HỔ TƯỚNG TÀU (Tướng "khựa" đáng xấu hổ) 2
(ĐC sưu tầm trên NET)
Đại Tướng Khét Tiếng TQ Thất Trận Trên Đất VIỆT – Phần 2: Ô Mã Nhi, Toa Đô Kiêu Binh Tất Bại
Quân Trần bắt sống Ô Mã Nhi, xóa sổ thủy quân nhà Nguyên
Theo lệnh của Thoát Hoan, ngày
30.3.1288, Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp đem thủy quân đi về trước. Dọc bờ sông,
Thoát Hoan phái kỵ binh do Trịnh Bằng Phi, Đạt Truật đi theo hộ tống
hạm đội. Kế hoạch này chẳng qua là Thoát Hoan muốn trấn an bọn tướng
lĩnh và binh lính khối thủy quân mà thôi. Trên thực tế, tốc độ của kỵ
binh đi trên bờ và thủy quân dưới sông là hết sức khác biệt, nhiều chỗ
ven sông không có đường cho kỵ binh di chuyển. Đạo kỵ binh hộ tống của
quân Nguyên đến chợ Đông Triều (huyện Đông Triều, Quảng Ninh ngày nay)
thì gặp sông chắn ngang, cầu đã bị quân Đại Việt phá nên không tiến
được. Trịnh Bằng Phi dò biết tin quân ta đã chờ sẵn bên kia sông để đón
đánh chúng, bèn bắt các kỳ lão trong vùng dẫn đường tắt đi ngược trở về
Vạn Kiếp, hòng tranh thủ hội quân rút lui cùng khối bộ binh của Thoát
Hoan.
Như vậy là thủy quân của Ô Mã Nhi, Phàn
Tiếp đã hoàn toàn bị khối bộ binh bỏ mặc. Bọn chúng đơn độc xuôi theo
dòng sông Lục Nam tiến về đông, định theo ngã sông Bạch Đằng để ra biển.
Tướng lĩnh thủy quân Nguyên Mông vô cùng lo lắng. Việc phải rút lui
theo đường thủy chẳng qua là chúng miễn cưỡng tuân lệnh mà thôi. Không
có bộ binh hộ tống, đạo thủy quân Nguyên Mông đi được rất chậm. Quân Đại
Việt dưới sự chỉ huy trực tiếp của vua Trần Nhân Tông tổ chức thành
những biên đội thủy quân nhỏ, cùng các toán dân binh đã chặn giặc liên
tục, đánh dài từ Vạn Kiếp đến Bạch Đằng, không ngày nào ngơi nghỉ. Sự
đánh phá này cốt để làm cho quân giặc thêm xuống sức, tạo thuận lợi cho
đại quân ta tiêu diệt chúng trong một trận quyết chiến.
Trong khi vua Trần cầm quân đánh chặn,
quấy nhiễu thủy quân Nguyên Mông trên sông Lục Nam thì ở ven biển, Hưng
Đạo vương đang chuẩn bị lực lượng lớn ở cửa vùng cửa sông Bạch Đằng để
đón đánh thủy quân giặc. Hưng Đạo vương đặt quân thủy bộ mai phục dày
đặc ở các tuyến sông Giá, sông Kênh, sông Chanh, sông Đá Bạch, sông
Thai, núi Tràng Kênh, Yên Hưng… Tại một số nơi lòng sông rộng trên sông
Bạch Đằng, thủy triều lên xuống chênh lệch mạnh, quân ta cắm cọc nhọn
rồi phủ cỏ lên trên. Các bãi cọc này là những công trình tiêu tốn khá
nhiều công sức. Nhân dân trong vùng cùng với quân đội triều đình đã phải
tốn nhiều thời gian chuẩn bị từ trước để diệt giặc. Bãi cọc vừa đóng
vai trò là cạm bẫy đánh chìm thuyền giặc, vừa làm hẹp thủy lộ, khiến cho
thuyền giặc phải di chuyển theo toan tính của quân ta.
Ô Mã Nhi đem binh thuyền đến ngã ba Đụn
(sông Đá Bạch giao với sông Giá), vùng Trúc Động (Thủy Nguyên, Hải Phòng
ngày nay) vào ngày 8.4.1288. Quân Nguyên phải mất đến 8 ngày để đi đoạn
đường sông từ Vạn Kiếp đến đây do bị đánh phá liên tục trên dọc đường
đi. Ô Mã Nhi muốn lợi dụng lúc thủy triều rút nhanh, xuôi theo dòng sông
Giá kéo quân ra biển. Quân Đại Việt bày trận trong sông Giá dày đặc để
ngăn lại. Ô Mã Nhi sai Lưu Khuê dẫn tiên phong đánh thăm dò, bị quân ta
đánh bậc trở lại nhanh chóng. Ô Mã Nhi thấy quân ta ở sông Giá đông và
mạnh, nên không dám đi vào sông Giá nữa.
Ô Mã Nhi đem hết quân thẳng đường sông
Đá Bạch mà đi. Hừng sáng ngày 9.4.1288, thuyền quân Nguyên tiến vào sông
Đá Bạch, gần đến núi Tràng Kênh đương lúc nước triều lên cao, Hưng Đạo
vương sai quân ra đánh nhử, cầm chân địch. Thủy quân Nguyên gặp phải
quân ta, dàn thuyền xáp lại đánh. Giao chiến một hồi, quân ta rút lui
theo đúng theo kế mà Hưng Đạo vương đã định từ trước. Ô Mã Nhi tưởng
quân ta rút lui thật, thừa thế thúc toàn quân tiến nhanh vào sông Bạch
Đằng. Lúc này thủy triều đang xuống mạnh, hạm thuyền giặc lọt thỏm vào
muôn trùng trận địa mai phục của quân ta mà vẫn chưa hay biết. Thuyền
quân Nguyên đương lúc mải truy đuổi thì thình lình vướng vào bãi cọc,
nối nhau vỡ đắm. Đó là lúc quân Đại Việt phát lệnh phản công.
Tướng quân Nguyễn Khoái thống lĩnh quân
Thánh Dực dũng nghĩa, đội cấm binh tinh nhuệ bậc nhất của Đại Việt từ hạ
lưu đánh thẳng vào chính diện đội hình các chiến thuyền Nguyên Mông.
Đội thuyền đương giả thua cũng quay đầu lại đánh, chắn ngang đường ra
biển của giặc. Từ các nhánh sông Chanh, sông Kênh, sông Giá, sông Thai,
sông Điền Công… thủy quân ta vốn mai phục sẵn từ trước nhất tề đổ ra
đánh phá tạt sườn đội hình giặc. Đồng thời hàng loạt các thuyền bè chở
đầy chất gây cháy, lửa chảy bừng bừng được thẳng từ thượng nguồn xuôi
dòng nước lao thẳng vào hậu quân Nguyên Mông. Chẳng mấy chốc trên sông
Bạch Đằng đã thành một biển lửa. Thuyền quân Nguyên cháy rực cả khúc
sông. Thủy quân Đại Việt từ sông Uông phối hợp với bộ binh ở núi Tràng
Kênh kéo ra khóa đuôi hạm đội quân Nguyên. Từ hai bên bờ sông, cung tên,
hỏa tiễn của quân ta tưới thẳng vào đầu kẻ địch.
Các tướng Nguyên là Phàn Tiếp, Lưu Khuê,
Hoạch Phong, Ô Mã Nhi, Trương Ngọc, Tích Lệ Cơ cùng chỉ huy quân lính
cố gắng củng cố lại đội hình chống trả rất mãnh liệt. Phàn Tiếp cho quân
đổ bộ lên chiếm lấy núi Tràng Kênh, toan lấy chỗ cao cho quân tựa lưng
vào đó mà dàn trận. Nhưng lúc này thì cả Thiên thời, Địa lợi, Nhân hòa
chúng đều không có. Quân của Phàn Tiếp vừa lên bờ đã bị phục binh của ta
ở núi Tràng Kênh vây đánh, đẩy ngã xuống sông. Thủy triều xuống nhanh
làm hiện ra những bãi cọc nhọn đâm thủng rất nhiều thuyền chiến Nguyên
Mông, chiếc đi trước vừa vướng cọc chìm thì chiếc đi sau là lao tới.
Quân giặc chết đuối nhiều vô kể. Cả đoàn thuyền bị ùn tắc. Đám thuyền
không vướng cọc thì cũng bị một đội thuyền hùng mạnh của quân ta chặn
ngang từ phía hạ lưu, không sao thoát ra hướng biển được. Giặc bị hãm
giữa trận, tiến thoái đều không được. Các thuyền quân Nguyên lo sợ bị
vướng cọc nên di chuyển rất hạn chế, tụ lại một chỗ thì lại làm mồi cho
cung tên của quân Đại Việt. Quân ta vòng vây càng lúc càng siết chặt.
Hai bên kịch chiến suốt mấy canh giờ,
quân Nguyên càng núng thế, lớp này đến lớp khác gục ngã dưới làn mưa tên
nhưng vẫn chưa chịu buông xuôi. Bởi chúng đã bị dồn vào thế cùng đường
nên dùng hết khả năng mà kháng cự. Binh pháp cổ hạn chế việc dồn kẻ địch
vào thế cùng, khi bao vây thường vây ba hướng, chừa một hướng cho địch
quân rút chạy rồi đuổi theo truy sát. Thế nhưng với cách thức dụng binh
của Hưng Đạo vương thì có phần khác biệt. Trong trận Bạch Đằng lần này,
quân Đại Việt quyết không chừa cho kẻ địch một con đường thoát nào.
Đương lúc trận chiến bước vào đoạn cao
trào, Hưng Đạo vương cùng vua Trần Nhân Tông, thượng hoàng Trần Thánh
Tông dẫn đoàn chiến thuyền hùng mạnh nhất tung vào trận. Các đạo cấm
quân tinh nhuệ thường ngày giữ nhiệm vụ bảo vệ vua và triều đình, nay
được dịp thả sức tung hoành. Các quân thấy đội thuyền của nhà vua kéo
tới tiếp viện, càng thêm phấn chấn, cùng hợp sức mà đánh giết quân giặc,
trút tên như mưa vào các thuyền giặc. Ở chiều ngược lại, quân Nguyên
càng thêm hoảng loạn, trận thế tan vỡ. Quân Đại Việt thả sức tàn sát,
máu nhuộm đỏ cả một khúc sông lớn. Tướng giặc là Trương Ngọc chết trong
đám loạn quân. Phàn Tiếp té xuống sông, quân ta dùng câu liêm móc lên
bắt sống. Các tướng Ô Mã Nhi, Tích Lệ Cơ Ngọc cũng bị bắt sống. Nội minh
tự Đỗ Hành bắt được Ô Mã Nhi, đem giải đến thuyền ngự của Thượng hoàng
Trần Thánh Tông. Thượng hoàng sai người rót rượu cho Ô Mã Nhi uống.
Kết thúc trận chiến Bạch Đằng, quân
Nguyên đại bại. Toàn bộ đạo thủy quân Nguyên Mông gồm khoảng 6 vạn binh
lính bị giết hoặc bị bắt sống hết. Không một tên nào chạy thoát. Thuyền
quân Nguyên cả thảy khoảng 600 chiếc cỡ lớn, quân Đại Việt bắt được 400
chiếc, số còn lại khoảng 200 chiếc bị đánh chìm trong tại trận.
Sở dĩ triều đình Đại Việt tốn nhiều tâm
huyết để tiêu diệt thủy quân Nguyên Mông là bởi vì đánh giá rằng đây mới
là đội quân nguy hiểm nhất cho Đại Việt, không thể để lại làm hậu họa
về sau. Trận Bạch Đằng là một trận chiến có quy mô hủy diệt vào loại cực
cao trong sử sách. Chỉ trong chưa đầy một ngày mà hàng vạn quân giặc đã
bỏ xác trên chiến trường. Đội thủy quân tinh nhuệ nhất của đế chế
Nguyên Mông, đội chiến thuyền mà nước Nguyên đã huy động rất nhiều tiềm
lực mới có được trong phút chốc tan tành theo bọt sóng Bạch Đằng giang.
Cùng với việc tổ chức tiêu diệt đạo thủy quân của giặc thì trên các
tuyến biên giới trên bộ, quân Đại Việt cũng giăng sẵn những cạm bẫy chờ
tiêu diệt khối bộ binh của Thoát Hoan.
Quốc Huy
Bất chấp yêu cầu của triều Nguyên, nhà Trần vẫn bắt Ô Mã Nhi đền tội
Vua Trần giết Ô Mã Nhi là để trả mối hận cho muôn dân và
cũng là trả hận cho chính hoàng tộc Trần vì Ô Mã Nhi đã tàn phá lăng tẩm
nhà Trần. Vua Trần chấp nhận thất tín với người Nguyên, nhưng bù lại
giữ được uy tín với các quý tộc và quân dân vì đã trừng trị được kẻ thủ
ác.
Yêu
sách của Nguyên Mông khiến vua Trần khó xử. Đành rằng việc vua Trần từ
chối không sang chầu nước Nguyên là lẽ tất nhiên của một nước tự chủ như
Đại Việt. Ngay cả việc trao trả tù binh theo ý muốn của Nguyên triều
cũng khó thực hiện được bởi thực tế Phàn Tiếp đã bị quân ta xử tử, còn Ô
Mã Nhi gây quá nhiều nợ máu. Nếu thả Ô Mã Nhi, tên tướng đã tàn hại
sinh linh Đại Việt vô số về nước thì khó yên lòng quân dân đã đồng cam
cộng khổ với triều đình, còn nếu không thả hắn thì có thể khiến bùng nổ
chiến tranh thêm lần nữa.
Cuối cùng vua Trần đã
làm theo kế mà Hưng Đạo vương hiến: Một mặt triều đình công khai lệnh
cho Nội tư gia Hoàng Tá Thốn đưa Ô Mã Nhi cùng đồng bọn về nước theo
đường biển. Mặt khác ngầm sai người bơi lặn giỏi làm phu chèo thuyền.
Khi thuyền ra chỗ nước sâu, phu thuyền nhân lúc đêm đến lặn xuống nước
đục thuyền cho chìm. Ô Mã Nhi chết đuối. Triều đình nhà Trần khéo léo
dàn dựng cái chết của Ô Mã Nhi như một tai nạn. Bấy giờ sứ bộ nước
Nguyên vẫn đang ở Đại Việt. Triều đình Đại Việt đã cho sứ giả Lương Đình
Trực tận mắt chứng kiến việc làm ma chay cho Ô Mã Nhi. Thực ra điều này
chỉ cốt làm cho đủ lễ để người Nguyên khó bắt bẻ chứ vua Trần cũng thừa
biết khó mà khiến cho họ không nghi ngờ.
Khi
tiễn sứ bộ nước Nguyên về, Hưng Đạo vương đã nhỏ nhẹ biện bạch về cái
chết của Ô Mã Nhi và lấy cớ rằng vua Trần “tuổi già không đi xa được”.
Vua Trần lại sai đại phu Đàm Minh cùng Chu Anh Chủng theo sứ đoàn nước
Nguyên sang gặp Hốt Tất Liệt, gửi biểu biện bạch của vua Trần:
"...
Vi thần ở nơi góc biển hẻo lánh, ốm đau lâu ngày đường sá xa xôi, thủy
thổ gian nan, tuy số mệnh do trời định nhưng cái chết vẫn là điều sợ
nhất đối với con người... Năm ngoái, nhân dân tiểu quốc đưa đến những
quan quân còn sót lại, vi thần tự xét hỏi, chỉ được ba người là đại
vương Tích Lệ Cơ, tham chính Ô Mã Nhi và Phàn tham chính. Trăm họ đều
căm giận vì vợ con bị giết chóc, nhà cửa bị đốt phá, nhiều người muôn
làm điều trái nghĩa, nhưng vi thần hết lòng che chở, cấp dưỡng rất hậu,
thê thiếp họ đều được ăn mặc đầy đủ. Trước khi về đã sắm đủ hành lý, đặc
sai sứ thần là tông nghĩa lang Nguyễn Thịnh đi theo đại vương Tích Lệ
Cơ cùng Đường Ngột Đãi vào cửa khuyết. Trong khi đó, hai quan tham chính
còn chậm lại sau vì đại quân vừa lui, ý sợ tham chính chưa nguôi lòng
giận ắt sinh ra tai vạ nên để chậm lại rồi mới sai đưa ra bến thuyền để
lên đường. Ngờ đâu kẻ vi thần vô phúc, việc xảy ra trái với ý muốn, Phàn
tham chính bỗng phát cơn sốt, vi thần đã dốc hết thuốc thang, thuê bộ
hạ tìm thầy chạy chữa, nhưng cũng không khỏi, đến phải bỏ mạng. Vi thần
đã hỏa táng, làm ma chay, rồi cấp ngựa cho thê thiếp ông ta để chờ xương
cốt, các thiên hộ Mai Thế Anh, Tiết Văn Chính đi hộ tống, cùng trở về
nhà. Ngày Lưu thiên sứ đến nói họ đã qua Ung Châu rồi. Hàng ngày đối đãi
kính trọng hay không, hỏi thê thiếp ông ta củng có thể biết được. Tham
chính Ô Mã Nhi định ngày sẽ tiếp tục về sau. Vì đường ngang qua Vạn Kiếp
nên ông ta xin tới gặp Hưng Đạo để sắm sửa hành lý. Dọc đường đang đêm
thuyền bị vấp để nước dột vào, tham chính mình to vóc lớn khó bề cứu vớt
thành ra bị chết đuối. Những người phu của tiểu quốc cũng đều chết hết.
Thê thiếp tiểu đồng của ông ta cũng suýt nữa chết, nhờ người nhỏ nhẹ mà
cứu thoát được. Vi thần đã chôn cất ma chay ở bờ biển, thiên sứ lang
trung đã thấy tận mắt. Nếu có sự gì bất kính thì thê thiếp ở đó khó mà
che giấu được. Vỉ thần đã sắm đủ lễ vật để đưa thê thiếp cùng với xá
nhân, lang trung tiếp tục về nước. Số quân nhân ở chỗ vi thần cộng lại
hơn tám nghìn người, trong đó hoặc có kẻ là đầu mục cũng không được
biết. Nay nhờ chiếu dụ, vi thần lại tìm kiếm, nếu thêm được bao nhiêu
đầu mục, bao nhiêu quân nhân, đều cho theo thiên sứ về nước. Sau đây nếu
còn sót lại chưa về được hết thì vi thần sẽ cho về không dám lưu lại
một người nào” (Thiên Nam Hành Ký, dẫn theo Hà Văn Tấn).
Như
vậy là về mặt lễ, triều đình Đại Việt vẫn trước sau nhún nhường hết
mực. Tuy nhiên thực chất thì nước ta chẳng làm theo yêu sách nào của
nước Nguyên: tướng giặc bị giết và vua nước ta vẫn không sang chầu. Cái
bất biến trong chính sách của nhà Trần là chủ quyền quốc gia vẫn được
kiên trì giữ vững.
Sử gia phong kiến thường chỉ
trích việc làm của vua Trần là thất tín và đem so sánh với việc Lê Thái
Tổ Lê Lợi tha cho quân Minh về nước sau này. Sách Việt Sử Tiêu Án của
Ngô Thì Sĩ bình rằng: “Chữ tín là quí báu nhất của nước. Đã bảo cho
về, lại còn dùng kế giết đi, quỉ quyệt như thế, thủ tín với lân bang sao
được. Đến sau này vua Lê Thái Tổ cũng trả người Minh về nước, có người
nói đến sự đục thuyền cho đắm. Vua không dùng, người Minh cũng không
nghi gì. Như thế mới thật là Vương giả có đại tín”. Đó là theo quan
điểm của sử cũ. Tuy nhiên mỗi thời hoàn cảnh mỗi khác. Việc làm của vua
Trần không phải là không có cái lý đúng của nó. Vua Trần giết Ô Mã Nhi
là để trả mối hận cho muôn dân và cũng là trả hận cho chính hoàng tộc
Trần vì Ô Mã Nhi đã tàn phá lăng tẩm nhà Trần. Vua Trần chấp nhận thất
tín với người Nguyên, nhưng bù lại giữ được uy tín với các quý tộc và
quân dân vì đã trừng trị được kẻ thủ ác.
Hốt Tất
Liệt và quan lại Nguyên khi nghe lời biện bạch của sứ giả Đại Việt, đọc
qua biểu trần tình của vua Trần ai nấy cũng nghi ngờ không phải sự thật
nhưng không có lý lẽ gì để bắt bẻ. Nguyên chủ trong tạm thời biết chưa
thể đủ điều kiện động binh với Đại Việt, đành xuống giọng làm hòa. Chinh
Giao Chỉ hành tỉnh là cơ quan lập ra để điều hành việc xâm lược, nay
nhận lệnh thu hồi lại phù ấn. Tuy vậy, Nguyên Mông vẫn thao luyện binh
mã, đóng chiến thuyền mới, củng cố các vùng phía nam để làm tiền đề cho
những mưu đồ nam tiến về sau.
Sau những thất
bại, vua tôi nước Nguyên rút kinh nghiệm, bàn nhau mở một hướng tấn công
trọng tâm khác vào Đại Việt. Ngày 10.3.1289, Quản quân vạn hộ Thành Đô
là Lưu Đức Lộc tâu xin đem 5.000 quân đi chiêu dụ các bộ lạc vùng tây
nam nước Nguyên để từ đó tiến đánh Đại Việt. Hốt Tất Liệt không chỉ chấp
thuận, còn theo ý kiến của Khu mật viện thành lập Soái phủ, phong Lưu
Đức Lộc làm Đô nguyên soái, cấp cho 1 vạn quân Tứ Xuyên. Nguyên triều
toan tính rằng sẽ chuẩn bị mở một cuộc xâm lược với hướng tấn công chính
đánh vào vùng tây bắc nước Đại Việt. Chúng hy vọng rằng tấn công từ
hướng này sẽ phát huy hết thế mạnh về kỵ bộ, tránh được sức mạnh thủy
quân Đại Việt. Tuy nhiên, kế hoạch xâm lược mới chỉ trong giai đoạn phôi
thai và sớm gặp trở ngại.
Trong những năm từ
1288 trở đi, tình hình nội bộ nước Nguyên bất ổn. Nguyên triều nuôi tham
vọng bành trướng không giới hạn, thường xuyên áp bức, bóc lột nhân dân
để phục vụ cho mưu đồ bá chủ. Nhất là các vùng phía nam, Nguyên Mông đã
huy động rất nhiều sức người sức của đổ vào chiến tranh với Đại Việt,
Chiêm Thành, Java… Dân chúng chịu quá nhiều khổ sở, rủ nhau nổi dậy
chống lại ở nhiều nơi. Phúc Kiến có quân Hoàng Hoa; Quảng Đông có quân
của Đổng Hiền Cử; Chiết Giang có Dương Trấn Đông, Liễu Thế Anh; Tuần
Châu có Chung Minh Lượng cầm đến hàng vạn quân trong tay. Cả vùng phía
nam nước Nguyên loạn lạc. Án sát sứ Phúc Kiến là Vương Tồn đã tâu lên
với Hốt Tất Liệt: “Phúc Kiến quận huyện hơn 50 chỗ, liền núi tiếp
biển, thực là khu trọng yếu ở biên cương. Từ khi bình Tống đến nay, quan
lại tàn bạo, cho nên dân ngu thường tụ nhau nổi dậy, triều đình đem
quân đi đánh lại giày xéo tan nát... Huống dân quy phụ ở Phúc Kiến đến
mấy trăm vạn hộ, trong vụ biến Hoàng Hoa đi theo đến 4-5 phần mười, nay
thanh thế của Minh Lượng lại rầm rộ hơn Hoa, sao có thể coi là bọn giặc
cỏ tầm thường. Nên tuyển tinh binh, nghiêm hiệu lệnh, dùng kế mà đánh,
nếu không thì không dứt được mối họa”
Nguyên
triều điều động hàng vạn quân chính quy đi đánh dẹp nhưng không xuể. Hễ
đánh chỗ này, chỗ khác lại nổi lên. Trong suốt năm 1289, khắp vùng phía
nam nước Nguyên vô cùng bất ổn. Tình hình thể hiện qua lời tâu của Ngự
sử đại phu nước Nguyên là Oa Lúc lên Hốt Tất Liệt: “Giặc cướp nổi lên ở Giang Nam hơn 400 chỗ, nên chọn tướng để đi đánh”. Hốt
Tất Liệt phải hạ lệnh cho Đường Ngột Đải, bấy giờ là Tả thừa hành tỉnh
Kinh HồChiêm Thành đều thêm quân đàn áp. Dân chúng vùng Giang Nam bị cấm
không được dùng vũ khí, cung tên. Cuộc chiến đấu của nhân dân vùng
Giang Nam vẫn diễn ra mạnh mẽ bất chấp sự đàn áp của Nguyên triều đã góp
phần làm phá sản kế hoạch xâm lược Đại Việt. Nhưng lòng hận thù của Hốt
Tất Liệt với nước ta vẫn còn đó và luôn chờ đợi thời cơ mới…
Nhà Trần chém Toa Đô, giải phóng toàn bộ Đại Việt
Trong lúc Thoát Hoan thua trận xiểng niểng,
chạy dài từ Thăng Long về nước thì ở các hướng khác, quân Nguyên tiếp
tục hứng chịu những đòn tấn công mạnh mẽ của quân dân Đại Việt.
1. Quân dân miền tây bắc truy kích giặc đến cùng:
Một bộ phận thứ yếu của quân Nguyên là
cánh quân của Nạp Tốc Lạp Đinh vốn trước đây từ hướng Vân Nam tiến sang.
Cánh quân này tuy ít nhưng khá mạnh, từng khiến Chiêu Văn vương Trần
Nhật Duật phải lui quân. Khi quân ta tấn công Thoát Hoan ở Thăng Long
thì Nạp Tốc Lạp Đinh còn bận đóng quân ở vùng phía tây Thăng Long để
ngăn chặn các cuộc tấn công của quân dân vùng tây bắc dưới sự chỉ huy
của các tù trưởng. Sau khi hay tin Thoát Hoan bại trận rút quân, Nạp Tốc
Lạp Đinh cũng buộc phải lui binh. Do lúc này đường về Thăng Long đại
quân ta đã hoàn toàn làm chủ, Nạp Tốc Lạp Đinh không còn con đường nào
khác là phải rút quân theo ngã tây bắc về Vân Nam, con đường cũ mà chúng
đã tiến sang. Trên đường quân giặc rút lui, tù trường Hà Đặc đã huy
động quân dân bày trận tại núi Trĩ Sơn, Phù Ninh (thuộc Phú Thọ) đón
đánh. Quân Hà Đặc ít và ô hợp hơn quân Nguyên của Nạp Tốc Nạp Đinh lại
không có sự hiệp đồng với các cánh quân khác của triều đình đang bận
diệt giặc ở vùng đồng bằng, vì vậy mà Hà Đặc dùng mưu để làm giảm nhuệ
khí của địch.
Hà Đặc cho đục thân cây to bên đường mà
ông đoán chắc rằng quân Nguyên sẽ đi ngang, sai người cắm những mũi tên
cực lớn vào đó giả làm như là có người khổng lồ hay loại vũ khí cực mạnh
nào đó bắn tên vào cây. Quân Nguyên trông thấy ngờ vực, không dám tiến
lên mà cho dừng quân đóng lại Cự Đà quan sát. Hà Đặc lại sai người đem
những hình nộm to lớn cầm cung tên, đến chiều tối dẫn ra dẫn vào trên
núi. Quân Nguyên từ xa trông thấy, hết sức sợ hãi. Phô trương thanh thế
xong rồi, Hà Đặc mới tung quân ra đánh. Quân dân dưới trướng Hà Đặc ai
nấy đều hăng hái giết địch. Quân Nguyên đã khiếp vía từ trước, bị sức
tấn công mạnh của quân ta thì nhanh chóng rút chạy về Vân Nam. Hà Đặc
thừa thế truy kích không ngừng nghỉ. Đuổi đến A Lạp, Hà Đặc luôn đi
tuyến đầu, đánh hăng quá nên bị tử trận. Quân Đại Việt ở đây mất chủ
tướng, bất ngờ tình thế trở nên khó khăn, nhiều thân tín của Hà Đặc bị
bắt.
Quân Nguyên dưới trướng Nạp Tốc Nạp Đinh
vừa giết được chủ tướng của vùng tây bắc, tưởng đã tạm yên thân nên hạ
trại nghỉ ngơi sau quãng đường dài giao tranh mệt nhọc. Em của Hà Đặc là
Hà Chương nhân đêm tối trốn thoát khỏi trại giặc, trộm cả áo giáp và cờ
xí của giặc chạy về với quân ta. Hà Chương lại chỉ huy quân dân gấp rút
tiếp cận doanh trại quân Nguyên, quyết đánh một trận báo thù cho vị tù
trưởng đã xả thân vì nước. Quân ta dùng áo giáp và cờ xí của giặc để cải
trang đột nhập vào doanh trại, rồi nội ứng ngoại hợp đánh tan được giặc
một trận lớn. Quân Nguyên chết rất nhiều, cắm đầu chạy về Vân Nam.
2. Trận Tây Kết lần 2, Toa Đô bỏ mạng:
Khối quân của Toa Đô vẫn còn một bộ phận
khá đông đóng ở Trường Yên. Quân Nguyên ở đây hầu như đã đứng ngoài
vòng chiến kể từ khi quân Đại Việt bắc tiến vì các hướng hành quân của
quân ta đã chủ động bí mật chia làm hai cánh đi vòng tránh vùng kiểm
soát của địch tại Trường Yên, một cánh đánh thẳng vào vùng Thiên Mạc,
một cánh đánh vào Thiên Trường trong thời gian chớp nhoáng. Quân địch ở
Trường Yên khi phát hiện ra quân ta thì chiến sự ở Thiên Mạc với trận
Hàm Tử - Tây Kết đã định xong, vùng Thiên Trường cũng đã bị quân ta kiểm
soát. Do đó mà các doanh của địch ở Trường Yên hoàn toàn bị cô lập,
không thể hiệp đồng với các khối quân Nguyên khác.
Ngày 7.6.1285, vua Trần Nhân Tông cùng
thượng hoàng Trần Thánh Tông đem binh thuyền đánh vào Trường Yên. Quân
địch ở đây đói khát lâu dài, sức lực vốn đã vô cùng suy yếu. Quân ta với
thế thắng, nhanh chóng làm chủ tình hình. Quân Đại Việt thả sức tàn sát
quân Nguyên, chém đầu cắt tai giặc để dâng công nhiều không kể xiết.
Hầu như toàn quân địch ở Trường Yên bị diệt gọn. Tạm thời dẹp yên được
giặc trên phần lớn địa bàn vùng quê hương hoàng tộc Trần, ngày 19.6.1285
hai vua ghé về Long Hưng bái tế lăng mộ tổ tiên rồi tiếp tục hành trình
chiến đấu.
Lại nói về Toa Đô, sau khi đại bại ở Hàm
Tử quan thì chạy ra ven biển trốn tránh, đóng ở cửa biển Thiên Trường
kiếm lương ăn và thu nhặt tàn quân. Vùng Thiên Trường là vùng mà Hưng
Đạo vương không lâu trước đó đã đánh tan quân Nguyên và đi qua để tiến
về Vạn Kiếp. Do binh lực của Đại Việt ở vùng này chỉ tập trung bố trí
giữ các tuyến sông chính chứ không đủ binh lực giữ ngoài ven biển, nên
Toa Đô có điều kiện đóng lại ở cửa biển để sốc lại đội ngũ. Tàn binh bại
tướng của quân Nguyên ở các lộ đông nam đồng bằng sông Hồng tụ về với
Toa Đô. Giữa tháng 6.1285, Toa Đô cùng Ô Mã Nhi dẫn quân liều lĩnh ngược
sông Hồng, hy vọng sẽ có thể phối hợp với Thoát Hoan ở Thăng Long. Toa
Đô không hề hay biết rằng, Thoát Hoan đã thua trận chạy dài về nước.
Hay tin Toa Đô ngược ra bắc, vua Trần
Nhân Tông sai quân chuẩn bị trận địa ở bến Tây Kết, còn vua đóng quân ở
bến Đại Mang Bộ vùng Thiên Mạc để tập kết binh lực. Quân Đại Việt thuộc
khối quân của Hưng Đạo vương Trần Quốc lại chia thành các nhóm nhỏ tập
kích tiêu hao quân trên đường Nguyên từ Thiên Trường đến Thiên Mạc để
phối hợp với vua và thượng hoàng. Quân của Toa Đô cùng cực lâu ngày, nay
lại tiếp tục bị hành xác. Tổng binh giặc là Trương Hiển không chịu nổi
sự uy hiếp của quân ta, đã đơn phương dẫn quân đi trước đầu hàng, được
vua Trần thu nhận.Ngày 24.6.1285, đoàn thuyền của Toa Đô tiến đến bến
Tây Kết. Vua Trần điều động thủy quân chặn đánh. Quân của Toa Đô tinh
thần và thể chất đều suy nhược, mà ta lại dùng quân no đánh quân đói nên
đã nhanh chóng chiếm thế thượng phong. Toa Đô thất thế nhưng vẫn liều
chết chống trả, rốt cuộc bị quân Đại Việt chém chết tại trận.
Quân Nguyên tan rã, chạy trốn trong vô
vọng. Quân Đại Việt truy kích, chém giết địch nhiều không kể xiết,bắt
sống đến hơn 5 vạn tù binh. Ô Mã Nhi cùng Lưu Khuê dùng thuyền con chèo
đi trốn ra biển, may mắn thoát chết. Quân ta cắt đầu của Toa Đô dâng lên
cho vua Trần Nhân Tông. Nhà vua cảm phục tài trí và tinh thần chiến đấu
của Toa Đô, bất giác có lòng thương cảm, nói với quần thần: “Người làm tôi phải nên như thế”. Nói
xong, vua cởi áo ngoài sai quan gói đầu Toa Đô đem chôn. Nhưng ngay sau
đó, vua nghe trình báo lại những tội ác tày trời mà Toa Đô đã gây ra
cho dân chúng. Vốn quân của Toa Đô là quân đói khát, trong quân lại có
những kẻ xuất thân tù tội nên đi đến đâu đều thả sức cướp bóc, tàn phá,
giết người không ghê tay. Trong các cánh quân Nguyên, quân của Toa Đô là
tàn hại nhân dân dữ dội nhất. Vua nghe qua hết sức căm giận bèn sai
quân lấy đầu Toa Đô tẩm dầu mà đốt đi để an ủi vong linh những nhân dân
đã tử nạn trước gót xâm lăng.
3. Lưu danh sử sách:
Như vậy là sau quãng thời gian chừng nửa
năm ròng chiến đấu dũng cảm, quân dân Đại Việt đã quét sạch hơn 50 vạn
quân Nguyên Mông xâm lược khỏi bờ cõi, bảo vệ được nền độc lập của đất
nước. Thắng lợi này có được là do nhiều nguyên nhân, nhưng trên hết là
do từ vua đến dân trên dưới một lòng. Nhận xét về chiến thắng, sử gia
các đời đã có những lời hay khác nhau.
Ngô Thì Sĩ khen ngợi chiến lược chung của vua tôi nhà Trần trong sách Việt Sử Tiêu Án rất xác đáng: “Mỗi
lần có tin báo quân Nguyên sang cướp, thì tất là Vua thân hành ra ngoài
trông coi quân, khi đi đông, đi tây, không đi nhất định đường nào, khi ở
trên bộ, khi ở thủy không đóng nhất định ở đâu, đó không phải là rát,
là vì Vua ở bên ngoài, thì dễ hiệu triệu thiên hạ. Cổ lệ lòng hăng hái
của quân sĩ, chư tướng thì tiện việc tâu xin mệnh lệnh, tam quân thì vui
lòng xông pha, lính tráng đều là quân của nước, của nhà giàu là của
nước, có cơ hội nào thì cổ động quân sĩ xông vào trước, gặp tình thế
không may thì tùy tiện mà chống giữ; khi tiến quân thì nhanh như chớp
nhoáng, khi lui về thì như rồng rắn ẩn thân, giặc không biết đâu mà
lường đạc được, nếu chỉ nấp giữ ở trong thành, thì địch coi đó là sào
huyệt, chúng sẽ chặn đường không cho vận lương đến, và giữ viện binh
không vào được, đến nỗi lương hết, lực cùng, chả nguy lắm sao. Có tin
giặc đến mà Vua lập tức đi ra ngoài, đó là kỳ kế, liệu sức giặc và tính
cách đánh của nhà Trần”.
Sách Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục của Quốc sử quán nhà Nguyễn thì nhấn mạnh ở việc trọng dụng người tài: “Lúc
bấy giờ nhà Nguyên mới nổi lên, khí thế rất ngang ngược. Nhà Trần cũng
may gặp lúc mới nổi lên, được các vua Thái Tông, Thánh Tông, Nhân Tông
và tướng văn tướng võ phần nhiều người tài, mới có thể đánh bại được
giặc, giữ được nước. Chứ nếu gặp người khác thì chưa biết thế nào”.
Vĩ thanh: Bài
học về nghệ thuật quân sự, rộng hơn là nghệ thuật giữ nước trong cuộc
kháng chiến chống Nguyên Mông lần 2 là rất lớn lao và quý báu. Ngoài
việc đút kết được rất nhiều kinh nghiệm cho quân dân nhà Trần tiếp tục
chiến đấu với đế chế Nguyên Mông những năm về sau, những kinh nghiệm về
chuẩn bị và tiến hành chiến tranh vệ quốc trong cuộc chiến này còn được
rất nhiều thế hệ sau của dân tộc Việt Nam vận dụng. Mong rằng qua loạt
bài này, mỗi độc giả sẽ có được những sự nhìn nhận riêng của mình về
cuộc chiến, đồng thời rút ra được những bài học bổ ích và cùng nhau hun
đúc tinh thần yêu nước.
Quốc Huy
Tướng Nhà Trần Chém Được Toa Đô tháng 5/1285
Toa Đô đóng quân ở Thiên trường xa cách Thoát Hoan hơn 200
dặm, cho nên chưa biết Thoát Hoan đã thua chạy về Bắc giang rồi, bèn
tiến bình vào đóng ở sông Thiên mạc định để hợp sức với Thoát Hoan làm
thế ỷ giốc. Được mấy hôm Toa Đô biết đạo tiền quân của mình đã bại
trận, mà các bến thì chỗ nào cũng có quân nhà Trần án ngữ, mới lui về
đóng ở Tây kết rồi cho người đi dò xem quân Thoát Hoan đóng ở đâu.
Quân
An nam từ khi đánh được trận Hàm tử và trận Chương dương rồi, quân thế
phấn chấn lắm. Hưng đạo vương mừng rỡ, vào tâu với Nhân tông xin một
mặt sai Chiêu văn vương Trần nhật Duật, hợp với Thượng tướng Trần quang
Khải dẫn quân chặn các đường, không cho Thoát Hoan, Toa Đô đi lại thông
tin với nhau, và một mặt xin tự tiến binh ra đánh Toa Đô, rồi đánh
Thoát Hoan.
Nhân tông nghe lời ấy, cho Hưng
đạo vương tùy ý mà sai khiến. Khi quân ra đến Tây kết, Hưng đạo vương
chia quân ra đánh trại quân Nguyên, và đặt phục binh để bắt Toa Đô.
Quân
ta đánh hăng quá, quân Nguyên không địch nổi, Toa Đô và Ô mã Nhi đem
binh lên bộ chạy ra mặt bể, nhưng khi chạy đến mé sau một dãy núi, thì
bị quân An nam vây đánh, Toa Đô trúng tên chết, còn Ô mã Nhi thì tìm
đường chạy vào Thanh hóa, nhưng bị quân ta đánh đuổi ngặt quá, phải một
mình lẻn xuống chiếc thuyền con chạy ra bể, trốn về Tàu được.
Khi
các tướng thắng trận, đưa đầu Toa Đô về nộp, Nhân tông thấy người dũng
kiện mà lại hết lòng với chúa, mới than rằng: "Làm bầy tôi nên như người
này!" rồi cởi áo ngự hào đắp vào đầu Toa Đô, sai quan dùng lễ mai táng
cho tử tế.
Trận Tây kết đánh vào tháng năm,
năm ất dậu (1285) quan quân bắt được quân Nguyên hơn 3 vạn người, và
chiến thuyền khí giới không biết bao nhiêu mà kể. Hưng đạo vương được
trận toàn thắng, mở tiệc khao thưởng ba quân, rồi lên đánh mặt bắc, để
tiểu trừ Thoát Hoan.
Nhận xét
Đăng nhận xét