BỘ MẶT CHIẾN TRANH 04
-Chiến
tranh mang bộ mặt gớm ghiếc, tởm lợm đến khủng khiếp, không thể tả được,
dù bôi son trát phấn như thế nào, tung hô ra sao.
-Chiến tranh là thể hiện sự thờ ơ, vô cảm khốn nạn tột cùng về việc hủy diệt tàn bạo cuộc sống và thân phận con người.
-Chiến tranh phi nghĩa là chiến tranh "nặn ra" lý do từ không có lý do, hủy diệt và tàn phá cuộc sống một cách không chính đáng. Chiến tranh chính nghĩa là chiến tranh nảy sinh từ việc chống chiến tranh phi nghĩa, được hủy diệt và tàn phá cuộc sống một cách chính đáng (?).
-Tóm lại, bộ mặt thật của chiến tranh nói chung là độc ác, ngu xuẩn và mù quáng đến ngỡ ngàng của con người khôn ngoan, có lý trí.
-Ngày chiến thắng 30/4, lũ bán nước cay cú gọi là ngày quốc hận, người cộng sản cực đoan cho rằng đó là ngày toàn dân phải vui mừng, riêng cố thủ tướng Võ Văn Kiệt, người có vợ con đều chết trong chiến tranh, thì nói, đó là ngày có triệu người vui và cũng có triệu người buồn.
-Lão Tử, một đại hiền triết thời cổ đại của Trung Quốc, từng nói: "Giết hại nhiều người thì nên lấy lòng bi ai mà khóc, chiến thắng rồi thì nên lấy tang lễ mà xử".
-------------------------------------------------------
(ĐC sưu tầm trên NET)
Bộ đội tình nguyện Việt Nam trên chiến trường K.
Bộ đội xe tăng thực hành huấn luyện nội dung bơi vượt sông (Ảnh Giang Lam).
-Chiến tranh là thể hiện sự thờ ơ, vô cảm khốn nạn tột cùng về việc hủy diệt tàn bạo cuộc sống và thân phận con người.
-Chiến tranh phi nghĩa là chiến tranh "nặn ra" lý do từ không có lý do, hủy diệt và tàn phá cuộc sống một cách không chính đáng. Chiến tranh chính nghĩa là chiến tranh nảy sinh từ việc chống chiến tranh phi nghĩa, được hủy diệt và tàn phá cuộc sống một cách chính đáng (?).
-Tóm lại, bộ mặt thật của chiến tranh nói chung là độc ác, ngu xuẩn và mù quáng đến ngỡ ngàng của con người khôn ngoan, có lý trí.
-Ngày chiến thắng 30/4, lũ bán nước cay cú gọi là ngày quốc hận, người cộng sản cực đoan cho rằng đó là ngày toàn dân phải vui mừng, riêng cố thủ tướng Võ Văn Kiệt, người có vợ con đều chết trong chiến tranh, thì nói, đó là ngày có triệu người vui và cũng có triệu người buồn.
-Lão Tử, một đại hiền triết thời cổ đại của Trung Quốc, từng nói: "Giết hại nhiều người thì nên lấy lòng bi ai mà khóc, chiến thắng rồi thì nên lấy tang lễ mà xử".
Hai sư thầy hát bolero - Hát cho người nằm xuống tri ân cố nhạc sĩ trịnh công sơn
-------------------------------------------------------
(ĐC sưu tầm trên NET)
The Battle Of Neretva - Tank Scenes HD
Chiến trường K: Lính tình nguyện VN, giấc ngủ trên tấm ván của người chết và những lần giáp mặt "ma đói"
Xuân Tùng |
Anh Chính rầu rĩ bảo: "Ma đói, ma đói đấy, chúng mày có đổ đạn đi cũng không trúng đâu. Cấm thằng nào đuổi, nó dẫn vào ổ phục đấy".
Cảnh hoang tàn và ghê rợn ở phum Th’mei
Mùa
mưa đến, tiểu đoàn 4, Sư đoàn 9 chúng tôi rời khỏi vùng sơn lam chướng
khí chân núi Aoral, vương quốc ma rừng sốt rét, về phum Th’mei ngoài ga
Bamnak củng cố.
Th’ mei là một
phum bỏ hoang, như hầu hết các phum trong khu vực. Dãy nhà sàn lừng
lững, mái ngói lên rêu phủ bóng tối xuống mảnh sân đầy cỏ dại. Trên sân,
mấy cái cối giã gạo đã mục thủng đáy chỏng trơ. Xoài tượng rụng vàng
gốc bốc mùi men rượu chua nồng.
Bước lên thang, những bậc gỗ cũ kẽo kẹt sẵn sàng rụng xuống. Những ngôi nhà sàn rộng nhưng tăm tối, đầy ẩm mốc và tử khí.
Có
khi thấy cả xác người đã phân huỷ, dưới lớp áo quần đã mủn là những bộ
xương rã rời. Tóc rụng quanh sọ không tiêu huỷ, xếp thành lớp chằn chặn
trên sàn.
Một ngôi nhà ngói lớn trong
phum có bộ ván ngựa hai mảnh bằng loại gỗ mun đen dày rất đẹp. Chủ nhân
cỗ ván đôi trường miên ngọa ngự bên trên, trong hình thù một bộ xương
người.
Tóc dài xếp lớp buộc dây
nilon, chắc đó là xương đàn bà còn trẻ. Chúng tôi dùng xẻng gạt, bỏ hết
những gì còn lại hình hài của chủ nhân cũ xong, bốn thằng một tấm khiêng
mang ra suối, nhờ nước xuôi dòng về cứ tiểu đoàn.
Trung
đội thông tin đóng cọc ngâm hai tấm ván dưới suối gần tháng làm cầu tắm
giặt. Anh Ky tiếc của, bảo khiêng lên làm ván nằm cho mát, lật mặt gỗ
lại mà nằm, sợ đếch gì.
Khi mang 2
tấm ván lên nhà, thằng Quan với Toàn cồ không chịu nằm. Thằng Quan lính
miền Tây mới bổ sung, học hết lớp 12 kiến thức đầy mình.
Nó
có căn hợp hồn sao đó với bộ ván mới, mặc dù nó không bao giờ dám ngủ
trên đó. Tuy nằm chỗ khác nhưng đêm liên tục nghiến răng kèn kẹt. Thỉnh
thoảng lại lảm nhảm hoặc hét lên khi nằm mơ. Sau rồi nó ôm chiếu về nhà
trung đội chỗ anh Nhương ở.
Tôi với
anh Ky nằm chung đôi ván chẳng làm sao hết. Mất ngủ không, mộng mị cũng
không. Hoàn toàn không có gì khác thường. Có điều tấm ván này là cái
phong vũ biểu dự báo thời tiết khá chính xác.
Bình
thường, thời tiết tốt không có vấn đề gì xảy ra. Hễ khi trên tấm ván
thiêng ấy thấy một viền hình người nằm xuôi mờ mờ hiện ra, có thể đánh
cá mười ăn một với chúng nó rằng ngày mai sẽ trời mưa sầm trời tối đất,
kể cả đó đang là một ngày chớm mùa khô.
Bấy
giờ đang là mùa mưa nên ngày nào cô ấy cũng hiện. Nó hẳn có duyên giời
với những chàng trẻ trai bất cần, bóng vía cứng cáp cùng cuộc đời xông
pha vô tư lự.
Rình rập ma đói mùa mưa
Mùa
mưa đến cũng có nghĩa mùa sốt rét bắt đầu tác quái. Đơn vị đã có những
người sốt nằm li bì. Quân số tác chiến bắt đầu giảm đi. Y tá tiểu đoàn
và các đại đội phát thuốc Nivaquin.
Những
toán địch nhỏ vẫn bâu bám rất sát. Chúng nó bám theo dân ra ngoài ga
kiếm ăn vì trong rừng hết lương thực. Đơn vị đêm đêm tổ chức phục kích
quanh chỗ dân ở tạm. Lính Pốt không liên lạc dọa dẫm dân lấy lương thực
được, tụi nó sẽ trở thành ma đói, bởi ngay dân cũng còn đang đói.
Quanh ga có mấy phum cũ bỏ hoang, nơi các cây ăn quả đang ra trái. Bọn địch đói lần lũi ăn tranh cả trái cây với chúng tôi.
Xoài
chín chúng nó mò vào ăn ngay gốc, xoài xanh chúng nó đập rụng mang đi
hết. Nhiều gốc cây ổi dại thấy mấy quả xanh nham nhở vết răng lăn lóc
dưới đất, nhựa còn chưa kịp thâm, chứng tỏ mấy con ma đói vừa đi qua
đây.
Những sân nhà cũ, đậu đen mọc
len với cỏ dại. Giống đậu đen bình thường đã biến đổi kỳ lạ thành một
loài dây leo, vươn lên quấn hàng rào, chen nhau với các cây bụi khác.
Chúng tôi hay lùng mót trái đậu chín, gom phơi nổ hạt để nấu chè.
Được
vài bữa trở lại vườn đậu, đã thấy dấu dép vuông của mấy thằng ma Pốt
đói đến thu hoạch trước. Nó ngắt cả ngọn đỗ non để ăn. Bọn tôi bắt
chước, hái ngọn đỗ non nấu canh cũng thấy rất bùi, ngon hơn rau tàu bay
môn thục.
Có lần đại đội rời đi lùng
sục, địch mò hẳn vào chỗ trú quân tạm. Cái chum sứt lớn chúng tôi thái
măng le ngâm chua để ăn dần. Tụi ma đói vớt hết sạch măng, sau đó đập
tan cái chum. Anh Chính tức tối chửi bới rầm rĩ.
Người
với ma quanh quẩn vờn nhau quanh cái ga xép. Một buổi sáng sớm mưa mù,
đang đánh răng ở cái rãnh ven đường, tôi thấy 2 bóng đen khoác súng vật
vờ trên đường lớn từ cửa rừng ra. Tôi chỉ tay, ra hiệu cho thằng Trung
đang rửa mặt bên cạnh. Nó hấp tấp chạy sang bên kia đường về võng lấy
súng.
Hai cái bóng thấy động dừng
lại, dập dình cao thấp đứng nhìn một lát rồi lững thững trở lui. Lính
đại đội kê súng ngắm bắn phát một, rành rẽ như bắn tập. Chúng vẫn lững
thững không chạy, lả lướt đi trên các bụi trinh nữ như trêu ngươi trước
cả chục họng súng xả đạn mà không phát nào tin.
Anh Chính rầu rĩ bảo: "Ma đói, ma đói đấy, chúng mày có đổ đạn đi cũng không trúng đâu. Cấm thằng nào đuổi, nó dẫn vào ổ phục đấy". Khuất hẳn trong rừng, thấy tụi nó bắn lại 3 phát toác toác.
Thằng Trung bảo: "Địch anh ạ, không phải ma".
Anh Chính lại điên lên mắng: "Chúng mày chỉ bắn chim cu là thạo. Mấy thằng ăn cắp măng gần thế tao vừa nhắm mắt vừa bắn cũng trúng".
Không
biết chúng nó giỡn bọn tôi hay không có sức để chạy. Tôi ra rẫy mì nhổ
củ non về nấu canh. Củ mì mới ra bằng ngón chân cái thái vát nấu chua
với lá giang ăn nhớt nhèo nhưng lạ miệng.
Khi
rau đã cạn, canh mì non cũng là một thứ nuốt trôi cơm. Rũ đất củ xong,
tranh thủ tắm suối và giặt luôn bộ quần áo đang mặc trên người. Một
thằng trai phố, sau mấy năm lang bạt giờ cũng biết lụi cụi làm những
việc canh trồng.
Buổi chiều lặng
trong tiếng suối. Nằm ngửa tựa hòn đá mồ côi, thấy nước lùa cát chảy xoi
xói dưới lưng thật buồn.Một cơn giông đen sầm đang tới. Mây đùn lên,
dựng những hình thù quái dị, vần vụ như sóng thần trên đỉnh rừng.
Lớp
mây nọ chồng lên khuất lấp lớp mây kia trông thật hùng vĩ. Thả nổi
người bềnh bồng trong nước, lặng ngắm sự biến chuyển huyền diệu của vũ
trụ, thấy mình đang ở rất xa. Bao giờ có một chiều mưa như thế này, được
nằm dài trên cái giường ấm, bật ngọn đèn bàn đọc lại cuốn sách cũ, lười
biếng chờ mẹ gọi dậy ăn cơm?
Chắc là
còn lâu lắm.Mây cuốn dần, sà xuống tràn qua đỉnh cây dầu rái cao vút
bên bờ suối trung đội vận tải. Cây dầu gốc to cỡ hơn hai người ôm, vảy
thân rắn đanh, mốc xám như vảy sắt. Rừng ven suối tối sẫm như ngả sang
đêm.
Mưa lộp bộp lắc rắc, rồi mưa dội
ù ù. Lúc đó, một sự lạ lùng xảy ra ngay trước mắt. Từ các cành ngang
của cây dầu cổ thụ, những tia sáng mảnh màu lá mạ kêu lách tách, toả
lằng nhằng xuống đám rừng khộp mọc xung quanh.
Các tia lửa xanh từ đó, lại nhay nháy như một bộ rễ trần khổng lồ phát sáng, toả xuống đám cây thấp hơn trong câm lặng.
Cố
tự trấn tĩnh, bụng bảo dạ rằng đây chỉ là sự phóng điện trong điện
trường tĩnh điện cao, như bài học vật lý, bình thường thôi.
Nhưng
chợt nhớ Quỳnh xe lôi đi ném cá, ôm trọn quả tức thì mấy tháng trước
đúng bến suối này. Lại nhớ đến những bóng ma Pốt đói rập rình, bắn mãi
không trúng.
Tóc đang ướt, nhưng có
cảm giác cũng đang kêu lách tách, dựng đứng hết trên đỉnh đầu. Sự hoảng
sợ bùng phát, làm tôi mất kiểm soát.
Mưa
quất rát lưỡi mới biết mồm mình đang há. Bỏ cả đám quần áo ướt và bó
sắn, tôi hộc tốc trườn ngụp xuôi dòng suối về bếp tiểu đoàn. Chí đen
đang cạo cháy trên bến anh nuôi kéo tôi lên.
Hắn bảo: "Tóc mày ướt sao dựng cứng như lông nhím thế này. Cái mặt gì nom đen sịt như mặt thiên lôi".
Chí đen hoàn toàn không biết tôi vừa giáp mặt thiên lôi.
Trận vượt sông bằng sức mạnh lớn nhất của QĐNDVN ở Campuchia và cuộc đào thoát kinh hoàng từ tay Thần Chết
Đại tá Nguyễn Khắc Nguyệt |
Bọn địch có vẻ bình thản không để ý đến Tường nữa vì máu vẫn chảy nhiều. Anh nhẹ nhàng cho tay vào túi quần đưa quả US ra, rút chốt rồi lấy hết sức bình sinh bật dậy tung lựu đạn.
Cuộc chiến ở chiến trường Campuchia
được gọi là "cuộc chiến tranh không có tù binh". Đã lọt vào tay lũ quỷ
khát máu Khmer Đỏ thì coi như chết. Ấy vậy mà cũng có những trường hợp
đã đào thoát được một cách thần kỳ.
Trận tiến công vượt sông bằng sức mạnh lớn nhất trên chiến trường Campuchia
Tháng 12.1978, Lữ đoàn xe tăng 215 nhận lệnh chuẩn bị lên đường đi chiến đấu với quân Khmer Đỏ ở biên giới Tây Nam và Campuchia.
Là
một trong các đơn vị có trang bị đầy đủ và mạnh nhất trong binh chủng
Tăng Thiết giáp nên lữ đoàn được coi là "Quả đấm thép" được tung vào
chiến trường hỗ trợ các đơn vị phía Nam.
Vì
vậy, lực lượng của lữ đoàn không được sử dụng tập trung mà phải xé lẻ
ra tăng cường cho các hướng khác nhau. Trong đó, Đại đội XT11 trang bị
xe tăng bơi K63-85 được tăng cường cho Quân đoàn 3 tiến công từ hướng
Đông Bắc.
Khoảng 8h ngày 6.01.1979,
Đại đội XT11tiến sát bờ sông Mê Kông. Dưới sông bộ binh Trung đoàn 48 và
một số của Trung đoàn 64 đang chiến đấu quyết liệt với địch.
Cả
chiều dài sông Mê Kông đoạn qua thị xã Kongpong Chàm rộng khoảng trên
dưới 1 km như bị đun sôi lên vì lửa đạn. Dưới sông là tàu thủy nhỏ,
thuyền máy, ca nô v.v.. Trên bờ là đủ các loại hỏa lực từ xa đến bắn
trực tiếp của cả pháo binh và xe tăng.
Tại
đây, quân Khmer Đỏ chủ động hơn vì lợi thế bờ sông dốc đứng, chỉ có hai
đường lên xuống bến phà mà thôi. Giằng co mãi mà ta vẫn không chiếm
được cửa mở để lên bờ bên kia dù xe tăng, pháo đã bắn trực tiếp sang
nhiều.
Cuối cùng tham mưu trường Sư
320 trực tiếp lên xe lệnh cho đại trưởng Ngô Sĩ Quyến chuẩn bị vượt
sông. Chấp hành mệnh lệnh, cả đoàn xe tăng dũng mãnh xuống sông bơi theo
đội hình zích- zắc chếch hướng nước chảy khoảng 15 đến 20 độ.
Sau
khi xuống sông, xe tăng phát huy hỏa lực khẩu 12ly7 và khẩu đại liên
bên pháo để diệt địch. Dưới sự chi viện trực tiếp của hỏa lực xe tăng
dưới sông, một số xuống máy của bộ binh đã bám được bờ sông cho bộ binh
lên bờ.
Sau gần một tiếng bơi và đánh
nhau dưới nước, các xe tăng đã tiếp cận bờ sông, tiến lên theo đường
bến phà và dùng tất cả vũ khí trên xe và bộ binh ồ ạt tiến công quân
địch. Đạn bắn như mưa, quân Khmer Đỏ bị tiêu diệt khá nhiều, còn lại co
cụm vào các nhà tầng ngõ phố lợi dụng địa hình chống trả điên cuồng.
Sau
khi mất tuyến phòng thủ kiên cố, Khmer Đỏ củng cố lực lượng hòng giành
lại trận địa. Nhưng lúc đó các loại phương tiện vượt sông đã được công
binh lắp ráp nhanh và cả đội hình tiến quân phía sau đã nhanh chóng sang
sông chi viện nên thị xã Kông Pông Chàm nhanh chóng được giải phóng.
Sau
khi truy quét địch, bộ đội được quay lại thị xã ngủ lại 1 đêm. Gần sáng
hôm sau có lệnh hành quân chiến đấu tiếp. Lúc này, Lữ đoàn xe tăng 273
lại đi trước dẫn đầu đội hình. Cả một đoàn quân xe pháo hàng mấy cây số
vừa hành quân vừa chiến đấu gặp địch chống cự thưa thớt, yếu ớt không
đáng kể ở trên đường.
Tới một cứ điểm
trên dãy đồi núi trọc chắn ngang qua đường, địch bố trí công sự, lô cốt
có cả xe tăng và M113 chống trả quyết liệt.
Đội
hình phía trước thì đánh nhau dữ dội mà cả hàng km phía sau chỉ biết
ngồi xem vì tuyến đường độc đạo, địa hình không cho phép xe tăng và xe
cơ giới chở bộ binh lên chi viện được mà chỉ bắn pháo tầm xa chi viện mà
thôi.
Quá trưa một lúc, Đại đội XT11
được điều động vượt qua đội hình các đơn vị trên đường để lên chi viện
cho đơn vị bạn đang đánh nhau phía trước. Trong trận đánh này, lái xe
K63-85 số 684 Đàm Văn Tường bị thương tương đối nặng.
Cuộc đào thoát thần kỳ từ tay "Thần Chết"
Lúc
đó khoảng 2 h chiều, Tường được y tá cùng các đồng đội sơ cứu rồi đưa
vào trong xe nằm. Sắp tới bến phà Tôn lê Sáp, sau khi đã chiếm được một
cứ điểm của địch trên đường đội hình được tạm nghỉ để kiểm tra kỹ thuật
xe pháo, tiếp nhiên liệu, đạn dược ở phía sau chuyển lên.
Tại
đây, Tường được anh em đưa ra khỏi xe băng bó lại. Thấy gần đó có một
chiếc xe nhỏ, kiểu xe DODGE cắm cờ chữ thập. Nghĩ đó là xe cứu thương
của quân đoàn, anh em đưa Tường lên xe đó rồi đi đánh nhau tiếp.
Chính trị viên Nguyễn Đức Khởi dặn dò Tường:
"Đơn
vị chuẩn bị chiến đấu vượt qua sông Tôn lê Sáp để tiến đánh thủ đô của
địch. Trận chiến đấu tiếp có lẽ ác liệt hơn trước nữa. Bây giờ em
nằm ở xe cứu thương này, nghe nói trận hôm nay có máy bay trực thăng sẽ
vận chuyển thương binh về nước đang tập kết ở cách đây không xa. Chắc
lát nữa lái xe họ sẽ chở em tới đó".
Vừa
đói, vừa mệt Tường nằm thiêm thiếp trên xe đến khi trời đã dần tối mà
sao chẳng thấy lái xe cứu thương về và cũng chẳng có thêm một thương
binh nào đến nửa. Nghi ngờ anh bò lại cốp xe kiểm tra.
Trong
cốp thấy toàn là thuốc lá có chữ ngoằn ngoèo, dưới đệm toàn là cá khô.
Tường giật mình nghĩ ngay đến là mình bị bỏ nhầm lên xe cứu thương của
địch.
Khi phát hiện bị đưa nhầm vào
xe cứu thương của địch Tường thật sự hoang mang. Anh nhét túi con dao
găm tự chế cùng quả lựu đạn mỏ vịt US rồi bò chệch sang mép đường đầy
cát và lưa thưa mấy bụi cây thấp lè tè để nằm. Không khí xung quanh nặng
nề, mùi cháy còn khét lẹt. Một sự im lặng rùng rợn khi màn đêm buông
xuống.
Giấc ngủ đến với Tường lúc nào
không hay. Khi nghe đau nhói ở ngực anh mở mắt ra thì thấy bị một tên
địch dẫm lên ngực và một tên dí súng vào đầu.
Sau
khi tranh luận gì đó, hai tên bồng Tường vứt lên xe cứu thương rồi
chúng nó lên xe nổ máy chạy. Hai tên ngồi ghế trước, hai tên còn lại
ngồi cạnh đầu Tường, thỉnh thoảng chúng lại đạp lên người anh kiểm tra.
Xe
chay về hướng Tôn lê Sáp. Tường nằm như bất tỉnh nhưng suy nghĩ rất
lung. Anh đoán chắc nó bắt mình về nơi đóng quân sẽ khai thác gì đó rồi
giết thôi chứ mấy năm đánh nhau hai bên làm gì có trao đổi tù binh.
Một
quyết định đến với Tường: "phải nhanh chóng tự sát khi có thời cơ!".
Lợi dụng tư thế nằm sấp hơi nghiêng, Tường nhẹ nhàng duỗi tay về phía
túi quần có quả US. Tuy nhiên, khi cận kề cái chết Tường mới thấy giá
trị cuộc sống và quyết định: "phải sống dù hy vọng hết sức nhỏ nhoi".
Khi
chiếc xe chạy rẽ vào con đường đất nên xóc và chậm hơn. Bọn địch có vẻ
bình thản không để ý đến Tường nữa vì máu vẫn chảy rất nhiều. Tường nhẹ
nhàng cho tay vào túi quần đưa quả US ra, lại nhẹ nhàng rút chốt mỏ vịt.
Rút xong Tường lấy hết sức bình sinh bật dậy tung lựu đạn về ca-bin và
lao ra khỏi xe.
Tường rơi vào bụi cây bên mép đường. Một tiếng nổ đanh gọn. Chiếc xe vẫn chạy thêm vài mét rồi lao sang vệ đường bốc cháy.
Rất
đau và mệt nhưng Tường cố vùng chạy. Được một quãng cái lưng đau quá
thì vừa chạy vừa bò rồi chui vào một bụi cây nằm nghỉ. Lúc này trời đã
khá khuya. Đêm mờ đục rất khó xác định phương hướng nhưng ở xa xa có
pháo hiệu bắn lên. Tường đoán nơi có pháo hiệu là bến phà Tôn lê Sáp.
Nghỉ
ngơi một lát Tường cắt hướng đi về phía đó. Quần áo thì rách bươn, vừa
đi vừa quan sát, có lúc phải bò vì sợ sa vào tay quân giặc. Rồi tới khu
vực mới đánh nhau lúc chiều có rải rác xác chết. Thấy có cái nhà tan
hoang, lục lọi được ít cơm và thức ăn. Tường ăn ngon lành, sức khỏe cảm
thấy khá lên đôi chút.
Không thể đi
tay không trong đêm được, Tường lật xác một tên Khmer Đỏ lấy khẩu AK bị
nó đè lên. Tiếp tục đi đến gần sáng anh gặp con đường cái lớn. Đoán
rằng đây là đường xuống bến phà, Tường đến gần rồi lợi dụng bờ đất cao
nằm xuống nghỉ tạm và chờ thời cơ.
Một lát sau, có tiếng động cơ từ xa. Tiếng máy to dần rồi ánh đèn pha chiếu đến. Tường nằm yên quan sát thấy là xe M113.
Chiếc
đầu đi qua rồi chiếc thứ hai. Đèn pha chiếu vào xe trước, anh sướng run
người khi thấy thành viên ở trên nóc xe là bộ đội Việt Nam.
Tường
đứng dậy hô lớn mà xe vẫn chạy. Anh tiến ra giữa đường đón chiếc xe
M113 thử ba, trên xe có mấy cần ăng ten kiểu xe của chỉ huy.
Chiếc
xe dừng lại, hai chiến sĩ nhảy xuống. Sau khi kiểm tra sơ bộ, họ cho
anh lên xe. Đó là đoàn xe của Lữ đoàn XT273 và họ cũng đang tiến về phía
Phnom Pênh.
Ngày hôm sau, Tường đã
tìm về được đơn vị của mình. Nghe anh kể lại câu chuyện, chính trị viên
Nguyễn Đức Khởi và tất cả anh em trong đơn vị đều thốt lên: "Quả là một
cuộc đào thoát thần kỳ khỏi tay Thần Chết!".
(Ghi
theo lời kể của Trung sỹ Đàm Văn Tường, nguyên chiến sĩ lái xe tăng số
684 thuộc Đại đội 11, Tiểu đoàn 3, Lữ đoàn xe tăng 215)
theo Trí Thức Trẻ
Nhận xét
Đăng nhận xét