-Xét
được sống còn trong no đủ là mưu cầu cơ bản và ước nguyện chính đáng
của mọi cuộc đời, thì sẽ phân biệt được chiến tranh phi nghĩa và chiến
tranh chính nghĩa, sự phòng vệ chính đáng cũng như sự bắt buộc hạ sát
lực lượng đối kháng. Và khi phải hành động xả thân vì lẽ phải, con người
trở nên vô cùng cao quí. -Nhưng xét trên bình
diện đánh giá sự sống là thứ quí giá nhất trên đời, thì giết chóc lẫn
nhau, dù là giết chóc bắt buộc, là hành động điên rồ tột bậc của con
người và chiến tranh, dù là chiến tranh chính nghĩa, vẫn là sự ngu xuẩn
vô hạn, dù là sự ngu xuẩn tự giác, nhân danh bảo vệ sự sống! -Đứng lên trên tất cả mà phán xét, thì: trí tuệ siêu việt của con người thậm ngu ngốc! -Chân lý là đây: Chiến tranh là mệnh lệnh tối thượng của tự nhiên mù quáng đối với trí tuệ sáng suốt của loài người: hãy giết chóc lẫn nhau! -Như
vậy, muốn không còn chiến tranh nữa, con người hoặc không còn lòng tham
và tính tư hữu hoặc trở lại suy nghĩ tăm tối như hươu, nai. -Nhưng hết chiến tranh rồi, xã hội loài người có hết bạo tàn?
-----------------------------------------------------------------
(ĐC sưu tầm trên NET)
Những thí nghiệm kinh hoàng trên người của phát xít Nhật
Những thí nghiệm ghê rợn nhất trong lịch sử loài người
Thỏ Con (tổng hợp) |
19
Những thí nghiệm đáng hổ thẹn, không có tính người mà bất cứ ai cũng sẽ cảm thấy thật phẫn nộ.
Các thí nghiệm vốn được thực hiện vì lợi ích của khoa học, vì
lợi ích của nhân loại, để cuộc sống con người càng tiến bộ. Tuy nhiên,
điều đó lại không phải là mục tiêu của những thí nghiệm dưới đây. Những thí nghiệm trên cơ thể người 1. “Thiến người” để đánh giá khả năng chịu đựng
Khoảng 400 thí nghiệm rùng rợn đó thực sự là nỗi ám ảnh kinh hoàng với hàng ngàn nạn nhân.
"Cha đẻ" các chương trình thí nghiệm là thống chế Himmler, chỉ huy
trưởng lực lượng Schutzstaffel - tổ chức vũ trang tàn ác nhất của Đức
Quốc xã. Và nạn nhân chính là các tù nhân ở mọi độ tuổi, không trừ một
ai.
Trùm Himmler, người chỉ đạo các chương trình thí nghiệm tàn bạo
Già, trẻ, gái, trai dù đang khoẻ mạnh cũng bị đè ra chích mầm bệnh
dịch hạch vào cơ thể với liều lượng tăng dần; rồi cơ thể phải phơi ngoài
tuyết lạnh cho chết cóng; nhiều đàn ông bị "thiến" không thương tiếc
hoặc bị bắn đạn chứa chất độc…
Mục đích những trò thí nghiệm quái đản này chỉ để đánh giá khả năng chịu đựng của cơ thể người! 2. Những cuộc giải phẫu sống
Ý tưởng của thí nghiệm điên rồ này xuất phát từ Đơn vị 731, là lực
lượng mật phục vụ nghiên cứu về chiến tranh sinh học và hóa học, và cũng
là đơn vị khét tiếng nhất về các tội ác chiến tranh từng thực hiện bởi
phát xít Nhật.
Nạn nhân không ai khác vẫn chính là những tù nhân xấu số. Các "nhà
khoa học" ở đây tiến hành giải phẫu sống trên các tù nhân đó mà không
cần thuốc gây tê để nghiên cứu bệnh.
Họ khoét mổ phần thân giữa của các tù nhân, sau đó cấy mầm bệnh sốt
Rickettsia và bệnh dịch tả. Những người sống sót sẽ bị treo cổ tới chết. 3. Thí nghiệm triệt sản
Thí nghiệm điên rồ trái với quy luật tự nhiên này được thông qua bởi
Luật Phòng chống gen khiếm khuyết Progeny của Đức Quốc xã ngày 14-7-1933
với mục đích tránh các nguồn gen xấu bị di truyền lại qua các thế hệ
sau.
Và 300.000 người trong các trại tập trung khi đó đã trở thành vật thí
nghiệm bất đắc dĩ. Họ được đưa vào phòng và phải điền một mẫu đơn đăng
ký với mục đích đánh lừa họ.
Các phương thức triệt sản bao gồm: phẫu thuật X-quang, sử dụng thuốc
hoặc tiêm i-ốt và nitrat bạc vào cơ thể. Điều này để lại các tác dụng
phụ nghiêm trọng như chảy máu âm đạo, đau bụng dữ dội hay ung thư cổ tử
cung.
Về sau, các bác sĩ ở đây ưu tiên sử dụng phương thức triệt sản phóng
xạ. Họ làm cho căn phòng bị nhiễm phóng xạ và khiến tù nhân bị triệt sản
hoàn toàn. Một số thì bị bỏng phóng xạ rất nặng. 4. Thí nghiệm trên các cặp song sinh
Bác sĩ "tử thần" của trại tập trung Auschwitz (Đức Quốc xã) Joseph
Mengele chính là “cha đẻ” của thí nghiệm này với mục đích tìm ra những
điểm tương đồng và khác biệt trong gen của các cặp song sinh.
Đã có khoảng 1.500 cặp song sinh bị đưa đến để phục vụ cho thí
nghiệm. Tất cả họ đều bị nhốt trong các doanh trại suốt quá trình.
Các bác sĩ ở đâythực hiện những phương thức vô cùng đáng sợ: tiêm
thuốc nhuộm vào mắt các cặp song sinh để theo dõi sự đổi màu của mắt có
diễn ra không, truyền máu giữa 2 anh em của một cặp song sinh để kiểm
tra tương thích máu.
Và ghê rợn hơn là khâu người các cặp song sinh lại với nhau để tạo ra
các cặp song sinh dính liền. Cuối cùng, chỉ có khoảng 200 cặp sống sót. Những thí nghiệm trên động vật 1. Thí nghiệm thuốc gây nghiện trên loài khỉ
Những chú khỉ bị đem làm thí nghiệm với mục đích đơn thuần chỉ để
chứng minh ảnh hưởng của chất gây nghiện tới con người. Những phương
thức dùng trong thí nghiệm này đã vượt khỏi các chuẩn mực đạo đức với
loài vật.
Những con khỉ được huấn luyện để có thể tự tiêm các chất gây nghiện
như mooc-phin, cocaine, codein, rượu và amphetamine vào cơ thể. Khi đã
thành thục, có thể tự tiêm được thì các chuyên gia đưa cho chúng một
lượng lớn thuốc để sử dụng.
Dĩ nhiên, những con khỉ bị nghiện và có những phản ứng tiêu cực như:
tự làm tay mình bị thương, co giật khi dùng cocaine, tự bứt hết lông ở
cánh tay và bụng, tự bẻ ngón tay do ảo giác…
Trường hợp con khỉ sử dụng cả cocaine và mooc-phin trong 2 tuần liền sẽ bị chết. 2. Thí nghiệm “chế tạo” mèo điệp viên
Chính phủ Mỹ từng mong muốn đào tạo được mèo điệp viên nên đã tiến hành thí nghiệm huấn luyện một con mèo trong vòng 5 năm trời.
Không chỉ dừng lại ở việc việc huấn luyện, họ còn cấy ghép một thiết
bị nghe lén và kiềm chế cảm giác đói vào trong con mèo - đó là một cái
ăngten chạy bằng pin được cấy vào bên trong đuôi của con mèo tội nghiệp.
Thí nghiệm thất bại thảm hại, trong một đợt thực nghiệm trên đường phố, con mèo đã lao vào một chiếc taxi và chết tại chỗ. 3. Thí nghiệm trên loài thỏ
Mục đích của thí nghiệm là dùng để đo mức độ kích ứng trên da, tổn
hại trên mô nhạy cảm và độc tố của những chất khác nhau được sử dụng làm
mỹ phẩm.
Các chuyên gia sử dụng chất có khả năng ăn mòn trực tiếp để thử trên
mắt của nhiều con thỏ, qua đó nhằm đánh giá tình hình mô mắt bị hủy hoại
như thế nào.
Sau khi bị nhỏ những hóa chất như trên mà không có thuốc an thần hỗ
trợ, những con thỏ gần như lập tức phát ra những tiếng kêu đau đớn, thậm
chí chúng còn gãy cả cổ hay lưng vì cố gắng vùng vẫy thoát khỏi sự kìm
kẹp của các dụng cụ nghiên cứu.
Sau thí nghiệm, những chú thỏ này phải đối mặt với những nỗi đau từ
hiện tượng nổi ban đỏ, phù nề, chảy mủ, loét, xuất huyết và mù lòa, thậm
chí có thể dẫn đến cái chết. 4. Thí nghiệm sử dụng phương pháp “kiềm chế”
Chú khỉ đáng thương bị đem ra làm vật thí nghiệm
Thí nghiệm này áp dụng cho loài khỉ. Chúng sẽ bị khóa tay và nhốt vào
lồng hẹp, kín rồi ép lại. Ngoài ra, chúng còn bị tiêm thuốc ketamine,
thuốc an thần để hạn chế phản ứng chống cự.
Bất chấp những nỗi đau đớn loài khỉ phải chịu đựng, các chuyên gia
tiếp tục sử dụng chất độc thần kinh để gây tổn thương cơ thể loài khỉ y
như một bệnh nhân thật. Sau đó tiến hành thử nhiều loại thuốc nhằm chữa
trị căn bệnh đó.
Một con khỉ được tiến hành thí nghiệm.
theo Trí Thức Trẻ
Rùng mình khi nghe kể tội ác của khơme đỏ đối với nhân dân Việt Nam và Campuchia
Thí nghiệm "cỗ máy giết người" của Phát xít Đức - Nhật
Các thí nghiệm ban đầu được đề nghị bởi giám đốc điều hành khoa học của
Đức Quốc xã vào năm 1940 và được cấp phép để thực hiện các thí nghiệm
vào năm 1942, với một điều kiện: “Các thí nghiệm phải được thực hiện
bên ngoài nước Đức. Dân chúng Đức không được nhìn thấy các thí nghiệm
này trong bất kỳ hình thức nào.”
Nó không có gì
ngạc nhiên với các nhà khoa học bởi rằng các giám đốc điều hành rất
hoang tưởng về quan hệ công chúng của họ, dù ý tưởng thực hiện việc
nghiên cứu nằm bên ngoài của tổ quốc nhưng vẫn thuộc bộ phận của Phát
xít.
Hầu hết các thí nghiệm đã được thực hiện trong các boongke (chốt để trú ẩn - từ lóng tiếng Đức)
hoặc tầng hầm. Các nhà khoa học tham gia thí nghiệm đã tuân thủ và tổ
chức một thiết lập với phát xít Nhật Bản. Vào cuối năm 1942, các nghiên
cứu đã bắt đầu….. Nhóm nghiên cứu đã thực hiện trên một trại trẻ mồ côi
Nhật Bản.
Trại trẻ mồ côi trên ngọn đồi, được cho là một nơi nào đó ở Shimane, một
khu vực gần đó là Hiroshima - nơi thực hiện thí nghiệm. Các nhà khoa
học suy luận rằng nếu họ cố gắng để đưa đối tượng thử nghiệm thông
thường hướng tới là người già, người bệnh hoặc người “không có gì còn lại để sống” họ sẽ được chơi đùa thoải mái với các đột biến của bệnh. Nhưng quan trọng hơn cả, họ thử nghiệm trên một bộ não đã có sẵn "ý niệm giết người",
khiến nó trở nên vô dụng trong bối cảnh của việc tìm kiếm các giải
pháp. Kết quả là không như mong muốn cho nên các nhà khoa học Đức Quốc
xã lại sử dụng trẻ em, cụ thể là các trẻ em ở trại trẻ mồ côi mà họ coi
là nơi ẩn nấp. Một lần nữa, những người “không có gì khác để sống”, sẽ trở thành đối tượng thử nghiệm: não bộ của các đứa trẻ sẽ dễ dàng thêm vào bất kỳ các nguyên nhân để gây ra sự kích hoạt "ý niệm giết người".
Để bắt đầu các thí nghiệm, các em đã trải qua nhiều tiêm chủng ngừa và
thử nghiệm tách tâm lý căng thẳng, để đảm bảo rằng họ sẽ ngăn chặn mọi
khuyết tật, và giữ một điểm chuẩn chung cho các đối tượng của họ. Tất cả
các em đều phải vui vẻ, trong sáng và không bệnh tật. Tiếp theo, họ bắt
đầu trước với các nhân viên cũ của trại trẻ mồ côi – những người lớn.
Họ bị gây mê và các bác sĩ phẫu thuật mở hộp sọ của họ để tìm một mặt
cắt ngang của một bộ não người lớn, và bắt đầu tìm thấy sự khác biệt
quan trọng giữa nó và não của một đứa trẻ.
Sau khi đạt được một mô hình của não bộ não người lớn và trẻ em, các nhà khoa học suy luận rằng "ý niệm giết người" đã
không nằm trong não, nhưng ở tiểu não, nằm ở phía sau. Tiểu não ra lệnh
cho tất cả các hoạt động tiềm thức trong não, đó là điều dễ hiểu, vì nó
không phải là một hành động có ý thức để đặt ra các "ý niệm giết người". Một
cách có hệ thống, họ đưa một bé gái cao nhất trong trại trẻ mồ côi, và
bắt đầu thí nghiệm…Họ đã thu được kết quả bắt đầu đầu tiên của họ – họ
mở tiểu não và sửa đổi cái phần coi là "ý niệm giết người", tuy
nhiên, ngay khi họ đóng nắp hộp sọ, thì cô bé đã chết. Họ cho rằng các
vết mổ não đã quá tay và yêu cầu độ chính xác hơn. Sau đó cơ thể cô bé
đã được đem đi thí nghiệm các loại vũ khí …. Họ vẫn tiếp tục quá trình
ấy…
Sau khi nhập khẩu các công cụ khác nhau, và các kỹ thuật đã được phát triển, các nhà khoa học đã có thể thêm vào các "ý niệm giết người" và thành công trong việc phục hồi sức khỏe cho các bệnh nhân.
Trong khoảng năm 1943, họ đã thực hiện lên cô bé nhỏ tuổi nhất trong trại trẻ mồ côi và thêm vào "ý niệm giết người", chức năng duy nhất cô bị mất là "khả năng đổ mồ hôi".
Sau thành công của họ, các nhà khoa học đã ăn mừng hết cỡ, rồi tất cả
mọi người đã đi ngủ. Sáng hôm sau, cô bé đã không thức dậy, và rơi vào
hôn mê. Nhưng ngay sau một thời gian, cô đã được hồi sinh thành công bởi
một bác sĩ người Nga (Chuyên gia về hồi phục sức khỏe) ... Cô bé đã trở thành một cỗ máy giết người cho Phát xít Đức - Nhật vào lúc bấy giờ... thí nghiệm vẫn được tiếp tục ...
Được đề xuất cho bạn
Thảm sát Ba Chúc: Kỹ nghệ giết người tàn ác
Tội ác như thế này, loài người trên thế gian, có thể tin được không?
Kỳ 1: Kỹ nghệ giết người tàn ác
Lịch sử nước Việt thời kỳ nào cũng
nhiều nước mắt, đau thương, với rất nhiều vụ mà kẻ thù thảm sát người
dân. Trong đó, vụ thảm sát Ba Chúc của “tập đoàn ác thú” Pol Pot, gây
rúng động cả thế giới loài người. Phóng viên đã dành nhiều ngày cùng
sống với những người còn sót lại của vụ thảm sát ở vùng đất này, để ghi
lại tội ác tày trời mà bọn ác thú Pol Pot đã gây ra cho người dân vô
tội.
Mảnh đất lạnh
Đến vùng đất Ba Chúc, quả thực, không
còn nhận ra nơi đây từng có vụ thảm sát kinh hoàng. Nhà cửa san sát, phố
xá đông người. Trong hình dung của tôi, vùng đất Ba Chúc xác xơ, u
tịch, nơi từng là một biển lửa, biển máu, biển xác người.
35 năm trôi qua, giờ chứng tích tội ác
của bọn “ác thú”, và sự đau thương mất mát chỉ còn hiện diện ở khu nhà
mồ, với chồng chất xương người.
Nhưng, bước chân vào mảnh đất này, vẫn
có một cảm giác lành lạnh, u ám, khiến đôi chân như ríu lại. Dường như,
mỗi tấc đất nơi đây, đều có xương thịt người vô tội và những oan hồn ẩn
khuất chưa thể siêu thoát.
Có lẽ, ở Việt Nam, đây là thị trấn duy
nhất, vùng đất duy nhất chẳng có rượu, bia, chẳng có nơi hát hò, giải
trí. Vài quán ăn lèo tèo, chủ yếu là cơm chay.
Xác người dân vô tội do Pol Pot giết hại ở cánh đồng Ba Chúc.
Bóng đêm buông, ít người đi lại. Đây
đó, từ ngôi nhà sang trọng đến những túp lều gianh, phát ra tiếng tụng
kinh, tiếng mõ. Nhà nào ở vùng đất này cũng có người chết thảm, thậm chí
chết cả nhà, cả họ, nên bao nhiêu năm nay, người còn sống tụng kinh để
những oan hồn được siêu sinh tịnh độ.
Nhà mồ Ba Chúc mới bị phá, để xây dựng
lại khang trang hơn. Nơi nhà mồ ấy, xương cốt sẽ được trưng bày từng
bộ, rồi nhiều vật chứng cũng được bày biện để thế hệ sau thấy được sự
mất mát, đau thương của thế hệ trước, là cái giá cho những ngày yên bình
này.
Những hộp sọ u buồn
Một ngôi nhà nhỏ, cỡ 30 mét vuông, tường kính được dựng tạm trước chùa Phi Lai. Trong ngôi nhà ấy, chất chồng xương cốt.
Ông Nguyễn Văn Tiệm, dáng người mảnh
khảnh, khuôn mặt u buồn, dẫn tôi đi một vòng quanh ngôi nhà tạm chứa
xương. 1.159 bộ hài cốt, trong tổng số 3.157 mạng người Ba Chúc bị Pol
Pot sát hại, xếp chồng chất trong nhà mồ.
Ông Nguyễn Văn Tiệm trở thành người kể chuyện ở khu di tích Ba Chúc.
Đủ 1.159 hộp sọ được phân loại theo độ
tuổi, bày biện trên giá thép. Trên hộp sọ in một dãy số ký hiệu. Những
hộp sọ to nhỏ, với 2 hốc mắt nhìn ra ngoài u uẩn.
Ông Tiệm kể, nhiều người yếu tim, đến
khu nhà mồ, nhìn những hình ảnh sọ người, đã ngất xỉu, thậm chí mất kiểm
soát tâm trí như thể bị ma nhập, nên phải khênh đi nơi khác.
Ông Tiệm là cựu chiến binh, là nhân
chứng sống của vụ thảm sát năm xưa. Gia đình ông ở mãi huyện Tân Châu,
nằm sâu trong nội địa.
Ông lấy vợ ở Ba Chúc, rồi ở rể, tham
gia dân quân chiến đấu chống Pol Pot ở vùng biên giới. Ngày đó, gia cảnh
nhà ông khá giả, nên ông sắm được xe Honda 67 và cũng chính nhờ chiếc
xe đó, mà gia đình ông thoát chết.
Khi quân Pol Pot quấy nhiễu dọc biên
giới, bộ đội đã sơ tán dân. Đã có cả ngàn cư dân Ba Chúc được sơ tán vào
trong, nhưng đi được thời gian, thấy tình hình yên ổn, người dân lại
tìm về.
Những hộp sọ trong nhà mồ.
Quê ông ở Tân Châu, bố mẹ vẫn ở đó,
nên ông dùng xe máy chở vợ con về quê nội, rồi tiếp tục cầm súng quay
lại Ba Chúc. Đó chính là lý do gia đình ông được vẹn toàn.
Nhưng, phía nhà vợ ông thì thực sự
thảm khốc. Gần như đại gia đình bên vợ đều bị bọn “ác thú” Pol Pot giết
sạch. Cả họ bên vợ chỉ còn lại vài mống người.
Là người chứng kiến toàn bộ cuộc thảm
sát của bọn Pol Pot, nên ông được hội cựu chiến binh và chính quyền chọn
làm “người kể chuyện” ở khu vực nhà mồ cho khách tham quan.
Kỹ nghệ giết người
Ông Tiệm từng tham gia gom xác, đốt
xác để lấy xương, rồi cuốc đất tìm xương, lặn ngụp dưới sông vớt cốt,
nên ông hiểu rất rõ về những bộ cốt trong nhà mồ. Nhìn vào mỗi hộp sọ,
dù không biết đó là của ai, nhưng ông có thể thấy rõ hành động của bọn
“ác thú” với những nạn nhân.
Tin tài trợ
Trong số những hộp sọ trong nhà mồ, có
rất nhiều hộp sọ có 3 đường nứt đều nhau, giao nhau ở đỉnh sọ, ngay
dưới trán lên. Tôi thắc mắc, thì ông Tiệm giải thích rằng, những hộp sọ
vỡ kiểu này là do bọn Pol Pot dùng chiếc vồ, hoặc gậy gỗ mun nhắm thẳng
vào đỉnh đầu người vô tội rồi đập một cú trời giáng.
Hộp sọ với những vết nứt đều nhau của những nạn nhân bị sát hại bởi gậy gỗ mun.
Ngày đó, mỗi nhóm Pol Pot có vài tên
được trang bị gậy hoặc vồ bằng gỗ mun, thứ gỗ cứng như thép, nặng như
thép, dai như thép. Bọn khốn nạn đó luôn kè kè cây gậy bên mình. Cây gậy
đó lấy được càng nhiều mạng người, thì chủ nhân của nó càng được tôn
trọng và trong con mắt của chúng, cây gậy đó mới đáng quý.
Những cây gậy gỗ mun là thứ ám ảnh
kinh hoàng với 2 triệu đồng bào Campuchia vô tội, bị bọn Pol Pot hành
hình. Chủ nhân của những cây gậy này chỉ cần vung lên một lần, là một
mạng người bị cướp đi một cách oan khốc.
Những chiếc sọ người với 3 đường nứt
đều chằn chặn như thế, thể hiện “trình độ” giết người của bọn Pol Pot đã
đạt đến mức độ nhuần nhuyễn.
Ông Nguyễn Văn Tiệm lọ mọ mở cánh cửa
căn nhà cấp 4, gọi là Nhà trưng bày chứng tích tội ác của bọn Pol Pot.
Bước vào ngôi nhà, dường như, đôi chân tôi muốn khụy xuống. Trên 4 bức
tường là những hình ảnh không dành cho người yếu tim. Những xác người
chất chồng chết theo tư thế thảm khốc nhất.
Gậy gỗ mun dùng để giết người vô tội của bọn Pol Pot.
Cây gậy gỗ mun được tiện cầu kỳ nằm im
lìm trong tủ kính với dòng chữ: “Dùi: bọn Pol Pot dùng đập đầu tàn sát
nhân dân Ba Chúc năm 1978”. Cây gậy gỗ mun nặng trịch này giải mã cho
cái chết của hàng ngàn nạn nhân Ba Chúc, hàng triệu người dân vô tội
Campuchia, mà chứng tích để lại là những hộp sọ với 3 vết nứt chạy đều
gặp nhau ở đỉnh sọ.
Trong chiếc tủ kính ấy, còn nhiều gậy
nữa. Khúc tầm vông chỉ bằng cổ tay người lớn, dài cỡ 1m, nhưng nó đã
giết hại vô số trẻ em vô tội. Bọn ác thú dùng khúc tầm vông vụt vào gáy,
khiến những em nhỏ chết ngay tức khắc. Cú vụt của chúng mạnh đến nỗi,
những hộp sọ trẻ em đều nứt một đường ngang, làm vỡ đôi hộp sọ, tách nửa
trên với nửa dưới.
Nhưng, đau xót và căm phẫn nhất, là
cây gậy tầm vông nhọn hoắt một đầu. Bất cứ một con người lương tri nào
trên thế giới này, khi nhìn cây gậy, nhìn những tấm hình treo trên
tường, và nghe lời thuyết minh của ông Tiệm, đều không khỏi phẫn uất,
rùng mình. Những kẻ lạc loài ở bên kia biên giới đã dùng những cây gậy
nhọn này thọc vào chỗ kín của phụ nữ, xuyên tận lên đến cổ.
Tội ác như thế này, loài người trên thế gian, có thể tin được không? Một cảm giác uất hận cứ nghèn nghẹn nơi cổ họng.
(Kiến Thức) - Tháng
2/1978, Trung ương Khmer Đỏ ra nghị quyết: “Thực hiện 1 diệt 30, hy
sinh 2 triệu người Campuchia để tiêu diệt 50 triệu người Việt Nam”. Và
sau đó, hơn 3.000 thường dân Ba Chúc đã bị giết.
Rất nhiều vết bàn tay máu in trên tường, vết máu hình người dựa vào tường.
Kỳ 2: Những vết máu trong chùa
Ông Nguyễn Văn Tiệm dẫn tôi vào ngôi
chùa Phi Lai, nằm ngay dưới chân núi Tượng, quả núi nằm trọn trong xã Ba
Chúc (Tri Tôn, An Giang). Ngôi chùa nằm cách chân núi chỉ 300m, ngay
phía sau Nhà trưng bày chứng tích tội ác của bọn Pol Pot, nơi chồng chất
xương người.
Ông Tiệm bảo, ngôi chùa này có quá
nhiều âm khí, nên không phải ai cũng dám bước chân vào. Có lẽ, do ám ảnh
quá kinh hoàng, hoặc từ những lời thuyết minh của ông, mà không ít
người yếu bóng vía đã đánh mất cả lý trí khi bước chân vào ngôi chùa
này.
Chùa Phi Lai do ông Ngô Lợi, cùng với
các tín đồ xây dựng vào đầu năm 1887. Ngôi chùa này mới chỉ tồn tại hơn
thế kỷ, nhưng đã có vô số lần bị thực dân Pháp đốt phá, hoặc nã pháo tan
tành.
Chùa Phi Lai, nơi từng diễn ra cuộc thảm sát người dân vô tội.
Nhà văn Sơn Nam từng bỏ nhiều công sức
nghiên cứu ngôi chùa này. Ông cho rằng, chùa Phi Lai vốn là điện, thờ
đấng tối cao Ngọc Hoàng Huyền khung Cao thượng đế. Trong điện còn thờ
“tứ đại thần châu”, tức 4 hòn đảo của cõi tiên.
Kim chỉ nam của những người tu trong
chùa là Đạo Lão và Đạo Phật, lấy từ bi bác ái làm lành lánh dữ. Nhân dân
Ba Chúc vốn coi ngôi chùa là nơi Phật ngự, tin rằng Phật sẽ bảo vệ tính
mạng của họ, nên lấy làm nơi trú ngụ. Thế nhưng, tính mạng người dân Ba
Chúc thật vô cùng thảm khốc.
Ông Nguyễn Văn Tiệm nhớ lại: “Ngày
30/4/1977, nhân dân Ba Chúc cùng nhân dân cả nước long trọng làm lễ kỷ
niệm ngày miền Nam giải phóng lần thứ 2, thì bọn Pol Pot tấn công, nã
pháo vào Ba Chúc, khiến người chết, nhà cháy, tiếng la khóc vang lên
khắp nơi. Sau tui mới biết, đúng hôm đó, chúng tấn công cả 8 tỉnh biên
giới nước ta”.
Từ đó, đến đầu năm 1978, nhân dân Ba
Chúc chẳng được một ngày yên bình. Trong vòng 8 tháng, bọn Pol Pot tấn
công vào Ba Chúc tổng số 30 lần.
Xác người dân Ba Chúc bị Pol Pot giết hại bên hông chùa Phi Lai. Ảnh tư liệu.
Ông Nguyễn Văn Tiệm rưng rưng nhớ lại:
“Thời điểm đó bộ đội chủ lực của ta được huy động xuống Hà Tiên để
chống đỡ bọn Pol Pot, nên ở khu vực Ba Chúc chỉ còn lại rất ít bộ đội,
chủ yếu là dân quân địa phương.
Tui cùng anh em dân quân được trang bị
súng ống đầy đủ, phục kích chặn đường chúng. Tuy nhiên, lực lượng Pol
Pot rất đông, hỏa lực rất mạnh, mà người dân thì bị chúng bắt và khống
chế rất nhiều, nên không thể tấn công tiêu diệt chúng.
Dân quân chúng tui thay vì đánh giặc,
phải làm nhiệm vụ sơ tán người dân lên núi Dài, rồi bảo vệ nhân dân trên
đó, chờ bộ đội chủ lực đến ứng cứu.
Trong khi nhiều người dân Ba Chúc đã
được sơ tán, chạy lên núi Dài, thì còn rất nhiều người dân kẹt lại. Pháo
kích khắp nơi, súng bắn như vãi đạn, không kịp chạy, nên cả trăm người
vào chùa Phi Lai trú ẩn những mong được Đức Phật che chở. Nào ngờ…”.
Ông Tiệm chỉ vết máu thấm trên tường chùa Phi Lai.
Ông Nguyễn Văn Tiệm dẫn tôi vào hậu
cung chùa Phi Lai. Ông chỉ bức tường dài đến hơn chục mét. Dưới chân
tường có những vết đỏ thẫm, chỗ cao, chỗ thấp. Tôi chợt lạnh người khi
ông bảo, đó là vết máu của đồng bào Ba Chúc, thấm sâu vào bức tường vôi
và ẩn trong tường đến nay.
Khoảng 3 giờ chiều ngày 18/4/1978, bọn
Pol Pot tràn vào giữa làng, bao vây chùa Phi Lai. Bất chấp chốn thiền
môn, cuộc hành quyết kinh thiên động địa đã diễn ra tại ngôi chùa này.
Bọn Pol Pot vây đặc quanh chùa, súng
ống chĩa vào chùa tua tủa. Chúng gọi người dân ra hàng. Cả trăm con
người sợ hãi không dám ra. Kêu gọi một lúc, không thấy ai ra, chúng xả
súng, quăng lựu đạn bừa bãi vào trong chùa.
Xương cốt chồng chất bên chùa Phi Lai. Ảnh tư liệu.
Cuộc bắn phá điên cuồng vào chùa Phi Lai, chỉ trong chớp mắt, đã cướp đi sinh mạng 80 người dân vô tội.
Biết rằng, nếu trốn ở trong chùa,
chúng sẽ tiếp tục quăng lựu đạn đến sập chùa, thậm chí phóng hỏa đốt
chùa nướng chín mọi người, nên 100 người giơ tay đầu hàng đi ra phía
cửa.
Tin tài trợ
Lần lượt từng người, vừa bước ra khỏi
cửa chùa, đã bị nòng súng đen ngòm gí vào đầu. 100 người dân vô tội bị
chúng trói gô, bắt quỳ mọp bên hông chùa. Đàn bà, phụ nữ bị bọn “ác thú”
lột quần áo cưỡng hiếp tại chỗ. Cưỡng hiếp xong, chúng giở trò tiêu
khiển man rợ: xẻo vú, xiên gậy vào người cho đến chết.
Đàn ông bị bọn “ác thú” này hành quyết
bằng những cú đập trời giáng vào đỉnh sọ bằng gậy gỗ mun. Trẻ em bị
chúng giết hại bằng gậy tầm vông. Người nào chống đối, chúng nã đạn chết
tại chỗ.
40 người dân vô tội trốn trong căn hầm dưới bàn thờ Phật bị Pol Pot tung lựu đạn giết hại.
Ông Tiệm dẫn tôi đến ban thờ Phật
trong hậu cung chùa. Ông bảo rằng, đã có 40 người trú dưới bàn thờ Phật
mất mạng. Lịch sử nhà chùa ghi lại rõ rành như vậy, nhưng một số kẻ phản
động chuyên bới lông tìm vết nói rằng, chuyện 40 người trốn dưới bàn
thờ là bịa tạc, bởi chẳng có gầm bàn thờ nào chứa được tới 40 người!
Bọn phản động suy diễn nghe có vẻ có
lý, nhưng với người Ba Chúc thì ai cũng biết rõ, gầm bàn thờ Phật trong
chùa Phi Lai chứa được 40 người thật, và đã có 40 con người mất mạng
dưới chân Đức Phật.
Thời kỳ chống Pháp, vùng đất Ba Chúc
liên tục bị giặc Pháp tấn công. Nhà chùa đã xây dựng một phòng bí mật
dưới bàn thờ Phật, để tăng ni, dân chúng trốn trong đó, mỗi khi giặc
Pháp tấn công.
Khi bọn Pol Pot tràn vào, có tới 40
người dân chui vào căn hầm dưới bàn thời Phật. Sau khi giết 180 người
trong chùa, bọn chúng vẫn không biết đến căn hầm bí mật này.
Những hộp sọ của người dân Ba Chúc cất giữ trong nhà mồ.
Thế nhưng, trốn trong hầm mấy ngày,
không ăn, không uống, nên ai cũng đói khát. Một cháu bé không chịu nổi,
đã khóc thét lên. Tên Pol Pot đứng gần chùa nghe tiếng khóc đã phát hiện
căn phòng dưới bàn thờ Phật.
Toán Pol Pot kêu gọi đầu hàng, không
thấy ai ra, đã quăng một trái lựu đạn vào trong hầm. Gian phòng nhỏ cỡ
10 mét vuông, có tới 40 người chen chúc, ngột ngạt, nên một quả lựu đạn
đã tước đoạt đủ 40 mạng người.
Vài ngày sau, khi bọn Pol Pot bị bộ
đội chủ lực của ta tấn công, tiêu diệt, đẩy lùi về bên kia biên giới,
thì nhân dân Ba Chúc ở trên núi Dài tìm xuống, người dân di tản tìm về.
Cảnh tượng chết chóc bên trong và
quanh ngôi chùa Phi Lai khiến không ai cầm nổi lòng mình. Rất nhiều vết
bàn tay máu in trên tường, rồi vết máu hình người dựa vào tường. Cả một
đoạn tường dài cả chục mét thấm đẫm máu người. Một vòng máu búng lên
tường cao đến 4 mét. Máu đọng thành vũng dưới nền chùa, thấm dọc ven
tường đến 20cm.
Bà con xã Ba Chúc gánh không biết bao
nhiêu thùng nước mới rửa sạch được nền chùa. Những vết máu thấm sâu vào
bức tường vữa, nên còn giữ được đến ngày nay.
Còn tiếp…
Theo VTC
Thảm sát Ba Chúc: Cuộc hành quyết 800 người
Trong một ngày, những kẻ ác thú không còn tính người, đã giết hại 800 đồng bào vô tội.
Kỳ 3: Cuộc hành quyết 800 người vô tội
Đối diện chùa Phi Lai, là ngôi chùa
Tam Bửu, tổ đình của đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa. Đây là tự viện danh tiếng, di
tích lịch sử cấp quốc gia tại làng Ba Chúc (Tri Tôn, An Giang).
Nhưng, tại ngôi chùa này, đã diễn ra
cuộc thảm sát kinh thiên động địa. Trong một ngày, bọn “ác thú” không
còn tính người, đã giết 800 đồng bào vô tội.
Cựu chiến binh Nguyễn Văn Tiệm dẫn tôi
vào Nhà trưng bày chứng tích tội ác của bọn Pol Pot, lật giở từng tấm
ảnh đen trắng chụp cảnh hoang tàn, đổ nát của chùa Tam Bửu 35 năm trước.
Những xác chết chất chồng, khô quắt, nằm sấp, nằm ngửa, miệng há, mắt
trợn quá thương tâm.
Chùa Tam Bửu.
Chùa Tam Bửu được nhân dân đóng góp,
xây dựng lại khang trang. Những dấu vết của cuộc thảm sát tàn khốc giờ
không còn ở ngôi chùa này nữa, nhưng ký ức của người dân Ba Chúc về
những tháng ngày kinh hãi ở ngôi chùa này thì vẫn y nguyên.
Chùa Tam Bửu là ngôi chùa đầu tiên của
đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa, xây dựng trước chùa Phi Lai 5 năm. Giáo chủ Ngô
Lợi cùng tín đồ dựng ngôi chùa này vào năm 1882 làm nơi tu tập.
Lịch sử ngôi chùa ghi lại rằng, ông
Ngô Lợi khai sáng đạo từ năm 1867 tại Ba Chúc. Trước khi dựng chùa, ông
Lợi sống trong một am nhỏ dựng bằng cây lá.
Dựng chùa xong, ông Ngô Lợi cùng nhân
dân lên núi Dài còn gọi là Ngọa Long Sơn đốn cây cam đàn, loại gỗ cực
tốt, đục Long Đình (còn gọi là Long Vị), với kích thước cao 3m, một cạnh
ngang 2m, một cạnh ngang 1,5m. Đây được coi là báu vật của tổ đình.
Xác người bên chùa Tam Bửu.
Long Đình thờ Đức Phật Vương, một nhân
vật mà đến nay những người tiếp nối trông coi chùa vẫn chưa sáng tỏ.
Ông Ngô Lợi mất đi, Long Đình được tín đồ gọi là Khánh Tổ, thờ Đức Bổn
Sư, tức Ngô Lợi.
Ông Ngô Lợi là một sĩ phu yêu nước của
phong trào Cần Vương. Ông bị thực dân Pháp truy sát từ Mỹ Tho về Ba
Chúc. Ông tá túc ở đây, dựng chùa tu hành để che mắt giặc.
Tại Ba Chúc, ông vẫn lãnh đạo môn đồ
tiến hành nhiều cuộc nổi dậy chống thực dân Pháp, nên thực dân Pháp rất
ghét, liên tục vây ráp, đốt phá chùa.
Ông Dương Văn Giàu, thủ nhang chùa Tam
Bửu bần thần nhớ lại những ngày đưa vợ con trốn chui trốn lủi trên núi
Dài, còn họ hàng, xóm làng bị bọn Pol Pot giết sạch. Ông cùng mọi người
đứng trên quả núi, nhìn xuống chùa Tam Bửu, thấy lửa cháy ngùn ngụt,
tiếng người la khóc, mà lực bất tòng tâm.
Xương cốt chất chồng trong nhà mồ Ba Chúc.
Theo ông Giàu, từ giữa năm 1977 đến
đầu năm 1978, nhân dân Ba Chúc chẳng được một ngày yên bình. Trong vòng 8
tháng, bọn Pol Pot tấn công vào Ba Chúc tổng số 30 lần.
Bọn chúng cứ tấn công đột ngột, nã
pháo, rồi lại rút về phía bên kia biên giới. Bộ đội cùng chính quyền đã
tổ chức di dời dân vào sâu nội địa. Tuy nhiên, khi đó, dọc tuyến biên
giới đều bị tấn công, nên công tác di dời có phần chậm chạp.
Bọn chúng tấn công rời rạc, không thọc
sâu, nên người dân đi được một thời gian lại kéo về làng. Người dân đào
hầm trong nhà, đào hang trong núi, hễ nghe thấy tiếng súng, tiếng pháo
thì ẩn nấp, hết tiếng nổ lại ra ngoài hoạt động sản xuất.
Từ ngày 15/4/1978, mỗi ngày ông cùng dân làng đếm được từ 1.000 – 2.000 quả pháo do bọn Pol Pot nã vào Ba Chúc.
Du khách thắp hương tại nhà mồ.
Ngày 17/4/1978, bọn Pol Pot bắn pháo
như mưa vào Ba Chúc. Hết loạt pháo, chúng chia làm 2 cánh quân đánh sâu
vào Ba Chúc. Một cánh quân chiếm xã An Lập (phía đông Ba Chúc), một cánh
quân đánh chiếm ấp An Bình dưới chân núi Dài.
Hai cánh quân này đã khóa chặt xã Ba
Chúc. Gia đình nào nhanh chân thì chạy thoát được lên núi Dài, còn lại
phần lớn mắc kẹt trong vòng vây của bọn khát máu.
Những gia đình không chạy kịp lên núi
Dài, đã kéo cả vào chùa Tam Bửu mong sống sót trong sự bao dung của Đức
Phật. Nhiều gia đình kéo cả nhà, thậm chí cả họ cùng trốn vào chùa, nên
đã bị tuyệt tự.
Ông Giàu nhớ lại: “Tui vẫn nhớ rõ, hôm
đó là ngày rằm tháng 3 âm lịch (17/4/1978), lúc tui đang đào củ nừng
(một loài củ dại có trên núi Dài) cho cả nhà ăn chống đói, thì một tiếng
nổ vang trời, tiếng người la hét vang lên.
Tui trèo lên cây nhòm về làng, thấy
chùa Tam Bửu cháy ngùn ngụt. Biết người dân trú trong chùa, bọn Pol Pot
đã bắn pháo vào hậu liêu chùa, làm chết 40 người, xác chồng chất lên
nhau.
Lúc đó, trong chùa vẫn có hơn 800
người trú ngụ. Mọi người đưa 20 người bị thương ra ngoài, tìm cách đưa
đi chữa trị, nhưng bọn Pol Pot bao vây kín mít, không còn đường thoát,
nên lại quay về chùa.
Ông Dương Văn Giàu kể lại cuộc tàn sát 800 người dân ẩn náu trong chùa Tam Bửu.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét