Thứ Sáu, 28 tháng 4, 2017

BÍ ẨN LỊCH SỬ 62

 (ĐC sưu tầm trên NET)

                         Chiếc xe tăng suýt đẩy Trung Quốc - Liên Xô vào chiến tranh hạt nhân

 

                                             Liên Xô đã lấy bí mật hạt nhân từ Mỹ thế nào?

Làm thế nào Liên Xô có được bí mật bom nguyên tử? - Kỳ 1

Ngày 29/8/1949, Liên Xô thử nghiệm thành công quả bom nguyên tử đầu tiên. Mátxcơva hân hoan trong niềm phấn kích. Ở phía bên kia đại dương, người Mỹ như gặp phải cơn địa chấn bởi từ nay họ đã không còn độc quyền thứ vũ khí nguy hiểm, được coi như một cứu cánh cho địa vị bá chủ toàn cầu nữa. Tại sao Liên Xô lại có những bước tiến nhanh đến vậy trên con đường làm chủ công nghệ hạt nhân nguyên tử? Câu trả lời không đơn giản chỉ đến từ những nỗ lực nghiên cứu của các nhà khoa học Liên Xô.

Kỳ 1: Những "vật hy sinh" của chủ nghĩa McCarthy

Chiến tranh Thế giới lần thứ 2 kết thúc, quan hệ giữa Liên Xô và Mỹ ngày một căng thẳng. Những sự kiện xảy ra sau đó như Liên Xô đạt được bước đột phá trong việc nghiên cứu chế tạo bom nguyên tử, chiến tranh Triều Tiên bùng nổ càng làm cho chủ nghĩa McCarthy, thứ chủ nghĩa sặc mùi chống cộng, do nghị sĩ McCarthy bảo trợ, có đất hoành hoành ở Mỹ. Mượn gió bẻ măng, Cục điều tra liên bang Mỹ (FBI) tung nhân viên đặc vụ đi thám thính khắp nơi, lập hồ sơ liệt không ít học giả, nhà nghiên cứu Mỹ vào danh sách những phần tử thân cộng, gián điệp quốc tế nguy hiểm, tạo bầu không khí chống cộng trong cả nước.
Vợ chồng Rosenberg.
Là một người ủng hộ chủ nghĩa McCarthy, Giám đốc FBI Edgar Hoover đã phải lao tâm khổ tứ, dành không ít công sức "phá" vụ án gián điệp bom nguyên tử chấn động thế giới. Bởi nó không chỉ giúp Hoover báo công lĩnh thưởng, mà còn trợ giúp cho công tác tuyên truyền chính trị chống Liên Xô, tạo dư luận cho việc bắt giữ những nhân sĩ tiến bộ và tấn công vào cái gọi là "thế lực cộng sản chủ nghĩa". Dưới sự hậu thuẫn của Hoover, vụ án gián điệp bom nguyên tử đã nhanh chóng có được những manh mối đầu tiên. Sau quá trình điều tra, nghiên cứu tài liệu mật, thủ hạ của Hoover đã tìm ra cặp "gián điệp bom nguyên tử". Đó là vợ chồng nhà vật lý Rosenberg: Ethel Rosenberg và Julius Rosenberg.

Thì ra, ngay từ đầu những năm 1930, cái tên Rosenberg đã nằm trong hồ sơ của FBI. Khi học đại học nhà vật lý tương lai này đã có sự liên hệ với một tổ chức sinh viên cấp tiến và sau khi đi làm lại bị người khác tố cáo là "đảng viên cộng sản". FBI cũng làm luôn một cuộc điều tra đối với vợ của Rosenberg, bà Ethel. Vấn đề còn nghiêm trọng hơn: Ethel đã ký tên mình vào thư kêu gọi yêu cầu được tham gia tranh cử của Đảng Cộng sản Mỹ. Nhưng những "chứng cứ" khiến hai vợ chồng Rosenberg phải ngồi lên chiếc ghế điện ngày 19/6/1953 cay nghiệt thay lại từ miệng cậu em quý tử của bà Ethel, David Greenglass, người từng có thời gian làm ở một cơ quan liên quan đến việc nghiên cứu chế tạo bom nguyên tử, nhưng do bị tình nghi đến một vụ ăn cắp nên bị sa thải.

Không chịu nổi những đòn hăm dọa, uy hiếp và dụ dỗ của các nhân viên đặc vụ, Greenglass đã ngụy tạo việc được anh rể chỉ đạo đánh cắp bản vẽ thiết kế và những tài liệu liên quan đến việc nghiên cứu chế tạo bom nguyên tử của Mỹ. Ngày 6/3/1951, tại phiên tòa xét xử cặp "gián điệp bom nguyên tử" Ethel Rosenberg và Julius Rosenberg, Greenglass đã khai "tất cả" hay nói một cách chính xác hơn là viết ra một câu chuyện trinh thám ly kỳ. Theo Greenglass, tháng 1/1945, Rosenberg đã yêu cầu hắn tìm cho bản vẽ bí mật về bom nguyên tử và lên kế hoạch liên lạc với nhà hóa học Gore ở khách sạn Hilton tại bang New Mexico.

Ngày 3/6, Greenglass tới gặp và trao cho Gore bản vẽ thiết kế một số thiết bị nổ của bom nguyên tử cùng bản thuyết minh kèm theo, tổng cộng 12 trang đánh máy. Gore là một kẻ mắc bệnh biến thái tâm lý nặng, thường xuyên hoang tưởng mình là một người nổi tiếng, là nhân vật có thể làm chấn động cả thế giới. Trước tòa, Gore như một cái máy khẳng định đã giao tất cả những gì nhận được từ Greenglass cho Rosenberg. Làm như có thật, các nhân viên đặc vụ FBI đã đưa ra cho mọi người tham dự bản đăng ký ở khách sạn Hilton vào ngày 3/6 mang tên Gore (sau này có người tiến hành điều tra và nghiệm chứng phát hiện bản đăng ký FBI trình trước tòa là giả mạo).Vợ chồng Rosenberg kịch liệt phản đối, trước sau không thừa nhận sự vu cáo trắng trợn đó. Luật sư bào chữa cho họ cũng đã chỉ ra rằng, lời khai của Greenglass và Gore tự nó đã mâu thuẫn với nhau, đồng thời bộc lộ nhiều sơ hở.

Vụ án "gián điệp bom nguyên tử" "vỡ lở" đã gây ra cơn chấn động ở nước Mỹ. Nhân sĩ cả nước, nhất là những người thuộc giới khoa học kỹ thuật, từng tham gia Dự án Manhattan nghiên cứu chế tạo bom nguyên tử của Mỹ đã rầm rộ lên tiếng, vạch trần âm mưu bức hại các nhà trí thức của những tên cổ súy chủ nghĩa McCarthy. Bởi trên thực tế, Dự án Manhattan bắt đầu từ năm 1942, do nhà vật lý nổi tiếng Oppenheimer chủ trì toàn bộ quá trình nghiên cứu khoa học. Công trình này tiêu tốn 2 tỷ USD, thu hút sự tham gia trực tiếp, gián tiếp của một đội ngũ kĩ sư khổng lồ lên tới khoảng 500.000 người và được tiến hành hết sức bí mật. Ngoài Tổng thống Roosevelt, Oppenheimer và một số cực ít nhân vật cấp cao trong chính quyền Mỹ được biết, những người bình thường không biết nhiệm vụ đang làm có tính chất thế nào. Bên cạnh đó, theo George, một người từng giữ vai trò phụ trách một hạng mục trong Dự án Manhattan, Greenglass chỉ là một kĩ sư bình thường làm việc trong một phân xưởng dưới quyền chủ quản của ông, nên những bản vẽ thiết kế mà hắn nói đã trao cho Gore đối với người Liên Xô chỉ có giá trị bằng không.

Do phải chịu áp lực mạnh mẽ từ công chúng, nên vụ xử vợ chồng Rosenberg bị gián đoạn nhiều lần và phải kéo dài. Ngày 5/4/1951, chánh án Irving Kaufman tuyên bố vợ chồng Rosenberg phạm tội phản quốc, chịu mức án tử mình. Nhân sĩ tiến bộ trong ngoài nước rầm rộ phản đối phán quyết của tòa án. Tác giả Thuyết tương đối Einstein đã viết thư gửi Tổng thống Truman yêu cầu thả vợ chồng Rosenberg bởi họ vô tội. Mặc dù những luật sư nổi tiếng bào chữa cho vợ chồng Rosenberg 6 lần gửi đơn kháng cáo lên tòa án cấp cao hơn, nhưng đều bị bác. Ngày 19/6/1953, vợ chồng Rosenberg ra đi tức tưởi trên ghế điện. Lời nói cuối cùng của họ vẫn là "Chúng tôi vô tội".


Minh Thành (Tổng hợp)

Làm thế nào Liên Xô có được bí mật bom nguyên tử? - Kỳ 2

Kỳ 2: “Cha đẻ của bom nguyên tử” cũng bị hàm oan 

Sau khi trúng cử Tổng thống Mỹ, Dwight D. Eisenhower không những không ngăn chặn, mà còn tạo điều kiện cho chủ nghĩa McCarthy phát triển, làm trào lưu chống Cộng ở Mỹ ngày một lan tràn. Đầu năm 1954, Eisenhower tuyên bố có 2.200 “phần tử nguy hiểm” sẽ bị chính phủ loại ra khỏi các cơ quan của mình. Từ khi vợ chồng Rosenberg bị bức hại, FBI vẫn chưa chịu kết thúc vụ án gián điệp bom nguyên tử, thậm chí còn chĩa mũi nhọn sang “cha đẻ của bom nguyên tử” - nhà vật lý lừng danh Robert Oppenheimer, người giữ trọng trách tổng công trình sư trong Dự án Manhattan, đồng thời là Chủ tịch tiểu ban tổng tư vấn thuộc ủy ban năng lượng nguyên tử Mỹ. Lý do Oppenheimer nằm trong danh sách đen những kẻ tình nghi tiết lộ bí mật bom nguyên tử cũng rất đơn giản: đầu những năm 1930, nhà vật lý này đã có sự qua lại với một số đảng viên cộng sản. Lập tức, Tổng thống Eisenhower ra lệnh phải có biện pháp cách ly đối với Oppenheimer, không cho phép nhà khoa học này tiếp xúc với bất kỳ tài liệu cơ mật nào.

Openheimer cha đẻ của bom nguyên tử

Năm 1954, một ủy ban đặc biệt đã tố cáo Oppenheimer có liên quan đến vụ án “gián điệp bom nguyên tử”. Chứng cứ mà họ đưa ra vẫn chỉ là những gì FBI có: Oppenheimer đã qua lại với một số đảng viên cộng sản và không có hào hứng với việc nghiên cứu chế tạo loại vũ khí mới (bom khinh khí). Mặc dù Oppenheimer đã nhiều lần khẳng định mình không có bất kỳ sự liên quan nào tới các hoạt động của Đảng Cộng sản, nhưng Chính phủ Mỹ vẫn tước bỏ mọi chức vụ của Oppenheimer trong ủy ban năng lượng nguyên tử và ở các cơ quan khác. Không những vậy, các nhân viên FBI còn thường xuyên tiến hành theo dõi, giám sát nhất cử nhất động của Oppenheimer. Sự bất hạnh nhằm vào “cha đẻ của bom nguyên tử” đã khiến rất nhiều nhà khoa học của các nước khác đang làm ở Mỹ cảm thấy bản thân bị mất tự do và không được đảm bảo về an ninh, tìm mọi cách chia tay với “miền đất hứa”.

Đám mây hình nấm gây ra bởi vụ Mỹ ném bom nguyên tử xuống Nagasaki

Cuối cùng, ai đã tiết lộ bí mật bom nguyên tử cho phía Liên Xô? Hơn nửa thế kỷ trôi qua đã có rất nhiều nhà nghiên cứu cất công tìm câu trả lời, nhưng người ta vẫn không tìm được một lời giải thích đầy đủ, cảm thấy thỏa mãn. Hiện nay, đa số cho rằng người tiết lộ bí mật bom nguyên tử là nhà khoa học năng lượng nguyên tử Klaus Fuchs. Sau khi Adolf Hitler lên nắm quyền ở Đức năm 1933, cũng như nhiều nhà khoa học khác, Fuchs chạy sang Anh. Tiếp đó, cùng với một số nhà khoa học Anh, Fuchs được cử sang Mỹ cùng chung tay góp sức với đồng minh thực thi Dự án Manhattan. Bản thân Fuchs cũng tham gia vào nhiều lần thử nghiệm thiết bị nổ bom nguyên tử. Sau Chiến tranh Thế giới lần thứ hai, Fuchs trở lại Anh, chủ trì công tác nghiên cứu vật lý hạt nhân ở trung tâm nghiên cứu Hartwell. Tháng 8/1949, Canađa phá một mạng lưới gián điệp khoa học kỹ thuật do KGB tổ chức liên quan đến vấn đề bom nguyên tử và Fuchs. Dựa trên những chứng cứ thu thập được, tháng 2/1950, cơ quan an ninh Anh ra lệnh bắt Fuchs. Bị cáo buộc là đã tiết lộ những thông số quan trọng về bản thiết kế bom nguyên tử cho người Liên Xô, Fuchs nhận bản án 14 năm tù.

Bên cạnh những vụ án liên quan đến việc tiết lộ bí mật bom nguyên tử của Mỹ đã được đưa ra xét xử, hiện nay vẫn còn tồn tại nhiều câu chuyện li kỳ giải thích tại sao người Liên Xô lại chế tạo được thứ vũ khí giết người hàng loạt này nhanh đến vậy. Nghe nói, ngày 24/7/1945, trung tướng lục quân Grover, người phụ trách Dự án Manhattan đã kiến nghị lên đại tướng Marshall việc ném bom nguyên tử xuống 4 thành phố của Nhật Bản, nhưng cuối cùng chỉ có 3 mục tiêu được chọn là Hiroshima, Kokura, và Nagasaki. Sau khi ném quả bom nguyên tử đầu tiên xuống Hiroshima ngày 6/8/1945, sáng sớm ngày 9/9/1945, hai chiếc máy bay ném bom B-29 mang theo 2 quả bom nguyên tử cất cánh từ căn cứ Tinian ở tây Thái Bình Dương bay tới vùng trời Nhật Bản làm nhiệm vụ. Do mây mù che kín, không nhìn thấy mục tiêu Kokura, nên tổ lái bay đến mục tiêu thứ 2 là Nagasaki, ném xuống đó 2 quả bom nguyên tử: 1 quả nổ lệch mục tiêu khoảng 2 km, quả khác đánh trúng mục tiêu nhưng không nổ.

Bị tổn thất nặng nề, nhưng Nhật Bản lại tình cờ “bắt được” bom nguyên tử. Một cuộc họp khẩn cấp được triệu tập, những quan chức chóp bu của Nhật Bản khi đó cho rằng họ đã hoàn toàn thất bại trong chiến tranh, không còn khả năng chế tạo bom nguyên tử, quyết định giao quả bom nguyên tử chưa nổ này cho Liên Xô. Tướng Ivan, người phụ trách KGB khi đó đã được lệnh tới Nhật Bản tiếp nhận thứ quà tặng đặc biệt này. Nhờ vậy, Liên Xô đã đẩy nhanh tốc độ nghiên cứu chế tạo bom nguyên tử. Chỉ 4 năm sau khi Mỹ ném bom nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasaki, Liên Xô đã cho ra đời quả bom nguyên tử đầu tiên.


Minh Thành (Tổng hợp)

Làm thế nào Liên Xô có được bí mật bom nguyên tử? - Kỳ cuối

Kỳ cuối: Con đường làm chủ công nghệ hạt nhân nguyên tử của Liên Xô

Sau khi Mỹ ném bom nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasaki (Nhật Bản), nhiều nhà khoa học tham gia Dự án Manhattan luôn cảm thấy dằn vặt lương tâm bởi họ không thể nghĩ rằng thứ vũ khí những tưởng sẽ giúp kết thúc chiến tranh lại mở ra chương bi thảm nhất trong lịch sử loài người. Do đó, việc họ muốn cung cấp cho Liên Xô những tin tức liên quan đến việc nghiên cứu chế tạo bom nguyên tử để tạo thế cân bằng, không cho Mỹ giữ thế độc quyền thứ vữ khí khủng khiếp ấy tác oai tác quái cũng là điều dễ hiểu. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa người Liên Xô hoàn toàn phụ thuộc vào sự trợ giúp từ bên ngoài. Dưới đây xin giới thiệu một số con đường chủ yếu làm chủ công nghệ hạt nhân nguyên tử của Liên Xô:

1. Những nỗ lực tự thân

Vào giữa những năm 1930, Liên Xô đã có trong tay một nhóm các nhà thực nghiệm trẻ tuổi rất thành thạo trong lĩnh vực nghiên cứu hạt nhân do Igor V. Kurchatov (ảnh) đứng đầu. Họ công tác ở Viện Vật lý Kỹ thuật Leningrad. Không những vậy, Liên Xô còn có nhiều nhà lý thuyết hạt nhân tầm cỡ thế giới. Iulii B. Khariton và Iakov B. Zel'dovich (người đã cùng với Andrei Sakharov chỉ huy chương trình bom khinh khí của Xô Viết sau chiến tranh) đã thực hiện và xuất bản những nghiên cứu mang tính tiên phong về phản ứng phân hạch dây chuyền của urani tự nhiên. Năm 1941, Khariton và Zel'dovich đã tính toán được một cách chính xác khối lượng tới hạn của urani 235. Các nhà vật lý Xô Viết cũng khiến chính phủ quan tâm đến tiềm năng quân sự của hiện tượng phân hạch. Nhưng khi đó, Liên Xô phải tập trung chống lại sự xâm lược của Đức Quốc xã, nên không thể dành những nguồn lực mạnh nhất của mình cho một mục tiêu vẫn còn chưa chắc chắn như bom hạt nhân. Sau khi có được những tin tức tình báo chính xác về việc người Mỹ bí mật nghiên cứu chế tạo bom nguyên tử, Joseph Stalin đã nhanh chóng thực hiện chính sách thúc đẩy chương trình chế tạo vũ khí hạt nhân ở Liên Xô. Stalin cũng đã bổ nhiệm Lavrentiy P. Beria, một cảnh sát mật khét tiếng làm nhiệm vụ theo dõi chương trình này.

Igor V. Kurchatov

2. Tìm kiếm tin tức liên quan thông qua mạng lưới điệp viên

Vào thời kỳ Chiến tranh thế giới lần thứ 2 và sau khi quan hệ giữa Mátxcơva và Oasinhtơn trở nên căng thẳng, Liên Xô đã triển khai không chỉ một lưới tình báo ở Mỹ. Ngoài việc thu thập tin tức trên các lĩnh vực chính trị, quốc phòng, an ninh của Mỹ, nhiều nhân viên KGB cài cắm trên đất Mỹ còn có nhiệm vụ đánh cắp những thông tin liên quan đến Dự án Manhattan.

Trong cuốn "Cơ quan tình báo và Điện Cremli", trung tướng Pavel Sudoplatov, ông trùm tình báo Liên Xô lúc bấy giờ khẳng định, điệp viên Margarita Konenkova (mật danh Lukas) đã lấy được từ Albert Einstein (tác giả Thuyết tương đối, người đưa ra nguyên lý chế tạo bom nguyên tử) không ít tài liệu liên quan đến công nghệ mũi nhọn của Mỹ như chế tạo tên lửa đạn đạo và bom nguyên tử. Bởi tuy Einstein không trực tiếp tham gia Dự án Manhattan, nhưng ông lại có quan hệ mật thiết với cả hai nhà khoa học chỉ đạo việc nghiên cứu chế tạo bom nguyên tử của Đức (Werner Heisenberg) và của Mỹ (Robert Oppenhimer) cũng như nhiều nhà khoa học tham gia Dự án Manhattan.

Ở trường hợp khác, cuối năm 2007, Tổng thống Nga khi đó là V. Putin đã truy tặng nhà tình báo Liên Xô George Koval (ảnh), tức Delmar danh hiệu Anh hùng vì những đóng góp cho việc chế tạo bom nguyên tử. Tại buổi lễ, Tổng thống Putin đã ca ngợi Koval là nhà tình báo Xô viết duy nhất thâm nhập được vào các nhà máy bí mật của Dự án Manhattan. Đây không phải là những lời đánh giá hoa mĩ bởi những gì Koval cống hiến còn hơn thế.

George Koval

Được tuyển mộ ngay sau khi tốt nghiệp, lại được cơ quan tình báo quân sự Liên Xô (GRU) huấn luyện nghiệp vụ và đánh sang Mỹ làm nhiệm vụ tình báo khoa học, bằng thực tài, Koval đã nhanh chóng có mặt trong danh sách những nhà khoa học tham gia Dự án Manhattan. Do được giao nhiệm vụ kiểm tra mức độ phóng xạ an toàn hạt nhân đối với công nhân, nên Koval có điều kiện đi lại hầu hết các nhà máy sản xuất các chi tiết, linh kiện của bom hạt nhân, đặc biệt là các thanh nhiên liệu hạt nhân. Những báo cáo tình báo của Koval đã giúp Liên Xô rút ngắn đáng kể thời gian chế tạo quả bom nguyên tử đầu tiên của mình bởi trong công nghệ chế tạo bom nguyên tử, các bí mật về chế tạo còn quan trọng hơn cả những bí mật về thiết kế bom.


Minh Thành (Tổng hợp)

Tranh giành 1 xe tăng, Nga -Trung suýt gây thế chiến 3



Trung Quốc và Liên Xô (cũ) đã từng ở bờ vực của một cuộc chiến tranh sau sự kiện tranh giành chiếc xe tăng T-62 ở biên giới. (Ảnh minh họa)
Trong những ấn phẩm của mình, cả National Interest và War History đều nhắc lại sự kiện quân đội Trung Quốc và Liên Xô tranh giành nhau xác một chiếc xe tăng T-62 tạo nên căng thẳng trong một thời gian dài.
Vụ việc này đã khiến xung đột giữa hai cường quốc quân sự này dâng cao tới mức có thể châm ngòi cho một cuộc chiến tranh hạt nhân.
Cụ thể, ở thời điểm năm 1964, căng thẳng trong tranh chấp biên giới giữa Trung Quốc và Liên Xô gia tăng và lực lượng quân sự hai nước bắt đầu được tăng cường ở khu vực giáp ranh.
Bản đồ khu vực xảy ra tranh chấp giữa Nga và Trung Quốc.
Mâu thuẫn giữa hai nước bắt đầu tăng cao khi Trung Quốc cáo buộc rằng lính Liên Xô đã tấn công dân thường của họ ở khu vực biên giới. Trong khi đó, Liên Xô nói rằng chính các binh lính Trung Quốc mới là những kẻ có hành vi khiêu khích.
Để giải quyết vấn đề, biên phòng Liên Xô được lệnh dùng gậy xua đuổi dân Trung Quốc vượt qua biên giới. Ngay lập tức, Trung Quốc đã có động thái đáp trả bằng sử dụng gậy dài hơn, khiến tranh chấp hai bên trở thành một cuộc đấu gậy.Thậm chí, hai bên còn cử võ sĩ và đô vật ra biên giới để thi tài, dằn mặt lẫn nhau.
Ngày 2/3/1969, Trung Quốc phát động tấn công vào các đồn biên phòng của Liên Xô trên đảo Zhenbao nằm giữa sông biên giới Ussuri, khiến 59 người thiệt mạng và 94 người khác bị thương. Lý do mà Trung Quốc đưa ra là nhằm trả thù cho những dân thường đã thiệt mạng trước đó.
Binh sĩ Liên Xô được trang bị gậy để xua đuổi dân Trung Quốc.
Ngày 15/3, Liên Xô điều 4 xe tăng chủ lực T-62, loại vũ khí vẫn được nước này giữ bí mật ra mặt trận với mục tiêu chiếm lại đảo Zhenbao. Tuy nhiên khi vượt qua khúc sông hẹp bị đóng băng, một chiếc xe tăng của Liên Xô đã vướng mìn, đứt xích và đứng lại. Ba chiếc tăng còn lại vội vã rút về phía Liên Xô.
Phát hiện vụ việc trên, bính sĩ Trung Quốc đã ném lựu đạn vào trong xe, khiến tổ của lái Liên Xô thiệt mạng. Đồng thời, phía Trung Quốc còn muốn kéo chiếc xe tăng tối tân này về phòng tuyến của mình. Tuy nhiên, âm mưu này đã vấp phải hỏa lực bắn tỉa mạnh mẽ của Liên Xô.
Sau một vài động thái qua lại, Liên Xô được Trung Quốc cho phép đến nơi giao tranh trước đó để mang xác đồng đội về.Tuy nhiên, khi lính Liên Xô cố gắng cứu kéo chiếc xe tăng, quân Trung Quốc đã nổ súng buộc họ phải rút lui.
Ngày 21/3, Liên Xô điều đội công binh đến để phá hủy chiếc xe tăng, ngăn nó rơi vào tay Trung Quốc nhưng họ tiếp tục bị đẩy lùi. Lực lượng hải quân Trung Quốc đến địa điểm chiếc xe tăng bị nạn vào ngày 28/3 để mang chiếc T-62 về nhưng cũng bị Liên Xô nã pháo và buộc phải rút lui.
Quân Trung Quốc bắt đầu thay đổi chiến thuật, điều lính bắn tỉa cảnh giới đồng thời ra lệnh cho công binh ẩn nấp sau chiếc T-62 bắt đầu tháo dỡ từng bộ phận của chiếc xe tăng này.
Đến ngày 2/4, khi khối băng trên mặt sông bắt đầu tan chảy, Liên Xô mới phát hiện vụ việc và liên tục bắn vào khối băng xung quanh xe tăng cho đến khi nó bị chìm xuống sông mới rút quân.
Tuy nhiên hải quân Trung Quốc vẫn không bỏ cuộc và tìm mọi cách trục vớt chiếc xe tăng bằng các thiết bị thô sơ, khiến nhiều binh sĩ thiệt mạng do hạ thân nhiệt. Đến ngày 29/4, họ lấy được các bộ phận còn lại của chiếc T-62 và chuyển tới nhà máy chế tạo xe tăng ở Lyshuen.
Lính Trung Quốc đã chiếm được chiếc xe tăng T-62 của Liên Xô.
Tuy nhiên, Liên Xô vẫn chưa từ bỏ chiếc xe này. Giữa tháng 5, một người Trung Quốc bị bắt gần nhà máy ở Lyshuen với chiếc túi chứa đầy thuốc nổ. Người này thừa nhận làm việc cho Liên Xô với ý định phá hủy nhà máy cùng chiếc xe tăng T-62.
Naitonal Interest dẫn lời chuyên gia quân sự Robert Farley cho rằng sự cố trên đảo Zhenbao năm 1969 đã đẩy Liên Xô và Trung Quốc đến bờ vực chiến tranh bằng vũ khí hạt nhân.
Ở thời điểm đó, Trung Quốc đã đạt những tiến bộ không hề nhỏ về phát triển vũ khí hạt nhân. Tuy nhiên, năng lực vũ khí hạt nhân của Bắc Kinh khi đó chưa đủ sức đánh bại hoàn toàn Liên Xô với một hệ thống phòng không tối tân.
Một chiếc xe tăng T-62 được lưu giữ ở Ukraine.
Ngược lại, Liên Xô dù đã đạt khả năng hạt nhân tương đương với Mỹ, sở hữu kho vũ khí hạt nhân chiến thuật và chiến lược mạnh có thể xóa sổ khả năng răn đe hạt nhân của Trung Quốc nhưng lại không khai chiến do sợ phải trả giá đắt.
Kết lại vụ việc trên, tờ National cho rằng sau vụ việc giành giật chiếc xe tăng T-62trên đảo Zhenbao, chiếc xe tăng bị đánh cắp không thể giúp cán cân sức mạnh nghiêng về phía Trung Quốc.
Tuy nhiên, vụ việc này đã giúp lãnh đạo Bắc Kinh nhận ra việc không thể đối đầu với phương Tây và Liên Xô cùng lúc. Điều đó thúc đẩy Bắc Kinh cải thiện quan hệ với Washington sau đó.
Năm 1991, đảo Zhenbao được trao trả cho Trung Quốc. Tới tận năm 2003, Nga và Trung Quốc mới hoàn thành việc phân định biên giới.

Chiến tranh hạt nhân suýt bùng nổ năm 1983

Chỉ vì hiểu lầm một cuộc tập trận rầm rộ của khối NATO năm 1983 mà Liên Xô đã chuẩn bị tấn công phủ đầu bằng vũ khí hạt nhân.

Chiến tranh hạt nhân suýt bùng nổ năm 1983 - ảnh 1 Tên lửa SS-20 của Liên Xô tại Đông Đức đã trong tình trạng sẵn sàng chiến đấu năm 1983 - Ảnh: Bild
NATO đang tiến hành cuộc tập trận mang tên Steadfast Jazz ở Ba Lan và Latvia từ ngày 2 - 9.11 với sự tham gia của hơn 7.000 binh sĩ cùng hàng loạt xe thiết giáp, chiến đấu cơ và tàu chiến. Theo AFP, NATO tuyên bố mục đích tập trận là đảm bảo khả năng phối hợp triển khai lực lượng ở mọi mặt trận.
Tuy nhiên, giới quan sát đánh giá việc Steadfast Jazz diễn ra ở gần Nga cho thấy NATO muốn “dằn mặt” chiến lược tăng cường vũ trang hiện nay của Moscow.
Vì thế, tuy Nga đã gửi quan sát viên đến theo dõi cuộc tập trận theo lời mời của NATO, nhưng Bộ Quốc phòng nước này cảnh báo cuộc tập trận “gợi nhớ đến Chiến tranh lạnh” và có thể đẩy quan hệ 2 phía vào vòng căng thẳng mới.
Cảnh báo trên không hẳn là “nói chơi”, bởi đúng 30 năm trước, một cuộc tập trận của NATO đã đẩy thế giới đến bờ vực một cuộc chiến tranh hạt nhân hủy diệt. Theo các tài liệu vừa được giải mật tại Anh và Mỹ, cuộc tập trận Able Archer 83 từ ngày 2 đến 11.11.1983 thật đến mức khiến người Liên Xô tin rằng họ sắp hứng chịu tấn công hạt nhân.

Diễn tập như thật

Theo tài liệu do sử gia Nate Jones thuộc ĐH George Washington (Mỹ) thu thập và đăng trên tạp chí Foreign Policy, Able Archer 83 quy tụ 40.000 binh sĩ xoay quanh kịch bản Quân Xanh (NATO) đối đầu với Quân Cam (Khối Warsaw).
Kịch bản dựng nên tình huống bất ổn ở Đông và Trung Âu dẫn đến khủng hoảng chính trị tại Nam Tư, buộc nước này phải cầu cứu phương Tây. Lập tức, Quân Cam tràn vào Nam Tư rồi tiến hành xâm lược Na Uy, Hy Lạp và có thể vươn tới tận Tây Đức. Quân Xanh nhanh chóng đáp trả bằng không quân cùng bộ binh rồi cuộc chiến leo thang với vũ khí hóa học lẫn vũ khí hạt nhân.
Theo các hồ sơ, Able Archer 83 diễn ra rầm rộ với một loạt căn cứ không quân của Anh, bao gồm Greenham Comnmon, Brize Norton và Mildenhall được sử dụng. Xe tăng, chiến đấu cơ và bộ binh mang mặt nạ phòng độc xuất hiện liên tục tại các khu vực gần biên giới các nước Đông Âu.
Chưa hết, NATO “diễn xuất như thật” khi báo động hạt nhân được nâng lên mức nghiêm trọng nhất, những lãnh đạo cao cấp như Thủ tướng Anh Margaret Thatcher và Thủ tướng Tây Đức Helmut Kohl đều tham gia diễn tập trú ẩn, chỉ huy.
Bên cạnh đó, Anh và Mỹ liên tục gửi liên lạc mã hóa cho nhau về tình hình chiến sự.
Đáng chú ý, năm 1983 được đánh giá là đỉnh điểm căng thẳng của Chiến tranh lạnh, xuất phát từ chính sách chống Liên Xô quyết liệt của Tổng thống Mỹ Ronald Reagan và thái độ cứng rắn của Tổng bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô Yuri Andropov.
Ngày 1.9.1983, một máy bay của hãng Korean Airlines đi từ New York đến Seoul bị bắn hạ gần bán đảo Sakhalin, làm toàn bộ 269 người trên khoang, gồm cả một hạ nghị sĩ Mỹ thiệt mạng, theo hãng tin AAP. Moscow cáo buộc chiếc Boeing 747 là máy bay do thám và xâm phạm vùng trời Liên Xô.
Đến ngày 26.9 cùng năm, ban lãnh đạo Liên Xô rúng động khi một vệ tinh do thám báo động việc tên lửa liên lục địa được phóng từ phía Mỹ. Tuy nhiên, sĩ quan trực chiến là Stanislav Petrov phát hiện đây chỉ là nhầm lẫn do trục trặc kỹ thuật.
Chiến tranh hạt nhân suýt bùng nổ năm 1983 - ảnh 2 Xe tăng NATO trong cuộc tập trận Able Archer 83 - Ảnh: Air Man

Tiến sát chiến tranh hạt nhân

Trong bối cảnh đó, cộng với tính chất “như thật” của Able Archer 83, nhiều lãnh đạo cao cấp ở Moscow tin rằng cuộc tập trận là bước chuẩn bị để NATO tiến hành tấn công.
Hành động ứng phó nhanh chóng được triển khai: lực lượng tại Đông Đức và Ba Lan nhận lệnh gắn vũ khí hạt nhân lên hơn một chục máy bay, khoảng 70 tên lửa SS-20 được đặt trong tình trạng báo động cao trong khi các tàu ngầm mang tên lửa đạn đạo hạt nhân nằm sẵn tại Bắc cực.
“Không khí cực kỳ căng thẳng và thậm chí các lãnh đạo cấp cao liên tục thảo luận về việc có nên ra tay trước hay không”, hồ sơ của Lầu Năm Góc dẫn lời một cựu sĩ quan Liên Xô giấu tên tiết lộ hồi cuối thập niên 1980. Ngược lại, các điệp viên của KGB và những thành viên khác thuộc Khối Warsaw đang hoạt động ngầm ở phương Tây lại khẳng định rằng không có mối đe dọa tức thời nào hết. Tuy nhiên, các báo cáo của họ gửi về nước hầu như đều bị cấp trên gạt bỏ.
May mắn cho nhân loại là đã không có đầu đạn nào được phóng đi và Liên Xô cũng “dỡ súng” sau khi Able Archer 83 kết thúc vào ngày 11.11.1983. Do các hồ sơ vẫn chưa được giải mật đầy đủ nên các chuyên gia vẫn còn tranh cãi lý do Moscow không quyết định ra tay trước.
Trước khi qua đời năm 2011, cựu Thứ trưởng Quốc phòng Nga Vitaly Shlykov khẳng định “đạn đã lên nòng” và chỉ vì trục trặc kỹ thuật nên thế giới mới tránh được thảm họa. Ngược lại, nhiều sử gia phương Tây cho rằng Bộ Chính trị Liên Xô kịp thời được báo động về sự nhẫm lẫn tai hại nói trên. 
Về phía phương Tây, ban đầu NATO cho rằng các hành động của Liên Xô chỉ nhằm tập trận phản ứng. Tuy nhiên, tờ The Guardian dẫn tài liệu vừa giải mật của chính phủ Anh cho thấy Thủ tướng Thatcher và Tổng thống Reagan đã “hết hồn” khi được giới tình báo cho biết Liên Xô thật sự hiểu nhầm mục đích của Able Archer 83 và đã chuẩn bị cho chiến tranh.
 Sau đó, London đề xuất NATO thường xuyên thông báo cho Moscow về các hoạt động tập trận liên quan đến vũ khí hạt nhân, còn ông Reagan bắt đầu thúc đẩy quan hệ hòa dịu hơn với Liên Xô.
Theo giới quan sát, tuy ít người biết đến nhưng giai đoạn tháng 11.1983 là thời điểm căng thẳng nhất của Chiến tranh lạnh kể từ sau Khủng hoảng tên lửa Cuba năm 1962. “Nhiều người thường mô tả Chiến tranh lạnh là một sự cân bằng thế lực ổn định giữa Đông và Tây, nhưng vụ Able Archer 83 cho thấy đây là giai đoạn vô cùng nguy hiểm”, The Guardian dẫn lời chuyên gia Peter Burt nói.
Còn ông Nate Jones kết luận: “Bài học rút ra là không thể có được chính sách vũ khí hạt nhân an toàn tuyệt đối vì nguy cơ hiểu nhầm và tính toán sai luôn hiển hiện”.
Trùng Quang

Chiến tranh hạt nhân giữa Mỹ và Nga liệu có xảy ra?

VOV.VN - Cả Mỹ và Nga đều sẵn sàng cho một cuộc chiến tranh hạt nhân trong những tình huống nhất định.
Khái niệm “bộ ba hạt nhân” được hiểu là, khi một quốc gia sở hữu các phương tiện hạt nhân gồm các căn cứ mặt đất, trên không và tàu ngầm, thì sẽ cho phép quốc gia đó tăng cơ hội tấn công đáp trả sau khi bị tấn công hạt nhân. 

chien tranh hat nhan giua my va nga lieu co xay ra hinh 1
Đám mây hình nấm do quả bom nguyên tử ném xuống Nagasaki, Nhật Bản năm 1945. (ảnh: AP, U.S.Signal Corps).

Chẳng hạn, đối với Mỹ và Liên Xô trong thời kỳ “Chiến tranh Lạnh”, trong trường hợp một trong hai bên tấn công trước làm phá hủy các hệ thống căn cứ mặt đất và trên không của đối phương, thì họ sẽ còn lại lực lượng tàu ngầm có thể tấn công hủy diệt sau đó. 
Lúc đó, khả năng xảy ra một cuộc chiến tranh hạt nhân nguy hiểm đến mức, thời gian kéo dài của nó được coi là nỗi kinh hoàng tột độ và làm cho xung đột vũ trang giữa NATO và Khối hiệp ước Varsava trở nên không thể tưởng tượng được.
Mỹ tìm cách tăng cường quốc phòng
Sau khi kết thúc “Chiến tranh Lạnh” vào năm 1991, dường như khả năng xảy ra xung đột hạt nhân ngày càng giảm xuống, mặc dù việc phổ biến vũ khí hạt nhân vẫn tiếp diễn. Tuy nhiên, chẳng ai muốn thù địch với Nga ở cấp độ rõ ràng như hiện nay.
Ngày nay, mọi cuộc nói chuyện tại Lầu Năm Góc đều đề cập việc làm cách nào để đánh bại một nước Nga đang tăng cường sức mạnh rõ rệt. Trong khi đó, mới đây Tổng thống Nga Vladimir Putin tuyên bố rút khỏi Hiệp ước an ninh hạt nhân, xuất phát từ “các hành động thù địch” của Mỹ.
Đương nhiên, thái độ thù địch của Lầu Năm Góc đối với Moscow đa phần được giải thích là do vấn đề ngân sách quốc phòng. Các tướng lĩnh quân đội cần có một kẻ thù hùng mạnh và nguy hiểm hơn “khủng bố quốc tế” để biện minh cho việc tăng cường vai trò Lực lượng vũ trang của mình. Những khẳng định mới đây của các sỹ quan tham mưu về việc quân đội Nga vượt trội hơn hẳn quân đội Mỹ chỉ đúng trong trường hợp chỉ tính số lượng xe tăng, mà không tính số máy bay của hai nước.


Mối lo ngại mà cựu Tướng Wesley Clark (người mới tham gia chính trường và khẳng định rằng, Nga đã chế tạo thành công xe tăng “bất khả xâm phạm”) đã gặp phải những lời chế nhạo. Nhiều tuyên bố liên quan đến các hệ thống vũ khí hiện đại của Nga cũng được đưa ra từ phía chính quyền Ukraine, bởi nước này rất cần có lý do để đề nghị Mỹ cung cấp vũ khí tấn công hiện đại và hỗ trợ quân sự.
Sự thực là, nếu không có vũ khí hạt nhân thì Nga rất khó để có thể “lớn tiếng”. Nền kinh tế đang gặp khó khăn của nước này hiện GDP chỉ bằng của Italy, trong khi ngân sách quốc phòng lại thấp hơn Mỹ đến 7 lần. Nga chỉ có một tàu sân bay duy nhất, trong khi Mỹ có đến 10 chiếc, số trực thăng cũng ít hơn đến 6 lần, máy bay tiêm kích ít hơn ba lần, còn quân số chính quy thấp hơn hai lần. Nga không có liên minh quân sự hoạt động hiệu quả, trong khi các đồng minh của Mỹ hầu hết là các nước Đông Âu và Tây Âu trong khối NATO.
Chính sách kim chế hạt nhân
Chính sách của Mỹ là, NATO đảm bảo kiềm chế phi hạt nhân ở một cấp độ đủ để Nga không muốn lao vào một cuộc xung đột với các thành viên Liên minh quân sự này. Tuy nhiên, Nga sẽ có những lợi thế nhất định nếu nước này bất ngờ tấn công, khi chỉ dựa vào truyền thông trong nước và triển khai các lực lượng vượt trội theo một số hướng.
Trong khi khả năng phối hợp đáp trả của NATO vẫn còn bị nghi ngờ, bởi lý do để tổ chức này tồn tại ngày càng giảm xuống, dù Liên minh này vẫn đang mở rộng biên giới của mình, cụ thể mới đây đã kết nạp thêm Montenegro.
Vấn đề tổ chức phòng thủ phi hạt nhân hiệu quả được nói đến thông qua sự tồn tại cấp độ hai về kiềm chế, đó là chiếc ô hạt nhân được Mỹ, Anh và Pháp giương ra bảo vệ châu Âu. Giới lãnh đạo Mỹ trước đây đã từng dự tính rằng, trong trường hợp xảy ra xung đột thì Washington và NATO sẽ không sử dụng vũ khí hạt nhân trước, nhưng việc này chưa bao giờ được cho là chính sách thực sự.
Trong khi đó, tháng 9 vừa qua có thông tin cho rằng, Tổng thống Mỹ Barack Obama muốn phê chuẩn cam kết về việc không sử dụng trước vũ khí hạt nhân, tuy nhiên nội các của ông đã bác bỏ đề xuất này, còn Bộ trưởng Quốc phòng Ashton Carter gọi đây là “dấu hiệu của sự yếu đuối”. Sau đó, hai nghị sỹ tự do đã đề nghị xem xét dự luật cấm Mỹ tấn công hạt nhân trước, tuy nhiên dự luật đã không nhận được sự ủng hộ.
Mỹ vẫn coi Nga là mối đe dọa
Bộ trưởng Ashton Carter, người gọi vũ khí hạt nhân là “cơ sở chắc chắn” và “sự đảm bảo” cho an ninh nước Mỹ, mới đây đã có bài phát biểu tại một số căn cứ quân sự, nơi triển khai hệ thống tên lửa “Minuteman” của nước này.
Ông tuyên bố, Mỹ và các đồng minh châu Âu hiện đang “làm mới” chiến lược của Mỹ, bằng cách tích hợp các hệ thống vũ khí thông thường và hạt nhân để “ngăn chặn Nga có suy nghĩ rằng, nếu xảy ra xung đột với NATO thì Nga sẽ có ưu thế vượt trội khi sử dụng vũ khí hạt nhân”. Người đứng đầu Lầu Năm Góc lý giải rằng, Moscow không muốn tuân thủ “các hiệp ước lâu năm về việc sử dụng vũ khí hạt nhân”, điều này đang gây ra mối nghi ngờ lớn về việc Nga “rất cẩn trọng trong việc sử dụng vũ khí hạt nhân như giới lãnh đạo thời Chiến tranh Lạnh”. 

chien tranh hat nhan giua my va nga lieu co xay ra hinh 3
Công tác chuẩn bị trước khi phá hủy tên lửa đạn đạo tầm trung di động RSD-10. (ảnh: RIA Novosti). 

Bộ trưởng Ashton Carter không đề cập việc Mỹ sẽ không sử dụng vũ khí hạt nhân trước, nhưng nêu rõ, vũ khí đó gia nhập kho vũ khí là để đáp trả mối đe dọa đang gia tăng mà ông cho là từ phía Nga.
Về mặt đường lối, ông Carter là người thuộc phái “diều hâu” chống Nga. Còn về học vấn, ông là nhà vật lý và cũng là chuyên gia về các vấn đề sử dụng vũ khí hạt nhân. Một số thay đổi được ông đưa vào chính sách kiềm chế hạt nhân của Mỹ mới đây đã được đề cập trong chương trình “60 phút” của kênh CBS, khi phát sóng bộ phim nhiều tập về thực trạng kho hạt nhân nước Mỹ.
Các sỹ quan trên tàu ngầm nguyên tử “Ohio” đã công khai nói rằng, kể từ khi Nga đưa quân vào bán đảo Crimea, mức sẵn sàng chiến đấu đã được nâng lên ngang bằng với thời “Chiến tranh Lạnh”. Trong phim cũng đề cập đến thủ pháp chiến thuật tương đối mới mang tên “leo thang để giảm nhiệt”.
Thủ pháp chiến thuật này đưa ra nhằm làm thất bại cuộc tấn công có sử dụng vũ khí thông thường bằng cách tấn công hạt nhân để tỏ thái độ. Một cuộc tấn công như vậy cần phải trở thành lời cảnh báo rằng, tiếp sau đó sẽ là những đòn tấn công đáp trả mới nếu còn tiếp tục gây hấn.
Cảnh báo tấn công hạt nhân
Vũ khí hạt nhân chiến thuật mới, như phiên bản mới nhất bom B61 của Mỹ, có kích thước không lớn và dễ dàng vận chuyển. Đầu đạn hạt nhân có thể ném từ máy bay trúng mục tiêu bằng tên lửa hành trình, thậm chí là từ căn cứ mặt đất hoặc phương tiện vận chuyển.
Tiếp đó, người điều khiển có thể kích hoạt sức nổ của đầu đạn khi gắn nó vào quả bom. Điều đó có nghĩa là, tấn công hạt nhân để tỏ thái độ về bản chất có thể vẫn là một cuộc tấn công hạt nhân, nhưng với tác động hạn chế nhằm giảm thiểu tổn thất cho binh sỹ và dân thường.
Theo một số tướng lĩnh và chính trị gia, khả năng chọn lọc có thể biến quả bom thành phương tiện cảnh báo hiệu quả, mà không phải là phương tiện làm leo thang các hành động quân sự, và kết quả là loại vũ khí này đang trở nên được chấp nhận và thích hợp sử dụng hơn nhiều.
Sử dụng vũ khí hạt nhân trong những tình huống nhất định
Đương nhiên, người Nga cũng có vũ khí tương tự như vậy. Một số nguồn tin cho biết, kho vũ khí của họ ngày nay hiện đại hơn của người Mỹ. Nguyên tắc về học thuyết quân sự của Nga mới đây đã được Tổng thống Vladimir Putin giải thích rõ.
Theo ông Putin, Moscow hiện vẫn đang duy trì cho mình quyền sử dụng vũ khí hạt nhân trong trường hợp nước Nga bị đe dọa. Điều này có thể được lý giải qua việc Putin công nhận rằng, lực lượng phi quân sự của Nga sẽ không trụ vững trong một cuộc đối đầu trực tiếp với Mỹ, cũng như cảnh báo rằng, Nga có thể đối mặt với sự cần thiết phải ra đòn tấn công hạt nhân ngay từ giai đoạn đầu cuộc xung đột để tự vệ.
Vì vậy, có thể kết luận rằng, cả hai bên hiện đang đối đầu tại Đông Âu, có thể sẽ sử dụng vũ khí hạt nhân trong những tình huống nhất định. Khi đó không ai đi hỏi người Ba Lan và Slav rằng, lãnh thổ của ai có thể trở thành mục tiêu để “trình diễn” vũ khí hạt nhân. Tuy nhiên, chính phủ các nước này đã chính thức đồng ý với chiến lược kiềm chế Nga của NATO. Trong khi đó, Đức tỏ ra mất bình tĩnh với vấn đề vũ khí, bởi lẽ nước này vẫn chưa nguôi ngoai với ký ức về Hồng quân Liên Xô.
Liệu có tồn tại những dấu hiệu nguy hiểm do các sỹ quan quân đội cấp cao nào đó có thể gây rắc rối khi tin rằng, họ sẽ chiến thắng trong một cuộc chiến với Nga? Nguồn gốc cho mối nguy hiểm gia tăng đó có thể kể đến cựu tướng Wesley Clark, được biết đến là người đã ra sức cổ xúy đối đầu với Lực lượng gìn giữ hòa bình của Nga tại Kosovo năm 1999.
Thêm một người khinh suất hơn nữa là Tướng Philip Breedlove, cựu Tổng tư lệnh lực lượng NATO tại châu Âu (đã nghỉ hưu trong năm nay). Ông này kiên quyết đẩy Liên minh quân sự Bắc Đại Tây Dương và Mỹ đến một cuộc chiến tranh ủy nhiệm vì Ukraine. Trong số các nguồn thông tin rò rỉ, tác giả một thông tin trên tờ điện tử đề nghị Tướng Breedlove cùng với Tổng thư ký Liên Hợp Quốc soạn thảo “Chiến lược NATO để thuyết phục hoặc ép buộc Mỹ phản ứng lại mối đe dọa từ Nga”.


Tướng Breedlove cho rằng, ý tưởng này là “đầy hứa hẹn”. Vị tướng chuyên phóng đại quy mô hiện diện của Nga tại Ukraine này đã gọi Moscow là “mối đe dọa lâu dài đối với sự tồn vong của nước Mỹ và các đồng minh châu Âu”. Tướng Breedlove cũng duy trì mối quan hệ với phó Ngoại trưởng Mỹ phụ trách các vấn đề châu Âu và Á-Âu Victoria Nuland, người đã hỗ trợ tổ chức cuộc chính biến nhằm lật đổ Chính phủ Ukraine năm 2014.
Nga sẵn sàng cho một cuộc chiến với phương Tây
Trong khi đó, ứng viên Tổng thống Mỹ của Đảng Dân chủ Hillary Clinton lại gọi ông Putin là “Hitler mới”, còn tờ “New York Times” đăng các bài xã luận viết về “nhà nước bất hợp pháp của Vladimir Putin”. Ở đây, mối đe dọa thực tế là việc người Nga đang theo dõi tiến trình này với tâm trạng lo âu, và đến một lúc nào đó họ có thể xác định rằng, kẻ thù không khoan nhượng đang cố gắng dồn họ vào chân tường.
Tổng thống Putin đã nhiều lần cảnh báo, nước Nga thực sự có cảm giác bị bao vây và đang nằm trong vòng nguy hiểm cao độ do NATO không ngừng mở rộng sang phía Đông, cũng như do các mối đe dọa nhằm vào nước Nga liên quan đến hoạt động của nước này tại Syria. Các cuộc thăm dò dư luận cho thấy, người Nga hiện đã sẵn sàng cho một cuộc chiến tranh chống lại phương Tây.
Những tuyên bố cứng rắn của nhiều quan chức phương Tây cho rằng, cần phải chống lại Putin, nếu cần thiết có thể dùng vũ lực, là những tuyên bố dựa trên sự phóng đại mức độ đe dọa từ Moscow. Vũ khí hạt nhân hiện nay được đưa vào trong các kế hoạch kiềm chế do NATO soạn thảo, cũng như trong các kế hoạch phòng thủ của Nga sẽ là lời cảnh báo khủng khiếp đối với tất cả những ai không nhìn nhận được chuyện gì sẽ xảy ra tiếp theo./.

CTV Quốc Khánh/VOV.VN Theo The American Conservative

5 sự cố suýt dẫn đến Đại chiến Thế giới thứ ba


Máy tính của Bộ tư lệnh Bắc Mỹ báo động nhầm cuộc tấn công của Liên Xô, vệ tinh của Moscow nhầm ánh sáng với tên lửa là sự cố khiến Thế chiến III suýt xảy ra.
Sự cố máy bay do thám U-2
a
Phi cơ do thám U-2 của Mỹ. Ảnh: History
Theo History.com, ngày 27/10/1962, một máy bay do thám U-2 của Mỹ cất cánh từ bang Alaska để tuần tra gần Bắc Cực. Charles Maultsby, phi công điều khiển máy bay, vô tình lóa mắt do ánh sáng cực quang nên xác định nhầm vị trí trên bản đồ. Phi cơ U-2 lạc vào không phận Liên Xô thay vì hạ cánh xuống sân bay Eilson, Alaska.
Dư âm từ cuộc Khủng hoảng tên lửa Cuba năm 1961 vẫn còn rất mạnh nên Không quân Liên Xô cho rằng U-2 có thể là máy bay ném bom hạt nhân của Mỹ. Moscow lập tức điều động phi đội tiêm kích MiG nhằm tiêu diệt phi cơ xâm nhập. Phía Mỹ cũng nhận thấy tình hình nguy hiểm nên cử hai máy bay F-102 mang theo tên lửa hạt nhân xuất kích.
Một cuộc chạm trán giữa phi đội hai bên có thể dẫn đến cuộc chiến tranh tổng lực. Tuy nhiên, Maultsby sớm nhận ra máy bay của ông đang lạc vào không phận Liên Xô. Ông đã nỗ lực đưa phi cơ thoát ra ngoài trước khi phi đội tiêm kích của Liên Xô tới gần.
Sau khi tránh được thảm họa hạt nhân, Tổng thống John F. Kennedy và Nhà lãnh đạo Liên Xô Nikita Khrushchev cam kết tìm kiếm giải pháp hòa bình cho cuộc Khủng hoảng tên lửa Cuba.
Khủng hoảng tàu ngầm B-59
a
Tàu ngầm B-59 lớp Foxtrot của Liên Xô. Ảnh: History
Ngày 27/10/1962 (cùng ngày với sự cố U-2), tàu ngầm B-59 của Liên Xô suýt phóng ngư lôi hạt nhân về phía Mỹ. Hôm đó, tàu khu trục USS Beale phát hiện B-59 gần đường phong tỏa của Mỹ trên vùng biển ngoài khơi Cuba.
Chiến hạm Mỹ thả mìn sâu không gây chết người nhằm buộc tàu ngầm nổi lên mặt nước. Tuy nhiên, thủy thủ đoàn Liên Xô tin rằng phía Mỹ đang bắn loạt đạn mở màn Chiến tranh Thế giới thứ ba. Thuyền trưởng Valentin Savitsky ra lệnh phóng ngư lôi hạt nhân nhằm đáp trả cuộc tấn công của Mỹ. Quy trình khai hỏa vũ khí hạt nhân trên tàu chiến Liên Xô cần sự đồng ý của bộ ba gồm thuyền trưởng, chính trị viên và sĩ quan chỉ huy.
Trong giây phút mong manh của chiến tranh hạt nhân, sĩ quan chỉ huy Vasili Arkhipov đã phản đối kế hoạch và đề nghị cho tàu nổi lên mặt nước. Tàu ngầm Liên Xô trở về nước an toàn mà không gặp sự cố. Sự bình tĩnh của sĩ quan Arkhipov đã giúp nhân loại thoát khỏi cuộc chiến tranh hạt nhân với hậu quả vô cùng nghiêm trọng.
Sự cố máy tính NORDA 1979
r
Phòng điều khiển trung tâm của NORDA. Ảnh: History
Cuối những năm 70, Mỹ và Liên Xô đều sử dụng các hệ thống máy tính nhằm phát hiện sớm các cuộc tấn công hạt nhân. Công nghệ mới tinh vi hơn giúp con người quản lý công việc hiệu quả hơn, nhưng nó cũng dẫn tới những rủi ro không nhỏ.
Ngày 9/11/1979, kỹ thuật viên tại trung tâm điều khiển của Bộ tư lệnh Không gian vũ trụ Bắc Mỹ (NORDA) nhận cảnh báo khẩn cấp về cuộc tấn công hạt nhân của Liên Xô nhắm vào Mỹ. Không quân lập tức điều động 10 máy bay xuất kích đánh chặn, đồng thời ra lệnh cho phi cơ Không lực 1 của tổng thống cất cánh. Hệ thống tên lửa đạn đạo sẵn sàng nhận lệnh tấn công đáp trả.
Tuy nhiên, sự hoảng loạn ở NORDA nhanh chóng giảm sau khi người ta phát hiện đó là báo động giả. Cuộc điều tra sau đó cho thấy một kỹ thuật viên vô tình chạy chương trình đào tạo mô phỏng cuộc tấn công của Liên Xô.
Vệ tinh nhầm áng sáng với tên lửa
ư
Trung tá Stanislav Petrov người hùng trong nỗ lực ngăn chặn thảm họa hạt nhân. Ảnh: History
Ngày 26/9/1983, trung tâm phòng thủ không gian vũ trụ Serpukhov-15 tại vùng Viễn Đông của Liên Xô nhận tin Mỹ bắn 5 tên lửa liên lục địa về phía họ. Nhiệm vụ của trung tâm là báo cáo mọi dấu hiệu về vụ phóng tên lửa liên lục địa tới cấp chỉ huy.
Lúc đó, trung tá  Stanislav Petrov, sĩ quan chỉ huy trung tâm, linh cảm rằng báo động có thể sai. Ông nhận định rằng, một cuộc tấn công tổng lực của Mỹ về phía Liên Xô sẽ bao gồm hàng chục, thậm chí hàng trăm, tên lửa, chứ không chỉ 5. Vị chỉ huy bình tĩnh chờ thêm vài phút để xem xét tình hình và không gửi cảnh báo lên cấp trên.
Cuộc điều tra sau đó cho thấy, vệ tinh đã nhầm những tia sáng mặt trời thoát khỏi đám mây gần Montana, Mỹ giống như vệt sáng khi phóng tên lửa liên lục địa. Sự bình tĩnh của Petrov giúp nhân loại thoát khỏi nguy cơ chiến tranh hạt nhân. Petrov đã nhận nhiều giải thưởng do hành động bình tĩnh và khôn ngoan trong lúc làm nhiệm vụ.
Tập trận Archer 83
d
Tập trận Archer 83 đẩy nhân loại đến rất gần cuộc đại chiến thế giới thứ 3. Ảnh: History
Đầu tháng 11/1983, khối Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) tiến hành cuộc tập trận mô phỏng cuộc tấn công thông thường của Liên Xô vào châu Âu và Mỹ đáp trả bằng vũ khí hạt nhân. Những cuộc tập trận kiểu này thường xuyên diễn ra trong những năm Chiến tranh Lạnh, nhưng Archer 83 thể hiện nhiều dấu hiệu bất thường.
Để chuẩn bị cho cuộc diễn tập, Mỹ điều động 19.000 binh lính đến châu Âu, đổi mã báo động  thành DEFCON 1, thay đổi các địa điểm chỉ huy trước đây. Những hoạt động như thế thường chỉ xảy ra trong thời chiến.
Liên Xô nhìn nhận rất tiêu cực về đợt tập trận của NATO. Moscow cho rằng họ đang che giấu mưu đồ tiến hành Chiến tranh Thế giới thứ ba. Liên Xô âm thầm chuyển quân đội sang tình trạng sẵn sàng chiến đấu cao mà phía NATO không biết. Lực lượng hạt nhân chiến lược nhận lệnh chuẩn bị cho cuộc tấn công đáp trả. Thậm chí một số đơn vị ở Đông Đức và Ba Lan cho máy bay chiến đấu vào vị trí xuất kích.
Tuy nhiên, Moscow vẫn bình tĩnh theo dõi sát các hoạt động của NATO cho đến khi cuộc tập trận kết thúc vào ngày 11/11. Nhân loại đã gặp may khi không sự cố đáng tiếc nào xảy ra. Các tài liệu giải mật sau đó cho thấy, Mỹ và NATO đã sửng sốt khi biết rằng, cuộc tập trận mô phỏng của họ suýt dẫn đến Đại chiến Thế giới thứ ba.
Quốc Việt

 

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét