Thứ Sáu, 7 tháng 4, 2017
CÂU CHUYỆN LỊCH SỬ 28
Những người phụ nữ Pháp trong chiến tranh thế giới thứ nhất
Ảnh hiếm những người phụ nữ trong Chiến tranh Thế giới thứ 2
Bộ ảnh đen trắng dưới đây ghi lại khoảnh khắc xúc động về những người phụ nữ trong Chiến tranh Thế giới thứ 2.
Người phụ nữ này đã không thể chứng kiến con của cô lớn lên từng ngày. Không ít người dân vô tội đã thiệt mạng trong cuộc Chiến tranh Thế giới thứ 2 (1939-1945).
Hai người phụ nữ quỳ trước một ngôi mộ gần phố Mazowiecka, Warsaw, năm 1944.
Cô gái trẻ Ba Lan soi gương ở Warsaw năm 1944.
Người phụ nữ và con nhỏ đứng giữa đống đổ nát trong thời kỳ Thế chiến II.
Người mẹ vội vàng dẫn hai con đi trên một con đường ở Anh.
Người phụ nữ đau khổ sau khi chị gái cô bị bắn ở Ba Lan năm 1939.
Những đứa trẻ trốn dưới tủ trong một vụ không kích ở London (Anh) ngày 6/10/1940.
Một vụ hành quyết những người
phụ nữ trong thời kỳ Chiến tranh Thế giới thứ 2.
phụ nữ trong thời kỳ Chiến tranh Thế giới thứ 2.
Người phụ nữ Phần Lan bế con nhỏ trên đường phố Helsinki ngày 9/7/1941.
Một cô gái Đức gào khóc giữa đống đổ nát năm 1945.
Người phụ nữ lớn tuổi rơi nước mắt khi đứng trước ngôi nhà bị phá hủy cách đây hàng chục năm về trước.
Những nữ binh sĩ cố gắng giúp một dân thường bị thương nặng trong chiến tranh.
Nữ y tá Liên Xô giúp một binh sĩ bị thương trên chiến trường. (Nguồn ảnh: Vintag).
Nữ bắn tỉa Lyudmila Pavlichenko huyền thoại của Hồng Quân tại
Sevastopol, Ukraine trong chiến tranh thế giới thứ 2. Bà nổi tiếng với
chiến tích tiêu diệt 309 mục tiêu và là nữ bắn tỉa thành công nhất mọi
thời đại. Ảnh: Theatlantic.
Những người phụ nữ Nhật làm việc trong một nhà máy sản xuất vũ khí. Hầu
hết nam giới Nhật Bản đã xung phong nhập ngũ nên những công việc ở hậu
phương dù có nặng nhọc đến mấy cũng đều có sự tham gia của những người
phụ nữ Nhật. Ảnh: Theatlantic.
Các nữ quân nhân trong Quân đoàn Nữ giới (Women’s Army Corps) của Mỹ ở trại huấn luyện Embarkation, ảnh chụp ngày 2/2/1945. Ảnh: Theatlantic.
Những nữ du kích Liên Xô trong cuộc chiến với Phát-xít Đức trên lãnh thổ
Liên Xô. Liên Xô là quốc gia đi đầu trong việc bình đẳng giới với những
quy định rất rõ ràng về việc cấm phân biệt giới tính trong tất cả mọi
lĩnh vực từ học tập, chính trị cho tới quân sự được quy định chi tiết từ
thời Lê-nin. Ảnh: Theatlantic.
Nữ Đại Tá Đức, bà Hanna Reitsch bắt tay Adolf Hitler sau khi dành được
Huân chương Chữ Thập cho những đóng góp của bà trong việc cải tiến hệ
thống vũ khí trên những chiếc máy bay chiến đấu của Đức. Phần lớn các
phi công Đức đều tỏ ra cực kỳ ngạc nhiên khi biết hệ thống vũ khí hiện
đại của họ được nâng cấp bởi công sức của một người phụ nữ. Ảnh:
Theatlantic.
Một nhóm nữ du kích Do Thái bị binh lính SS Đức bắt giữ ở Warsaw, Ba Lan
vào khoảng tháng 4/1943, số phận của những người phụ nữ quả cảm này sẽ
rất khắc nghiệt và thường kết thúc trong các trại tập trung của Phát-xít
Đức hoặc bị xử tử tại chỗ. Ảnh: Theatlantic.
Những nữ phi công lái máy bay chiến đấu trong lực lượng Luftwaffe của
Đức trong một doanh trại huấn luyện của Không quân Đức, ảnh chụp ngày
7/12/1944. Ảnh: Theatlantic.
Nữ giới Anh phục vụ trong các lực lượng bàn giấy của Quân đội Hoàng gia
Anh học cách cận chiến với lo ngại phía Đức sẽ leo thang chiến tranh đưa
quân đổ bổ lên lãnh thổ Anh. Ảnh chụp tháng 1/1942. Ảnh: Theatlantic.
Một nữ du kích vô danh cầm trên tay khẩu trung liên của Liên Xô, ảnh
được chụp vào đầu năm 1945, giai đoạn cuối của cuộc chiến tranh thế
chiến thứ hai. Ảnh: Theatlantic.
Nữ y sỹ Trung Quốc chăm sóc vết thương cho các thương binh trong trận
chiến ở sông Salween nằm trong địa phận Vũ Hán, Trung Quốc. Ảnh chụp
22/6/1943. Ảnh: Theatlantic.
Nữ quân nhân lực lượng phòng không Anh cùng canh giữ bầu trời nước Anh
giai đoạn đầu thế chiến. Những cô gái này thường được gọi với cái tên
khá mỹ miều là “Ack-Ack girls” do họ thường rất hay… la hét khi chiến
đấu. Ảnh: Theatlantic.
Hai nữ điện đài viên của Đức đang điều khiển thông tin chỉ điểm cho một
chiến dịch phòng thủ đường không của Đức. Ảnh: Theatlantic.
Nữ phóng viên ảnh của tạp chí Life bà Margaret Bourke White bay thẳng ra chiến trường Châu Âu trong giai đoạn ác liệt nhất của cuộc chiến để săn tin. Ảnh được chụp vào tháng 2/1943. Ảnh: Theatlantic.
Những nữ sỹ quan Quân y Mỹ đổ bộ lên bờ biển Normandy vào buổi chiều
ngày 6/6/1944, ngày quân Đồng Minh mở mặt trận thứ hai ở Châu Âu. Ảnh:
Theatlantic.
Nữ du kích Pháp đang chiến đấu trên đường phố Paris vào tháng 8/1944, bà
đeo bên hông một khẩu súng lục của sỹ quan Đức và sử dụng lựu đạn của
Đức trong cuộc chiến giành vị trí mở đường cho quân Đồng Minh tiến vào
giải phóng Paris. Ảnh: Theatlantic.
Một sỹ quan Đức bị bắn hạ đang nằm gục dưới đất, ngay lập tức hai thanh
niên trẻ người Pháp tiến đến thu giữ vũ khí và đạn dược của người lính
xấu số này. Ảnh được chụp tại Paris năm 1944. Ảnh: Theatlantic.
Bức ảnh nổi tiếng về hình ảnh một nữ du kích Pháp mệt mỏi vác khẩu MP-40
trên vai đang tuần tra trên đường phố Paris để tìm kiếm những tay súng
bắn tỉa Đức đang lẩn trốn ở đây. Dù không nhận được sự hỗ trợ từ bên
ngoài nhưng rất nhiều thanh niên Pháp đã cướp vũ khí của Phát-xít Đức và
tự tổ chức những cuộc mai phục, phá hoại và ám sát trong thời gian nước
này bị chiếm đóng. Ảnh: Theatlantic.
Vai trò của phụ nữ trong Chiến tranh Việt Nam
Đăng lúc 18 November 2015, 13:43 AEDT
Rosanna Ryan
Borton, một tín đồ trẻ phái giáo hữu từ miền Tây nước Mỹ, đến Việt Nam năm 1969 để tham gia vào phong trào hòa bình tại một trại điều dưỡng giúp người dân địa phương làm chân tay giả cho những dân thường bị què cụt. Trung tâm đó nằm ở Quảng Ngãi, phía Nam Việt Nam. Bà đã học tiếng Việt và có một số dịp gặp mặt với những phụ nữ mà bà nghi ngờ là ủng hộ cho Việt Cộng. Nhưng chỉ khi trở lại sau chiến tranh, trong khoảng cuối thập niên 1980, bà mới nhận ra mình đã quá khờ khạo không nhận ra vai trò trung tâm của họ trong hoạt động gián điệp, liên lạc và mạng lưới thông tin của miền Bắc Việt Nam - Việt Cộng.
Phỏng vấn một nhóm phụ nữ ở Bàn Long, bà Borton đã hỏi những ai trong làng từng liên quan đến lực lượng phản kháng. “Họ đã cười vào mặt tôi,” bà kể cho Late Night Live của ABC. “Chúng tôi đã ngồi ở một gian phòng, và tất nhiên chỉ có tôi là người ngoại quốc, và họ nói ‘À, tất cả chúng tôi.’”
Một người phụ nữ có tên là Hai Mùa, đã giải thích về công việc của họ: “Chúng tôi đã làm tất cả. Chúng tôi leo núi, chúng tôi nấp dưới những con sông. Chúng tôi bắt giữ tù nhân. Chúng tôi mang đạn dược. Chúng tôi tự học cách sử dụng vũ khí. Chúng tôi chỉ đường cho du kích khi họ muốn tấn công căn cứ của Mỹ tại Bình Đức. Chúng tôi là những người chỉ đường, chúng tôi là gián điệp.”
Những phụ nữ này cho bà Borton biết là binh lính của Mỹ tin rằng bất cứ ai mặc áo đen là Việt Cộng, nên họ có thể qua mặt những người Mỹ một cách dễ dàng bằng cách mặc áo màu trắng. Một phụ nữ tên Chín Hồng cho bà Borton biết rằng mình có rất nhiều phục trang: một số ngày bà ấy sẽ cải trang là cô giáo trong những ngày khác bà ấy mặc quần áo rách rưới giả làm người bán rau.
“Chúng tôi xây các đường hầm và đào chiến hào,” Hai Mùa kể tiếp. “Chúng tôi là những người trinh sát, chúng tôi là tuyến cung cấp. Chúng tôi đưa thư và bản đồ. Chúng tôi lập hệ thống thông tin liên lạc. Chúng tôi là người giao liên. Tôi đã kể cho chị cách chúng tôi dấu súng trong chum đựng nước mắm [vì người Mỹ không thể chịu nổi mùi đó] và đưa chúng đến bãi mía. Chị có lẽ đã thấy chúng tôi rất nhiều lần.”
Mong ước về một cuộc sống bình yên và quyền tự chủ
Những câu chuyện gợi nhắc lại cho bà Borton về những gì bà trải nghiệp khi đi nhận thư ở một khu căn cứ quân sự của Mỹ. ‘Tôi thương đến đó lúc 5 giờ khi gọi báo có thư và đó là lúc những người phụ nữ vào đó quét dọn, lau chùi và rửa chén dĩa … đi về,” bà kể.
“Những người lính ở cổng sẽ kiểm tra giỏ của họ, và tất nhiên là không có gì trong đó. Tôi nhớ mình đã quan sát họ và nghĩ rằng những người này – những sĩ quan 18 tuổi mang găng tay trắng – thật ngốc nghếc. Họ không đưa cái gì ra ngoài bằng giỏ của họ cả, tất cả ở trong đầu của họ.”
Những năm sau chiến tranh, bà Borton đã dành thời gian sống giữa Việt Nam và Mỹ, xây dựng tình bạn với một số nhân vật lịch sử lớn – gồm có Đại tướng Võ Nguyên Giáp và nhà báo người Úc Wilfred Burchett – những người mà quan điểm chính trị không có gì là bí mật. Dù vậy, khi gặp những phụ nữ trong làng thì bà không tin rằng động cơ chính thúc đẩy họ là niềm tin vào chủ nghĩa cộng sản. Nhiều người cho bà biết họ không phải đảng viên.
“[Lần đầu khi tôi đến làng] tôi đã nghĩ rằng họ tin theo lý tưởng cộng sản, tin vào Hồ Chí Minh và những người khác và đó là những gì thúc đẩy họ,” bà nói.
“Sau đó tôi bắt đầu hỏi chuyện họ khi đã quen biết khá thân, tôi nói rằng, ‘Chị có phải cộng sản không? Họ trả lời, ‘Không, tôi không phải là đảng viên.” Những gì họ mong muốn chỉ là cuộc sống hòa bình… Họ muốn có quyền tự chủ đối với đất nước của mình.”
Để dành một mục tiêu hi vọng như một người phụ nữ khác: bà Nguyễn Thị Bình. Bà Bình được chính Hồ Chí Minh chọn là thành viên nữ duy nhất trong nhóm đàm phán đi đến Paris năm 1968 để sắp xếp việc Mỹ rút quân khỏi Việt Nam, theo bà Borton, người vừa mới dịch tự truyện của bà Bình sang tiếng Anh.
Bà Bình, trả lời phỏng vấn của ABC tại Việt Nam trong tháng 9 vừa qua, đã giải thích rằng Hồ Chí Minh khi còn trẻ đã gặp người ông nổi tiếng của bà ở Pháp, nơi Phan Chu Trinh phải sống cảnh tha hương sau những cuộc tàn sát đẫm máu đối với phong trào chống sưu thuế vào năm 1908. Bà không chắc rằng có phải vì mối quan hệ đó mà ông Hồ đã tìm đến bà hay không.
'Chủ tịch Hồ không hề nói với tôi về điều đó nhưng có thể đó là những gì ông ấy nghĩ,” bà nói.
“Trước những đàm phán và họp báo đó, tôi không phải là một người được huấn luyện đầy đủ về ngoại giao. Tôi đến các buổi họp báo với sức ép rất lớn và tôi đã lo lắng về trách nhiệm nặng nề của mình, về điều tôi có thể làm cho người dân của mình, tên tuổi của tôi. Tôi biết rằng mình có mặt ở đó đại diện cho quốc gia của mình và nói tiếng nói của dân tộc mình.”
Bà Borton cho biết điều thú vị về các cuộc đàm phán tại Paris đối với Việt Nam là nó không chỉ là về đàm phán: “Làm thế nào để họ, một quốc gia bé nhỏ, thương lượng với một nước khổng lồ như Hoa Kỳ? Sự kiện có mục đích là tranh thủ ủng hộ ở Paris và kêu gọi thế giới về phía họ.”
Bà Bình cho biết khó khăn đã khiến bà tìm thấy sức mạnh của mình
Trong quá trình đàm phán diễn ra tại thủ đô nước Pháp thì gia đình của bà Bình ở miền Nam Việt Nam đã bị bắt giữ. Trong tự truyện của mình bà đã kể về rằng đau đớn của anh bà lớn hơn của mình – nhưng đó là khó khăn mà nhiều gia đình Việt Nam cũng gặp phải.
'Khi ông hỏi tôi có lo lắng cho các thành viên trong gia đình không, tôi có nghĩ đến họ… nhưng họ cũng là một phần của dân tộc của tôi. Họ đã sống ở Việt Nam trong những hoàn cảnh rất khó khăn và đó là lí do tại sao điều đó lại tiếp thêm sức mạnh cho tôi, cho tôi sức mạnh để tôi nỗ lực hết khả năng, kết thúc những đàm phán sớm nhất chúng tôi có thể, để Việt Nam có thể thành công trên thế giới,’ bà nói.
Sau khi những cuộc đàm phán kết thúc, và Hoa Kỳ bắt đầu rút quần khỏi Việt Nam, bà Bình được tiến cử trong nhiều vị trí cấp cao của chính phủ Việt Nam, trong đó bà đảm nhiệm vai trò phó chủ tịch nước trong hai nhiệm kỳ. Bà về hưu năm 2002 nhưng sau đó bà cho biết mình còn bận rộn hơn.
“Kể từ khi về hưu, tôi thật ra không nghỉ làm tí nào cả. Tôi vẫn tiếp tục giúp đất nước với những vấn đề của đất nước. Văn phòng này là văn phòng của quỹ hòa bình và phát triển Việt Nam. Chúng tôi tự nhận rằng chúng tôi còn rất nhiều khó khăn cần phải vượt qua.”
Khi được hỏi suy nghĩ của mình về những gì bà đã đạt được, bà Bình nhấn mạnh rằng không có gì bất thường trong đó cả. “Tôi sống một cuộc sống bình thường, như nhiều phụ nữ Việt Nam khác. Không phi thường một chút nào cả.”
Nghe phỏng vấn của Radio National với bà Nguyễn Thị Bình trong cuộc gặp gỡ tháng 9 vừa qua tại Việt Nam.
Vẻ đẹp bất khuất của phụ nữ Việt Nam thời chiến
Các bức hình tư liệu quý về những người phụ nữ đã cống hiến tuổi thanh xuân của mình cho đất nước.
“Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang” - đó là 8 chữ vàng mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phong tặng cho người phụ nữ Việt Nam trong thời kỳ kháng chiến. Vẻ
đẹp của các nữ thanh niên xung phong đã trở thành nguồn cảm hứng cho
nhiều câu hát về họ: “Cô gái miền quê ra đi cứu nước, mái tóc xanh xanh
tuổi trăng tròn…”
Trong
hoàn cảnh ác liệt của chiến tranh, nhiều cô gái trẻ đã dành trọn những
tháng năm đẹp nhất của cuộc đời mình chiến đấu vì độc lập, tự do của Tổ
quốc.
Hình ảnh đặc trưng của người nữ du kích với mái tóc dài tết. Khuôn
mặt của người nữ chiến sĩ toát lên một sự quả cảm và kiên định. Trong
những năm tháng gian nguy của đất nước, hàng vạn cô gái đã tình nguyện
lên đường bảo vệ non sông.
Hai nữ chiến sĩ phòng không tại Hậu Lộc, Thanh Hóa đang điều khiển
súng phòng không để bắn máy bay. Những cô gái tưởng như “chân yếu tay
mềm” đã góp một phần lớn công lao to lớn bảo vệ vùng trời của Tổ quốc.
Nhân vật trong ảnh là nữ thanh niên xung phong Nguyễn Thị Cần,
người Nghệ An. Cô là chiến sĩ thi đua cấp tỉnh năm 1967. Thời đó, các nữ
thanh niên xung phong gánh vác những nhiệm vụ như vận chuyển lương
thực, đạn dược ra tiền tuyến, cứu trợ thương binh và lấp hố bom mở
đường.
Chiến trường gian khổ đã rèn luyện bản lĩnh cho những người con gái
Việt Nam. Họ mang tới 40kg lương thực, đạn dược trên lưng và không ít
lần trực tiếp tham gia những trận đánh khốc liệt.
Bức ảnh chụp “O du kích nhỏ” Nguyễn Thị Kim Lai áp giải một phi
công Mỹ bị bắt vào năm 1965. Hình ảnh một nữ dân quân nhỏ bé áp giải
viên phi công cao lớn đã trở thành biểu tượng hào hùng của cuộc kháng
chiến chống Mỹ, giữa một dân tộc nhỏ bé với kẻ thù lớn hơn gấp nhiều
lần.
Tấm ảnh chụp năm 1969 của nữ Anh hùng Quân đội nhân dân Việt Nam -
La Thị Tám. Cô đã đếm và cắm tiêu 1.205 quả bom do địch trút xuống để
lực lượng công binh của ta đến phá bom, đảm bảo thông suốt cho tuyến
đường tiếp viện vào Nam. Cô được phong anh hùng khi mới 20 tuổi.
Sự kiên cường toát lên trong ánh mắt của người nữ chiến sĩ trong
bức ảnh. Thời đó, những cô gái xung phong ra chiến trường với khát khao
bảo vệ cuộc sống hòa bình của quê hương, thành quả mà ngày nay mỗi chúng
ta đang được thừa hưởng.
Người nữ giải phóng quân nở một nụ cười tươi rói trong đợt tiến công cuối cùng vào giải phóng Sài Gòn. Công
cuộc thống nhất đất nước có sự đóng góp không nhỏ của những người phụ
nữ cầm súng, mà trong số họ có nhiều người đã nằm lại chiến trường.
Bức hình toát lên vẻ đẹp mộc mạc và hồn nhiên của những nữ chiến sĩ
Việt Nam. Khi tuổi đời còn rất trẻ, họ đã cống hiến thật nhiều cho đất
nước…
Ngày 20/10
hàng năm được chọn là Ngày Phụ Nữ Việt Nam, đó là sự ghi nhận của đất
nước với những con người được Bác Hồ tặng 8 chữ vàng: "Cần cù, bất
khuất, trung hậu, đảm đang".
Lịch
sử dân tộc Việt Nam là lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước, trong
đó, phụ nữ Việt Nam giữ một vai trò trọng yếu. Ngày 3/2/1930, Đảng Cộng
sản Đông Dương thành lập. Cương lĩnh đầu tiên của Đảng đã ghi: “Nam nữ
bình quyền”. Đảng đặt ra: Phụ nữ phải tham gia các đoàn thể cách mạng
(công hội, nông hội) và thành lập tổ chức riêng cho phụ nữ để lôi cuốn
các tầng lớp phụ nữ tham gia cách mạng.
Chính
vì vậy mà vào ngày 20/10/1930, Hội Liên hiệp Phụ nữ chính thức được
thành lập. Sự kiện lịch sử này thể hiện sâu sắc quan điểm của Đảng đối
với vai trò của phụ nữ trong cách mạng, đối với tổ chức phụ nữ, đối với
sự nghiệp giải phóng phụ nữ. Tổ chức cao cấp nhất của phụ nữ Việt Nam đã
ra đời, đánh dấu một mốc quan trọng, chính thức công nhận vai trò và
thể hiện sự tôn trọng bình đẳng của nam giới đối với phụ nữ.
|
Thân phận phụ nữ trong chiến tranh
Dân trí VBT Tolerance ở thành phố Los Angeles, Mỹ đang diễn ra cuộc triển lãm ảnh One Person Crying: Women and War khắc hoạ những người phụ nữ từ khắp nơi trên thế giới - những người mà cuộc đời họ hoàn toàn thay đổi vì những cuộc chiến tranh.
Có một người đang khóc: Phụ nữ và chiến tranh
Những người mẹ được vinh danh tại Viện bảo tàng Phụ nữ, Hà Nội, những người mẹ Việt Nam Anh hùng đã cho Tổ quốc những đứa con để bảo vệ độc lập dân tộc.
Bà Đoàn Ngọc Trâm, mẹ của bác sĩ - liệt sĩ Đặng Thuỳ Trâm, hiện bà đang sống tại Hà Nội.
Đồn điền cao su ở Củ Chi mọc lên từ mảnh đất thấm đẫm chất độc màu da cam.
Một nhà hoạt động phong trào trong giới sinh viên Việt Nam thời kỳ chiến tranh chống Mỹ bị bắt giữ và thẩm vấn.
Chiến tranh vốn được coi là mặt trận của nam giới nhưng đối với nhiếp
ảnh gia Marissa Roth những hậu quả dài lâu nhất, những cơn bão lòng đau
đớn, ghê ghớm nhất nằm ở phía những người phụ nữ. “Nếu bạn đã từng tới
Bosnia, Belfast hay Phnom Penh, bạn sẽ hiểu rằng phụ nữ vẫn phải chiến
đấu với những hậu quả ghê ghớm, cả về thể chất và tinh thần mà chiến
tranh để lại cho họ. Nhiều khi họ phải nén nỗi đau, giấu nó vào trong để
mà sống, để những thành viên còn lại trong gia đình có được một cuộc
sống bình thường, và quan trọng nhất họ vẫn phải vật lộn với cuộc sống
khó khăn”.Trong triển lãm này, nhiếp ảnh gia Roth khắc hoạ chân dung những người mẹ mất con, người vợ mất chồng, những người phụ nữ sống sót thần kỳ qua giai đoạn ác liệt nhất trong những cuộc chiến tranh và những nhà hoạt động xã hội tích cực.
“Ngoài những người phụ nữ, tôi còn đi đến những địa danh nổi tiếng trong thời kỳ chiến tranh như con sông ở Hiroshima hay cánh đồng chết ở Campuchia bởi tôi tin rằng đất cũng là một người phụ nữ, Đất Mẹ thu nhận vào mình tất cả và giữ nguyên vẹn những câu chuyện lịch sử đau lòng.”
Bức ảnh khắc hoạ những người phụ nữ Afghanistan và những đứa trẻ ngồi trong một trại tị nạn ở Pakistan năm 1988 là một trong nhiều tác phẩm ảnh đỉnh cao của Roth được đánh giá là một tác phẩm trang nghiêm tuyệt đẹp và đầy kịch tính. “Khi tôi bước vào trại tị nạn và nhìn thấy họ, tôi không thấy khuôn mặt họ nhưng bỗng nhiên cảm xúc trào dâng giữa những người phụ nữ, tôi tin mình đã kết nối với họ trong giây phút đó.”
Nữ nhiếp ảnh gia chuyên chụp ảnh tài liệu này cũng có một tuổi thơ dữ dội. Gia đình cô đã phải di cư và tới sống ở trại tị nạn dành cho người Do Thái, họ phải trốn chạy khỏi cuộc diệt chủng mà Phát xít Đức tiến hành trong Thế chiến II. Trong suốt 28 năm qua, Roth luôn chú tâm góp nhặt những mảnh đời từng sống qua thời bom đạn và tập trung lại để làm một cuộc triển lãm và xuất bản sách ảnh. Việc làm này khiến Roth cảm thấy cô đang góp phần tạo nên hoà bình từ chính tuổi thơ đầy ký ức chiến tranh của mình. Ông bà của Roth đã qua đời năm 1942 trong cuộc tàn sát người Do Thái này.
Bác sĩ Ilse Kleberger sinh ra ở Pottsdam, Đức. Trong Thế chiến II, bà sống ở Berlin và từng bị một binh lính cưỡng. Sau chiến tranh, bà trở thành một bác sĩ tài năng và là tác giả của 32 cuốn sách.
Beckie
Dixon, mẹ của lính thuỷ Christopher, cậu đã hy sinh trên chiến trường
Iraq tháng 8/2005. Chỉ mới vài tháng trước đó, Beckie mới tròn 18 tuổi.
Bà Sara Duvall ôm ảnh cậu con trai Aaron Reed đã hy sinh trong cuộc chiến tranh Iraq.
Magbula
Alispahic, 45 và cậu con trai Amsal Karkas, 13 tuổi trên bậc thềm của
ngôi nhà nhỏ của Tuzla thuộc thành phố tự quản ở Bosna và Hercegovina.
Họ là một trong rất nhiều những gia đình theo đạo Hồi người Bosnia phải
đi di cư và tới sống tại các khu vực nhận cứu trợ. Hai anh trai của
Magbula đã bị chết trong chiến tranh. Một người chết khi mới 16 tuổi
trong cuộc tàn sát ở Srebenica và một người hy sinh khi đi lính cho quân
đội Bosnia.
Đây
là lá thư có tiêu đề “In case of death” (Nếu như con chết) của lính
thuỷ Wesley Davids gửi tới cha mẹ của anh khi Davids tham chiến tại Iraq
năm 2005.
Bà
Setsuko Iwamoto sống sót sau cuộc ném bom nguyên tử tại Hirsoshima, bà
đang kể lại buổi sáng quả bom rơi xuống thành phố. Khi đi tới một con
sông gần đó để rửa mặt, bà mới biết là mình còn sống. May mắn khuôn mặt
không bị biến dạng. Bàn tay và lưng bà bị cháy xém.
Sáu
người phụ nữ này đều may mắn sống sót cuộc ném bom tại Hiroshima, họ
đều phải chịu đựng những nỗi đau về thể chất nhưng nỗi đau đó sẽ nguôi
ngoai theo năm tháng còn nỗi đau mất gia đình, người thân thì không.
Hơn
1 triệu rưỡi người Do Thái đã bị sát hại tại các trại tập trung
Auschwitz và Birkenau trong Thế chiến II. Bức ảnh được đặt tiêu đề là
Cuộc đời nhìn qua cửa sổ trại tập trung Auschwitz.
Người
phụ nữ tên Nuk này là một trong những nạn nhân đã có mặt làm nhân chứng
tại toà án quốc tế về tội diệt chủng ở Campuchia diễn ra ngày
17/2/2009. Cha và hai chị gái của Nuk đã chết trong cuộc diệt chủng
Pôn-pốt.
Trên
khắp đất nước Campuchia có rất nhiều những ngôi chùa xếp sọ người và
xương lại với nhau như thế này. Đã có 1,2 triệu người thiệt mạng trong
cuộc diệt chủng Pôn-pốt. Có những người bị tra tấn dã man cho tới chết,
có người chết vì đau ốm, bệnh tật, thiếu ăn và cả tự tử. Bức ảnh được
chụp tại Siem Reap, Campuchia.
Một
cánh đồng ngô mọc lên từ nấm mồ chung khổng lồ ở thủ phủ Srebrenica
thuộc khu tự quản phía đông Bosnia và Herzegovina. Nơi đây đã từng diễn
ra cuộc tàn sát đối với đàn ông và các nam thiếu niên hồi tháng 7/1995.
Bà
Serenate Berisha có 4 người con đã chết sau cuộc không kích tại Kosovo.
Bên cạnh bà là một cậu bé mồ côi tại trại tị nạn ở Albani.
Một
con diều được chụp ở Afghanistan khắc hoạ những giọt nước mắt của phụ
nữ nơi đây - những người luôn phải đối mặt với cảnh chiến chinh.
Hồ Bích Ngọc
Theo Guardian
Lòng nhân ái của người phụ nữ Việt Nam trong chiến tranh
10:28 30/04/2015
Thế giới tìm đến Việt Nam không chỉ vì những kỳ tích chiến
đấu mà chính trái tim nhân hậu của người phụ nữ Việt Nam. Qua hình ảnh
người phụ nữ tham gia chiến tranh, bạn bè thế giới tò mò, ngạc nhiên,
tìm hiểu và rồi một phụ nữ Nhật đã bất ngờ thốt lên: “Chúng tôi xin
nghiêng mình trước vẻ đẹp, nỗi đau của người phụ nữ Việt Nam!”.
Nữ du kích Võ Thị Mô và khoảnh khắc đưa tay gạt nòng súng
Ngay từ những năm Việt Nam bị cấm vận, nhiều cựu binh Mỹ đã vượt qua nhiều rào cản tìm đến Việt Nam vì sự kính trọng, nể phục người phụ nữ đã từng bám vành đai trắng Củ Chi đánh Mỹ. Thời chiến tranh, những người lính Mỹ ấy từng được một tên chiêu hồi kể về nữ du kích Võ Thị Mô. Họ rung cảm, ngưỡng mộ vì chất nhân hậu của đối thủ mà họ tìm diệt bằng đủ loại vũ khí quy mô, hiện đại, tàn khốc nhất. Họ đã hủy diệt tất cả, biến Củ Chi thành đất trắng nhưng họ không hủy diệt được lòng nhân hậu, phần nữ tính cao đẹp của những người phụ nữ Việt Nam.
Sau chiến tranh, họ tìm được chị Võ Thị Mô ở Tây Ninh. Họ hỏi chuyện xưa, chị Mô kể. Nhưng họ nói: “Còn một chuyện chị chưa kể. Đó là chuyện chị không bắn những người Mỹ khi họ đang khóc...”. Chị Mô giật mình và chị đã bật khóc. Ai cũng biết trong chiến tranh, diệt được 3 tên Mỹ sẽ được phong danh hiệu “Dũng sĩ diệt Mỹ”, 6 tên là dũng sĩ cấp 2 và 11 tên là dũng sĩ cấp ưu tú. Nữ du kích Võ Thị Mô năm ấy là dũng sĩ diệt Mỹ cấp ưu tú. Khắp Củ Chi nở rộ phong trào nở hoa dũng sĩ. Vậy mà chị Võ Thị Mô đã không bắn những người lính Mỹ đang trong tầm ngắm của chị, bởi những người lính Mỹ ấy còn rất trẻ. Họ đang chụm nhau đọc thơ gia đình, xem ảnh vợ con, người yêu. Và những người lính Mỹ ấy thay vì đi tìm những tên cộng sản dưới chiến hào đã trốn vào một góc, òa khóc nức nở. Người du kích bám theo chị, cùng tìm diệt những tên Mỹ thúc giục nhưng chị đã gạt nòng súng sang một bên. Anh ta ngạc nhiên khi nhìn thấy gương mặt người nữ du kích gan lì, nổi tiếng dũng cảm ràn rụa nước mắt. Trong cuộc họp chi bộ, chị mạnh mẽ giải thích: “Tôi không thể bắn những người lính Mỹ khi họ trở về với chất con người nhất”.
Câu chuyện ấy chị giấu biệt. Nhưng những người lính Mỹ nghe kể, từng biết về chị đã không quên. Họ tìm mọi cách để gặp mặt người nữ du kích từng bám địa đạo đánh giặc, từng bị Mỹ treo giá cái đầu hàng triệu đồng không hề biết sợ bom đạn Mỹ nhưng đã òa khóc nức nở khi con cóc chị nuôi dưới chiến hào bị giết thịt, mà trong đáy lòng chị xem như người bạn cùng chia sẻ những khoảnh khắc khốc liệt của chiến tranh.
Sau chuyến đi ấy, John Penycate và Tom Mangold đã viết quyển Hầm Củ Chi. Năm 1985, NXB Hodder và Stougton ở London và NXB Albin Michel ở Paris lần lượt ra mắt độc giả câu chuyện khó tin về cuộc chiến tranh trong lòng đất ở Việt Nam.
Quyển sách có sức tác động mãnh liệt, để rồi 2 năm sau, một đoàn làm phim người Mỹ đã đến Củ Chi làm phim về chị Võ Thị Mô cùng những người đã từng bám địa đạo chiến đấu. Biết hoàn cảnh khó khăn của chị, một người Mỹ hỏi: “Chị cần gì, nhà, xe, phương tiện sản xuất... Chúng tôi sẽ giúp đỡ chị”. Nhưng thật bất ngờ, chị nói: “Tôi không cần gì, chỉ mong sao đồng bào tôi được sống trong hòa bình, đất nước tôi không bị ai xâm lược”. Cả hội trường hoan hô. Những người Mỹ sửng sốt. Và thêm một lần, họ ngỡ ngàng trước vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam.
Đánh giặc bằng lý lẽ, hoa trái
“Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh”. Phụ nữ Việt Nam đánh giặc bằng nhiều cách, có những cách người Mỹ không bao giờ ngờ đến. Chị em có thuận lợi hơn nam giới về thế hợp pháp, được đi lại dễ dàng, dễ cải trang theo dõi địch, mang vũ khí qua đồn bót địch. Chị em giấu vũ khí dưới những gánh hoa bí rực vàng, dưới những bội đựng hoa quả, dưới những thúng gạo trắng ngần, hay những đống phân tro ra đồng bón ruộng. Những trái mìn được chị em bọc trong nhiều lớp nilông, những gói cơm nếp bao ngoài. Những yếu tố bất ngờ ấy khiến không “ra đa” nào của địch phát hiện nổi.
Thời kỳ Mỹ tiến hành cuộc chiến tranh cục bộ, đưa quân dàn hàng ngang tiến vào phía bờ sông Vàm Cỏ Đông - nơi được cho là có “Vi-xi” bám trụ không ngờ đã rơi vào thế trận lòng dân. Khắp nơi, bà con đều xây dựng xã chiến đấu, đặt trái gài mìn, hầm chông dày đặc. Chúng không ngờ rằng ẩn dưới những bụi cỏ, khóm hoa kia là những quả lựu đạn được gài bằng bàn tay của những nữ du kích.
Phong trào đấu tranh chính trị của lực lượng phụ nữ trong thời kỳ này vô cùng sáng tạo. Khi cánh xe tăng, thiết giáp đầu tiên của quân Mỹ bò như cua tiến vào cánh đồng trồng rau, hoa màu và ruộng lúa, lập tức bà con trong các thôn xóm kéo nhau ra chặn đầu các đoàn xe. Vô cùng kinh ngạc trước đoàn người chỉ toàn đàn bà, trẻ con nên lính Mỹ không bắn và dừng lại, mở nắp xe xem điều gì xảy ra…
Bà Út Mập kể: “Bà con tiến công đoàn xe tăng Mỹ bằng tình cảm. Các bà, các chị mang ra hàng thúng dừa và khóm. Thấy lính Mỹ ngó chừng khát nước, cầm cả trái khóm cạp cả vỏ ăn, các chị lấy dao gọt giúp chúng. Lính Mỹ được uống nước dừa tươi mát, được ăn trái cây ngon ngọt tỏ ra biết ơn. Những tên biết bập bẹ tiếng Việt thì nói “cảm ơn”, những tên không biết thì luôn mồm nói “Thank you very much” (cảm ơn rất nhiều). Sau khi ăn uống, chúng cho xe chạy theo đường và trên những ruộng trống”.
Cuộc đấu tranh chính trị đầu tiên của nhân dân Đức Hòa với lính Mỹ đã thu được kết quả. Đó là cơ sở thực tiễn để Tỉnh ủy Long An rút ra kinh nghiệm và chỉ đạo mũi đấu tranh chính trị trên phạm vi toàn tỉnh. Lúc đó đấu tranh chính trị với Mỹ gọi là công tác “Mỹ vận” mà lực lượng chủ yếu và có hiệu quả nhất là các bà, các chị.”
Đánh giặc bằng ong
Trước khi Mỹ tiến hành cuộc chiến tranh đặc biệt ở Việt Nam, bà con xã Long Sơn, huyện Cần Đước đã gây tiếng vang khắp tỉnh Long An vì chiến công đánh Mỹ ngụy bằng ong vò vẽ. Năm 1964, một cố vấn Mỹ đi theo một cánh quân từ hướng Cầu Sắt vào Long Sơn. Qua khỏi Cầu Sắt, cánh quân này bị ong bung ra đánh tới tấp. Số lính quân đội Sài Gòn chạy té nhào sang một bên, rơi vào vị trí chị em gài sẵn chông mìn bị thương nặng. Sau trận đánh ấy, bà con Long Sơn truyền nhau bài thơ trào phúng miêu tả ong vò vẽ đánh Mỹ như sau:
“Ong vò vẽ có công đánh Mỹ /Đốt mấy tên mặt mũi sưng vù
Lên máy bay còn khóc hu hu/Ong về tổ ung dung nhịp cánh”
Không ngờ con ong bé nhỏ ấy sau này cùng những người mẹ, người chị bên vành đai diệt Mỹ Rạch Kiến, trở thành những chiến sĩ dũng cảm.
Đầu năm 1967, trong trận càn của địch vào ấp Bà Lành, xã Long Sơn, một lính Mỹ bị ong vò vẽ đánh té xuống rạch Bà Lành chết ngộp. Sau khi địch rút đi, du kích đi thu “chiến lợi phẩm”, gặp xác một tên lính Mỹ. Ban chỉ huy quân sự tỉnh và huyện ủy họp bàn, nhất trí cho đội quân tóc dài khiêng xác lính Mỹ ra chốt Rạch Kiến, nhờ chuyển xác về gia đình. Cuộc đấu tranh này do chị Tư Nhành- chi ủy viên xã Long Định trực tiếp chỉ huy. Chị em khiêng xác tên Mỹ ra chốt Mỹ Rạch Kiến. Bà Mười Vịt ở ấp 1A xã Long Sơn kể: “Chúng cảm ơn đồng bào rối rít, hứa hẹn hai điều. Một là sẽ không bắn pháo bừa bãi vào xóm dân cư. Hai là khi hành quân đi càn, binh sĩ Mỹ sẽ không bắn vào dân”.
Cũng chính những người nuôi ong vò vẽ ấy đã đem vôi bôi lên mặt lính Mỹ khi chúng bị ong chích. Từ chuyện “con ong”, ngọn cỏ, trái khóm…, chị em đã làm tốt công tác “Mỹ vận”, để người Mỹ hiểu hơn về sự độc đáo và lòng nhân hậu của phụ nữ Việt Nam trong chiến tranh!
Ngay từ những năm Việt Nam bị cấm vận, nhiều cựu binh Mỹ đã vượt qua nhiều rào cản tìm đến Việt Nam vì sự kính trọng, nể phục người phụ nữ đã từng bám vành đai trắng Củ Chi đánh Mỹ. Thời chiến tranh, những người lính Mỹ ấy từng được một tên chiêu hồi kể về nữ du kích Võ Thị Mô. Họ rung cảm, ngưỡng mộ vì chất nhân hậu của đối thủ mà họ tìm diệt bằng đủ loại vũ khí quy mô, hiện đại, tàn khốc nhất. Họ đã hủy diệt tất cả, biến Củ Chi thành đất trắng nhưng họ không hủy diệt được lòng nhân hậu, phần nữ tính cao đẹp của những người phụ nữ Việt Nam.
Sau chiến tranh, họ tìm được chị Võ Thị Mô ở Tây Ninh. Họ hỏi chuyện xưa, chị Mô kể. Nhưng họ nói: “Còn một chuyện chị chưa kể. Đó là chuyện chị không bắn những người Mỹ khi họ đang khóc...”. Chị Mô giật mình và chị đã bật khóc. Ai cũng biết trong chiến tranh, diệt được 3 tên Mỹ sẽ được phong danh hiệu “Dũng sĩ diệt Mỹ”, 6 tên là dũng sĩ cấp 2 và 11 tên là dũng sĩ cấp ưu tú. Nữ du kích Võ Thị Mô năm ấy là dũng sĩ diệt Mỹ cấp ưu tú. Khắp Củ Chi nở rộ phong trào nở hoa dũng sĩ. Vậy mà chị Võ Thị Mô đã không bắn những người lính Mỹ đang trong tầm ngắm của chị, bởi những người lính Mỹ ấy còn rất trẻ. Họ đang chụm nhau đọc thơ gia đình, xem ảnh vợ con, người yêu. Và những người lính Mỹ ấy thay vì đi tìm những tên cộng sản dưới chiến hào đã trốn vào một góc, òa khóc nức nở. Người du kích bám theo chị, cùng tìm diệt những tên Mỹ thúc giục nhưng chị đã gạt nòng súng sang một bên. Anh ta ngạc nhiên khi nhìn thấy gương mặt người nữ du kích gan lì, nổi tiếng dũng cảm ràn rụa nước mắt. Trong cuộc họp chi bộ, chị mạnh mẽ giải thích: “Tôi không thể bắn những người lính Mỹ khi họ trở về với chất con người nhất”.
Câu chuyện ấy chị giấu biệt. Nhưng những người lính Mỹ nghe kể, từng biết về chị đã không quên. Họ tìm mọi cách để gặp mặt người nữ du kích từng bám địa đạo đánh giặc, từng bị Mỹ treo giá cái đầu hàng triệu đồng không hề biết sợ bom đạn Mỹ nhưng đã òa khóc nức nở khi con cóc chị nuôi dưới chiến hào bị giết thịt, mà trong đáy lòng chị xem như người bạn cùng chia sẻ những khoảnh khắc khốc liệt của chiến tranh.
Sau chuyến đi ấy, John Penycate và Tom Mangold đã viết quyển Hầm Củ Chi. Năm 1985, NXB Hodder và Stougton ở London và NXB Albin Michel ở Paris lần lượt ra mắt độc giả câu chuyện khó tin về cuộc chiến tranh trong lòng đất ở Việt Nam.
Quyển sách có sức tác động mãnh liệt, để rồi 2 năm sau, một đoàn làm phim người Mỹ đã đến Củ Chi làm phim về chị Võ Thị Mô cùng những người đã từng bám địa đạo chiến đấu. Biết hoàn cảnh khó khăn của chị, một người Mỹ hỏi: “Chị cần gì, nhà, xe, phương tiện sản xuất... Chúng tôi sẽ giúp đỡ chị”. Nhưng thật bất ngờ, chị nói: “Tôi không cần gì, chỉ mong sao đồng bào tôi được sống trong hòa bình, đất nước tôi không bị ai xâm lược”. Cả hội trường hoan hô. Những người Mỹ sửng sốt. Và thêm một lần, họ ngỡ ngàng trước vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam.
Nữ du kích băng bó vết thương cho một lính Mỹ. |
“Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh”. Phụ nữ Việt Nam đánh giặc bằng nhiều cách, có những cách người Mỹ không bao giờ ngờ đến. Chị em có thuận lợi hơn nam giới về thế hợp pháp, được đi lại dễ dàng, dễ cải trang theo dõi địch, mang vũ khí qua đồn bót địch. Chị em giấu vũ khí dưới những gánh hoa bí rực vàng, dưới những bội đựng hoa quả, dưới những thúng gạo trắng ngần, hay những đống phân tro ra đồng bón ruộng. Những trái mìn được chị em bọc trong nhiều lớp nilông, những gói cơm nếp bao ngoài. Những yếu tố bất ngờ ấy khiến không “ra đa” nào của địch phát hiện nổi.
Thời kỳ Mỹ tiến hành cuộc chiến tranh cục bộ, đưa quân dàn hàng ngang tiến vào phía bờ sông Vàm Cỏ Đông - nơi được cho là có “Vi-xi” bám trụ không ngờ đã rơi vào thế trận lòng dân. Khắp nơi, bà con đều xây dựng xã chiến đấu, đặt trái gài mìn, hầm chông dày đặc. Chúng không ngờ rằng ẩn dưới những bụi cỏ, khóm hoa kia là những quả lựu đạn được gài bằng bàn tay của những nữ du kích.
Phong trào đấu tranh chính trị của lực lượng phụ nữ trong thời kỳ này vô cùng sáng tạo. Khi cánh xe tăng, thiết giáp đầu tiên của quân Mỹ bò như cua tiến vào cánh đồng trồng rau, hoa màu và ruộng lúa, lập tức bà con trong các thôn xóm kéo nhau ra chặn đầu các đoàn xe. Vô cùng kinh ngạc trước đoàn người chỉ toàn đàn bà, trẻ con nên lính Mỹ không bắn và dừng lại, mở nắp xe xem điều gì xảy ra…
Bà Út Mập kể: “Bà con tiến công đoàn xe tăng Mỹ bằng tình cảm. Các bà, các chị mang ra hàng thúng dừa và khóm. Thấy lính Mỹ ngó chừng khát nước, cầm cả trái khóm cạp cả vỏ ăn, các chị lấy dao gọt giúp chúng. Lính Mỹ được uống nước dừa tươi mát, được ăn trái cây ngon ngọt tỏ ra biết ơn. Những tên biết bập bẹ tiếng Việt thì nói “cảm ơn”, những tên không biết thì luôn mồm nói “Thank you very much” (cảm ơn rất nhiều). Sau khi ăn uống, chúng cho xe chạy theo đường và trên những ruộng trống”.
Cuộc đấu tranh chính trị đầu tiên của nhân dân Đức Hòa với lính Mỹ đã thu được kết quả. Đó là cơ sở thực tiễn để Tỉnh ủy Long An rút ra kinh nghiệm và chỉ đạo mũi đấu tranh chính trị trên phạm vi toàn tỉnh. Lúc đó đấu tranh chính trị với Mỹ gọi là công tác “Mỹ vận” mà lực lượng chủ yếu và có hiệu quả nhất là các bà, các chị.”
"Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh". |
Trước khi Mỹ tiến hành cuộc chiến tranh đặc biệt ở Việt Nam, bà con xã Long Sơn, huyện Cần Đước đã gây tiếng vang khắp tỉnh Long An vì chiến công đánh Mỹ ngụy bằng ong vò vẽ. Năm 1964, một cố vấn Mỹ đi theo một cánh quân từ hướng Cầu Sắt vào Long Sơn. Qua khỏi Cầu Sắt, cánh quân này bị ong bung ra đánh tới tấp. Số lính quân đội Sài Gòn chạy té nhào sang một bên, rơi vào vị trí chị em gài sẵn chông mìn bị thương nặng. Sau trận đánh ấy, bà con Long Sơn truyền nhau bài thơ trào phúng miêu tả ong vò vẽ đánh Mỹ như sau:
“Ong vò vẽ có công đánh Mỹ /Đốt mấy tên mặt mũi sưng vù
Lên máy bay còn khóc hu hu/Ong về tổ ung dung nhịp cánh”
Không ngờ con ong bé nhỏ ấy sau này cùng những người mẹ, người chị bên vành đai diệt Mỹ Rạch Kiến, trở thành những chiến sĩ dũng cảm.
Đầu năm 1967, trong trận càn của địch vào ấp Bà Lành, xã Long Sơn, một lính Mỹ bị ong vò vẽ đánh té xuống rạch Bà Lành chết ngộp. Sau khi địch rút đi, du kích đi thu “chiến lợi phẩm”, gặp xác một tên lính Mỹ. Ban chỉ huy quân sự tỉnh và huyện ủy họp bàn, nhất trí cho đội quân tóc dài khiêng xác lính Mỹ ra chốt Rạch Kiến, nhờ chuyển xác về gia đình. Cuộc đấu tranh này do chị Tư Nhành- chi ủy viên xã Long Định trực tiếp chỉ huy. Chị em khiêng xác tên Mỹ ra chốt Mỹ Rạch Kiến. Bà Mười Vịt ở ấp 1A xã Long Sơn kể: “Chúng cảm ơn đồng bào rối rít, hứa hẹn hai điều. Một là sẽ không bắn pháo bừa bãi vào xóm dân cư. Hai là khi hành quân đi càn, binh sĩ Mỹ sẽ không bắn vào dân”.
Cũng chính những người nuôi ong vò vẽ ấy đã đem vôi bôi lên mặt lính Mỹ khi chúng bị ong chích. Từ chuyện “con ong”, ngọn cỏ, trái khóm…, chị em đã làm tốt công tác “Mỹ vận”, để người Mỹ hiểu hơn về sự độc đáo và lòng nhân hậu của phụ nữ Việt Nam trong chiến tranh!
Trầm Hương
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét