Thứ Bảy, 27 tháng 7, 2019

HỔ TƯỚNG TÀU (Tướng "khựa" đáng xấu hổ) 1

(ĐC sưu tầm trên NET)
 
Đại Tướng Khét Tiếng TQ Thất Trận Trên Đất VIỆT – Phần 1: Ngột Lương Hợp Thai Và Thoát Hoan

Ngựa Mông Cổ hý vang biên giới, vua Trần thân chinh xuất chiến

Quốc Huy |
Ngựa Mông Cổ hý vang biên giới, vua Trần thân chinh xuất chiến

Nhận được tin báo về tình hình quân Mông Cổ và nắm được hướng tiến quân của chúng, vua Trần Thái Tông quyết định thân chinh. Đầu tháng 1.1258, vua điều động sáu quân gồm quân Thiên Thuộc, Thiên Chương, Thánh Dực, Chương Thánh, Thần Sách, Củng Thần cùng sương quân các lộ gần kinh thành.

1. Các hướng tiến quân của Mông Cổ
Cuối tháng 12.1257, Ngột Lương Hợp Thai từ trại A Mân sát biên giới Đại Việt rồi tấn công chiếm đóng trại Quy Hóa thuộc lãnh thổ Đại Việt. Quân của trại chủ Hà Khuất không chống nổi, phải lẫn vào rừng mà tránh mũi nhọn của giặc.
Sau đó quân Mông Cổ từ trại Quy Hóa tiến quân dọc bờ sông Thao (đoạn sông Hồng chảy qua các tỉnh Lào Cai, Yên Bái, Phú Thọ, Vĩnh Phúc) thẳng xuống kinh thành Thăng Long khi chờ không thấy sứ giả nào trở về. Hai đạo kỵ binh được phái đi tiên phong dò đường.
Đạo tiên phong thứ nhất do tướng Triệt Triệt Đô (Cacakdu) men theo hữu ngạn sông Thao mà tiến. Đạo tiên phong thứ hai do phò mã Mông Cổ là Hoài Đô (Quaidu) chỉ huy hành quân bên tả ngạn để bảo vệ sườn phải của đại quân Mông Cổ.
Viên tướng trẻ A Truật cầm trung quân tiến sau đội tiên phong của Triệt Triệt Đô. Sau cùng là hậu quân do Ngột Lương Hợp Thai trực tiếp chỉ huy.
2. Quân tình Đại Việt :
Bấy giờ về tương quan lực lượng toàn lãnh thổ, quân Đại Việt có quân số đông áp đảo địch. Nhưng vì là bên tấn công, Mông Cổ có lợi thế binh lực tập trung. Trái lại, quân đội Đại Việt cần phải phân chia để phòng thủ nhiều nơi trên đất nước.
Toàn quân thường trực Đại Việt có 10 vạn quân. Trong đó, cấm quân khoảng 2 vạn, sương quân 8 vạn. Các hiệu sương quân ngày thường thay phiên làm ruộng, nay đều đã nhập vào đội ngũ khi có lệnh sẵn sàng chiến đấu.
Trong năm 1257, một cánh quân đã được điều động lên trại Quy Hóa gần biên giới dưới quyền chỉ huy của viên tướng trẻ Trần Quốc Tuấn để phòng bị quân Mông Cổ.
Tuy nhiên, sử sách cũ của cả hai phía Nguyên Mông và Đại Việt đều không có ghi chép gì về sự giao chiến của Trần Quốc Tuấn với quân Mông Cổ. Có thể Trần Quốc Tuấn đã chủ động rút lui bảo toàn lực lượng, tránh đi cái thế mạnh ban đầu của giặc.
Một cụm quân quan trọng khác của Đại Việt đóng ở Thiên Mạc (thuộc Nam Định) – đất thang mộc của họ Trần. Ngoài ra, biên thùy phía nam vẫn luôn cần phải có trọng binh đóng giữ để phòng bị nước Chiêm Thành.
Dẫu vậy, về vấn đề quân số thì Đại Việt vẫn có thể điều động ngay lập tức một số lượng quân đông hơn hẳn quân địch. Quân số không phải là điều đáng ngại với Đại Việt trong cuộc chiến này.
Theo phép tắc nhà Trần, nhiều vương hầu nắm giữ trọng chức nhưng không thường xuyên ở tại kinh đô mà ở trong các Thái ấp của mình, khi có việc cần vua sẽ cho người gọi đến.
Chính vì vậy mà trong nhiều quyết định quan trọng lúc quân Mông Cổ mới sang, nhà vua không có được sự thảo luận kỹ càng từ các đại thần.
Đây mới chính là vấn đề khiếm khuyết quan trọng trong việc chuẩn bị kháng chiến. Vua Trần Thái Tông bấy giờ tuy là một vị vua anh minh, thể hiện được tài năng trị nước nhưng xét về kinh nghiệm chiến trường vẫn còn rất ít.
Cần biết rằng, tướng Mông Cổ sang Đại Việt lần này là những tên có rất nhiều kinh nghiệm chỉ huy nhiều cuộc chiến lớn, với nhiều hình thái chiến tranh khác nhau, và từng đánh bại nhiều đội quân có sở trường khác nhau. Sự chênh lệch về kinh nghiệm tác chiến, chỉ huy sẽ đóng vai trò rất lớn trong cuộc chiến.
3. Vua Trần Thái Tông thân chinh, hai đội quân đối mặt :
Nhận được tin báo về tình hình quân Mông Cổ và nắm được hướng tiến quân của chúng, vua Trần Thái Tông quyết định thân chinh.
Đầu tháng 1.1258, vua điều động sáu quân gồm quân Thiên Thuộc, Thiên Chương, Thánh Dực, Chương Thánh, Thần Sách, Củng Thần cùng sương quân các lộ gần kinh thành.
Tổng quân số lên đến chừng hơn 7 vạn người, với tượng binh trợ chiến và nhiều chiến thuyền (căn cứ theo quân số có thể có hơn 1000 thuyền) làm nhiệm vụ chuyên chở quân lính, voi chiến.
Số quân binh này đã được lệnh sẵn sàng chiến đấu từ trước, nay chỉ hô một tiếng là lập tức hợp thành đoàn quân. Tháp tùng theo vua có nhiều tướng lĩnh quan trọng.
Tuy nhiên, vẫn còn nhiều vương hầu và các lộ ở xa chưa đến hội quân. Ấy là do vua Trần Thái Tông khá tự tin với quân đông hơn gần gấp đôi và có nhiều tượng binh trợ chiến, ngài sẽ nhanh chóng giành chiến thắng trước quân Mông Cổ. Vua đi đánh trận xa, Thái sư Trần Thủ Độ được giao trọng trách giám quốc, đóng ở kinh đô Thăng Long làm hậu viện.
Binh thuyền Đại Việt từ kinh thành Thăng Long ngược dòng sông Phú Lương (sông Cầu), rẽ vào sông Cà Lồ tiến lên phía tây bắc chặn giặc.
Đến vùng Bình Lệ Nguyên (Bình Xuyên, Vĩnh Phúc ngày nay), vua Trần Thái Tông cho quân đổ bộ lên bờ bắc sông Cà Lồ, tiến về bờ nam con sông Phan, khu vực làng Hương Canh mà dàn trận nghênh địch (1).
Còn số thuyền chở quân đổ bộ đóng tại bến Lãng Mỹ, nằm trên sông Cà Lồ, cách Bình Lệ Nguyên không xa, để phòng sự bất trắc sẽ chở quân rút lui về hậu tuyến.
Lại nói quân Mông Cổ từ khi nhổ trại tiến quân đến giữa tháng 1.1258 thì đến bờ sông Lô. Các toán tiền hậu tả hữu của Mông Cổ cùng vượt sông Lô hội quân tại Bạch Hạc (thuộc Việt Trì, Phú Thọ ngày nay).
Đoàn quân xâm lược của Mông Cổ do tướng Ngột Lương 6Hợp Thai cầm đầu chỉ còn cách đội quân vệ quốc của vua Trần Thái Tông một con sông Phan (con sông nhỏ thuộc hệ thống sông Cà Lồ). Bên bờ nam con sông nhỏ này, voi ngựa Đại Việt bày trận san sát chờ sẵn.
Bên kia bờ bắc, quân Mông Cổ sắp đặt các thê đội chuẩn bị vượt sông. Cuộc quyết chiến giữa Đại Việt và Mông Cổ sắp bắt đầu.
Còn tiếp...
Chú thích (1) : Nhiều tài liệu cũ cho rằng quân Đại Việt dàn trận ở bờ nam sông Cà Lồ. Xét thấy không hợp lý vì địa danh Bình Lệ Nguyên, nay là huyện Bình Xuyên nằm ở bờ bắc sông Cà Lồ. Nay qua nghiên cứu địa đồ và ghi chép về hướng tiến quân của địch xin phép cải chính lại.
theo Một thế giới

Sau huyết chiến Bình Lệ Nguyên, tướng Mông Cổ hổ thẹn tự sát

Quốc Huy |
Sau huyết chiến Bình Lệ Nguyên, tướng Mông Cổ hổ thẹn tự sát

Vô cùng tức giận vì đã không thể bắt giết được vua Trần và để phần nhiều quân Đại Việt rút lui an toàn khỏi trận địa. Ngột Lương Hợp Thai đổ hết mọi tội lỗi lên đầu tướng Triệt Triệt Đô vì đã không hoàn thành được nhiệm vụ cướp thuyền, dọa rằng sẽ xử theo quân pháp. Tướng tiên phong Triệt Triệt Đô hổ thẹn, uống thuốc độc tự sát.

1. Vua Trần chịu muôn phần hiểm nguy
Vua Trần Thái Tông tự mình làm tướng soái cầm quân đánh Mông Cổ, lại tự mình cầm gươm xông pha nơi mũi tên hòn đạn, cùng tướng sĩ chung phần hiểm nguy. Bấy giờ tuy quan quân Đại Việt chiến đấu hăng hái, nhưng quân Mông Cổ lại dai sức và cũng quyết tâm cao độ. 
Hàng hàng lớp lớp kỵ binh tinh nhuệ Mông Cổ nhắm thẳng vào hướng vua Trần Thái Tông xông tới, quyết giết bằng được quân chủ của Đại Việt. Hỗn chiến dữ dội ngay chỗ của vua Trần, binh sĩ hộ vệ vua ai ai cũng bận tay chống cự giặc. 
Nhà vua chiến đấu một hồi, nhìn quanh tả hữu không còn ai, chỉ còn thấy mỗi một vị tướng sắc mặt không động, một người một ngựa tung hoành trong muôn trùng vây quân địch, dũng mãnh che chắn cho vua nhiều đòn tấn công. 
Vị tướng đó là Ngự sử trung tán Lê Tần, người Ái Châu, một người văn võ toàn tài, hậu duệ của vua Lê Đại Hành. Nhờ sự dũng mãnh của Lê Tần, các quan quân hộ vệ mới có thời cơ xốc lại đội ngũ, bảo vệ cho vua. 
Tuy vậy trận thế của Đại Việt cứ bất lợi dần, quân lính chết càng nhiều do sức mạnh vượt trội của kỵ binh Mông Cổ.
Tình thế lúc ấy muôn phần hung hiểm, có người khuyên vua nên rút lui, kẻ lại xin vua ở lại tử chiến. Vua Trần Thái Tông đang lúc phân vân, ý cũng muốn “liều chết một phen” thì tướng Lê Tần cố sức can rằng : "Nếu bây giờ bệ hạ làm như thế, thì chỉ như người dốc hết túi tiền để đánh nốt tiếng bạc mà thôi. 
Tôi tưởng hãy nên lánh đi, không nên khinh thường mà nghe người ta được” (theo Cương Mục). Vua nghe xong bừng tỉnh, hạ lệnh toàn quân rút lui về phía bến thuyền. Quyết định như vậy tức là vua Trần đã chấp nhận thua trận để mong bảo toàn lực lượng, chờ cơ hội phản công về sau. 
Nghe lệnh vua, hậu quân đổi thành tiền quân rút trước, tiền quân vừa đánh vừa lui chặn hậu. Nhưng hiện tại trên chiến địa quân ta và quân địch đã vào thế đan xen lẫn nhau. Lương Hợp Thai hạ lệnh dốc toàn lực đuổi theo bắt giết vua Trần Thái Tông.
Quân Mông Cổ đuổi rất gấp, tưởng chừng có lúc đã bắt kịp được vua ta. Đến sách Cụ Bản, đang lúc nguy cấp thì một đội quân địa phương kéo tới cứu viện vừa kịp lúc, dưới sự chỉ huy của tướng Phạm Cự Chích. 
Đội quân này xét về độ tinh nhuệ thì thua cả quân Mông Cổ lẫn quân triều đình mà vua Trần đã điều động, nhưng lòng dũng cảm trung kiên thì có thừa. Phạm Cự Chích cùng quân sĩ dưới trướng kịp thấy vua bị đuổi gấp, cùng nhau nhất tề xông vào chắn ngang đội hình truy đuổi của quân giặc. 
Từng người một trong số họ ngã xuống trước vó ngựa Mông Cổ, cho đến người cuối cùng. Đội quân của Phạm Cự Chích đã làm chậm nhịp truy kích, giúp vua và nhiều quân chủ lực Đại Việt khác xuống được thuyền rút lui. 
Quân Mông Cổ truy kích đến bờ sông, dùng cung tên bắn với theo thuyền rồng vua ngự, nhiều quân Đại Việt bị trúng tên. Lê Tần lệnh cho quân lật ván thuyền che cho vua. 
Nhờ vậy mà vua Trần Thái Tông an toàn rút khỏi trận địa. Thuyền của Đại Việt chèo nhanh về hướng đông, dần bỏ xa kỵ binh Mông Cổ lại phía sau.
2. Tiên phong quân Nguyên uống thuốc độc tự sát
Trận này, quân Đại Việt bị tổn thất nặng về voi chiến, nhưng phần nhiều binh lực vẫn được bảo toàn nhờ quyết định kịp thời của vua Trần Thái Tông và sự đồng lòng chung sức của quân tướng Đại Việt. Về phía quân Mông Cổ, tuy cũng có một số thiệt hại nhất định nhưng vẫn còn gần nguyên vẹn bộ khung là những binh tướng người Mông Cổ thiện chiến.
Nhận định về trận Bình Lệ Nguyên, chúng ta thấy rằng rõ ràng nếu so sánh về khả năng đối trận đánh trực diện thì quân Đại Việt không phải là đối thủ của quân Mông Cổ. 
Kể cả việc quân ta đông hơn gần gấp đôi, có tượng binh trợ chiến và là bên đến chiến trường trước thì vẫn không địch nổi. Lý do là bởi quân Mông Cổ đa phần là kỵ binh được trang bị rất tốt và dày dặn kinh nghiệm chiến đấu. 
Nên biết rằng, ở thời kỳ này một đơn vị kỵ binh thông thường được đánh giá là có thể đấu với số lượng bộ binh đông ít nhất gấp 2 lần trở lên. Trong cơ cấu phân chia chiến lợi phẩm của đế quốc Ả Rập, kỵ binh được chia nhiều gấp 3 lần bộ binh. 
 Tại Châu Âu thời này, trang bị của một kỵ sĩ có giá trị tương đương với tổng tài sản của một làng. Ở một số nước, ngựa của kỵ binh thì bộ binh không có quyền cưỡi, nếu không muốn mang tội bất kính. Điều đó đủ cho thấy kỵ binh được đánh giá cao như thế nào.
 Huống chi, kỵ binh Mông Cổ lại là loại quân kỵ được đánh giá là hùng mạnh bậc nhất thế giới. Quân Đại Việt cũng có một số kỵ binh, nhưng đa phần là bộ binh hay quân thủy đánh bộ. Khi tác chiến ở địa hình bằng phẳng thoáng đản, tất nhiên sẽ gặp nhiều bất lợi. 
Xét về võ nghệ, quân Đại Việt tuy cũng là một đội quân mạnh vượt trội so với lân lang đương thời như Tống, Chiêm, Đại Lý … nhưng vẫn thua kém quân lính Mông Cổ vốn lớn lên trong chiến đấu.
Thất bại trong trận đầu tiên này là do sự tự tin thái quá của vua Trần Thái Tông, mà nguyên nhân sâu xa là vì sự thiếu thông tin của địch. Việc lựa chọn địa điểm quyết chiến hoàn toàn là một sai lầm. 
Tuy nhiên, dù bại trận cũng cho thấy nhiều điểm sáng. Đó là tinh thần chiến đấu và kỷ luật tuyệt vời của quan quân Đại Việt. Ở trường hợp tương tự, các đội quân xuất thân từ nông dân khác trên thế giới nhiều khả năng sẽ tan rã trong hoảng loạn, bỏ mặc chủ soái mà vứt vũ khí chạy thoát thân, hoặc giả buông giáo đầu hàng. 
Vậy mà quân đội Đại Việt lại có thể rút lui một cách có tổ chức, phần đông lên được thuyền để rút lui chứ không bỏ chạy hỗn loạn hay đầu hàng. Để rồi sau đó, lực lượng rút khỏi Bình Lệ Nguyên chính là những nòng cốt cho những trận chiến về sau.
Sau trận chiến, Ngột Lương Hợp Thai không thể mừng chiến thắng. Trái lại y vô cùng tức giận vì đã không thể bắt giết được vua Trần và để phần nhiều quân Đại Việt rút lui an toàn khỏi trận địa. 
Ngột Lương Hợp Thai đổ hết mọi tội lỗi lên đầu tướng Triệt Triệt Đô vì đã không hoàn thành được nhiệm vụ cướp thuyền, dọa rằng sẽ xử theo quân pháp. Tướng tiên phong Triệt Triệt Đô hổ thẹn, uống thuốc độc tự sát. 
Sách Nguyên Sử chép lại rằng tướng Triệt Triệt Đô ham đánh mà bất tuân thượng lệnh, nên kế hoạch của Ngột Lương Hợp Thai mới đổ bể. Nhưng đó chỉ là lời lẽ nhằm tô điểm cho hình tượng một Thái Soái “dụng binh như thần” trong mắt người phương bắc mà thôi, và cũng để an ủi rằng một nước như Đại Việt không bị thôn tính chẳng qua nhờ may mắn. 
Thực tế thì chính ngay kế hoạch của Ngột Lương Hợp Thai đã có vấn đề. Y đã quá tự tin mà coi thường sự bố phòng của quân Đại Việt. Thuyền bè là yếu huyệt của quân ta, đâu dễ gì nói cướp là cướp. 
Ắt hẳn phải có sự canh phòng và ứng cứu lẫn nhau giữa đội giữ thuyền trên bến Lãng Mỹ với cụm quân chính dàn trận ở làng Hương Canh. Chính việc đánh giá không đúng sức kháng cự của quân Đại Việt đã làm phá sản kế Cầm Tặc Cầm Vương (bắt giặc bắt vua) của Ngột Lương Hợp Thai. 
Đại Việt bảo toàn được đầu não và lực lượng nòng cốt, có điều kiện áp đặt thế trận mới cho cuộc chiến.
theo Một thế giới

Nhà Trần đánh tan hơn 50 vạn quân Nguyên, Thoát Hoan phải chui ống đồng chạy trốn

B.T sưu tầm, SGK Sử 7 |
Nhà Trần đánh tan hơn 50 vạn quân Nguyên, Thoát Hoan phải chui ống đồng chạy trốn
Hình minh họa.

Năm 1285, quân Nguyên Mông lại một lần nữa động binh, âm mưu đánh chiếm Đại Việt. Tuy nhiên, dưới chiến thuật cẩn trọng, chu toàn, chúng ta đã đánh tan 50 vạn quân địch.

Âm mưu xâm lược Chăm-pa và Đại Việt của nhà Nguyên
Năm 1279, nước Nam Tống bị tiêu diệt, Trung Quốc hoàn toàn bị Mông Cổ thống trị. Vua Nguyên là Hốt Tất Liệt ráo riết thực hiện âm mưu xâm lược Chăm-pa và Đại Việt để làm cầu nối xâm lược và thôn tính các nước ở phía nam Trung Quốc.
Hốt Tất Liệt cho quân đánh Chăm-pa (Chiêm Thanh) trước để làm bàn đạp tấn công vào phía nam Đại Việt, phối hợp với cánh quân của Thoát Hoan từ Trung Quốc đánh vào phía bắc.
Năm 1283, hơn một vạn quân Nguyên cùng hơn 300 chiến thuyền do tướng Toa Đô chỉ huy xâm lược Chăm-pa, chiếm được kinh thành. Quân dân Chăm-pa đã chiến đấu hết sức anh dũng ; cuối cùng quân Nguyên phải rút một bộ phận về cố thủ ở phía bắc để chờ phối hợp đánh Đại Việt.
Kế họach của nhà Nguyên định dùng Chăm-pa làm bàn đạp tấn công nước ta bước đầu tan vỡ.
Nhà Trần chuẩn bị kháng chiến
Sau khi biết tin quân Nguyên mượn đường đánh Cham-pa nhung chỉ là tìm cớ xâm lược Đại Việt, vua Trần triệu tập hội nghị các vương hầu, quan lại ở Bình Than (Chí Linh, Hải Dương) để bàn kế đánh giặc.
Đến Bình Than có Trần Quốc Toản, vì tuổi còn nhỏ nên không được dự hội nghị. Trần Quốc Toản tức giận quân Nguyên xâm lược đến nỗi tay cầm quả cam bóp nát lúc nào không biết. Khi về nhà, đã huy động gia nhân và thân thuộc hơn 1000 người, làm binh khí, đóng chiến thuyền và may cờ đề 6 chữ "Phá cường địch, báo hoàng ân" (Phá giặc mạnh, báo ơn vua).
Trần Quốc Tuấn (Trần Hưng Đạo) được vua Trần giao trọng trách Quốc công tiết chế – chỉ huy cuộc kháng chiến. Ông soạn Hịch tướng sĩ động viên tinh thần chiến đấu của quân đội.
Đầu năm 1285, vua Trần mở Hội nghị Diên Hồng, mời các bậc phụ lão có uy tín trong cả nước và Thăng Long họp để bàn cách đánh giặc.
Trong Hội nghị Diên Hồng, khi vua Trần hỏi kế đánh giặc, "các phụ lão đều nói là nên đánh, muôn người cùng lời như một".
(Đại Việt sử kí toàn thư)
Nhà Trần tổ chức cuộc tập trận lớn và duyệt binh ở Đông Bộ Đầu rồi chia quân đóng giữ những nơi hiểm yếu.
Cả nước được lệnh chuẩn bị sẵn sàng đánh giặc. Quân sĩ đều thích vào cánh tay hai chữ "Sát Thát" (giết giặc Mông Cổ).
Diễn biến và kết quả của cuộc kháng chiến
Cuối tháng 1 - 1285, 50 vạn quân Nguyên do Thoát Hoan tổng chỉ huy tràn vào xâm lược Đại Việt. Sau một số trận chiến đấu chặn giặc ở vùng biên giới, Trần Quốc Tuấn cho lui quân về Vạn Kiếp (Chí Linh, Hải Dương).
Nghe tin quân của Trần Quốc Tuấn không chặn được giặc, phải lui quân, vua Trần lo lắng, bỏ cả ăn cơm, vội vã đi thuyền đến gặp và hỏi Quốc Tuấn: thế giặc mạnh, giết hại nhân dân tàn bạo, có nên hàng giặc không. Trần Quốc Tuấn trả lời: "Nếu bệ hạ (vua) muốn hàng giặc thì trước hãy chém đầu thần rồi hãy hàng".
(Đại Việt sử kí toàn thư)
Quân Thoát Hoan tập trung một lực lượng lớn tấn công vào Vạn Kiếp. Trước thế giặc mạnh, quân Trần lui về Thăng Long, sau đó rút về Thiên Trường (Nam Định). Nhân dân ở Thăng Long thực hiện lệnh "vườn không nhà trống" của triều đình.
Quân Thoát Hoan kéo vào chiếm Thăng Long trống vắng. Không dám đóng quân trong thành, chúng phải dựng doanh trại ở phía bắc sông Nhị (sông Hồng).
Toa Đô được lệnh từ Chăm-pa đánh ra Nghệ An, Thanh Hóaa. Thấy thế giặc mạnh, một số quý tộc nhà Trần đầu hàng giặc. Cuộc kháng chiến gặp rất nhiều khó khăn.
Nhà Trần đánh tan hơn 50 vạn quân Nguyên, Thoát Hoan phải chui ống đồng chạy trốn - Ảnh 1.
Lược đồ cuộc kháng chiến lần thứ 2 chống quân Nguyên ( 1285)
Cùng lúc đó, Thoát Hoan tự mình chỉ huy một lực lượng mạnh, mở cuộc tiến công lớn đánh xuống phía nam nhằm tạo thành thế "gọng kìm", hòng tiêu diệt quân chủ lực của ta và bắt sống toàn bộ đầu não của cuộc kháng chiến. Trước tình thế nguy cấp, Trần Quốc Tuấn phải ra lệnh rút lui để củng cố lựợng, chuẩn bị cho cuộc phản công tiêu diệt quân địch.
Bị thất bại trong âm mưu bắt sống vua Trần và tiêu diệt quân chủ lực của ta, Thoát Hoan rút quân về Thăng Long chờ tiếp viện. Quân Nguyên lâm vào tình thế bị động lại thiếu lương thực trầm trọng.
Tháng 5-1285, Lợi dụng thời cơ, quân Trần tổ chức phản công, đánh bại quân giặc ở nhiều nơi như Tây Kết, cửa Hàm Tử (Khoái Châu, Hưng Yên), bến Chương Dương (Thường Tín, Hà Nội) và tiến vào giải phóng Thăng Long.
Quân giặc hốt hoảng tháo chạy, bị quân Trần phục kích chặn đánh, nhiều tên bị giết. Thoát Hoan vất vả lắm mới chạy thoát về nước (tướng giặc là Lý Hằng hoảng sợ phải giấu Thoát Hoan vào ống đồng, bắt quân lính khiêng chạy).
Vua Trần còn đem quân chặn đánh đạo quân của Toa Đô ở Tây Kết, hàng vạn quân giặc bị tiêu diệt. Tướng Toa Đô bị chém đầu.
Sau gần hai tháng phản công (tháng 5 và 6), quân dân nhà Trần đã đánh tan tành 50 vạn quân Nguyên, một đạo quân hùng mạnh bậc nhất thế giới thời đó. Đất nước sạch bóng quân xâm lược, cả dân tộc ca khúc khải hoàn.
"Chương Dương cướp giáo giặc,
Hàm Tử bắt quân thù.
Thái bình nên gắng sức.
Non nước ấy ngàn thu".
Trần Quang Khải - Tụng giá hoàn kinh sư
(Phò giá về kinh - Bản dịch thơ của Trần Trọng Kim)
theo Helino

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét