Chủ Nhật, 28 tháng 7, 2019

HỔ TƯỚNG TÀU (Tướng "khựa" đáng xấu hổ) 2

(ĐC sưu tầm trên NET)
 
Đại Tướng Khét Tiếng TQ Thất Trận Trên Đất VIỆT – Phần 2: Ô Mã Nhi, Toa Đô Kiêu Binh Tất Bại

Quân Trần bắt sống Ô Mã Nhi, xóa sổ thủy quân nhà Nguyên

Theo lệnh của Thoát Hoan, ngày 30.3.1288, Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp đem thủy quân đi về trước. Dọc bờ sông, Thoát Hoan phái kỵ binh do Trịnh Bằng Phi, Đạt Truật đi theo hộ tống hạm đội. Kế hoạch này chẳng qua là Thoát Hoan muốn trấn an bọn tướng lĩnh và binh lính khối thủy quân mà thôi. Trên thực tế, tốc độ của kỵ binh đi trên bờ và thủy quân dưới sông là hết sức khác biệt, nhiều chỗ ven sông không có đường cho kỵ binh di chuyển. Đạo kỵ binh hộ tống của quân Nguyên đến chợ Đông Triều (huyện Đông Triều, Quảng Ninh ngày nay) thì gặp sông chắn ngang, cầu đã bị quân Đại Việt phá nên không tiến được. Trịnh Bằng Phi dò biết tin quân ta đã chờ sẵn bên kia sông để đón đánh chúng, bèn bắt các kỳ lão trong vùng dẫn đường tắt đi ngược trở về Vạn Kiếp, hòng tranh thủ hội quân rút lui cùng khối bộ binh của Thoát Hoan.
Như vậy là thủy quân của Ô Mã Nhi, Phàn Tiếp đã hoàn toàn bị khối bộ binh bỏ mặc. Bọn chúng đơn độc xuôi theo dòng sông Lục Nam tiến về đông, định theo ngã sông Bạch Đằng để ra biển. Tướng lĩnh thủy quân Nguyên Mông vô cùng lo lắng. Việc phải rút lui theo đường thủy chẳng qua là chúng miễn cưỡng tuân lệnh mà thôi. Không có bộ binh hộ tống, đạo thủy quân Nguyên Mông đi được rất chậm. Quân Đại Việt dưới sự chỉ huy trực tiếp của vua Trần Nhân Tông tổ chức thành những biên đội thủy quân nhỏ, cùng các toán dân binh đã chặn giặc liên tục, đánh dài từ Vạn Kiếp đến Bạch Đằng, không ngày nào ngơi nghỉ. Sự đánh phá này cốt để làm cho quân giặc thêm xuống sức, tạo thuận lợi cho đại quân ta tiêu diệt chúng trong một trận quyết chiến.
Trong khi vua Trần cầm quân đánh chặn, quấy nhiễu thủy quân Nguyên Mông trên sông Lục Nam thì ở ven biển, Hưng Đạo vương đang chuẩn bị lực lượng lớn ở cửa vùng cửa sông Bạch Đằng để đón đánh thủy quân giặc. Hưng Đạo vương đặt quân thủy bộ mai phục dày đặc ở các tuyến sông Giá, sông Kênh, sông Chanh, sông Đá Bạch, sông Thai, núi Tràng Kênh, Yên Hưng… Tại một số nơi lòng sông rộng trên sông Bạch Đằng, thủy triều lên xuống chênh lệch mạnh, quân ta cắm cọc nhọn rồi phủ cỏ lên trên. Các bãi cọc này là những công trình tiêu tốn khá nhiều công sức. Nhân dân trong vùng cùng với quân đội triều đình đã phải tốn nhiều thời gian chuẩn bị từ trước để diệt giặc. Bãi cọc vừa đóng vai trò là cạm bẫy đánh chìm thuyền giặc, vừa làm hẹp thủy lộ, khiến cho thuyền giặc phải di chuyển theo toan tính của quân ta.
Ô Mã Nhi đem binh thuyền đến ngã ba Đụn (sông Đá Bạch giao với sông Giá), vùng Trúc Động (Thủy Nguyên, Hải Phòng ngày nay) vào ngày 8.4.1288. Quân Nguyên phải mất đến 8 ngày để đi đoạn đường sông từ Vạn Kiếp đến đây do bị đánh phá liên tục trên dọc đường đi. Ô Mã Nhi muốn lợi dụng lúc thủy triều rút nhanh, xuôi theo dòng sông Giá kéo quân ra biển. Quân Đại Việt bày trận trong sông Giá dày đặc để ngăn lại. Ô Mã Nhi sai Lưu Khuê dẫn tiên phong đánh thăm dò, bị quân ta đánh bậc trở lại nhanh chóng. Ô Mã Nhi thấy quân ta ở sông Giá đông và mạnh, nên không dám đi vào sông Giá nữa.
Ô Mã Nhi đem hết quân thẳng đường sông Đá Bạch mà đi. Hừng sáng ngày 9.4.1288, thuyền quân Nguyên tiến vào sông Đá Bạch, gần đến núi Tràng Kênh đương lúc nước triều lên cao, Hưng Đạo vương sai quân ra đánh nhử, cầm chân địch. Thủy quân Nguyên gặp phải quân ta, dàn thuyền xáp lại đánh. Giao chiến một hồi, quân ta rút lui theo đúng theo kế mà Hưng Đạo vương đã định từ trước. Ô Mã Nhi tưởng quân ta rút lui thật, thừa thế thúc toàn quân tiến nhanh vào sông Bạch Đằng. Lúc này thủy triều đang xuống mạnh, hạm thuyền giặc lọt thỏm vào muôn trùng trận địa mai phục của quân ta mà vẫn chưa hay biết. Thuyền quân Nguyên đương lúc mải truy đuổi thì thình lình vướng vào bãi cọc, nối nhau vỡ đắm. Đó là lúc quân Đại Việt phát lệnh phản công.
Tướng quân Nguyễn Khoái thống lĩnh quân Thánh Dực dũng nghĩa, đội cấm binh tinh nhuệ bậc nhất của Đại Việt từ hạ lưu đánh thẳng vào chính diện đội hình các chiến thuyền Nguyên Mông. Đội thuyền đương giả thua cũng quay đầu lại đánh, chắn ngang đường ra biển của giặc. Từ các nhánh sông Chanh, sông Kênh, sông Giá, sông Thai, sông Điền Công… thủy quân ta vốn mai phục sẵn từ trước nhất tề đổ ra đánh phá tạt sườn đội hình giặc. Đồng thời hàng loạt các thuyền bè chở đầy chất gây cháy, lửa chảy bừng bừng được thẳng từ thượng nguồn xuôi dòng nước lao thẳng vào hậu quân Nguyên Mông. Chẳng mấy chốc trên sông Bạch Đằng đã thành một biển lửa. Thuyền quân Nguyên cháy rực cả khúc sông. Thủy quân Đại Việt từ sông Uông phối hợp với bộ binh ở núi Tràng Kênh kéo ra khóa đuôi hạm đội quân Nguyên. Từ hai bên bờ sông, cung tên, hỏa tiễn của quân ta tưới thẳng vào đầu kẻ địch.
Các tướng Nguyên là Phàn Tiếp, Lưu Khuê, Hoạch Phong, Ô Mã Nhi, Trương Ngọc, Tích Lệ Cơ cùng chỉ huy quân lính cố gắng củng cố lại đội hình chống trả rất mãnh liệt. Phàn Tiếp cho quân đổ bộ lên chiếm lấy núi Tràng Kênh, toan lấy chỗ cao cho quân tựa lưng vào đó mà dàn trận. Nhưng lúc này thì cả Thiên thời, Địa lợi, Nhân hòa chúng đều không có. Quân của Phàn Tiếp vừa lên bờ đã bị phục binh của ta ở núi Tràng Kênh vây đánh, đẩy ngã xuống sông. Thủy triều xuống nhanh làm hiện ra những bãi cọc nhọn đâm thủng rất nhiều thuyền chiến Nguyên Mông, chiếc đi trước vừa vướng cọc chìm thì chiếc đi sau là lao tới. Quân giặc chết đuối nhiều vô kể. Cả đoàn thuyền bị ùn tắc. Đám thuyền không vướng cọc thì cũng bị một đội thuyền hùng mạnh của quân ta chặn ngang từ phía hạ lưu, không sao thoát ra hướng biển được. Giặc bị hãm giữa trận, tiến thoái đều không được. Các thuyền quân Nguyên lo sợ bị vướng cọc nên di chuyển rất hạn chế, tụ lại một chỗ thì lại làm mồi cho cung tên của quân Đại Việt. Quân ta vòng vây càng lúc càng siết chặt.
Hai bên kịch chiến suốt mấy canh giờ, quân Nguyên càng núng thế, lớp này đến lớp khác gục ngã dưới làn mưa tên nhưng vẫn chưa chịu buông xuôi. Bởi chúng đã bị dồn vào thế cùng đường nên dùng hết khả năng mà kháng cự. Binh pháp cổ hạn chế việc dồn kẻ địch vào thế cùng, khi bao vây thường vây ba hướng, chừa một hướng cho địch quân rút chạy rồi đuổi theo truy sát. Thế nhưng với cách thức dụng binh của Hưng Đạo vương thì có phần khác biệt. Trong trận Bạch Đằng lần này, quân Đại Việt quyết không chừa cho kẻ địch một con đường thoát nào.
Đương lúc trận chiến bước vào đoạn cao trào, Hưng Đạo vương cùng vua Trần Nhân Tông, thượng hoàng Trần Thánh Tông dẫn đoàn chiến thuyền hùng mạnh nhất tung vào trận. Các đạo cấm quân tinh nhuệ thường ngày giữ nhiệm vụ bảo vệ vua và triều đình, nay được dịp thả sức tung hoành. Các quân thấy đội thuyền của nhà vua kéo tới tiếp viện, càng thêm phấn chấn, cùng hợp sức mà đánh giết quân giặc, trút tên như mưa vào các thuyền giặc. Ở chiều ngược lại, quân Nguyên càng thêm hoảng loạn, trận thế tan vỡ. Quân Đại Việt thả sức tàn sát, máu nhuộm đỏ cả một khúc sông lớn. Tướng giặc là Trương Ngọc chết trong đám loạn quân. Phàn Tiếp té xuống sông, quân ta dùng câu liêm móc lên bắt sống. Các tướng Ô Mã Nhi, Tích Lệ Cơ Ngọc cũng bị bắt sống. Nội minh tự Đỗ Hành bắt được Ô Mã Nhi, đem giải đến thuyền ngự của Thượng hoàng Trần Thánh Tông. Thượng hoàng sai người rót rượu cho Ô Mã Nhi uống.
Kết thúc trận chiến Bạch Đằng, quân Nguyên đại bại. Toàn bộ đạo thủy quân Nguyên Mông gồm khoảng 6 vạn binh lính bị giết hoặc bị bắt sống hết. Không một tên nào chạy thoát. Thuyền quân Nguyên cả thảy khoảng 600 chiếc cỡ lớn, quân Đại Việt bắt được 400 chiếc, số còn lại khoảng 200 chiếc bị đánh chìm trong tại trận.
Sở dĩ triều đình Đại Việt tốn nhiều tâm huyết để tiêu diệt thủy quân Nguyên Mông là bởi vì đánh giá rằng đây mới là đội quân nguy hiểm nhất cho Đại Việt, không thể để lại làm hậu họa về sau. Trận Bạch Đằng là một trận chiến có quy mô hủy diệt vào loại cực cao trong sử sách. Chỉ trong chưa đầy một ngày mà hàng vạn quân giặc đã bỏ xác trên chiến trường. Đội thủy quân tinh nhuệ nhất của đế chế Nguyên Mông, đội chiến thuyền mà nước Nguyên đã huy động rất nhiều tiềm lực mới có được trong phút chốc tan tành theo bọt sóng Bạch Đằng giang. Cùng với việc tổ chức tiêu diệt đạo thủy quân của giặc thì trên các tuyến biên giới trên bộ, quân Đại Việt cũng giăng sẵn những cạm bẫy chờ tiêu diệt khối bộ binh của Thoát Hoan.
Quốc Huy

Bất chấp yêu cầu của triều Nguyên, nhà Trần vẫn bắt Ô Mã Nhi đền tội

Vua Trần giết Ô Mã Nhi là để trả mối hận cho muôn dân và cũng là trả hận cho chính hoàng tộc Trần vì Ô Mã Nhi đã tàn phá lăng tẩm nhà Trần. Vua Trần chấp nhận thất tín với người Nguyên, nhưng bù lại giữ được uy tín với các quý tộc và quân dân vì đã trừng trị được kẻ thủ ác.
Yêu sách của Nguyên Mông khiến vua Trần khó xử. Đành rằng việc vua Trần từ chối không sang chầu nước Nguyên là lẽ tất nhiên của một nước tự chủ như Đại Việt. Ngay cả việc trao trả tù binh theo ý muốn của Nguyên triều cũng khó thực hiện được bởi thực tế Phàn Tiếp đã bị quân ta xử tử, còn Ô Mã Nhi gây quá nhiều nợ máu. Nếu thả Ô Mã Nhi, tên tướng đã tàn hại sinh linh Đại Việt vô số về nước thì khó yên lòng quân dân đã đồng cam cộng khổ với triều đình, còn nếu không thả hắn thì có thể khiến bùng nổ chiến tranh thêm lần nữa.
Cuối cùng vua Trần đã làm theo kế mà Hưng Đạo vương hiến: Một mặt triều đình công khai lệnh cho Nội tư gia Hoàng Tá Thốn đưa Ô Mã Nhi cùng đồng bọn về nước theo đường biển. Mặt khác ngầm sai người bơi lặn giỏi làm phu chèo thuyền. Khi thuyền ra chỗ nước sâu, phu thuyền nhân lúc đêm đến lặn xuống nước đục thuyền cho chìm. Ô Mã Nhi chết đuối. Triều đình nhà Trần khéo léo dàn dựng cái chết của Ô Mã Nhi như một tai nạn. Bấy giờ sứ bộ nước Nguyên vẫn đang ở Đại Việt. Triều đình Đại Việt đã cho sứ giả Lương Đình Trực tận mắt chứng kiến việc làm ma chay cho Ô Mã Nhi. Thực ra điều này chỉ cốt làm cho đủ lễ để người Nguyên khó bắt bẻ chứ vua Trần cũng thừa biết khó mà khiến cho họ không nghi ngờ.
Khi tiễn sứ bộ nước Nguyên về, Hưng Đạo vương đã nhỏ nhẹ biện bạch về cái chết của Ô Mã Nhi và lấy cớ rằng vua Trần “tuổi già không đi xa được”. Vua Trần lại sai đại phu Đàm Minh cùng Chu Anh Chủng theo sứ đoàn nước Nguyên sang gặp Hốt Tất Liệt, gửi biểu biện bạch của vua Trần:
"... Vi thần ở nơi góc biển hẻo lánh, ốm đau lâu ngày đường sá xa xôi, thủy thổ gian nan, tuy số mệnh do trời định nhưng cái chết vẫn là điều sợ nhất đối với con người... Năm ngoái, nhân dân tiểu quốc đưa đến những quan quân còn sót lại, vi thần tự xét hỏi, chỉ được ba người là đại vương Tích Lệ Cơ, tham chính Ô Mã Nhi và Phàn tham chính. Trăm họ đều căm giận vì vợ con bị giết chóc, nhà cửa bị đốt phá, nhiều người muôn làm điều trái nghĩa, nhưng vi thần hết lòng che chở, cấp dưỡng rất hậu, thê thiếp họ đều được ăn mặc đầy đủ. Trước khi về đã sắm đủ hành lý, đặc sai sứ thần là tông nghĩa lang Nguyễn Thịnh đi theo đại vương Tích Lệ Cơ cùng Đường Ngột Đãi vào cửa khuyết. Trong khi đó, hai quan tham chính còn chậm lại sau vì đại quân vừa lui, ý sợ tham chính chưa nguôi lòng giận ắt sinh ra tai vạ nên để chậm lại rồi mới sai đưa ra bến thuyền để lên đường. Ngờ đâu kẻ vi thần vô phúc, việc xảy ra trái với ý muốn, Phàn tham chính bỗng phát cơn sốt, vi thần đã dốc hết thuốc thang, thuê bộ hạ tìm thầy chạy chữa, nhưng cũng không khỏi, đến phải bỏ mạng. Vi thần đã hỏa táng, làm ma chay, rồi cấp ngựa cho thê thiếp ông ta để chờ xương cốt, các thiên hộ Mai Thế Anh, Tiết Văn Chính đi hộ tống, cùng trở về nhà. Ngày Lưu thiên sứ đến nói họ đã qua Ung Châu rồi. Hàng ngày đối đãi kính trọng hay không, hỏi thê thiếp ông ta củng có thể biết được. Tham chính Ô Mã Nhi định ngày sẽ tiếp tục về sau. Vì đường ngang qua Vạn Kiếp nên ông ta xin tới gặp Hưng Đạo để sắm sửa hành lý. Dọc đường đang đêm thuyền bị vấp để nước dột vào, tham chính mình to vóc lớn khó bề cứu vớt thành ra bị chết đuối. Những người phu của tiểu quốc cũng đều chết hết. Thê thiếp tiểu đồng của ông ta cũng suýt nữa chết, nhờ người nhỏ nhẹ mà cứu thoát được. Vi thần đã chôn cất ma chay ở bờ biển, thiên sứ lang trung đã thấy tận mắt. Nếu có sự gì bất kính thì thê thiếp ở đó khó mà che giấu được. Vỉ thần đã sắm đủ lễ vật để đưa thê thiếp cùng với xá nhân, lang trung tiếp tục về nước. Số quân nhân ở chỗ vi thần cộng lại hơn tám nghìn người, trong đó hoặc có kẻ là đầu mục cũng không được biết. Nay nhờ chiếu dụ, vi thần lại tìm kiếm, nếu thêm được bao nhiêu đầu mục, bao nhiêu quân nhân, đều cho theo thiên sứ về nước. Sau đây nếu còn sót lại chưa về được hết thì vi thần sẽ cho về không dám lưu lại một người nào” (Thiên Nam Hành Ký, dẫn theo Hà Văn Tấn).
Như vậy là về mặt lễ, triều đình Đại Việt vẫn trước sau nhún nhường hết mực. Tuy nhiên thực chất thì nước ta chẳng làm theo yêu sách nào của nước Nguyên: tướng giặc bị giết và vua nước ta vẫn không sang chầu. Cái bất biến trong chính sách của nhà Trần là chủ quyền quốc gia vẫn được kiên trì giữ vững.
Sử gia phong kiến thường chỉ trích việc làm của vua Trần là thất tín và đem so sánh với việc Lê Thái Tổ Lê Lợi tha cho quân Minh về nước sau này. Sách Việt Sử Tiêu Án của Ngô Thì Sĩ bình rằng: “Chữ tín là quí báu nhất của nước. Đã bảo cho về, lại còn dùng kế giết đi, quỉ quyệt như thế, thủ tín với lân bang sao được. Đến sau này vua Lê Thái Tổ cũng trả người Minh về nước, có người nói đến sự đục thuyền cho đắm. Vua không dùng, người Minh cũng không nghi gì. Như thế mới thật là Vương giả có đại tín”. Đó là theo quan điểm của sử cũ. Tuy nhiên mỗi thời hoàn cảnh mỗi khác. Việc làm của vua Trần không phải là không có cái lý đúng của nó. Vua Trần giết Ô Mã Nhi là để trả mối hận cho muôn dân và cũng là trả hận cho chính hoàng tộc Trần vì Ô Mã Nhi đã tàn phá lăng tẩm nhà Trần. Vua Trần chấp nhận thất tín với người Nguyên, nhưng bù lại giữ được uy tín với các quý tộc và quân dân vì đã trừng trị được kẻ thủ ác.
Hốt Tất Liệt và quan lại Nguyên khi nghe lời biện bạch của sứ giả Đại Việt, đọc qua biểu trần tình của vua Trần ai nấy cũng nghi ngờ không phải sự thật nhưng không có lý lẽ gì để bắt bẻ. Nguyên chủ trong tạm thời biết chưa thể đủ điều kiện động binh với Đại Việt, đành xuống giọng làm hòa. Chinh Giao Chỉ hành tỉnh là cơ quan lập ra để điều hành việc xâm lược, nay nhận lệnh thu hồi lại phù ấn. Tuy vậy, Nguyên Mông vẫn thao luyện binh mã, đóng chiến thuyền mới, củng cố các vùng phía nam để làm tiền đề cho những mưu đồ nam tiến về sau.
Sau những thất bại, vua tôi nước Nguyên rút kinh nghiệm, bàn nhau mở một hướng tấn công trọng tâm khác vào Đại Việt. Ngày 10.3.1289, Quản quân vạn hộ Thành Đô là Lưu Đức Lộc tâu xin đem 5.000 quân đi chiêu dụ các bộ lạc vùng tây nam nước Nguyên để từ đó tiến đánh Đại Việt. Hốt Tất Liệt không chỉ chấp thuận, còn theo ý kiến của Khu mật viện thành lập Soái phủ, phong Lưu Đức Lộc làm Đô nguyên soái, cấp cho 1 vạn quân Tứ Xuyên. Nguyên triều toan tính rằng sẽ chuẩn bị mở một cuộc xâm lược với hướng tấn công chính đánh vào vùng tây bắc nước Đại Việt. Chúng hy vọng rằng tấn công từ hướng này sẽ phát huy hết thế mạnh về kỵ bộ, tránh được sức mạnh thủy quân Đại Việt. Tuy nhiên, kế hoạch xâm lược mới chỉ trong giai đoạn phôi thai và sớm gặp trở ngại.
Trong những năm từ 1288 trở đi, tình hình nội bộ nước Nguyên bất ổn. Nguyên triều nuôi tham vọng bành trướng không giới hạn, thường xuyên áp bức, bóc lột nhân dân để phục vụ cho mưu đồ bá chủ. Nhất là các vùng phía nam, Nguyên Mông đã huy động rất nhiều sức người sức của đổ vào chiến tranh với Đại Việt, Chiêm Thành, Java… Dân chúng chịu quá nhiều khổ sở, rủ nhau nổi dậy chống lại ở nhiều nơi. Phúc Kiến có quân Hoàng Hoa; Quảng Đông có quân của Đổng Hiền Cử; Chiết Giang có Dương Trấn Đông, Liễu Thế Anh; Tuần Châu có Chung Minh Lượng cầm đến hàng vạn quân trong tay. Cả vùng phía nam nước Nguyên loạn lạc. Án sát sứ Phúc Kiến là Vương Tồn đã tâu lên với Hốt Tất Liệt: “Phúc Kiến quận huyện hơn 50 chỗ, liền núi tiếp biển, thực là khu trọng yếu ở biên cương. Từ khi bình Tống đến nay, quan lại tàn bạo, cho nên dân ngu thường tụ nhau nổi dậy, triều đình đem quân đi đánh lại giày xéo tan nát... Huống dân quy phụ ở Phúc Kiến đến mấy trăm vạn hộ, trong vụ biến Hoàng Hoa đi theo đến 4-5 phần mười, nay thanh thế của Minh Lượng lại rầm rộ hơn Hoa, sao có thể coi là bọn giặc cỏ tầm thường. Nên tuyển tinh binh, nghiêm hiệu lệnh, dùng kế mà đánh, nếu không thì không dứt được mối họa”
Nguyên triều điều động hàng vạn quân chính quy đi đánh dẹp nhưng không xuể. Hễ đánh chỗ này, chỗ khác lại nổi lên. Trong suốt năm 1289, khắp vùng phía nam nước Nguyên vô cùng bất ổn. Tình hình thể hiện qua lời tâu của Ngự sử đại phu nước Nguyên là Oa Lúc lên Hốt Tất Liệt: “Giặc cướp nổi lên ở Giang Nam hơn 400 chỗ, nên chọn tướng để đi đánh”. Hốt Tất Liệt phải hạ lệnh cho Đường Ngột Đải, bấy giờ là Tả thừa hành tỉnh Kinh HồChiêm Thành đều thêm quân đàn áp. Dân chúng vùng Giang Nam bị cấm không được dùng vũ khí, cung tên. Cuộc chiến đấu của nhân dân vùng Giang Nam vẫn diễn ra mạnh mẽ bất chấp sự đàn áp của Nguyên triều đã góp phần làm phá sản kế hoạch xâm lược Đại Việt. Nhưng lòng hận thù của Hốt Tất Liệt với nước ta vẫn còn đó và luôn chờ đợi thời cơ mới…
Quốc Huy

Nhà Trần chém Toa Đô, giải phóng toàn bộ Đại Việt

Trong lúc Thoát Hoan thua trận xiểng niểng, chạy dài từ Thăng Long về nước thì ở các hướng khác, quân Nguyên tiếp tục hứng chịu những đòn tấn công mạnh mẽ của quân dân Đại Việt.
1. Quân dân miền tây bắc truy kích giặc đến cùng:
Một bộ phận thứ yếu của quân Nguyên là cánh quân của Nạp Tốc Lạp Đinh vốn trước đây từ hướng Vân Nam tiến sang. Cánh quân này tuy ít nhưng khá mạnh, từng khiến Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật phải lui quân. Khi quân ta tấn công Thoát Hoan ở Thăng Long thì Nạp Tốc Lạp Đinh còn bận đóng quân ở vùng phía tây Thăng Long để ngăn chặn các cuộc tấn công của quân dân vùng tây bắc dưới sự chỉ huy của các tù trưởng. Sau khi hay tin Thoát Hoan bại trận rút quân, Nạp Tốc Lạp Đinh cũng buộc phải lui binh. Do lúc này đường về Thăng Long đại quân ta đã hoàn toàn làm chủ, Nạp Tốc Lạp Đinh không còn con đường nào khác là phải rút quân theo ngã tây bắc về Vân Nam, con đường cũ mà chúng đã tiến sang. Trên đường quân giặc rút lui, tù trường Hà Đặc đã huy động quân dân bày trận tại núi Trĩ Sơn, Phù Ninh (thuộc Phú Thọ) đón đánh. Quân Hà Đặc ít và ô hợp hơn quân Nguyên của Nạp Tốc Nạp Đinh lại không có sự hiệp đồng với các cánh quân khác của triều đình đang bận diệt giặc ở vùng đồng bằng, vì vậy mà Hà Đặc dùng mưu để làm giảm nhuệ khí của địch.
Hà Đặc cho đục thân cây to bên đường mà ông đoán chắc rằng quân Nguyên sẽ đi ngang, sai người cắm những mũi tên cực lớn vào đó giả làm như là có người khổng lồ hay loại vũ khí cực mạnh nào đó bắn tên vào cây. Quân Nguyên trông thấy ngờ vực, không dám tiến lên mà cho dừng quân đóng lại Cự Đà quan sát. Hà Đặc lại sai người đem những hình nộm to lớn cầm cung tên, đến chiều tối dẫn ra dẫn vào trên núi. Quân Nguyên từ xa trông thấy, hết sức sợ hãi. Phô trương thanh thế xong rồi, Hà Đặc mới tung quân ra đánh. Quân dân dưới trướng Hà Đặc ai nấy đều hăng hái giết địch. Quân Nguyên đã khiếp vía từ trước, bị sức tấn công mạnh của quân ta thì nhanh chóng rút chạy về Vân Nam. Hà Đặc thừa thế truy kích không ngừng nghỉ. Đuổi đến A Lạp, Hà Đặc luôn đi tuyến đầu, đánh hăng quá nên bị tử trận. Quân Đại Việt ở đây mất chủ tướng, bất ngờ tình thế trở nên khó khăn, nhiều thân tín của Hà Đặc bị bắt.
Quân Nguyên dưới trướng Nạp Tốc Nạp Đinh vừa giết được chủ tướng của vùng tây bắc, tưởng đã tạm yên thân nên hạ trại nghỉ ngơi sau quãng đường dài giao tranh mệt nhọc. Em của Hà Đặc là Hà Chương nhân đêm tối trốn thoát khỏi trại giặc, trộm cả áo giáp và cờ xí của giặc chạy về với quân ta. Hà Chương lại chỉ huy quân dân gấp rút tiếp cận doanh trại quân Nguyên, quyết đánh một trận báo thù cho vị tù trưởng đã xả thân vì nước. Quân ta dùng áo giáp và cờ xí của giặc để cải trang đột nhập vào doanh trại, rồi nội ứng ngoại hợp đánh tan được giặc một trận lớn. Quân Nguyên chết rất nhiều, cắm đầu chạy về Vân Nam.
2. Trận Tây Kết lần 2, Toa Đô bỏ mạng:
Khối quân của Toa Đô vẫn còn một bộ phận khá đông đóng ở Trường Yên. Quân Nguyên ở đây hầu như đã đứng ngoài vòng chiến kể từ khi quân Đại Việt bắc tiến vì các hướng hành quân của quân ta đã chủ động bí mật chia làm hai cánh đi vòng tránh vùng kiểm soát của địch tại Trường Yên, một cánh đánh thẳng vào vùng Thiên Mạc, một cánh đánh vào Thiên Trường trong thời gian chớp nhoáng. Quân địch ở Trường Yên khi phát hiện ra quân ta thì chiến sự ở Thiên Mạc với trận Hàm Tử - Tây Kết đã định xong, vùng Thiên Trường cũng đã bị quân ta kiểm soát. Do đó mà các doanh của địch ở Trường Yên hoàn toàn bị cô lập, không thể hiệp đồng với các khối quân Nguyên khác.
Ngày 7.6.1285, vua Trần Nhân Tông cùng thượng hoàng Trần Thánh Tông đem binh thuyền đánh vào Trường Yên. Quân địch ở đây đói khát lâu dài, sức lực vốn đã vô cùng suy yếu. Quân ta với thế thắng, nhanh chóng làm chủ tình hình. Quân Đại Việt thả sức tàn sát quân Nguyên, chém đầu cắt tai giặc để dâng công nhiều không kể xiết. Hầu như toàn quân địch ở Trường Yên bị diệt gọn. Tạm thời dẹp yên được giặc trên phần lớn địa bàn vùng quê hương hoàng tộc Trần, ngày 19.6.1285 hai vua ghé về Long Hưng bái tế lăng mộ tổ tiên rồi tiếp tục hành trình chiến đấu.
Lại nói về Toa Đô, sau khi đại bại ở Hàm Tử quan thì chạy ra ven biển trốn tránh, đóng ở cửa biển Thiên Trường kiếm lương ăn và thu nhặt tàn quân. Vùng Thiên Trường là vùng mà Hưng Đạo vương không lâu trước đó đã đánh tan quân Nguyên và đi qua để tiến về Vạn Kiếp. Do binh lực của Đại Việt ở vùng này chỉ tập trung bố trí giữ các tuyến sông chính chứ không đủ binh lực giữ ngoài ven biển, nên Toa Đô có điều kiện đóng lại ở cửa biển để sốc lại đội ngũ. Tàn binh bại tướng của quân Nguyên ở các lộ đông nam đồng bằng sông Hồng tụ về với Toa Đô. Giữa tháng 6.1285, Toa Đô cùng Ô Mã Nhi dẫn quân liều lĩnh ngược sông Hồng, hy vọng sẽ có thể phối hợp với Thoát Hoan ở Thăng Long. Toa Đô không hề hay biết rằng, Thoát Hoan đã thua trận chạy dài về nước.
Hay tin Toa Đô ngược ra bắc, vua Trần Nhân Tông sai quân chuẩn bị trận địa ở bến Tây Kết, còn vua đóng quân ở bến Đại Mang Bộ vùng Thiên Mạc để tập kết binh lực. Quân Đại Việt thuộc khối quân của Hưng Đạo vương Trần Quốc lại chia thành các nhóm nhỏ tập kích tiêu hao quân trên đường Nguyên từ Thiên Trường đến Thiên Mạc để phối hợp với vua và thượng hoàng. Quân của Toa Đô cùng cực lâu ngày, nay lại tiếp tục bị hành xác. Tổng binh giặc là Trương Hiển không chịu nổi sự uy hiếp của quân ta, đã đơn phương dẫn quân đi trước đầu hàng, được vua Trần thu nhận.Ngày 24.6.1285, đoàn thuyền của Toa Đô tiến đến bến Tây Kết. Vua Trần điều động thủy quân chặn đánh. Quân của Toa Đô tinh thần và thể chất đều suy nhược, mà ta lại dùng quân no đánh quân đói nên đã nhanh chóng chiếm thế thượng phong. Toa Đô thất thế nhưng vẫn liều chết chống trả, rốt cuộc bị quân Đại Việt chém chết tại trận.
Quân Nguyên tan rã, chạy trốn trong vô vọng. Quân Đại Việt truy kích, chém giết địch nhiều không kể xiết,bắt sống đến hơn 5 vạn tù binh. Ô Mã Nhi cùng Lưu Khuê dùng thuyền con chèo đi trốn ra biển, may mắn thoát chết. Quân ta cắt đầu của Toa Đô dâng lên cho vua Trần Nhân Tông. Nhà vua cảm phục tài trí và tinh thần chiến đấu của Toa Đô, bất giác có lòng thương cảm, nói với quần thần: “Người làm tôi phải nên như thế”. Nói xong, vua cởi áo ngoài sai quan gói đầu Toa Đô đem chôn. Nhưng ngay sau đó, vua nghe trình báo lại những tội ác tày trời mà Toa Đô đã gây ra cho dân chúng. Vốn quân của Toa Đô là quân đói khát, trong quân lại có những kẻ xuất thân tù tội nên đi đến đâu đều thả sức cướp bóc, tàn phá, giết người không ghê tay. Trong các cánh quân Nguyên, quân của Toa Đô là tàn hại nhân dân dữ dội nhất. Vua nghe qua hết sức căm giận bèn sai quân lấy đầu Toa Đô tẩm dầu mà đốt đi để an ủi vong linh những nhân dân đã tử nạn trước gót xâm lăng.
3. Lưu danh sử sách:
Như vậy là sau quãng thời gian chừng nửa năm ròng chiến đấu dũng cảm, quân dân Đại Việt đã quét sạch hơn 50 vạn quân Nguyên Mông xâm lược khỏi bờ cõi, bảo vệ được nền độc lập của đất nước. Thắng lợi này có được là do nhiều nguyên nhân, nhưng trên hết là do từ vua đến dân trên dưới một lòng. Nhận xét về chiến thắng, sử gia các đời đã có những lời hay khác nhau.
Ngô Thì Sĩ khen ngợi chiến lược chung của vua tôi nhà Trần trong sách Việt Sử Tiêu Án rất xác đáng: “Mỗi lần có tin báo quân Nguyên sang cướp, thì tất là Vua thân hành ra ngoài trông coi quân, khi đi đông, đi tây, không đi nhất định đường nào, khi ở trên bộ, khi ở thủy không đóng nhất định ở đâu, đó không phải là rát, là vì Vua ở bên ngoài, thì dễ hiệu triệu thiên hạ. Cổ lệ lòng hăng hái của quân sĩ, chư tướng thì tiện việc tâu xin mệnh lệnh, tam quân thì vui lòng xông pha, lính tráng đều là quân của nước, của nhà giàu là của nước, có cơ hội nào thì cổ động quân sĩ xông vào trước, gặp tình thế không may thì tùy tiện mà chống giữ; khi tiến quân thì nhanh như chớp nhoáng, khi lui về thì như rồng rắn ẩn thân, giặc không biết đâu mà lường đạc được, nếu chỉ nấp giữ ở trong thành, thì địch coi đó là sào huyệt, chúng sẽ chặn đường không cho vận lương đến, và giữ viện binh không vào được, đến nỗi lương hết, lực cùng, chả nguy lắm sao. Có tin giặc đến mà Vua lập tức đi ra ngoài, đó là kỳ kế, liệu sức giặc và tính cách đánh của nhà Trần”.
Sách Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục của Quốc sử quán nhà Nguyễn thì nhấn mạnh ở việc trọng dụng người tài: “Lúc bấy giờ nhà Nguyên mới nổi lên, khí thế rất ngang ngược. Nhà Trần cũng may gặp lúc mới nổi lên, được các vua Thái Tông, Thánh Tông, Nhân Tông và tướng văn tướng võ phần nhiều người tài, mới có thể đánh bại được giặc, giữ được nước. Chứ nếu gặp người khác thì chưa biết thế nào”.
Vĩ thanh: Bài học về nghệ thuật quân sự, rộng hơn là nghệ thuật giữ nước trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần 2 là rất lớn lao và quý báu. Ngoài việc đút kết được rất nhiều kinh nghiệm cho quân dân nhà Trần tiếp tục chiến đấu với đế chế Nguyên Mông những năm về sau, những kinh nghiệm về chuẩn bị và tiến hành chiến tranh vệ quốc trong cuộc chiến này còn được rất nhiều thế hệ sau của dân tộc Việt Nam vận dụng. Mong rằng qua loạt bài này, mỗi độc giả sẽ có được những sự nhìn nhận riêng của mình về cuộc chiến, đồng thời rút ra được những bài học bổ ích và cùng nhau hun đúc tinh thần yêu nước.
Quốc Huy

Tướng Nhà Trần Chém Được Toa Đô tháng 5/1285


Toa Đô đóng quân ở Thiên trường xa cách Thoát Hoan hơn 200 dặm, cho nên chưa biết Thoát Hoan đã thua chạy về Bắc giang rồi, bèn tiến bình vào đóng ở sông Thiên mạc định để hợp sức với Thoát Hoan làm thế ỷ  giốc. Được mấy hôm Toa Đô biết đạo tiền quân của mình đã bại trận, mà các bến thì chỗ nào cũng có quân nhà Trần án ngữ, mới lui về đóng ở Tây  kết rồi cho người đi dò xem quân Thoát Hoan đóng ở đâu.

Quân An nam từ khi đánh được trận Hàm tử và trận Chương dương rồi, quân thế phấn chấn lắm. Hưng đạo vương mừng rỡ, vào tâu với Nhân  tông xin một mặt sai Chiêu văn vương Trần nhật Duật, hợp với Thượng  tướng Trần quang Khải dẫn quân chặn các đường, không cho Thoát Hoan, Toa Đô đi lại thông tin với nhau, và một mặt xin tự tiến binh ra đánh Toa Đô, rồi đánh Thoát Hoan. 

Nhân tông nghe lời ấy, cho Hưng đạo vương tùy ý mà sai khiến. Khi quân ra đến Tây kết, Hưng đạo vương chia quân ra đánh trại quân Nguyên, và đặt phục binh để bắt Toa Đô. 

Quân ta đánh hăng quá, quân Nguyên không địch nổi, Toa Đô và Ô mã Nhi đem binh lên bộ chạy ra mặt bể, nhưng khi chạy đến mé sau một dãy núi, thì bị quân An nam vây đánh, Toa Đô trúng tên chết, còn Ô mã Nhi thì tìm đường chạy vào Thanh hóa, nhưng bị quân ta đánh đuổi ngặt quá, phải một mình lẻn xuống chiếc thuyền con chạy ra bể, trốn về Tàu được. 

Khi các tướng thắng trận, đưa đầu Toa Đô về nộp, Nhân tông thấy người dũng kiện mà lại hết lòng với chúa, mới than rằng: "Làm bầy tôi nên như người này!" rồi cởi áo ngự hào đắp vào đầu Toa Đô, sai quan dùng lễ mai táng cho tử tế. 

Trận Tây kết đánh vào tháng năm, năm ất dậu (1285) quan quân bắt được quân Nguyên hơn 3 vạn người, và chiến thuyền khí giới không biết bao nhiêu mà kể. Hưng đạo vương được trận toàn thắng, mở tiệc khao thưởng ba quân, rồi lên đánh mặt bắc, để tiểu trừ Thoát Hoan.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét