Thứ Năm, 28 tháng 6, 2018

CÂU CHUYỆN LỊCH SỬ 66

-Hãy cảnh giác dã tâm của Trung Quốc!

-Cố tình lãng quên, hay xóa khỏi lịch sử cuộc chiến tranh biên giới 1979 - cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại của Nhân Dân VN - là một trong những bằng chứng chứng minh rằng ĐCSVN đã và đang phản bội lại Dân Tộc.

-ÂU LO 
Ngày nay lại có chuyện đặc khu
Coi chừng ảo tưởng, lú lẫn đầu
Đất thần ngốc nghếch dâng Tàu Khựa
Để nỗi cơ đồ đắm biển sâu...

Lần này lầm lỗi là muôn thuở
Không còn ngày giỗ tổ Hùng Vương
Không còn được tự hào dân tộc
Vĩnh viễn không còn đất nước, quê hương

Đã bốn ngàn năm quật khởi, kiên cường
Không lẽ rồi đây chịu đời vong quốc?
Đã là cháu con giống nòi bất khuất
Xá gì da ngựa bọc xương!

Bài học Mỵ Châu còn ngấm đau thương
Câu chuyện đặc khu đã bày ra đó 
Ý đảng lòng dân đâu như xưa nữa
Lòng ta nặng trĩu âu lo!...

                                                              Trần Hạnh Thu
 
-------------------------------------------------------------
(ĐC sưu tầm trên NET)
 
TBT LÊ DUẨN Phát Biểu Về “ Bè Lũ Bành Trướng Bắc Kinh” Năm 1979 – Sự Thật Lịch Sử
Tài liệu này được giới thiệu là do Christopher E. Goscha, một giảng viên môn Lịch sử tại American University và Trường Quốc tế ở Paris và là đồng Giám đốc Nhóm nghiên cứu Việt Nam đương đại, Trường Khoa học Chính trị, Paris, sao chép từ một tài liệu tại Thư viện QĐ ở Hà Nội và dịch sang tiếng Anh. Nguyên văn tựa đề tài liệu là “Đồng chí B nói về lá mặt lá trái của bè lũ bành trướng Bắc Kinh” nhưng theo phân tích của tác giả dựa trên ngữ cảnh và các nguồn tài liệu lịch sử khác thì “đồng chí B” chính là “đồng chí Ba”, bí danh của tổng bí thư Lê Duẩn. Bản tiếng Việt dưới đây là do Bùi Xuân Bách dịch lại từ bản tiếng Anh của C.E. Goscha
  
Bành Trướng Bắc Kinh - 1979
  
Trung Quốc chiếm đảo Gạc Ma của ta thế nào?
Hàng chục chiến sỹ Hải quân, nhân dân Việt Nam đã anh dũng hy sinh trong khi bảo vệ đảo Gạc Ma, thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam, trong trận hải chiến lịch sử ngày 14/3/1988.

"Việt Nam chỉ là "hạ quốc": Học giả Trung Quốc bình luận chiến lược của Hà Nội ở Biển Đông

© Ảnh: Ngọc Thắng/ Thanh Niên
Châu Á
URL rút ngắn
Việt Nam và Biển Đông (48)
20170
"Với các "hạ quốc" như Việt Nam thì dù có sát nách ta, cũng chẳng đáng xem"...Trung Quốc có cả một đội ngũ nghiên cứu, theo dõi nhất cử nhất động của Hà Nội trên Biển Đông và trong quan hệ với các nước khác. Còn Việt Nam đường như đã chuẩn bị cho chiến tranh nhân dân trên Biển Đông.
Vấn đề được tác giả Bổ Nhất Đao và một số học giả Trung Quốc đặt ra trong bài báo đăng trên Thời báo Hoàn Cầu ngày 14/3/2018, tròn 30 năm ngày thảm sát Gạc Ma.
Trong phần này, các tác giả Trung Quốc bình luận về chính sách của Việt Nam trên Biển Đông, để làm cơ sở đề xuất một số giải pháp với giới hoạch định chính sách Trung Nam Hải mà chúng tôi sẽ trình bày trong bài viết tới.
Vẫn với bố cục 2 phần để đảm bảo tính khách quan, minh bạch của thông tin, xin mời quý bạn đọc theo dõi phần quan điểm, lập luận của một số học giả Trung Quốc trong phần in nghiêng, chú thích và bình luận của người viết in thẳng.
Tiêu đề phụ của bài viết do chúng tôi đặt để làm nổi bật thông điệp của mỗi bên.

Đối ngoại chiếu trên
Giáo sư Hứa Kỷ Lâm, Đại học Sư phạm Hoa Đông.
Giáo sư Hứa Kỷ Lâm, Đại học Sư phạm Hoa Đông.
Giáo sư Hứa Kỷ Lâm từ Đại học Sư phạm Hoa Đông từng nói:
"Cái thế ngoại giao của Trung Quốc về mặt tập quán có thể phân thành thượng quốc và hạ quốc. Với các thượng quốc như Hoa Kỳ, (Trung Quốc) thường quan sát tỉ mỉ chân tơ kẽ tóc, việc nhỏ đến đâu cũng xem là việc lớn. Còn với các "hạ quốc" như Việt Nam thì dù có sát nách ta, cũng chẳng đáng xem, cho nên thiếu những hiểu biết tối thiểu về họ. Những nước nhỏ như thế có lúc còn khó đối phó hơn là nước lớn. Muốn bảo vệ chủ quyền quốc gia, đầu tiên phải tìm hiểu quốc gia láng giềng bất khuất, đồng chủng đồng văn với chúng ta.
Lời của Giáo sư Hứa Kỷ Lâm tuy có hơi nặng, nhưng cho thấy rất rõ vấn đề. Ví như Việt Nam trong giai đoạn trước đây, họ đã âm thầm làm tốt được mấy việc ngay trước mắt chúng ta."
7 điểm "tổng kết" của tác giả Bổ Nhất Đao về chính sách của Việt Nam trên Biển Đông qua lăng kính học giả Trung Quốc
"Thứ nhất là thúc đẩy việc xây dựng đảo, đá.  Đến cuối năm ngoái Bloomberg tiết lộ, Việt Nam đã tăng cường xây dựng được khá nhiều công trình trên Đá Tây thuộc quần đảo Trường Sa.
Thực ra chẳng riêng gì Đá Tây, theo thống kê của tổ chức Sáng kiên Minh bạch hàng hải châu Á, từ 2014 đến nay, Việt Nam đã bồi đắp được 0,49 km vuông trên 10 đảo nhỏ ở Biển Đông.
Do nguyên nhân nguồn lực tài chính và kỹ thuật (còn thiếu thốn, khó khăn), nên hầu hết các công trình xây dựng Việt Nam tiến hành trên các đảo, bãi đá đều dùng sức người khuân vác.
Nói như truyền thông quốc tế, quy mô các công trình xây dựng của Việt Nam "rất nhỏ", cho nên họ hầu hết đều có thái độ phê phán Trung Quốc và đồng tình với Việt Nam trong việc xây dựng đảo.
Tuy nhiên chúng ta không thể xem thường Việt Nam, cách thức xây dựng theo kiểu "kiến tha lâu có ngày đầy tổ" diễn ra suốt mấy chục năm, nên khả năng kiểm soát của Việt Nam với các đảo, đá ngày càng mạnh.
Ngoài ra, Việt Nam cũng áp dụng một loạt thủ đoạn chiếm lĩnh và củng cố. Trên 29 điểm đảo, đá ở Trường Sa, Việt Nam có 2 đội quân.
Một đội quân chính quy, phân bố từ vài chục người đến cả trăm người trên các đảo, đá tùy quy mô lớn nhỏ của các cấu trúc địa lý. Đội quân thứ hai mang phiên hiệu đặc thù, 386199, chủ yếu là phụ nữ, trẻ em và người gia hình thành một tổ chức dân sự.
Đây là chiến thuật quân đội chiếm lĩnh đến đâu cho dân theo sinh sống đến đó.
Hơn nữa nhiều tỉnh thành của Việt Nam đều "kết nghĩa" với 1 hoặc một vài đảo, đá để cung cấp trợ giúp cho quân dân trên đảo, từ chi phí sinh hoạt, điện thoại cho đến thăm hỏi…để duy trì tính ổn định của dân số trên đảo.
Xem ra Việt Nam đường như đã chuẩn bị cho chiến tranh nhân dân trên Biển Đông.
Thứ hai là (Việt Nam) tăng cường khống chế các vùng biển tranh chấp. 
Tháng Sáu năm ngoái, các hoạt động của Việt Nam tại bãi Tư Chính đã gây phiền phức cho quan hệ Việt — Trung, đây là một hành động có ảnh hưởng tương đối lớn của Việt Nam trên Biển Đông.
Những năm gần đây, Việt Nam liên tục lấy lý do quản lý hoặc khai thác vùng đặc quyền kinh tế và ngư trường truyền thống để đưa các tàu cá, tàu khảo sát, tàu du lịch và thúc đẩy hoạt động khai thác tài nguyên ra phía trước, với các tàu Cảnh sát biển, Kiểm ngư hộ tống phía sau, tiến ra khu vực Hoàng Sa, Trường Sa. Việt Nam tuyên truyền nhất quán rằng, mỗi một tàu cá đều là một bia chủ quyền di động.
Trước đây, tàu cá của Việt Nam tương đối nhỏ, động cơ yếu, trang bị kém nên không có năng lực đánh bắt tầm xa.
Chính phủ Việt Nam đã ra các chính sách cổ vũ, hỗ trợ tài chính và kỹ thuật cho ngư dân, nâng cao đáng kể năng lực đánh bắt xa bờ cho ngư dân.
Tàu cá Trung Quốc rời cảng Ninh Ba, tỉnh Chiết Giang thẳng tiến Hoa Đông
Tàu cá Trung Quốc rời cảng Ninh Ba, tỉnh Chiết Giang thẳng tiến Hoa Đông
Hơn nữa, Việt Nam còn có ý nâng cao năng lực phi xung đột vũ trang, với các tàu được chế tạo mới họ đặc biệt quan tâm đến khả năng (đối phó với việc bị tàu Trung Quốc có mũi thép nhọn) đâm húc, năng lực đối kháng, ngoài ra còn trang bị pháo cho các tàu Cảnh sát biển.
Thứ ba là tăng cường ý thức chủ quyền quốc gia cho dân chúng.
Việt Nam thông qua một loạt động thái từ lập pháp đến thực thi chủ quyền nhằm tăng cường cái gọi là chủ quyền của họ với các đảo, đá họ chiếm đóng. Những việc này được họ triển khai một cách vững chắc từng bước, kiên trì lâu dài.
Năm 2007 Việt Nam thông qua Chiến lược biển đến năm 2020, nâng chiến lược biển lên tầm quyết sách, ý chí quốc gia của Đảng, Nhà nước, tạo nền tảng cho các chính sách về hoạt động trên biển và giải quyết các vấn đề trên biển.
Năm 2009 Việt Nam thông qua Luật Dân quân tự vệ, luật quy định dân quân biển có nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền của Việt Nam trên Biển Đông.
Năm 2012 Việt Nam thông qua Luật Biển Việt Nam.
Năm 2015 Việt Nam thông qua Luật Trưng cầu dân ý để đặt nền móng cho sau này có thể mượn cớ ý dân, gây áp lực với Trung Quốc trên Biển Đông.
Năm 2016 Đại hội 12 Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục nhấn mạnh việc bảo vệ chủ quyền của Việt Nam với các đảo, đá và quyền lợi biển.
Đồng thời Việt Nam còn thông qua giáo dục, triển lãm, tuyên truyền…để tăng cường ý thức chủ quyền cho dân chúng;
Thông qua hoạt động du lịch, quyên tặng, tổ chức đoàn thăm hỏi, phỏng vấn nghiên cứu ra các đảo, Việt Nam đã nâng cao sự tham dự của các giới trong xã hội vào vấn đề Biển Đông, duy trì mức độ quan tâm của dân chúng đến Biển Đông.
Trên báo VietNamNet Bridge, có chuyên gia Việt Nam còn kiến nghị phải đưa vụ thảm sát Gạc Ma vào trong sách giáo khoa lịch sử để các thế hệ mai sau luôn ghi nhớ, đừng quên.
Thứ tư là tạo dựng thanh thế quốc tế.
Các nhà lãnh đạo Việt Nam tận dụng mọi cơ hội và địa điểm thích hợp để kêu gọi tôn trọng luật pháp quốc tế, tự do hàng hải.
Giới học thuật, ngoại giao Việt Nam cũng làm cho nổi đình nổi đám. Bắt đầu từ 2010, Việt Nam dẫn đầu trong việc tổ chức các hội thảo quốc tế về tranh chấp trên Biển Đông.
Máy bay vận tải quân sự Y-9 của Trung Quốc diễn tập thả hàng ở Biển Đông đầu tháng 12
Máy bay vận tải quân sự Y-9 của Trung Quốc diễn tập thả hàng ở Biển Đông đầu tháng 12
Thậm chí tại các hội nghị không liên quan gì đến Biển Đông, Việt Nam cũng tổ chức các triển lãm về cái gọi là "chủ quyền lịch sử" của mình trên Biển Đông.
Trên lĩnh vực khai thác dầu khí, Việt Nam đã đặc biệt mời gọi các doanh nghiệp nước ngoài vào cùng khai thác.
Nói thật, trên phương diện chiếm quyền thượng phong ngôn luận, quyền phát ngôn trong dư luận quốc tế, Việt Nam đã làm tốt hơn chúng ta.
Tờ Sankei Shimbun của Nhật Bản từng đăng bài "Nhật Bản nên lấy mô hình ngoại giao của Việt Nam làm kiểu mẫu" của trưởng văn phòng đại diện báo này tại Trung Quốc.
Bài viết cho rằng, Việt Nam hoàn toàn không thua Trung Quốc ở tầm cao ngoại giao và trí tuệ, Nhật Bản nên lấy Việt Nam làm hình mẫu, điều này cho thấy rất rõ vấn đề.
Thứ năm, (Việt Nam) biết tận dụng tối đa các cơ chế quốc tế. Có học giả Việt Nam xem luật pháp quốc tế và ASEAN là 2 cơ chế để kiềm chế Trung Quốc.
Quốc tế hóa là một thủ đoạn quan trọng của Việt Nam trong chiến lược Biển Đông và họ đã làm rất thành công.
Việt Nam có ý tạo dư luận quốc tế để tăng thêm tính phức tạp của vấn đề Biển Đông, dùng dư luận quốc tế để kiềm chế Trung Quốc.
Giống như những người tí hon trong tác phẩm "Những cuộc phiêu lưu của Gulliver" muốn trói chặt Gulliver, Việt Nam định dùng pháp lý và tổ chức khu vực để buộc chân Trung Quốc.
Được biết Việt Nam đã nghiên cứu các biện pháp pháp lý để giải quyết tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc ít nhất được 10 năm.
Hiện tại Việt Nam chưa kiện (Trung Quốc) ra cơ quan tài phán quốc tế, đại khái là họ lên kế hoạch trước, rồi sẽ hành động sau.
Ngoài ra Việt Nam đặt kỳ vọng vào ASEAN và Việt Nam là một thành viên có ảnh hưởng trong khối, luôn luôn có nhiều tiểu xảo trong ASEAN hòng thúc đẩy khối này ngày càng cứng rắn với Trung Quốc.
Thứ sáu là tạo ra "mặt trận thống nhất quốc tế".
3 tháng đầu năm nay Việt Nam đã có khá nhiều trò trong lĩnh vực này. Hàng không mẫu hạm Hoa Kỳ vừa kết thúc chuyến thăm Việt Nam;
Tàu sân bay Mỹ USS Carl Vinson tại cảng Tiên Sa ở Đà Nẵng
© AP Photo / Tran Van Minh
Tàu sân bay Mỹ USS Carl Vinson tại cảng Tiên Sa ở Đà Nẵng
Ấn Độ vừa kết thúc cuộc tập trận chung 16 nước, Việt Nam là một quan sát viên tích cực, một trong những hạng mục quan trọng của cuộc tập trận này là phong tỏa trên biển.
Trong tháng Hai, Hải quân Việt Nam đưa vào biên chế 2 tàu hộ vệ Gepard do Nga chế tạo;
Tháng Giêng, Đại tướng Yamazaki Koji, Tham mưu trưởng Lực lượng Tự vệ mặt đất Nhật Bản thăm Việt Nam, tiếp tục thúc đẩy hợp tác quốc phòng song phương mật thiết.
Ngoài ra còn Australia, từ 2016 trở lại đây các chiến hạm Australia đã cập cảng Cam Ranh.
Tâm tư của Việt Nam đã lộ rất rõ:
Họ muốn thông qua việc xây dựng quan hệ với 5 nước lớn để cân bằng với các hành động của Trung Quốc ở Biển Đông, đó là các quan hệ Việt — Mỹ, Việt — Nhật, Việt — Nga, Việt — Ấn và Việt — Úc. Thứ bảy là Việt Nam tiếp tục dùng sức mạnh mưu cầu (bảo vệ) các vùng biển.
Những năm qua, ngân sách quốc phòng của Việt Nam tăng mạnh, từ 1,3 tỉ USD năm 2006 tăng lên 4,6 tỉ USD năm 2015, tăng trưởng 258%.
Trong các quân binh chủng, Hải quân Việt Nam tăng trưởng mạnh nhất. Từ 2011 đến 2015, tàu chiến nhập khẩu của hải quân Việt Nam chiếm 44% giá trị nhập khẩu quốc phòng của Việt Nam.
Ước tính trong vài năm tới Việt Nam sẽ tiếp tục duy trì quỹ đạo tăng trưởng này.
Các sĩ quan Mỹ trên tàu sân bay Hải quân Hoa Kỳ Carl Vinson tại cảng Đà Nẵng, Việt Nam
© AP Photo / Hau Dinh
Các sĩ quan Mỹ trên tàu sân bay Hải quân Hoa Kỳ Carl Vinson tại cảng Đà Nẵng, Việt Nam
7 điểm trên đây là tổng kết chị Đao rút ra được sau khi thỉnh giáo nhiều vị chuyên gia (Trung Quốc) về Việt Nam. Bài này mới đề cập được đến đây, hoan nghênh các bạn hiểu biết sâu rộng bổ sung thêm."
Vài lời bình luận
Thứ nhất, Việt Nam củng cố các công trình cơ sở hạ tầng trên quần đảo Trường Sa là nhằm mục đích nâng cao năng lực phòng thủ và phục vụ đời sống dân sinh, hoàn toàn hợp pháp và chính đáng trên lãnh thổ của mình.
Hơn nữa, những công trình cơ sở hạ tầng này hoàn toàn không đe dọa đến tự do hàng hải cũng như an ninh của các quốc gia khác.
Đây là nhận thức chung của tất cả các nước trong và ngoài khu vực, thể hiện qua các tuyên bố chính thức, chứ không riêng Việt Nam.
Hoạt động này khác về bản chất so với việc Trung Quốc đảo hóa, quân sự hóa các cấu trúc địa lý trên 2 quần đảo Trường Sa, Hoàng Sa thuộc chủ quyền Việt Nam, mà họ cưỡng đoạt và chiếm đóng trái phép.
Quy mô và tính chất các pháo đài quân sự Trung Quốc dựng lên ở Biển Đông gây lo ngại cho phần còn lại của thế giới có lợi ích hợp pháp trong việc duy trì hòa bình, ổn định ở Biển Đông.
Thứ hai, bãi Tư Chính nằm hoàn toàn trong thềm lục địa phía Nam Việt Nam, không liên quan đến quần đảo Trường Sa và không có tranh chấp.
Mọi hoạt động thăm dò, khai thác tài nguyên của Việt Nam trong vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa nước mình hoàn toàn phù hợp Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982.
Chúng tôi phản đối và bác bỏ các lập luận của tác giả Bổ Nhất Đao cùng các nhà nghiên cứu Trung Quốc về cái gọi là "vùng biển tranh chấp" trong phần lập luận thứ 3 này. Các hoạt động của Việt Nam diễn ra hoàn toàn trong vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa hợp pháp của Việt Nam, xác lập theo Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982 và không có tranh chấp.
Mọi lập luận biến các vùng biển không tranh chấp thành có tranh chấp chỉ là âm mưu, thủ đoạn hiện thực hóa đường lưỡi bò đã bị Phán quyết Trọng tài 12/7/2016 bác bỏ một cách thuyết phục.
Thứ ba, việc tuyên truyền ý thức bảo vệ chủ quyền và các quyền, lợi ích hợp pháp của Việt Nam trên Biển Đông là rất cần thiết, thường xuyên, lâu dài.
Quả thực cá nhân người viết không dám nhận phần đánh giá cao của các học giả Trung Quốc.
Tuy rằng chúng ta đã có nhiều nỗ lực, cố gắng, nhưng để đáp ứng được yêu cầu, đòi hỏi của thực tiễn bảo vệ chủ quyền, quyền và lợi ích hợp pháp của Việt Nam trên Biển Đông, chúng ta còn rất nhiều việc phải làm.
Huống hồ Trung Quốc dựa vào nguồn lực tài chính dồi dào, họ không tiếc tiền thành lập các viện nghiên cứu, tổ chức các hội thảo, vận động hành lang, lợi dụng mọi cơ hội và tổ chức quốc tế để tuyên truyền cho đường lưỡi bò và cái gọi là "chủ quyền lịch sử" trên Biển Đông đã bị Tòa trọng tài bác bỏ.
Thứ tư, Việt Nam có đầy đủ các bằng chứng lịch sử có giá trị pháp lý để khẳng định chủ quyền với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Việt Nam không dựa vào các tài liệu lịch sử thuần túy, bởi đối phương vốn đủ chiêu trò, thừa mưu mẹo để làm giả các tư liệu này, quan trọng hơn là họ tìm cách vô hiệu hóa các hệ quy chiếu pháp lý quốc tế để bảo vệ cho lập luận "chủ quyền lịch sử" của mình ở Biển Đông.
Các lập luận thứ năm, thứ sáu, thứ bảy mà tác giả Bổ Nhất Đao sau khi tham vấn các chuyên gia Trung Quốc về Việt Nam đưa ra, chúng tôi cho rằng đó là sự đề cao thái quá có mục đích.
Chúng tôi cho rằng các hoạt động này hoàn toàn hợp pháp, chính đáng và là một trong những giải pháp hòa bình để tạo môi trường, thúc đẩy giải quyết các tranh chấp trên cơ sở luật pháp, thực tiễn quốc tế.
Còn nói về việc tăng ngân sách quốc phòng và khả năng phòng thủ, đó là việc cần phải làm. Nếu nhìn vào quy mô và kích thước ngân sách quân sự của Trung Quốc, thì 10 nước Đông Nam Á cộng lại cũng chưa bằng một phần của họ.
Nhưng thế mạnh của Việt Nam nằm ở chính nghĩa, với tinh thần giặc đến nhà đàn bà cũng đánh và nói phải củ cải cũng nghe, phòng thủ trong khả năng có thể và đặt trong tổng thể chiến lược đối ngoại, đối nội chứ không phải chạy đua với Trung Quốc về vũ khí. 7 vấn đề về chính sách của Việt Nam trên Biển Đông qua góc nhìn của các học giả Trung Quốc cho thấy một điều rất rõ:
Trung Quốc có cả một đội ngũ nghiên cứu, theo dõi về nhất cử nhất động của Việt Nam, có điều họ nói ra hay không, nói ra khi nào và nói đến đâu mà thôi.
Chúng tôi thiết nghĩ, những gì các nhà nghiên cứu Trung Quốc "xì ra" cho tác giả Bổ Nhất Đao và Thời báo Hoàn Cầu mới chỉ là phần nổi của tảng băng chìm.
Đây là điều mỗi học giả, mỗi người Việt Nam cần nghiêm túc suy nghĩ về nó.
Qua đây, chúng tôi cũng mong muốn ngày càng có nhiều tiếng nói từ các nhà nghiên cứu Việt Nam trong cũng như ngoài nước, để giúp dư luận hiểu thêm về các vấn đề pháp lý trên Biển Đông;
Các xu hướng chính trị khu vực và quốc tế tác động trực tiếp đến Biển Đông và an ninh quốc gia, tính toán của các siêu cường cũng như các bên liên quan…
Bởi suy cho cùng, đối nội và đối ngoại đều quan trọng.
Giúp cho dư luận người Việt trong và ngoài nước có đầy đủ thông tin và hệ quy chiếu pháp lý cần thiết để đánh giá các sự kiện là một cách đấu tranh bảo vệ chủ quyền, quyền và lợi ích hợp pháp hiệu quả, bởi cái hiểu đúng và đầy đủ ấy sẽ được lan truyền rộng khắp.
Theo: Thời Báo Hoàn Cầu, GDVN
 
Bài ca: Tiếng súng đã vang trên bầu trời biên giới

Cảnh giác dã tâm của Trung Quốc: Ai buông lơi hãy học lại câu chuyện Nỏ Thần

(VTC News)- Tướng quân đội cho rằng dã tâm của Trung Quốc muốn độc chiếm Biển Đông là không thay đổi nên dân tộc Việt Nam sẽ luôn phải ghi nhớ hai chữ “cảnh giác”.

Trả lời phỏng vấn VTC News, Thiếu tướng Hồ Anh Thắng, nguyên Giám đốc Trung tâm phát thanh- truyền hình quân đội cho rằng âm mưu độc chiếm Biển Đông của Trung Quốc không chỉ diễn ra trong một thời điểm, trong một hoàn cảnh mà đã có sẵn kịch bản về Biển Đông.
Thiếu tướng Hồ Anh Thắng, nguyên Giám đốc Trung tâm phát thanh- truyền hình quân đội trả lời phỏng vấn VTC News
Thiếu tướng Hồ Anh Thắng, nguyên Giám đốc Trung tâm phát thanh- truyền hình quân đội trả lời phỏng vấn VTC News

- Từ sự kiện Trung Quốc chiếm đảo Gạc Ma của Việt Nam vào ngày 14/3/1988, chúng ta thấy rõ dã tâm của Trung Quốc như thế nào, thưa ông?

Nếu chỉ nói đến sự kiện Trung Quốc chiếm đảo Gạc Ma của Việt Nam để nói về dã tâm của Trung Quốc là chưa thật đầy đủ. Âm mưu độc chiếm Biển Đông của Trung Quốc phải nhận thấy trong suốt chiều dài lịch sử quan hệ giữa hai nước.

Ngược dòng thời gian chúng ta thấy rằng năm 1974 Trung Quốc chiếm đảo Hoàng Sa từ tay quân đội Việt Nam Cộng Hòa giữa lúc cuộc kháng chiến giải phóng Tổ Quốc của chúng ta sắp tới ngày toàn thắng.Tiếp sau đó tháng 2/1979 Trung Quốc đem quân xâm lược nước ta, cuộc chiến kéo dài dai dẳng suốt 10 năm, và cũng đúng thời gian đó, tháng 3 năm 1988, Trung Quốc đánh chiếm đảo Gạc Ma thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam.

Tháng 5/2014, quan hệ Việt Nam - Trung Quốc đang bình thường thì Trung Quốc lại đưa Giàn khoan HD 981 vào khu vực thềm lục địa của Việt Nam.

Điểm lại những dấu mốc lớn đó để thấy rằng cho dù bối cảnh quan hệ giữa hai nước như thế nào thì Trung Quốc cũng không từ bỏ dã tâm của họ. Họ thường xuyên gây hấn với Việt Nam và các nước khác trên khu vực Biển Đông. Hiện nay, Trung Quốc đã và đang làm gì trên Biển Đông thì cả thế giới đã nhìn rõ!

Âm mưu độc chiếm Biển Đông của Trung Quốc không chỉ diễn ra trong một thời điểm, trong một hoàn cảnh, tôi cho rằng Trung Quốc đã có sẵn kịch bản về Biển Đông .

Đó là điều tôi muốn nói rằng trong tâm thức của dân tộc Việt Nam không bao giờ nguôi ngoai hai chữ “ cảnh giác”
Bức tranh miêu tả cuộc chiến đấu bảo vệ đảo Gạc Ma 14/3/988 (đang được treo tại Phòng Truyền thống của Vùng 4 Hải quân) 
Bức tranh miêu tả cuộc chiến đấu bảo vệ đảo Gạc Ma 14/3/988 (đang được treo tại Phòng Truyền thống của Vùng 4 Hải quân) 

- Theo báo New York Times số ra ngày 8/3, Marc Lanteigne, nhà nghiên cứu ở Viện các vấn đề quốc tế (Na Uy) chuyên nghiên cứu chính sách đối ngoại của TQ, nói Trung Quốc muốn chiếm Biển Đông làm “bồn tắm”.  Phải chăng sống bên cạnh một nước láng giềng như thế, dân tộc Việt Nam phải luôn ghi nhớ bài học cảnh giác như ông đã nói ?

Trong tâm khảm của mình, bất kể một người dân Việt Nam yêu nước nào cũng luôn luôn đề phòng dã tâm của Trung Quốc. Ai buông lơi thì hãy học lại câu chuyện Nỏ Thần!

Quan hệ giữa hai đảng, hai nhà nước có những thời điểm tưởng như rất êm đẹp nhưng thực chất trong lòng nó vẫn có “sóng ngầm”.


Quan hệ ngoại giao của Việt Nam với Trung Quốc có lúc thăng, lúc trầm, có những gam màu khác nhau trong những hoàn cảnh khác nhau nhưng ý thức sẵn sàng xả thân vì Tổ quốc  của hàng triệu người dân Việt Nam trước sau như một.

Video: Hải chiến Gạc Ma 1988: Ký ức bi tráng bị lãng quên
Nguồn video: VNE

- Phải chăng Trung Quốc ngày càng ngang ngược, bất chấp dư luận quốc tế phản đối thì sẽ phải nhận những hậu quả to lớn?

Đó là tất yếu. Trung Quốc càng ngang ngược bao nhiêu thì ý thức đề cao cảnh giác của người dân Việt Nam càng lớn, thế giới càng nhận rõ  tâm địa của Trung Quốc. 

Con đường cô lập đang chờ sẵn những ai đang coi thường giá trị hòa bình, giá trị Độc Lập, Tự Do của mỗi dân tộc.

Trong một thế giới phẳng, không một nước nào có quyền và có chỗ đứng trên quyền lợi của dân tộc khác.
Tàu HQ-604 khi nhận lệnh ra Gạc Ma. Ảnh tư liệu Lữ đoàn 125  
Tàu HQ-604 khi nhận lệnh ra Gạc Ma. Ảnh tư liệu Lữ đoàn 125  
Tàu HQ-505 đã lao lên bãi ngầm ở đảo Cô Lin cắm cờ khẳng định chủ quyền Tổ quốc vào ngày 14/3/1988. Ảnh tư liệu. 
Tàu HQ-505 đã lao lên bãi ngầm ở đảo Cô Lin cắm cờ khẳng định chủ quyền Tổ quốc vào ngày 14/3/1988. Ảnh tư liệu. 

- Cộng đồng quốc tế lên tiếng phản đối mạnh mẽ nhưng vì sao Trung Quốc vẫn cố tình phớt lờ, thưa ông?

Hành vi ứng xử của Trung Quốc với Việt Nam và thậm chí với nhiều nước khác luôn theo kiểu việc đã rồi, “cố đấm ăn xôi”. Các việc làm, hành động từ xưa đến nay xâu chuỗi lại cho thấy điều đó.

Bằng hành động chiếm Hoàng Sa năm 1974, Trung Quốc thậm chí đã chà đạp lên mối quan hệ tốt đẹp với nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.
Năm 2014, khi Trung Quốc đưa giàn khoan HD-981 vào thềm lục địa của Việt Nam dù biết rằng hành động của mình là trái với Luật Biển quốc tế nhưng nước này vẫn cứ làm, cho dù vấp phải sự lên án mạnh mẽ của dư luận Việt Nam và Quốc tế.

Nhìn một cách tổng thế, không chỉ với các nước Đông Nam Á mà với cả các nước trên thế giới, không chỉ trên lĩnh vực quan hệ kinh tế, mà cả quân sự Trung Quốc đều hành xử theo kiểu nước lớn.

Luật Biển quốc tế không bao giờ công nhận chủ quyền cho những hòn đảo nhân tạo mà Trung Quốc bồi đắp trái phép. Nhưng khi nước này đã xây rồi thì cũng không dễ dàng ngày một, ngày hai có thể phá bỏ được.- Cộng đồng quốc tế phản ứng quyết liệt nhưng nhiều ý kiến cho rằng trong nước phải chăng phản ứng quá dè dặt?

Đó cũng là một câu hỏi nóng bỏng được nhiều người đặt ra. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần nhìn nhận vấn đề này trên bình diện tổng thể.

Thái độ phản ứng, gam màu phản ứng của mỗi nước khác nhau tùy quan hệ, lợi ích đôi bên, chế độ chính trị của các nước. Vì vậy, phản ứng của các nước Đông Nam Á khác với các nước phương Tây, khác với các nước có quyền lợi trực tiếp trên Biển Đông.

Việt Nam có cách thể hiện thái độ của Việt Nam. Cũng không thể nói cách thể hiện của chúng ta không có “sức nặng” như một số nước khác.

Tôi nghĩ hành động, dã tâm của Trung Quốc thể hiện trên Biển Đông thời gian qua đã đụng chạm đến tất cả trái tim những người dân Việt Nam  yêu nước.

Trong lịch sử dân tộc Việt Nam trước kẻ thù bao giờ cũng  kiên quyết không khuất phục nhưng lại khoan hồng, bao dung, độ lượng. Chúng ta yêu hòa bình, không muốn gây chiến tranh với bất kỳ nước nào. Đó là phẩm giá của người Việt Nam, của dân tộc Việt Nam . Đường lối ngoại giao của Đảng ta là muốn là bạn với tất cả các nước.

Trong thời điểm hiện nay, Việt Nam với Trung Quốc không phải là kẻ thù. Mối quan hệ giữa hai nước hiện nay khác với quan hệ của Việt Nam và Trung Quốc năm 1988.

Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là dân tộc Việt Nam sẽ chịu lùi bước khi có kẻ nào dám xâm phạm lãnh thổ.

Người Việt Nam có cách ứng xử rất mềm dẻo nhưng khi có ngoại xâm thì hàng chục triệu người Việt sẵn sàng đứng lên chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Lịch sử đã chứng minh điều này trong suốt hàng trăm năm trước họa xâm lăng của ngoại bang.

Thực tế cuộc sống hiện nay có thể có những điều khiến người dân chưa thực sự thỏa mãn, giảm sút lòng tin… nhưng khi đã xảy ra một cuộc chiến tranh động đến lãnh thổ, lãnh hải của dân tộc Việt Nam thì toàn thể dân tộc thành một khối.
Vị trí đá Gạc Ma ở các bãi đá thuộc quần đảo Trường Sa. Ảnh: NASA  
Vị trí đá Gạc Ma ở các bãi đá thuộc quần đảo Trường Sa. Ảnh: NASA  

- Việc đồng bào ta ở khắp thế giới đã biểu tình phản đối Trung Quốc âm mưu độc chiếm Biển Đông thể hiện điều gì, thưa ông?

Việt Nam có 4-5 triệu người Việt ở nước ngoài. Đây là một bộ phận không thể thiếu của dân tộc Việt Nam. Chúng ta và Trung Quốc không phải kẻ thù. Vì vậy, ngôn ngữ ngoại giao chính thống thì không thể hiện thái quá để đẩy tình hình đến căng thẳng.

Người Việt Nam ở nước ngoài khi về nước đã được Bộ Ngoại giao mời ra thăm Trường Sa để chứng kiến thực tế việc bảo vệ biển đảo của nhân dân Việt Nam.

Các cuộc ra Trường Sa đó đã khiến cho những người Việt Nam ở nước ngoài thay đổi hoàn toàn nhận thức. Họ được gặp những chiến sĩ đang ngày đêm bảo vệ lãnh thổ, chủ quyền của Việt Nam để có cái nhìn đúng đắn hơn.

Người Việt ở nước ngoài cũng hiểu người Việt ở trong lãnh thổ đang chiến đấu hết mình để bảo vệ lãnh thổ.

- Người dân Việt Nam trong nước sẽ thể hiện tình yêu nước như thế nào khi chưa có Luật Biểu tình, thưa ông?

Hiện nay, Quốc hội chưa thông qua luật biểu tình. Trong khi đó, tháng 5/2014, khi Trung Quốc kéo dàn khoan vào thềm lục địa của Việt Nam, người Việt cũng đã được tuần hành để thể hiện lòng yêu nước của mình.
Nói như vậy thấy rằng Đảng và Nhà nước không hề ngăn cản lòng yêu nước của nhân dân. Lúc đó, trên các trang mạng, ai cũng bày tỏ lòng yêu nước.

Thái độ của người dân được biểu hiện bằng mọi hình thức, trên mọi phương diện. Chúng ta chỉ cần mở mạng là có thể thấy hết.

Thái độ của người Việt với những hành động ngang ngược của Trung Quốc rất rõ ràng. Vì vậy, cần nhìn vấn đề một cách tổng thể mới thấy được.

Khi Trung Quốc đưa giàn khoan HD 981 vào thềm lục địa Việt Nam thì hàng trăm nghệ sĩ Việt đã mặc áo cờ đỏ sao vàng, xếp bản đồ Việt Nam, hát vang bài quốc ca.

Không có cách nào lan truyền nhanh hơn hình ảnh ấy. Có tình yêu Tổ quốc nào biểu hiện sinh động và thiêng liêng hơn thế.

Ở trường học, sáng thứ 2 đầu tuần, hàng trăm học sinh, giáo viên xếp hình bản đồ Tổ Quốc. Đây là cách thể hiện tình yêu nước sinh động nhất mà không có nước nào trên thế giới có được. Chỉ có Việt Nam mới có những hình thức thể hiện lòng yêu nước sinh động đến thế. Đây chính là dáng hình Tổ quốc.
Những cách thể hiện tình yêu nước như vậy đã lan rộng và khắc sâu vào tâm khảm con người.

Ngoài nước thì có 5 triệu người Việt thể hiện mạnh mẽ, phản đối trực diện. Trong lòng đất nước thì sinh động , phong phú hơn nhiều, không ai thờ ơ cả.
Trung Quốc tiến hành các hoạt động bồi lấp phi pháp trên Biển Đông. Ảnh: CSIS 
Trung Quốc tiến hành các hoạt động bồi lấp phi pháp trên Biển Đông. Ảnh: CSIS 

- Hiện nay, Trung Quốc đưa máy bay, tên lửa, vũ khí ra Trường Sa. Phải chăng nguy cơ cuộc chiến tranh trên Biển Đông  không còn xa?

Trung Quốc biết đưa máy bay, tên lửa, vũ khí ra  Trường Sa là bất hợp pháp, đe dọa đến an toàn hàng hải, hàng không trong khu vực, ảnh hưởng đến việc giao thương trên Biển Đông.

Nhưng Trung Quốc vẫn cố tình làm vì họ thừa biết chưa đến lúc cuộc chiến xảy ra. Nếu cuộc chiến xảy ra, Trung Quốc thiệt hại to lớn về mọi mặt.

- Tuy cho rằng chiến tranh trên diện rộng khó xảy ra nhưng khả năng xảy ra đụng độ trên biển liệu có phải ở trước mắt?

Nếu Trung Quốc càng lấn tới, Trung Quốc không tôn trọng quyền lợi, chủ quyền của các nước  thì nguy cơ xảy ra đụng độ là có thể.

Tôi nghĩ Trung Quốc đã có những kịch bản cho Biển Đông chứ không phải là tùy cơ ưng biến.

- Sau những trận chiến ác liệt với Trung Quốc, chắc hẳn nhân dân Việt Nam cũng rút ra được nhiều bài học vô giá?

Dã tâm của Trung Quốc là xuyên suốt, âm ưu đó không bao giờ thay đổi nên đề cao cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu, xây dựng lực lượng vũ trang vững mạnh đáp ứng yêu cầu của Tổ quốc khi cần.

Lịch sử cũng dạy chúng ta những bài học bổ ích. Nước láng giềng luôn bắt chúng ta phải cảnh giác. Trong lịch sử của dân tộc, lực lượng vũ trang của chúng ta cũng chưa bao giờ được buông súng.

Quân đội của Việt Nam là quân đội nhân dân. Việt Nam xây dựng quân đội trên thế trận quốc phòng toàn dân. Chính điều đó đã tạo nên sức mạnh bách chiến bách thắng của Quân đội nhân dân Việt Nam.

Xin cảm ơn ông!

Phạm Thịnh (thực hiện)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét