinh vật ngoài Trái Đất (alien)
hay cộng tác với chúng. Cũng có suy đoán rằng sự kiện UFO là các
thử nghiệm bay của những khí cụ bay, vũ khí cao cấp. Trong trường hợp
UFO bị nhìn thấy thì đó là sự thất bại trong việc giữ bí mật, hoặc cố ý
tìm cách xâm phạm thông tin tình báo. ( Tìm đọc lại bài " Vùng 51" của #Conan ( Edo) đăng trước đây)
Cũng có đề xuất cho rằng tất cả hay đa số kỹ thuật, văn hóa nhân loại
được xây dựng từ cơ sở từ các liên lạc với nền văn minh ngoài Trái Đất.
Tái Bút: Bài viết có sử dụng nguồn từ internet, wikipedia, kiến thức cá
nhân và sưu tầm. Nếu có nhu cầu mượn hoặc chỉnh sửa vui lòng liên hệ
các Admin bằng cách comment bên dưới hoặc inbox. Cám ơn vì đã đọc!
Không tặc D.B Cooper – Vụ mất
tích bí ẩn nhất của FBI (Phần 2)
13:47 | 04/04/2015
|
D.B Cooper, đó thực ra
chỉ là bí danh dư luận đặt cho một tên không tặc vô danh khống chế một
chiếc Boeing 727 đang trên đường từ Portlang tới Oregon và Seattle vào
ngày 24-11-1971. Hắn đòi số tiền 200,000 USD (khoảng 4,27 tỉ đồng) và
sau khi nhận được số tiền đó, hắn lấy dù và nhảy khỏi máy bay. Đó là lần
cuối cùng mọi người nhìn thấy Cooper.
Khi đã đáp ứng đúng yêu cầu của hắn, Cooper nhanh chóng thực hiện kế
hoạch. Hắn cho phép 36 hành khách đi cùng chuyến bay và nữ tiếp viên
Saphina rời khỏi máy bay bằng một cầu thang. Hắn không chịu thả Tina
Mucklow cũng như ba người đàn ông trong buồng lái: Scott, Rataczak và
Anderson.
Kẻ không tặc này sau đó dùng điện thoại trong cabin của buồng lái để
đưa ra lệnh hướng dẫn phi công về cách bay và nơi để bay đến. Hắn ra
lệnh bay ở độ cao không quá 304m với tốc độ bay không vượt quá 240km mỗi
giờ.
Những chiếc máy bay lớn hơn không thể duy trì tốc độ thấp như vậy.
Nhưng Cooper biết rằng chiếc 727 là loại máy bay nhẹ (chỉ 50 tấn khi
chưa nạp nhiên liệu) có thể bay chậm ở mức 128 km/giờ trong điều kiện độ
cao 304m.
Thậm chí ngay cả khi nạp đầy nhiên liệu chiếc máy bay này cũng hoàn
toàn có thể duy trì tốc độ 160 km/giờ. Những người nhảy dù thích tốc độ
bay chậm hơn để giảm bớt sự rung lắc do tác động của bên ngoài. Nhưng
nhảy xuống ở tốc độ 240 km/giờ thì cũng hoàn toàn là điều có thể với
người nhảy có kinh nghiệm.
Cooper nói với phi hành đoàn rằng hắn muốn đi tới thành phố Mexico
nhưng Rataczak nói rằng máy bay này chỉ bay được 1.609km tại độ cao so
với mặt biển và tốc độ mà kẻ không tặc yêu cầu là rất khó khăn dù đã nạp
đủ 52.000 gallon nhiên liệu.
Khoảng 8 giờ tối, tên này chạy tới phía đuôi máy bay. Tại đuôi mỗi
chiếc máy bay Boeing 727 đều được thiết kế một cầu thang. Đèn cảnh báo
của máy bay lập tức phát sáng, cho thấy cửa sau của máy bay đã bị mở.
Tên không tặc nhảy dù ở cửa sau máy bay
Cơ trưởng thông qua máy bộ đàm, lên tiếng hỏi: “Anh có yêu cầu gì cần
giúp đỡ không?”, “Không!”, đây chính là câu nói cuối cùng của Dan Cooper
trên máy bay. Khoảng 8 giờ 24 phút, Dan Cooper nhảy ra khỏi máy bay
mang theo cặp tài liệu và túi tiền có chứa 200.000 USD trên lưng, nhanh
chóng biến mất giữa màn đêm trên bầu trời bangWashington.
Tuy nhiên, mọi người trên máy bay không biết hắn đã nhảy ra khỏi máy
bay lúc nào. Hắn được dự đoán là đã rơi xuống đâu đó gần Vancouver,
Washington mang theo cả vali chứa bom và những thứ liên quan. Kỳ lạ hơn,
đó cũng chính là lần cuối cùng Cooper không bao giờ xuất hiện lần nữa,
không một mảnh quần áo hay dù nào được tìm thấy.
Triển khai lực lượng vây bắt
Trong lúc này, cảnh sát đã cử hai máy bay tiêm kích F-106 bám sát chiếc
máy bay dân sự để canh cú nhảy của Cooper. Ngay sau khi nhận được tin
báo từ hai chiếc máy bay tiêm kích, FBI đã nhanh chóng huy động lực
lượng triển khai một cuộc tìm kiếm quy mô lớn ở khu vực mặt đất dự kiến
tên không tặc nhảy dù xuống.
Tuy nhiên, địa hình nơi này rất phức tạp, núi dốc, nước chảy siết, mật
độ những cây đại thụ dày đặc, trong rừng có nhiều loài thú nguy hiểm như
sư tử châu Mỹ và gấu đen.
Mọi người hy vọng sẽ tìm thấy một dấu vết nhỏ của Cooper. Nhưng sau mấy
tháng tìm kiếm, thậm chí còn huy động cả một chiếc tầu ngầm sục sạo
những hồ gần đó, đội quân hùng hậu của FBI đành phải ra về trắng tay.
Đồng thời cảnh sát cũng xác nhận cái tên Dan Cooper, cùng các giấy tờ
đăng ký ở sân bay chỉ là đồ giả. Theo những con tin, Dan Cooper là một
người rất nhã nhặn. Trong suốt quá trình khống chế máy bay, tống tiền,
Dan Cooper không có bất cứ hành động thô lỗ nào, ngược lại rất tình cảm.
Mọi người miêu tả hắn cao hơn 1m8, dáng người xấp xỉ 80kg, mắt nâu, tóc
ngắn.
Theo FBI, Cooper có thể là một tay lính dù chuyên nghiệp trong quân
đội, rất có thể y từng phục vụ trong lực lượng lính dù và là người khá
hiểu rõ về máy bay chở khách dân dụng. Hắn biết được rằng, máy bay
Boeing 727 là loại máy bay duy nhất có cửa ở phía đuôi. Căn cứ theo đó,
FBI và Cảnh sát Washington ngay lập tức mở cuộc điều tra và tìm kiếm kéo
dài trong 18 ngày, nhưng không có kết quả.
So với cửa bên của các loại máy bay khác thì độ nguy hiểm từ việc nhảy
dù từ phía đuôi của loại máy bay này nhỏ hơn nhiều. Đặc điểm này đã được
tên D.B.Cooper lợi dụng một cách triệt để.
Thành viên phi hành đoàn trên chuyến bay bị Dan Cooper tấn công.
Căn cứ theo miêu tả của nữ tiếp viên Saphina về D.B.Cooper, FBI đã phác
họa ra chân dung của hắn, và cho công bố lệnh truy nã trên phạm vi toàn
nước Mỹ. FBI nhận định rằng, người này rất có thể là một tay nhảy dù
chuyên nghiệp, bằng chứng là y đã yêu cầu tới hai chiếc dù và không cho
phép máy bay bay quá tốc độ và độ cao.
Trí “tưởng tượng” một D.B. Cooper
Sau khi vụ cướp được cho là táo tợn nhất trong lịch sử nước Mỹ kết
thúc, D.B. Cooper đã trở thành cái tên bị truy lùng nhiều nhất
Nhiều năm qua, hàng nghìn người Mỹ đã tình cờ nói ra những đặc điểm của
bạn bè, họ hàng hay đồng nghiệp của mình mà theo đó rất giống với chân
dung DB Cooper. FBI cho biết khoảng 10.000 cái tên dường như đang cần
tìm đã lọt đến tai cơ quan này. Nhiều người trong số đó đã được cảnh sát
"kiểm chứng". Nhưng tất cả những trường hợp được cảnh sát xác minh đều
không phải là đối tượng mà FPI đang cần tìm.
Chẳng hạn vào năm 1995, Duane Weber, một nhà buôn đồ cổ ở Florida,
người đã chết vì bệnh thận, một lần đã nói với vợ anh ta rằng "Anh chính
là D.B. Cooper." Sau khi Weber chết, vợ người đàn ông này đã tìm thấy
một chiếc ví được giấu kín và chiếc ví này đã chỉ ra rằng Duane Weber
trước đây có một cuộc sống và nhân thân khác với cái tên John C.
Collins.
Một tờ tiền trong số 200.000 USD được thu lại sau 3 năm
Qua điều tra, cảnh sát thấy người này có một tiểu sử cũng chẳng lấy gì
làm sạch sẽ: bị hải quân sa thải vì đạo đức không tốt và 6 bản án tù,
một trong số đó là bị giam giữ tại nhà tù cách sân bay Sea-Tac 32km.
Người goá phụ nhớ lại rằng vào năm 1979, hai vợ chồng bà đã du ngoạn tới
một vùng hẻo lánh ở rừng Clark County, Washington.
Bà khẳng định rằng chồng bà rất giống với bức họa chân dung D.B.
Cooper, như: hút thuốc, uống rượu whisky ngô và thỉnh thoảng khi mơ ngủ
lại nhắc đến những bậc thang ở máy bay và các dấu vân tay.
(còn tiếp)
Hòa Thu
Không tặc D.B Cooper – Vụ mất
tích bí ẩn nhất của FBI (Phần 3)
19:27 | 04/04/2015
|
Hơn 40 năm đã qua, mhưng
Cơ quan điều tra Liên bang Mỹ (FBI) và cả người dân nước này vẫn luôn
tìm kiếm và ám ảnh bởi cái tên Dan Cooper (hay còn gọi là D.B. Cooper) –
kẻ cướp và đe dọa cho nổ tung một máy bay Boeing727 chở khách nếu Hãng
hàng không Northwest Orient không trả cho y 200.000 USD. Và ít ai biết
rằng, vụ tấn công chuyến bay ngày Lễ Tạ ơn (Thanksgiving Day) năm 1971
chính là sự kiện làm nên danh tiếng của tên không tặc này.
Trí “tưởng tượng” về một D.B. Cooper
Một trong những câu chuyện về Cooper đặc biệt nhất là bà Elsie Rodgers,
ở Nebraska. Bà kể với các cháu mình rằng một ngày vào những năm 1970 bà
đã phát hiện thấy một đầu người ở gần sông Columbia, Washington trông
giống D.B. Cooper.
Nhưng những đứa cháu đã chẳng mấy để tâm đến chuyện này vì nghĩ là bà
mình lẩn thẩn cho đến khi bà chết, năm 2000, họ tìm thấy một chiếc đầu
lâu trên phòng tầng thượng của nhà bà. FBI cho thử ADN nhưng kết quả
chẳng có gì liên quan đến Cooper.
Một tờ tiền 20 USD được tìm thấy
Nhưng câu chuyện phức tạp nhất chính là cuốn sách: "D.B. Cooper: Điều
gì đã thực sự xảy ra", một cuốn sách xuất bản năm 1985 của Max Gunther
dựa trên 6 cuộc điện đàm vào năm 1982 với một phụ nữ có tên là "Clara".
Cô kể rằng, vào 26-10-1971, 2 ngày sau vụ không tặc, cô đã nhìn thấy
Cooper bị thương và nơi Cooper rơi xuống còn tạo thành một hố trũng
trong ngôi vườn gần ngoại ô Longview. Cô đã tận tay chăm sóc chiếc chân
gãy của Cooper và sau đó hai người yêu nhau.
Cô nói rằng Cooper khởi nguồn là dân Connecticut. Cooper đã rời bỏ gia
đình và đi về phía tây, gia nhập một nhóm nhảy dù và nhen nhóm kế hoạch
cướp máy bay. Cô khẳng định để thực hiện kế hoạch này, người đàn ông này
đã phải đọc rất nhiều những cuốn sách về máy bay và nghiên cứu kỹ lưỡng
lộ trình bay cũng như quy trình tiếp đất.
Cô nói rằng sau khi không tặc hai người sống trên đảo Long, New York và
chuyển toàn bộ số tiền cướp được vào thành phố Atlantic và các sòng bạc
Reno. Theo người phụ nữ này Cooper chết vào năm 1982 vì lý do sức khỏe.
Nhưng FBI một lần nữa lại bác bỏ câu chuyện này vì các tình tiết không
logic.
Việc Dan Cooper mất tích bí ẩn khiến vụ không tặc trở nên nổi tiếng. Và
sau đó, có ít nhất 12 người từng công khai hoặc kín đáo tự nhận mình là
Dan Cooper. FBI cũng cho biết, đã có ít nhất 10.000 tên người đã được
đưa vào hồ sơ theo dõi, song không có ai được chứng thực là Dan Cooper.
Cooper chết hay vẫn còn sống? Câu hỏi này vẫn đang còn bỏ ngỏ. Nếu may
mắn hắn còn sống hắn chừng 70 tuổi và nếu không thì thân xác hắn cũng đã
tan tành thành từng mảnh 32 năm trước. Manh mối vụ án
Theo tính toán của cảnh sát, cú nhảy mà Dan Cooper thực hiện cách Quốc
lộ 5 khoảng 16 km về phía Đông, gần Ariel, bang Washington và đập hồ
Merwin của sông Lewis. Tuy nhiên, chiến dịch lục soát và tìm kiếm tại
đây đã không mang lại kết quả nào.
Phác họa tên cướp DB Cooper
Đến ngày 10-2-1980, một cậu bé 8 tuổi bới cát bên bờ sông Columbia đã
phát hiện 3 bó tiền nát trị giá 5.800 USD, tất cả đều loại tiền 20 USD,
với số serie phù hợp với số tiền mà Cooper yêu cầu. Địa điểm đó cách 50
km so với nơi mà theo cảnh sát, Cooper đã thực hiện cú nhảy.
Sau khi kiểm tra tại phòng thí nghiệm, số tiền này đã được chôn tại bờ
sông vào tháng 8-1974, tức là gần 3 năm sau khi Cooper nhảy dù khỏi máy
bay. Một chiến dịch tìm kiếm được phát động cho đến khi một trận núi lửa
phun trào vào ngày 18-5-1975.
Nhiều người lo ngại nham thạch có lẽ đã phá hủy toàn bộ những bằng
chứng mà Cooper để lại. Thậm chí, có mật vụ FBI còn khẳng định Cooper đã
chết sau cú nhảy. Song giả thuyết này không bao giờ được xác nhận sau
vụ núi lửa phun trào.
FBI đã xác định được đây chính là một phần trong số tiền 200.000 USD mà
D.B.Cooper đã lấy được từ tay cảnh sát. Một số người thấy vậy cho rằng,
D.B.Cooper đã bị thiệt mạng khi nhảy dù ra khỏi máy bay. Vụ án này dần
dần được đưa vào danh sách “hồ sơ chết” của FBI và không ai còn nhắc tới
nó nữa.
Về số tiền 200.000 USD mà Cooper đòi, FBI đã chuyển một bản danh sách
dài 34 trang ghi lại 100.000 số serie của từng tờ tiền mà họ đã đưa cho
Cooper. Ngoài vài bó tiền tìm thấy bên sông, cho đến nay người ta vẫn
chưa hề phát hiện một tờ nào được tiêu.
Thậm chí, có người còn trao giải thưởng 100.000 USD để đổi lấy một tờ
tiền 20 USD có số serie được ghi lại, nhưng không ai đứng ra nhận giải.
Số tiền thưởng 30.000 USD của hãng hàng không Northwest Orient và một tờ
báo ở Seattle cũng như vậy. Nếu Cooper có đồng phạm, rõ ràng họ rất
trung thành với tên không tặc “huyền thoại”.
Thám tử tham gia vụ truy tìm tên không tặc Cooper
Gần đây nhất, vào ngày 25-5-2002, một người đàn ông có tên Augusto
Lakandula, với những vấn đề tài chính nghiêm trọng, đã mang theo một quả
lựu đạn và một khẩu súng để cướp tiền của 277 hành khách trên một máy
bay của hãng hàng không Philippines Airlines, rồi nhảy dù tự chế ở độ
cao 1,8km.
Thi thể của anh ta sau đó được tìm thấy ở một khu rừng cách Manila
khoảng 40 dặm về phía Đông. Dù rằng D.B. Cooper không phải là tên không
tặc đầu tiên cũng như cuối cùng, song theo thời gian, tấm màn bí ẩn
quanh vụ cướp khét tiếng này vẫn bao trùm và trở thành mối quan tâm của
không ít người, đặc biệt những người muốn trở thành thám tử tại Mỹ.
Tất cả mọi người, từ những điều tra viên nghiêm túc và kiên định nhất
đến những thám tử nghiệp dư ham chơi đều luôn nghiền ngẫm, soi kỹ từng
chi tiết của vụ án, hy vọng một cách ảo tưởng rằng sẽ phát hiện một số
khía cạnh bị bỏ qua - những khía cạnh che dấu một đầu mối có thể là
nguyên nhân dựng nên những rào chắn không thể vượt quan trong việc giải
mã vụ án. Tuy vậy vụ án vẫn đi vào bế tắc suốt gần 40 năm sau, và D.B.
Cooper đã trở thành "tượng đài lớn" của giới tội phạm, người đã trốn
tránh một cách tài tình cuộc điều tra lâu dài, rộng lớn và tốn kém bậc
nhất trong lịch sử ngành tư pháp Mỹ của thế kỷ 20./.
Hòa Thu
Hồ sơ tuyệt mật: “Mật mã Dyatlov” và cái chết bí ẩn của 9 sinh viên trẻ
Tai nạn đèo Dyatlov. Năm 1959, 10 sinh
viên trẻ đi trượt tuyết trong kỳ nghỉ ở dãy núi Ural, Nga và không bao
giờ trở lại. Cuối cùng, thi thể của họ được tìm thấy ở khoảng cách khá
xa, mang trên mình vết thương bí ẩn.
Chuyến khám phá định mệnh Năm 1959, một nhóm 10 nhà khoa học làm việc tại Viện Bách khoa Ural,
nay là Đại học Kỹ thuật quốc gia Ural (Nga), lên ý tưởng thực hiện một
cuộc thử nghiệm về tác động của độ cao và thời tiết khắc nghiệt đối với
cơ thể người. Họ tổ chức leo lên ngọn núi Kholat Syakhl (dân địa phương gọi là
"Ngọn núi tử thần”) có độ cao 1.895m, nằm về phía bắc của dãy Ural. Sáng ngày 1.2, nhóm thám hiểm bắt đầu thực hiện việc leo núi. Theo kế
hoạch, cả nhóm sẽ cố leo đến một ngọn núi ở độ cao 565m ngay trong ngày
và cắm trại qua đêm tại đây.
Người kỹ sư trẻ, trưởng nhóm, Igor Dyatlov
Tuy nhiên, do gặp bão tuyết nên họ bị mất phương hướng và đi lạc đến
một đèo nằm ở phía bên kia sườn của ngọn Kholat. Và khi biết bị nhầm,
nhóm trưởng Dyatlov ra lệnh cho cả nhóm hạ trại qua đêm tại đây. Nếu tôi có thể cầu xin Chúa một điều thì đó sẽ là câu trả lời cho
câu hỏi chuyện gì đã thực sự xảy ra với các bạn tôi vào cái đêm định
mệnh đó?”, Yury Yudin, thành viên thứ 10 của cuộc thám hiểm, do bị ốm
nên đã quay về vài ngày sau khi khởi hành chuyến đi. Số phận những người
bạn ông vẫn còn là một bí ẩn đau thương. Yudin và 9 người bạn khởi hành chuyến đi vào ngày 23.1.1959. Đích đến
của họ là đỉnh Otorten ở phía bắc Ural. Anh và 8 sinh viên khác đến từ
Đại học Bách khoa Ural ở Ekaterinburg, nằm trong khu vực Sverdlovsk,
cách Moscow 1.900 km về phía đông. Hồi đó, thành phố này vẫn được gọi là
Sverdlovsk, là nơi Sa hoàng và gia đình ông đã chết sau cuộc Cách mạng
Nga.
Câu chuyện đã được dựng thành phim.
Thập kỷ 1950 chứng kiến sự bùng nổ trào lưu “du lịch thể thao” ở Nga,
khi đất nước bắt đầu thoát khỏi thời kỳ hậu chiến với chính sách thắt
lưng buộc bụng. Sự kết hợp du lịch với các môn thể thao như trượt tuyết,
leo núi, phiêu lưu mạo hiểm là một cách giúp cư dân Xô Viết cũ thoát ra
những gánh nặng lo toan của cuộc sống hàng ngày, gần gũi với thiên
nhiên và dành thời gian bên những người bạn thân thiết. Nhóm sinh viên trường Bách khoa Ural là các thành viên có kinh nghiệm
của CLB Du lịch thể thao do Igor Dyatlov, 23 tuổi, dẫn đầu và thực hiện
chuyến thám hiểm bằng trượt tuyết và leo núi. Lộ trình của họ sẽ dẫn
tới đỉnh Otorten ở độ cao hơn 1.100m trên mực nước biển, được gọi là
“Tuyến 3” – lộ trình nguy hiểm nhất vào thời gian đó của năm. Đến ngày 23.1, nhóm 10 người bắt đầu chuyến thám hiểm dự kiến kéo dài
3 tuần xuyên quốc gia. Họ đi tàu hỏa đến Ivdel vào ngày 25.1, sau đó
chuyển sang xe tải tới Vizhai, là điểm dừng chân cuối cùng ở vùng đồng
bằng trước khi bắt đầu leo núi Otorten. Họ bắt đầu leo núi ngày 27.1.
Tuy nhiên, đến ngày 28.1 thì Yudin bị bệnh và phải quay về nên 9 người
còn lại tiếp tục cuộc hành trình mà không có anh. Yudin không bao giờ
ngờ rằng đó là lần cuối cùng anh nhìn thấy các bạn của mình còn sống. Theo kế hoạch, cả nhóm sẽ trở lại Vizhai vào ngày 12.2.1959 và từ địa
điểm đó Dyatlov sẽ gửi một bức điện tín đến câu lạc bộ Thể thao của
trường để thông báo rằng họ đến nơi an toàn. Chẳng ai nghi ngờ rằng sẽ
không có bức điện tín đó như dự định vì các thành viên của nhóm đều là
những vận động viên trượt tuyết rất kinh nghiệm. Đến ngày 20.2, vì những người thân của các sinh viên tỏ ra rất lo
lắng nên nhà trường cử một đội tìm kiếm và cứu hộ bao gồm các giáo viên
và sinh viên tình nguyện của trường, tiếp theo đó là lực lượng cảnh sát
và quân đội vào cuộc, cùng với máy bay và trực thăng
Khu lều rách nát của nhóm leo núi
Những điều kỳ lạ trong cái chết của 9 nhà khoa học Sau gần một tuần tìm kiếm trong thời tiết lạnh giá, khắc nghiệt, đến
ngày 26.2, những người cứu hộ đã đến được địa điểm hạ trại của nhóm thám
hiểm. Sau 2 tháng kiếm tìm vô vọng, ngày 4.5, sự ấm áp của mùa xuân đã phá
tan băng, tuyết. Công cuộc tìm kiếm trở nên dễ dàng hơn. Trong cuộc ra
quân này, đoàn cứu hộ đã phát hiện thêm những nạn nhân tiếp theo bị vứt
dưới những khe núi cách xa lều hàng km Đầu tiên, đoàn phát hiện Doroshenko và Krivonischenko bị treo trên
những nhánh thông cổ thụ dưới một khe núi. Tiếp theo là giảng viên
Alexander Zolotaryov, kỹ sư Nicolas Thibeaux- Brignollel, sinh viên
Alexander Kolevatov và Ludmila Dubinina bị vùi sâu dưới hàng chục mét
băng tuyết. Những nghiên cứu thi thể cho thấy: các nạn nhân chết vì bị
chấn thương rất nặng. Hộp sọ của Slobodin và Thibeaux Brignollel có dấu
hiệu bị đập vỡ bằng một vật nặng.
Thi thể của 9 nạn nhân được tìm thấy và không rõ nguyên nhân gây ra cái chết.
Trong khi đó, lồng ngực của Zolotarev và Dubunina bẹp dúm, toàn bộ
xương sườn bị bẻ gãy, lục phủ ngũ tạng vỡ nát. Riêng Dubunina, ngoài bộ
ngực bẹp dúm, cái xác của cô cũng chiếc lưỡi. những nỗ lực tìm kiếm phần
thi thể khiếm khuyết không bao giờ có kết quả. Tuy nhiên, cơ thể các
nạn nhân không hề xuất hiện dấu vết của sự xung đột. Ngoài những vết
thương dẫn đến cái chết tức thì, cơ thể họ không có các vết xước, bầm… Một điều khác lạ so với những nạn nhân trước là những thi thể này đều
có đầy đủ quần áo. Tuy nhiên, có những xáo trộn đặc biệt trang phục
giữa các thành viên. Thậm chí, họ còn chưa kịp cài khuy, lên dây kéo…
Điều này chứng tỏ, những người này đã mặc y phục trong tình trạng hoảng
loạn.
Một xác chết bị vùi trong tuyết lạnh
Những nạn nhân sau khi chết, dù được phát hiện trước hay sau, dù khi
sống có màu da, tóc khác nhau nhưng sau khi chết da họ cùng có màu cam
bất thường, tóc chuyển sang màu xám tro. Đặc biệt, những cái xác được
khẳng định bị nhiễm xạ ở mức độ nặng. Những cái chết thương tâm gieo rắc
vào lòng người sống những nỗi sợ vô hình, những bí hiểm không lời giải
đã trở thành lời thách thức không khoan nhượng đối với nền khoa học. Mặc dù còn nhiều câu hỏi chưa được giải đáp, cuộc điều tra đã khép
lại vào cuối tháng và hồ sơ vụ này được gửi đến cơ quan lưu trữ bí mật.
Câu chuyện còn kỳ bí hơn khi những người trượt tuyết và các nhà thám
hiểm khác bị cấm vào khu vực này trong 3 năm tiếp sau đó.
MIỀN TÂY HOANG DẠI Ước gì một lần về thuở ấy miến Tây Sống lầy lội những tháng ngày hoang dại Súng cặp kè hông, nhong nhong lưng ngựa Phóng khoáng thảo nguyên, đạn nổ ì đùng Ta sẽ về, rủ em gái theo cùng Đem tình yêu vào vòng đấu súng Và ngã xuống trong một lần anh dũng Để mai này định nghĩa lại...thằng khùng! Đã khùng rồi thì xá chi anh hùng Của một thời tìm vàng sôi động Người người xô bồ tìm giàu sang cuộc sống Để lại điêu tàn, bắn giết mênh mông! Ta ước thế nghe có rùng rợn không? Trần Hạnh Thu NHẠC HUYỀN THOẠI CAO BỒI VIỄN TÂY
(ĐC sưu tầm trên NET) Bản tin 113 online cập nhật ngày 2/5: Truy tố 254 bị can bị trong đại án sai phạm lĩnh vực đăng kiểm 🔴 TRỰC TIẾP: Thời sự quốc tế 3/5 | Nga tuyên bố khai hỏa Iskander, hủy diệt hai pháo HIMARS Ukraine Tin tức thời sự mới nhất hôm nay | Bản tin sáng ngày 5-3-2024 MỘT CÕI ĐI VỀ (Sáng Tác: Trịnh Công Sơn) - KHÁNH LY OFFICIAL Miễn nhiệm chức vụ Chủ tịch Quốc hội đối với ông Vương Đình Huệ 9 giờ trước Khoảnh khắc tên lửa Nga công kích pháo HIMARS Ukraine 12 giờ trước Mong muốn Campuchia chia sẻ thông tin về Dự án kênh đào Funan Techo 10 giờ trước Gần 50 người chết trong vụ sập đường cao tốc ở Trung Quốc 10 giờ trước Lý do xuất khẩu của Trung Quốc sang Nga bất ngờ sụt giảm 8 giờ trước Ukraine nói Nga sản xuất tên lửa Zircon 'nhanh bất thường' 6 giờ trước Hàng chục nghìn người Gruzia tiến hành biểu tình lớn nhất từ trước tới nay 16 giờ trước Video 'rừng người' xem phương tiện chiến đấu bị Nga tịch thu ở chiến trường Ukraine 16 giờ trước U23 In...
I Only Want to Be with You - Dusty Springfield (Cover by Emily Linge) VẪN THẾ MÀ! Anh vẫn thế, trước sau vẫn thế mà Nhìn anh này, đừng nhìn phía trời xa Vẫn ngày ngày ra ngóng chờ trước của Đợi Nàng Thơ về tác hợp thi ca Tâm hồn anh có cửa đâu mà khóa Mà phải cùng em mở cánh cửa tâm hồn Anh tìm mãi nào thấy đâu ô cửa Toang hoác tứ bề, thông thống càn khôn* Còn trái tim anh vẫn êm đềm, yên ả Vẫn yêu quê hương, tổ quốc, con người Miền nhiệt đới khi thấy tim băng giá Chắc chắn là anh đã ngoẻo tự lâu rồi! Trần Hạnh Thu CT: * Trời đất
Nhận xét
Đăng nhận xét