Thứ Ba, 16 tháng 7, 2019

CÂU CHUYỆN TÌNH BÁO 278

(ĐC sưu tầm trên NET)
 
Cả thế giới kinh hoàng khi tình báo Nga công bố phát hiện điều này trong tên lửa Triều Tiên

Những vũ khí của gián điệp phương Tây từng bị Liên Xô thu giữ

Điệp viên phương Tây mang theo nhiều thiết bị tinh vi, dễ che giấu trong quá trình hoạt động tại Liên Xô.
Những vũ khí của gián điệp phương Tây từng bị Liên Xô thu giữ
Ủy ban An ninh Quốc gia (KGB), cơ quan tình báo nổi tiếng thời Liên Xô, từng bắt được nhiều điệp viên phương Tây và tịch thu trang thiết bị của họ. Nhiều công cụ trong số này đang được lưu giữ và trưng bày tại bảo tàng của Tổng cục An ninh Liên bang Nga (FSB), theo RBTH.
Trong ảnh là camera siêu nhỏ được giấu trong đồng hồ đeo tay và bật lửa. Đây là những trang bị thường gặp nhất của điệp viên phương Tây hoạt động ở Liên Xô.
Những vũ khí của gián điệp phương Tây từng bị Liên Xô thu giữ
Đài cassette thường được chọn để cất giấu bộ phát vô tuyến, dùng để liên lạc giữa các điệp viên với nhau.
Những vũ khí của gián điệp phương Tây từng bị Liên Xô thu giữ
Điệp viên phương Tây thường giấu chìa khóa giải mã tài liệu trong những cuốn sách tiếng nước ngoài với nội dung bất kỳ, từ truyện cổ tích tới tiểu thuyết và sách hướng dẫn kỹ thuật.
Những vũ khí của gián điệp phương Tây từng bị Liên Xô thu giữ
Bộ đàm dùng để liên lạc giữa điệp viên với trung tâm chỉ huy có kích thước tương đối nhỏ, nhét vừa trong một chiếc valy.
Những vũ khí của gián điệp phương Tây từng bị Liên Xô thu giữ
Đèn pin kết hợp súng điện là vũ khí thường được gián điệp phương Tây mang theo người. Đèn pin có thể dùng chiếu sáng hoặc gây chói mắt, trong khi súng điện sẽ làm đối phương bất tỉnh, tạo điều kiện để điệp viên trốn thoát.
Những vũ khí của gián điệp phương Tây từng bị Liên Xô thu giữ
Khẩu súng ổ xoay "Le protector" của Pháp có thể chứa tối đa 10 viên đạn với sức sát thương cao ở cự ly gần. Kích thước nhỏ giúp chúng dễ dàng được giấu trong túi áo hoặc cầm tay. Trong khi đó, súng bút (trên) chỉ có thể bắn một phát.
Những vũ khí của gián điệp phương Tây từng bị Liên Xô thu giữ
Máy quay siêu nhỏ được điệp viên Adolf Tolkachev sử dụng. Bên phải là tài liệu hướng dẫn cách sử dụng máy quay này.
Vào năm 1985, lực lượng phản gián của KGB bắt Tolkachev, khi đó là kỹ sư thiết kế thuộc Viện Phazotron, cơ sở phát triển radar quân sự lớn nhất của Liên Xô. Trong nhiều năm liền, Tolkachev đã chuyển dữ liệu tuyệt mật về thiết bị điện tử, gồm cả radar mảng pha quét điện tử thụ động Zaslon của tiêm kích MiG-31 và radar trong tổ hợp phòng không S-300, cho Cơ quan tình báo trung ương Mỹ (CIA). Điệp viên này bị xử tử vào năm 1986.
Những vũ khí của gián điệp phương Tây từng bị Liên Xô thu giữ
Tóc và râu giả có thể giúp điệp viên thay đổi diện mạo, cắt đuôi lực lượng phản gián.
Trong ảnh, bộ kính cùng râu tóc giả của Michael Sellers, điệp viên CIA dưới vỏ bọc phó thư ký Đại sứ quán Mỹ tại Liên Xô. Người này bị bắt vào tháng 3/1986 khi tìm cách liên lạc với một sĩ quan phản gián KGB. Sellers bị trục xuất sau đó không lâu.
Những vũ khí của gián điệp phương Tây từng bị Liên Xô thu giữ
Thiết bị phát thông tin được giấu trong cành cây giả, bị tình báo Liên Xô phát hiện gần một căn cứ không quân ở Đông Đức. Dữ liệu phát đi từ "cành cây" này sẽ được một trạm vô tuyến ở Tây Đức thu lại.
Những vũ khí của gián điệp phương Tây từng bị Liên Xô thu giữ
Đại tá Gennady Smetanin thuộc Cơ quan Tình báo Quân đội Liên Xô (GRU) bị phát hiện là gián điệp hai mang và bị bắt giữ vào năm 1985. Ông này mang theo chiếc kính có chứa một liều thuốc độc, cùng tài liệu hướng dẫn cách liên hệ với điệp viên CIA. Smetanin không kịp sử dụng liều thuốc độc và bị xử bắn sau đó.
Những vũ khí của gián điệp phương Tây từng bị Liên Xô thu giữ
Một khẩu súng ngắn Liliput Kal 1925 cỡ nòng 6,35 mm được giấu trong sách kinh tế chính trị của một điệp viên Đức. Người này bị bắt ngay trước khi nổ ra Thế chiến II.
Những vũ khí của gián điệp phương Tây từng bị Liên Xô thu giữ
Phi công CIA Francis Gary Powers bị tên lửa phòng không Liên Xô bắn rơi ngày 1/5/1960 khi đang  thực hiện chuyến bay do thám trên trinh sát cơ U-2 ở khu vực Sverdlovsk. Trên người phi công này, quân đội Liên Xô đã thu được một súng ngắn HDM  lắp ống giảm thanh, đèn pin và mũi kim chứa chất độc để tự sát nếu bị bắt. Tuy nhiên, Powers đã không sử dụng thuốc độc và bị bắt sống.
Powers ngồi tù đến ngày 10/2/1962 thì được trả tự do để đổi lấy Rudolf Abel, điệp viên Liên Xô bị Mỹ bắt trước đó.
Ảnh: RBTH

'Đội quân ma' giăng bẫy điệp viên phát xít Đức của Liên Xô

Chiến dịch Scherhorn thành công tới mức khi kết thúc Thế chiến II, Đức vẫn tưởng họ có một đội quân vũ trang hơn 2.000 người trên lãnh thổ Liên Xô.


doi-quan-ma-giang-bay-diep-vien-phat-xit-duc-cua-lien-xo
Kế hoạch phản gián quy mô lớn đã khiến Đức mất hàng chục điệp viên. Ảnh: Bashny.
Năm 1941, điệp viên Alexander Demyanov của Bộ Dân ủy Nội vụ (NKVD), lực lượng cảnh sát mật của Liên Xô, trong vai một kẻ đào ngũ đã phát hiện một mạng lưới gián điệp bí mật của Đức ngay trong lòng Liên Xô, từ đó giúp Moscow lên kế hoạch xây dựng một "đội quân ma" đánh lừa phát xít suốt nhiều năm, theo War History.
Demyanov đóng vai là một điệp viên hai mang, cung cấp thông tin tình báo cho Đức từ trong lòng Liên Xô, áp dụng chiến thuật nghi binh khiến hàng chục điệp viên Đức rơi vào bẫy. Từ kết quả này, nhà lãnh đạo Liên Xô Joseph Stalin yêu cầu NKVD tiến hành chiến dịch phản gián quy mô lớn có tên "Scherhorn" (mật danh khi đó là chiến dịch Berezino) từ tháng 8/1944 đến tháng 5/1945.
Một "đội quân ma" do trung tướng Pavol Sudoplatov đứng đầu được thành lập, đóng quân tại một "trại lính Đức" ngay trong lòng Liên Xô để dụ đối phương điều điệp viên đến phối hợp hành động và hỗ trợ.
Mật vụ Liên Xô chọn trung tá Heinrich Scherhorn, tù binh Đức bị bắt giữ vào tháng 6/1944, để đóng vai chỉ huy trại lính giả và duy trì liên lạc với bộ chỉ huy Đức. 
Tháng 8/1944, chiến dịch Berezino bắt đầu với việc Max (mật danh của Demyanov) bắn tin cho tình báo Đức, nói rằng một nhóm vũ trang 2.500 thành viên của mạng lưới điệp viên Scherhorn đang bị Hồng quân Liên Xô bao vây dọc sông Berezina.
Đại tá Đức Hans-Heninrich Worgitzsky nghi ngờ, đoán rằng đây là hoạt động phản gián của Liên Xô. Tuy nhiên, sĩ quan Gehlen, liên lạc viên tin tưởng Max, thúc giục ông này tiến hành kế hoạch giải cứu.
Otto Skorzeny, người đứng đầu đội cận vệ SS, đã cử một nhóm biệt kích Đức xâm nhập lãnh thổ Liên Xô bằng oanh tạc cơ Heinkel He 111 để thực hiện chiến dịch giải cứu. Các binh sĩ Hồng quân Liên Xô mặc quân phục Đức đã đợi sẵn và dẫn lực lượng này đến trại. Khi bước vào lều của Scherhorn, tất cả lính Đức đều bị mật vụ NKVD bắt giữ.
Nhóm lính biệt kích bị ép tham gia chiến dịch phản gián, sau đó báo cáo rằng nhiệm vụ đã thành công và cần thêm quân chi viện. Skorzeny nhanh chóng điều thêm 3 đội đặc nhiệm đến hỗ trợ. Tất cả đều bị tóm gọn tại địa điểm do điệp viên Liên Xô thông báo.
doi-quan-ma-giang-bay-diep-vien-phat-xit-duc-cua-lien-xo-1
Otto Skorzeny giao nhiệm vụ cho biệt kích Đức đến giải cứu Scherhorn. Ảnh: Wikipedia.
Chiến dịch phản gián tiếp diễn cho đến khi phản ứng của Đức bắt đầu chậm dần. NKVD chỉ thị cho Scherhorn liên lạc với Đức thông báo nhiệm vụ giải cứu đã thành công, nhưng không thể trở về Đức do số lượng thương vong leo thang. Đáp lại, bộ chỉ huy Đức thông báo đang điều máy bay đến sơ tán những người bị thương và đưa họ đến sau phòng tuyến Đức. Hành động này có nguy cơ làm phá sản kế hoạch của Liên Xô.
Để duy trì vỏ bọc, mật vụ NKVD dàn dựng một trận giao tranh nhỏ trong đêm giữa lính của Scherhorn và Hồng quân Liên Xô khi các máy bay Đức chuẩn bị hạ cánh. Trong lúc giao tranh hỗn loạn, đèn trên đường băng bị tắt khiến cho máy bay Đức không thể hạ cánh. Nhờ đó bí mật về chiến dịch này vẫn được duy trì.
Trong nhiều tháng, cả Gehlen và Skorzeny đã làm theo những gì Liên Xô sắp đặt, khiến các chỉ huy Đức tin rằng 2.000 lính phe mình vẫn bị mắc kẹt trong lãnh thổ đối phương. Skorzeny ra lệnh cho Scherhorn chia nhỏ lực lượng đi qua Ba Lan để đến nơi an toàn. Tuy nhiên, kế hoạch này cũng không thành công do Sudoplatov đã đập tan đường dây điệp viên hỗ trợ của Đức ở Ba Lan.
Biện pháp hỗ trợ duy nhất quân Đức có thể làm là thả hàng tiếp tế và lương thực cho nhóm vũ trang. Trong suốt chiến dịch, phát xít Đức đã điều 39 chuyến bay cùng 12 điệp viên và 12 thiết bị liên lạc vô tuyến đến hỗ trợ nhóm của Scherhorn. Số biệt kích Đức bị bắt lớn đến mức NKVD có nguy cơ mất kiểm soát do chiến dịch leo thang vượt xa dự đoán. Dù vậy, liên lạc vô tuyến giữa Đức và điệp viên Liên Xô vẫn diễn ra trong nhiều tháng.
Cuối cùng, sự hỗ trợ của Đức cũng bắt đầu suy giảm. Tháng 1/1945, lực lượng Đức vẫn ở cách xa đội quân của Scherhorn, trong khi không quân Đức nhanh chóng cạn kiệt nguồn lực. Scherhorn lúc này vẫn tiếp tục gửi yêu cầu giúp đỡ nhưng không có phản hồi.
Tháng 3/1945, Scherhorn được phát xít Đức vinh danh là anh hùng dân tộc vì các nỗ lực khi bị giam cầm trong lãnh thổ Liên Xô, thậm chí ông ta còn được trao Huân chương Hiệp sĩ. 
Khi Thế chiến II đến hồi kết cũng là lúc chiến dịch phản gián của Liên Xô hạ màn. Cho đến đầu tháng 5/1945, Đức vẫn duy trì liên lạc với Scherhorn, hy vọng nhóm vũ trang hơn 2.000 lính của ông ta vẫn còn sống mà không hề biết rằng đó là "đội quân ma" chưa từng tồn tại.
Duy Sơn

Những vỏ bọc của điệp viên Nga khiến Mỹ bất lực

Quan chức Mỹ cho rằng điệp viên Nga có nhiều chiến thuật hoạt động, khiến Washington không đủ sức theo dõi toàn bộ mạng lưới gián điệp.


Lãnh sự quán Nga tại Seattle bị đóng cửa do lo ngại gián điệp. Ảnh: Reuters.
Lãnh sự quán Nga tại Seattle bị đóng cửa do lo ngại gián điệp. Ảnh: Reuters.
Tổng thống Mỹ Donald Trump hôm 26/3 ra lệnh trục xuất 60 nhà ngoại giao bị cho là nhân viên tình báo Nga, nhằm đáp trả vụ đầu độc cựu gián điệp hai mang Sergei Skripal và con gái ở Anh. Nhà Trắng cũng ra lệnh đóng cửa lãnh sự quán Nga tại thành phố Seattle do lo ngại hoạt động do thám, bởi nó nằm gần một căn cứ hải quân Mỹ.
Tuy nhiên, nhiều quan chức Mỹ nhận định việc trục xuất 60 nhà ngoại giao Nga khó lòng gây thiệt hại cho mạng lưới gián điệp của nước này tại Mỹ. Nhiều khả năng điệp viên Nga đã xâm nhập sâu vào các công ty, trường học và thậm chí là cơ quan chính phủ Mỹ để hoạt động dưới những vỏ bọc hoàn hảo rất khó bị phát hiện, theo Reuters.
Các cơ quan tình báo Nga được cho là vẫn tận dụng tối đa vỏ bọc của nhân viên đại sứ quán và lãnh sự quán, phương pháp cũng được tình báo Mỹ áp dụng tại nhiều quốc gia khác.
Tuy nhiên, ngoài chiến thuật truyền thống này, tình báo Nga còn sử dụng nhiều phương thức hoạt động khác như tuyển mộ người Nga nhập cư, thành lập công ty bình phong, triển khai điệp viên dưới vỏ bọc du khách ngắn ngày tới Mỹ, chiêu mộ người Mỹ làm việc cho Nga và xâm nhập mạng máy tính để đánh cắp dữ liệu.
Các quan chức Mỹ cho biết tình báo Nga từng nhắm vào các lập trình viên làm việc tại tập đoàn Microsoft ở Seattle bởi sản phẩm của công ty này được sử dụng trên rất nhiều ứng dụng. Microsoft từ chối bình luận về thông tin này.
Năm 2010, tòa án Mỹ ra lệnh trục xuất Alexey Karetnikov, điệp viên 23 tuổi người Nga làm việc tại bộ phận thử nghiệm mã lập trình tại cơ sở của Microsoft ở Richmond.
"Trước kia, Moscow chỉ có một cách làm việc. Giờ đây họ đã áp dụng hàng nghìn phương án khác nhau", một cựu quan chức cấp cao trong chính quyền Mỹ mô tả về phương thức hoạt động của tình báo Nga dưới thời Tổng thống Vladimir Putin, người từng là trung tá tình báo Liên Xô.
Cục Điều tra Liên bang Mỹ (FBI) thường xuyên theo dõi hoạt động và giám sát liên lạc giữa những người bị nghi là điệp viên nước ngoài. Tuy nhiên, sự hiện diện ngày càng lớn của người Nga ở Mỹ cùng sự phổ biến của các phương thức liên lạc mã hóa trên mạng đã gây khó khăn cho hoạt động phản gián của FBI.
Washington cho rằng Moscow có hơn 100 điệp viên dưới vỏ bọc nhà ngoại giao hoạt động ở Mỹ trước vụ trục xuất. Tuy nhiên, một quan chức giấu tên khẳng định con số thực tế còn cao hơn nhiều, do Mỹ không muốn để lộ số lượng nhân viên tình báo Nga đang bị giám sát. "Con số thực tế thường thay đổi, nhưng trung bình là 150 người", quan chức này tiết lộ.
Đặc vụ FBI theo dõi mục tiêu. Ảnh: FBI.
Đặc vụ FBI theo dõi mục tiêu. Ảnh: FBI.
"Chúng tôi có hệ thống phản gián rất, rất tốt. Có nhiều người trong FBI chịu trách nhiệm theo dõi điệp viên nước ngoài và họ làm rất tốt công việc của mình", ông Robert Litt, cựu cố vấn cho giám đốc Tình báo Quốc gia Mỹ, tuyên bố.
Tuy nhiên, Mỹ cần ít nhất 10 đặc vụ FBI và cảnh sát để theo dõi một điệp viên Nga trong vòng 24 giờ. Họ phải giám sát hàng loạt cửa ra vào và thang máy trong khu vực, liên tục chú ý sự thay đổi về trang phục và phương tiện đi lại, thậm chí là kiểu tóc của mục tiêu.
Trong các vụ trục xuất trước, điệp viên Nga bị yêu cầu rời khỏi Mỹ thường giao nhiệm vụ cho những người ở lại hoặc "kẻ ngoài vòng pháp luật", thuật ngữ chỉ những gián điệp nằm vùng lâu năm và không để lộ sự liên hệ với chính phủ Nga.
Một chiến thuật của Nga là triển khai lượng lớn nhân viên ngoại giao cùng lúc, trong đó chỉ có một hoặc hai sĩ quan tình báo, khiến FBI khó nhận dạng và theo dõi mục tiêu thực sự.
Quan chức tình báo Mỹ cho rằng sau khi trục xuất hàng loạt nhân viên ngoại giao Nga nghi hoạt động tình báo, Mỹ đang đối diện nguy cơ không xác định được điệp viên mới mà Nga cử đến là ai. "Đôi khi biết được họ là ai để theo dõi sẽ tốt hơn", quan chức này nói.
Tử Quỳnh

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét