Bài thơ Tre Việt Nam được khắc vào Bia thơ kỷ niệm
13/02/2017 18:59 GMT+7
TTO - Một
tấm đá lớn khắc những vần thơ trong bài thơ nổi tiếng Tre Việt Nam cùng
bút tích của tác giả - nhà thơ Nguyễn Duy - vừa được đặt tại khuôn viên
công sở UBND phường Đông Vệ, TP Thanh Hóa.
Tấm bia đá khắc bài thơ Tre Việt Nam của nhà thơ Nguyễn Duy - Ảnh: Nguyễn Quỳnh
Đây là công trình Bia thơ kỷ niệm của chính quyền, người dân phường Đông Vệ - quê hương nhà thơ Nguyễn Duy, nhằm tôn vinh sự nghiệp thơ ca của ông.
Tấm bia đá khắc bài thơ Tre Việt Nam màu xanh có chiều rộng
1m, cao 2,35m, nặng 1,7 tấn, hình búp măng có nguồn gốc từ quê ngoại nhà
thơ Nguyễn Duy ở huyện Hà Trung (Thanh Hóa). Cạnh tấm bia được trồng
một bụi tre.
Tên tuổi của nhà thơ Nguyễn Duy gắn liền với các bài thơ như: Cầu Bố, Đò Lèn, Hơi ấm ổ rơm, Ánh trăng... Nhưng có lẽ bài thơ Tre Việt Nam -
tác phẩm đã được giải nhất cuộc thi thơ của tuần báo Văn nghệ năm 1972 -
1973, là bài thơ được nhiều thế hệ người Việt Nam trân quý, thuộc lòng.
Ông Nguyễn Việt Hùng - bí thư kiêm chủ tịch UBND phường Đông Vệ (TP
Thanh Hóa) - cho biết bia đá được đặt trong khuôn viên công sở phường,
như một thông điệp gửi gắm tới các thế hệ hôm nay và mai sau luôn mang
trong từng suy nghĩ, từng việc làm của mình những phẩm chất truyền thống
tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam được Nguyễn Duy khái
quát trong bài thơ Tre Việt Nam.
Tre Việt Nam Tre xanh
Xanh tự bao giờ?
Chuyện ngày xưa... đã có bờ tre xanh Thân gầy guộc, lá mong manh
Mà sao nên lũy nên thành tre ơi?
Ở đâu tre cũng xanh tươi
Cho dù đất sỏi đất vôi bạc màu Có gì đâu, có gì đâu
Mỡ màu ít chắt dồn lâu hoá nhiều
Rễ siêng không ngại đất nghèo
Tre bao nhiêu rễ bấy nhiêu cần cù
Vươn mình trong gió tre đu
Cây kham khổ vẫn hát ru lá cành
Yêu nhiều nắng nỏ trời xanh
Tre xanh không đứng khuất mình bóng râm Bão bùng thân bọc lấy thân
Tay ôm tay níu tre gần nhau thêm
Thương nhau tre không ở riêng
Lũy thành từ đó mà nên hỡi người
Chẳng may thân gãy cành rơi
Vẫn nguyên cái gốc truyền đời cho măng
Nòi tre đâu chịu mọc cong
Chưa lên đã nhọn như chông lạ thường
Lưng trần phơi nắng phơi sương
Có manh áo cộc tre nhường cho con Măng non là búp măng non
Đã mang dáng thẳng thân tròn của tre
Năm qua đi, tháng qua đi
Tre già măng mọc có gì lạ đâu Mai sau,
Mai sau,
Mai sau...
Đất xanh tre mãi xanh màu tre xanh
Nguyễn Duy
HÀ ĐỒNG
Ngỡ ngàng tre Việt!
23/06/2015 21:38
Cuộc đời tre, giá trị tre, hình ảnh tre… đã gắn bó hết sức thân thuộc
với mỗi người chúng ta và đây cũng là loài có sức chịu đựng phi thường.
Âu đó cũng là phẩm chất của người Việt: “Tre xanh không đứng khuất mình
bóng râm” (Nguyễn Duy)
Quê tôi ở thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Từ xưa, 1 xã đã có đến 2
thôn chuyên nghề chẻ tre đan cót. Đến sau năm 1975, hàng trăm gia đình
vẫn tiếp tục nghề này. Từ nghề đan cót, đan phên truyền thống, nhiều
người dùng tre chế tác ra hàng chục mặt hàng gia dụng khác, đưa đi bán
khắp nơi. Người quê tôi đa số biết đốn tre, đánh trối, chẻ nan và đan
đát từ nhỏ. Họ sống dưới bóng râm của những lũy tre, sinh nhai bằng lợi
tức làm ra từ tre nên thường vui vẻ tự xưng mình là “người Việt gốc...
tre” khi có cháu con ngoài thành thị trở về thăm và trầm trồ nhìn họ
biểu diễn tay nghề. Vì vậy, dù đi đâu, hình bóng cây tre vẫn luôn ám ảnh... Người “bị tre ám”
Cố nhà thơ Thu Bồn là người đồng hương của chúng tôi. Thuở nhỏ, nhà
ông ở khuất sau những lũy tre ven con sông Ngũ Giáp. Lớn lên, Thu Bồn đi
kháng chiến và làm thơ. Tre là một hình ảnh luôn “ám” lấy ông. Tập thơ
đầu tiên viết vào đầu những năm 1960, ông lấy tên là “Tre xanh”, lời lẽ
dung dị mà giàu hình ảnh và cảm xúc: “Tôi bước đi dưới tre gió bồng chân
sáo/ Đường hành quân những lần tre níu áo/Lòng bồi hồi rộn bóng tre
xưa...”; hoặc: “Ông cha ta xưa trồng tre thành chiến lũy/Nên rừng chông
đứng sẵn thế xung phong”.
Khi Thu Bồn nằm hầm bí mật và khao khát nhìn thấy bầu trời xanh thì
qua lỗ thông hơi của căn hầm, thứ đầu tiên mà ông nhìn thấy cũng chính
là 1 cành tre: “Nhìn qua lỗ nhỏ thấy cành tre non” (bài “Căn hầm bí mật
của tôi”). Ngày hòa bình, ông vào ở tại quận 5, TP HCM. Dù đất sân không
nhiều, ông vẫn trồng một khóm tre ngà trước cổng và thường ngày vẫn ngủ
trên chiếc chõng tre nhỏ với tấm vạt giường láng mượt. Văn nghệ sĩ kháo
nhau rằng ông quyết định dời nhà lên suối Lồ Ồ sau đó và sống đến cuối
đời một phần cũng là từ tình yêu ban đầu ấy!
Lũy tre không chỉ che chở cho làng mà còn giúp con người làm ra nhiều vật dụng có ích
Chú họ tôi tên Thà, năm nay tuổi đã gần 70. Nhà chú Thà ở bên này
sông Ngũ Giáp, giữa làng Thanh Quít (thị xã Điện Bàn). Chú không làm thơ
và yêu tre như cách của Thu Bồn nhưng là 1 nghệ nhân về tre với tính
tình kỳ lạ. Người bình thường trong làng hạ được một bụi tre khoảng vài
chục cây phải mất nhiều ngày, còn chú chỉ trong 1 buổi. Có lần, chú hạ
60 cây tre
chỉ trong 1 ngày bằng chính sự thông minh và hiểu được tính nết của
loài cây này. Chú phát sạch gai dước gốc, dọn hết cành nhánh trên thân
và ngọn trước khi đốn ở vị trí cách mặt đất khoảng gần 2 m và rút từng
cây đã chặt ném ra khoảng đất trống bên cạnh trước sự ngạc nhiên của
người làng.
Chẻ nan tre, đan đát…, chú cũng là quán quân. Nhưng cũng như mọi nghệ
sĩ trên đời, chú có cái tật khó chịu khi bị ai đó phê bình. Một lần,
chú mất mấy ngày đi chọn tre, chẻ nan và đan vừa xong chiếc ghe câu thì
có khách quen trong làng vào. Người ấy khen hết lời song lại lỡ mồm chê
một chi tiết nhỏ ở mũi ghe. Chú Thà liền vất điếu thuốc rồi cầm ngay cái
rựa băm nát chiếc ghe và lẳng lặng bỏ vào giường nằm. Mấy hôm sau, chú
lại tiếp tục đi tìm tre và đan chiếc ghe khác!
Lại có một anh bạn Việt kiều yêu... tre ở San Jose (Mỹ) về quê sau
nhiều năm kiếm tiền bằng nghề làm báo, viết văn, tổ chức các chương
trình giải trí bên ấy. Về tay không nhưng khi đi thì không biết bao
nhiêu là thứ “hàng hóa” mà ngay cả người nhà quê cũng không thèm sờ tới:
Vài cái rổ, rá; mấy chục ống tre lồ ô, rồi gáo múc nước bằng sọ dừa và
chiếc chum sành.
Anh ta giải thích: “Mấy chục năm bên ấy mà vẫn không quên được những
câu ca dao, hình bóng cây tre quê mình. Tôi vừa làm nhà xong và mua mấy
thứ này sang để thiết kế ngay trong phòng khách một đường ống dẫn nước
bằng tre đổ vào chum sành. Một tấm liếp tre đậy hững hờ trên miệng chum,
trên ấy không thể không có vài cái rá, cái rổ tre. Bên cạnh là một gốc
tre có cái mắc dài để móc chiếc gáo dừa. Hồi nhỏ ở quê, cảnh nhà tôi nó
vậy...”.
Ba người yêu tre theo 3 cách thế khác nhau. Và ai cũng có cái lý của riêng mình! Ẩn chứa bao điều thú vị
Theo Tổ chức Tre thế giới, loài cây này có 11 giá trị đặc trưng,
trong đó có giá trị tiêu biểu là một hình tượng trong văn học, nghệ
thuật.
Yêu tre nên phải mày mò tìm tre nhưng sau khi chạy quanh mỏi mệt, anh bạn Việt kiều lại quay về với cây tre
Việt Nam và bất ngờ tìm thấy bao điều thú vị. Anh kể: “Chúng ta có một
kho tàng văn học dân gian đồ sộ mà trong đó có đến hàng trăm câu ca dao,
tục ngữ rất hay liên quan đến cây tre
cùng cuộc sống của người Việt. Thương em vì cá trích ve/Vì rau muống
luộc vì mè trộn măng; Khó nhất đốn tre/Khó nhì ve gái; Cha ơi đừng đánh
con khờ/ Để con ra bụi con rờ mụt măng; Chẻ tre lựa cật đan nia/Có chồng
con một khỏi chia gia tài; Gió đưa cây trúc ngã quỳ/Ba năm thủ tiết còn
gì là xuân”...
Sau một lèo những câu ca dao, tục ngữ như vậy, cả người đọc và người nghe đều mướt mồ hôi. Để dứt lời bạn, tôi hỏi:
- Vậy cậu biết câu “Thương chồng nấu cháo măng le? Chồng ăn, chồng ngủ, chồng đè em ra” chưa?
Anh ta trố mắt nhìn tôi, rồi nói nhỏ:
- Thì ra tớ vẫn là “ếch ngồi đáy giếng” thôi. Té ra cậu cũng là “người Việt gốc… tre” à?!
2,5 tỉ người sống nhờ tre
Hiện nay, trên thế giới có hàng chục cơ quan, hiệp hội nghiên cứu về
tre. Riêng ở Mỹ, Hiệp hội Tre nước này có trên 7.000 hội viên với các
chi nhánh từ nhiều tiểu bang và hội viên từ 38 quốc gia khác. Châu Âu
cũng có một tổ chức tương tự với chi nhánh ở nhiều nước trong khối EU.
Hằng năm, có hàng chục hội nghị cấp quốc gia, quốc tế liên quan đến tre
được tổ chức khắp thế giới.
Đây là loại thuộc họ cỏ (phân họ nguyên thủy của loài cỏ) với hơn 70
loài và 1.200 giống, có khả năng thích nghi rất rộng và hiện diện trên
tất cả các châu lục. Mỗi năm, các sản vật làm bằng tre trên thế giới trị
giá hơn 2,5 tỉ USD và giá trị trao đổi thương mại quốc tế khoảng 4,5 tỉ
USD. Có khoảng 2,5 tỉ người hiện làm việc hoặc sống dựa vào tre như một
nguồn tài nguyên thiên nhiên...
Kỳ tới: Trong ngôi nhà tre 100 tuổi
Bài và ảnh: TRƯƠNG ĐIỆN THẮNG
Cây tre mới là biểu tượng văn hóa Việt
02/04/2013 06:00 GMT+7
- Có rất nhiều
ý kiến đề xuất xung quanh việc chọn quốc hoa trong những ngày gần đây. Trong đó,
cây tre là hình ảnh luôn gắn với quê hương đất nước vì thế rất phù hợp để
trở thành biểu tượng văn hóa của người Việt Nam.
Tại sao lại
không chọn cây tre? Dù có đến hơn
60% số người được hỏi đồng ý với phương án hoa Sen (theo kết quả điều tra dư
luận của Bộ Văn hóa - Thể thao – Du lịch), tuy nhiên ai cũng biết Sen là quốc
hoa của Ấn Độ, việc chọn một loại hoa đã trở thành biểu tượng cho tâm hồn, cốt
cách của một nền văn hóa lớn như vậy dễ bị hiểu là “ăn theo”, “đạo ý tưởng”… Những
phương án khác thì bị chê không vì nhược điểm này thì nhược điểm nọ. Hoa Mai
vàng chỉ phổ biến ở miền Nam, hoa Đào rực rỡ lại ưa cái rét miền Bắc. Hơn nữa
Mai và Đào dù đẹp nhưng đều là những loài cây chỉ khoe sắc được vào một thời
điểm nhất định trong năm.
Tại sao lại
không chọn cây tre làm biểu tượng văn hóa Việt? Tre khắc phục được tất cả những
nhược điểm trên, phổ biến ở khắp vùng miền trên cả nước, lại là bạn đồng hành
thủy chung, can đảm của dân tộc từ thuở xa xưa khai hoang, dựng nước và giữ
nước. Tre hóa thân thành thế giới văn hóa tre trúc quây quần thân thiết với đời
người, in hình in bóng đậm đà vào văn hóa, thi ca, nhạc họa, vào sâu xa tâm thức
con người Việt Nam. Thêm nữa, dù tre không phải là một loại hoa nhưng vẫn có thể là biểu tượng văn hóa Việt Nam giống như lá phong là biểu tượng của Canada.
Việt Nam là xứ nhiệt đới gió mùa nên “xanh
muôn ngàn cây lá khác nhau” (Thép Mới). Từ núi cao cực Bắc tới sông nước Cà Mau,
mỗi vùng sinh thái đều tươi xanh những loài thảo mộc, hoa trái đặc trưng. Nhưng
thân thương xiết bao, khi đâu đâu cũng bốn mùa xanh những lũy tre tươi tốt. Từ
Bắc chí Nam, trên núi trên đồi bạt ngàn tre nứa giang vầu… Đồng bằng thì làng
quê nào cũng lũy tre bao bọc, bờ đê nào cũng tre xanh chắn sóng và ngăn lũ, nên
sông quê "nước gương trong soi tóc những hàng tre"
(Tế Hanh).
Nay giữa Ba Đình, hai hàng tre xanh bình yên mang
hồn quê xứ sở muôn đời che mát giấc ngàn thu Lãnh tụ Hồ Chí Minh - Người tiêu
biểu nhất cho giang sơn và văn hóa Việt Nam. Tre là bạn
đồng hành thủy chung, thân thiết của người từ thuở xa xưa gian lao suốt nhiều
thế kỷ khai hoang mở đất để rồi dựng nước. Những làng xã định cư với lũy tre
xanh bao bọc ngăn gió bão, từ ấy đã là đặc trưng không chỉ của không gian sinh
tồn của làng, mà còn là đặc trưng văn hóa - thẩm mỹ riêng có của làng quê Việt
Nam ta. Trong sâu xa tâm thức người Việt từ thuở ấy, đã bình yên và xanh mát
bóng tre.
Tre theo người cùng một lúc làm nên cả văn hóa vật
thể lẫn văn hóa phi vật thể cho xứ sở chúng ta. Kiến trúc ư? Thì nhà tranh tre
nứa lá, với phên với liếp tre đan. Tiện nghi ư? Thì nào giường chõng, bàn ghế,
tủ chạn... cho đến lắm thứ đồ ăn thức làm: Nong nia, dần sàng, thúng mủng, rổ
rá, cối xay tre... Công cụ nhà nông ư? Thì đòn càn đòn xóc, quang gánh... Đi lại
trên sông nước, đánh bắt cá ư? Thì thuyền nan, thuyền thúng, cần câu, vó bè,
nơm, đó, dậm tre đan... Đồ chơi và nhạc cụ ư? Thì que khăng, que chuyền, cây đu,
diều sáo, sáo, tiêu, khèn bè, đàn tơ rưng tre nứa, cả cây nêu ngày Tết và cột cờ
lễ hội đình làng... Đó là thời đất nước chưa phát
triển như hiện nay. Ở thời hiện đại, từ tre và nhờ có tre,
có nứa cùng với song, mây, mà nên nghề thủ công, mỹ nghệ với lắm thứ hàng hóa
tre trúc song mây, với những làng nghề tre mây có tiếng nay được nâng niu như
một dạng văn hóa phi vật thể.
Hàng tre trúc, mây tre đan tinh xảo thời hội nhập đi
ra thế giới, thu ngoại tệ và hơn thế, quảng bá hình ảnh Việt Nam. Tre phản ánh cốt cách người Việt
Đến lượt con người lại nhận ra sự tương hợp kỳ
lạ giữa phẩm chất của tre với cốt cách của chính mình, đến mức như là tri kỷ.
Có thể kể đến áng văn
tùy bút Cây tre Việt Nam của Thép Mới viết sau Chiến thắng Điện Biên Phủ, và
bài thơ Tre Việt Nam của Nguyễn Duy viết thời đánh Mỹ.
Tre "ăn ở với người, đời đời, kiếp kiếp",
"sống có nhau, chết có nhau chung thủy". Tre "mộc mạc", "nhũn nhặn" mà nhẫn nại
không chê đất cằn, sá gì sương gió. Tre "ngay thẳng, thủy chung, can đảm", giàu
lòng vị tha, bao dung, đùm bọc. Tre "thanh cao, giản dị, chí khí như người".
"Tre xanh không đứng khuất mình bóng râm". Có thể nói
rằng cây tre là biểu tượng cho
phẩm chất đặc sắc nhất của con người Việt Nam ta:
đoàn kết, thủy chung, thanh cao, bất khuất. Là đức tính
kiên cường ẩn tàng trong khả năng thích ứng dẻo bền vô hạn trước mọi tai họa
thiên nhiên cũng như mọi biến thiên, bão táp và bi kịch lịch sử, cả do đến từ
mọi phía lẫn do nội sinh, để trường tồn và phát triển.
Giống như cộng đồng người Việt, tre là lũy thép
trước xâm lăng và bão lũ. Tre nhẫn nại chịu oằn mình, ngả rạp trước cuồng phong,
bão lớn, để khi gió yên trời lặng lại vươn mình đứng thẳng thành lũy thành rừng,
tre già măng mọc vô tận sinh sôi...
Tre xanh hiên ngang, nhũn nhặn, cứng cáp mà
dẻo bền vô hạn nên xứng đáng là biểu
tượng của cốt cách và các phẩm chất đặc sắc của con người và văn hóa Việt Nam
ta. Hà Quỳnh
Cây tre Việt Nam nét đẹp trong tâm hồn người Việt.
Trong
số hơn 1200 loại tre khác nhau trên toàn cầu thì tại Việt Nam đã chiếm
tới 1/3 tổng số, chúng ta có thể bắt gặp cây tre ở khắp nơi trên toàn
cõi Việt Nam. Cây tre Việt Nam mọc thành lũy thành rừng, hình thành cả
một biển tre xào xạc đón từng cơn gió ngàn tràn về. Còn nữa là bờ tre
uốn khúc quanh co làm bạn cùng dòng sông trong xanh chảy dài. Rễ tre bám
chặt bờ đất phì nhiêu, kiên cường như người vệ sĩ bám đất bám bờ ngăn
chặn những cơn lũ hung dữ. Còn nữa là những xóm thôn làng mạc được che
chở bao bọc bởi những lũy tre trùm bóng mát rượi, cây tre luôn sát cánh
cùng với những người dân làng chắn gió che mưa, chứng kiến bao sự thiên
biến của lịch sử.
Cây
tre gắn bó chặt chẽ với đời sống các mặt khác nhau của con người Việt
Nam, từ ăn uống ẩm thực, đồ dùng sinh hoạt, xây dựng nhà cửa, đồ mỹ
nghệ, nhạc cụ đến lĩnh vực văn học nghệ thuật, tre không chỉ đem lại sự
tiện lợi phục vụ cho đời sống sinh hoạt mà đồng thời cũng đi vào tâm
thức con người và trở thành thứ phù hiệu đặc trưng trong văn hóa Việt
Nam.
Văn
hóa tre Việt Nam cũng được thể hiện khá đầy đủ trong những kiến trúc
khác nhau với một đặc điểm chung là sử dụng các loại vật liệu bằng tre.
Bởi do có tính năng chống nóng ẩm tốt, giá thành thấp, dẻo dai, tiện lợi
trong vận chuyển và dễ dàng trong thi công mà tre đã trở thành một
trong những vật liệu chủ yếu trong xây dựng truyền thống tại Việt Nam.
Ngày nay, khi các loại vật liệu bê-tông cốt thép hiện đại đã trở nên phổ
biến, nhà cửa được lợp dựng bằng tre ngày càng ít đi thì tre lại chuyển
mình trở thành loại vật liệu mang tiêu chí văn hóa nghệ thuật truyền
thống dùng cho những kiến trúc mang tính chủ đề như tiệm cà-phê, khách
sạn, nhà hàng và gian trưng bày triển lãm v.v…
Tre
dẻo dai bền bỉ, có tính đàn hồi tốt và dễ hình thành tác dụng cộng
hưởng, là loại vật liệu thiên nhiên lý tưởng dùng để chế tác nhạc cụ.
Nhiều loại nhạc cụ tiêu biểu tại Việt Nam đều được gia công bằng vật
liệu tre, mà trong đó cây đàn bầu là một ví dụ điển hình. Đàn bầu là
nhạc cụ rất được cộng đồng người Kinh—dân tộc lớn nhất tại Việt Nam ưu
ái. Vào giai đoạn đầu thì cây đàn bầu được tổ hợp bởi vài khúc tre, có
hình kéo dài, phần dưới không có bệ, sợi dây kim loại được gắn chặt suốt
từ đầu chí cuối cây đàn, còn một mặt khác thì xuyên qua chiếc hồ lô
hình loa kèn rồi cắm lên đầu một phên tre ngay đầu cây đàn. Khi biểu
diễn, người diễn tấu tay trái giữ lấy phên tre nhỏ để điều tiết âm
lượng, tay phải dùng một tấm phên tre nhỏ gảy lên dây đàn phát ra âm
thanh du dương êm ái ngân dài. Ngoài cây đàn bầu, Việt Nam còn có nhiều
loại nhạc cụ khác cũng được gia công bằng vật liệu tre như đàn tre, đàn
Tơ-rưng, đàn công, đàn nước v.v… đều có tiếng tăm trong và ngoài nước.
Đồ
khắc tre cũng là sản phẩm mang nét đặc sắc trong nghệ thuật Việt Nam.
Những người thợ khéo tay đã để lại những đồ án và chữ viết tinh tế trên
vật liệu tre, những đồ án này bao gồm cây cỏ hoa lá và nhân vật, và nhất
là những nhân vật nổi tiếng trong truyền thuyết dân gian và lịch sử,
hết sức sinh động hấp dẫn, rất có giá trị về mặt thưởng thức và lưu trữ.
Cây
tre gắn bó chặt chẽ với sinh hoạt đời sống của con người Việt Nam và
ngược lại trong quá trình lịch sử lâu dài này những người dân Việt Nam
cũng đã sản sinh tình cảm đượm đà đối với cây tre. Đức tính bền bỉ ngoan
cường, sự cống hiến vô tư thể hiện qua cây tre Việt Nam lại luôn là
những nội dung tồn tại trong phẩm giá con người Việt Nam. Tại Việt Nam
cũng xuất hiện một khối lượng đáng kể các tác phẩm thơ ca văn học ngợi
ca cây tre, bài dân ca tiêu biểu “Cây trúc xinh” lại là một ví dụ điển
hình về mặt này. Mặc dù thời đại không ngừng thay đổi, nhưng cây tre vẫn
luôn là nội dung quan trọng trong sinh hoạt đời sống tại Việt Nam, và
tre luôn ảnh hưởng tới lớp lớp các thế hệ Việt Nam. Và tình cảm của con
người Việt Nam đối với hình ảnh cây tre Việt Nam lại như măng non mọc
sau cơn mưa xuân không ngừng phát triển vươn lên hình thành cây tre cứng
cáp vững vàng trong mưa gió.
Cây tre Việt Nam nét đẹp trong tâm hồn người Việt.
Theo Tạp Chí Hoa Sen.
Khám phá bí ẩn hoa tre, loài hoa trăm năm mới nở một lần
Minh Hồng |
0
Hình minh họa.
Hầu hết mọi người đều không biết rằng cây tre có thể ra hoa và thậm chí là kết trái.
Tre trúc là loại
cây trồng phát triển nhanh nhất trên Trái đất. Một cây tre điển hình có
thể phát triển lên đến 10 cm trong một ngày. Một số loài tre có thể tăng
lên một mét trong cùng một thời điểm, hoặc cứ hai phút lại tăng lên
khoảng 1mm.
Bạn
thực sự có thể nhìn thấy cây tre mọc lên trước mắt bạn. Hầu hết các
loài tre đều đạt độ tuổi trưởng thành chỉ trong 5 đến 8 năm. So sánh
điều này với các loại gỗ cứng phổ biến khác trên thế giới thường chỉ
tăng 2cm trong một tuần, cây tre hẳn có sức phát triển nhanh chóng hơn.
Những
loại cây như cây sồi có thể mất đến 120 năm mới đạt được độ trưởng
thành. Nhưng khi nói đến ra hoa thì tre trúc có lẽ là một trong những
loài thực vật chậm nhất trên thế giới.
Sự
ra hoa của tre là một hiện tượng hấp dẫn, bởi vì nó chỉ xuất hiện duy
nhất một lần và rất hiếm hoi trong vương quốc thực vật. Phải mất đến 60
đến 130 năm, cây tre mới ra hoa một lần. Khoảng cách ra hoa kéo dài của
cây tre đến nay vẫn là một bí ẩn đối với nhiều nhà thực vật học.
Việc
nở hoa chậm này còn cho thấy một điều lạ lùng nữa – tất cả những cây
tre sẽ chúng nở hoa cùng một lúc trên khắp thế giới, bất kể vị trí địa
lý và khí hậu, miễn là chúng có nguồn gốc từ cùng một cây mẹ.
Thật
khó tin nhưng sư thật là hầu hết các cây tre “anh em” này đều ra hoa
chính xác vào cùng một thời điểm. Mặc dù các cá thể tre thuộc những khu
vực địa lý khác nhau, chúng vẫn mang cùng một bộ gen từ một mẹ.
Chính
vì vậy, một cây tre ở Bắc Mỹ cũng có thể ra hoa cùng lúc với cây tre
anh em của nó ở châu Á. Điều này giống như cây tre có một đồng hồ sinh
học bên trong mình, có sẵn báo thức để bừng nở cùng một lúc. Hiện tượng
ra hoa hàng loạt này được gọi ra hoa theo quần thể.
Hoa của loài tre Fargesia nitida cứ 120 năm mới nở một lần.
Theo
một giả thuyết, việc ra hoa hàng loạt làm tăng tỷ lệ sống sót của quần
thể tre. Giả thuyết cho rằng khi xảy ra lũ lụt hay có những loài động
vật tiêu diệt, việc ra hoa, kết trái sẽ đảm bảo có hạt giống truyền lại.
Hoa
tre rất thu hút loài gặm nhấm, chính vì vậy khi tre nở hoa sẽ làm gia
tăng những loài này trong khu vực. Chu kỳ ra hoa của tre lâu hơn tuổi
thọ của loài động vật gặm nhấm nên tre có thể điều chỉnh quần thể động
vật gặm nhấm bằng cách kéo dài khoảng thời gian ra hoa.
Tuy nhiên giả thuyết này vẫn không giải thích tại sao chu kỳ ra hoa của tre dài hơn tuổi thọ của loài gặm nhấm gấp 10 lần.
Đây chính là quả của cây tre.
Một
khi các loài tre đã đạt đến tuổi thọ nhất định, đã ra hoa và sản sinh
hạt giống thì cây sẽ chết và thậm chí cả một cánh rừng tre rộng lớn cũng
có thể chết theo trong một vài năm.
Một
giả thuyết cho rằng việc sản sinh hạt giống đòi hỏi một lượng năng
lượng khổng lồ khiến cây tre kiệt quệ. Một lý thuyết khác cho thấy cây
tre mẹ chết để có chỗ cho cây con.
Việc
tre ra hoa hàng loạt cũng thu hút một số lượng lớn động vật, chủ yếu là
loài gặm nhấm. Sự sẵn có đột ngột của thức ăn với số lượng lớn trong
rừng đã thu hút hàng loạt con chuột đói ăn, và chúng tăng trưởng một
cách báo động theo cấp số nhân.
Sau khi ăn trái cây tre, chuột bắt đầu ăn cả cây trồng khác - cả những cây lương thực trên đồng ruộng gần đó.
Hoa và quả tre rất thu hút loài gặm nhấm, điển hình là chuột.
Mỗi
lần tre ra hoa gần như luôn kéo theo nạn đói và bệnh tật ở các làng gần
đó. Ở bang Mizoram, miền đông bắc Ấn Độ, sự kiện đáng sợ này đều xảy ra
mỗi 48 đến 50 năm một lần, khi loài tre Melocanna baccifera ra hoa kết
trái.
Hiện tượng này xảy ra vào năm 2006 đến năm 2008, được biết đến bằng từ địa phương “mautam” có nghĩa là "loài tre chết chóc".
Trẻ em bắt chuột khi tre ra hoa tại Burma, Myanmar.
(Nguồn: Tổng hợp)
Cây nứa ra quả: Hiện tượng hiếm hoi gây sốt dân mạng
Hoàng Đan |
0
Ảnh: FB Linh Nguyen
Các nhà khoa học cho rằng, tre, nứa ra hoa, quả là việc
bình thường nhưng chu kỳ thường lâu và không có chuyện liên quan đến hạn
hán, đói kém.
Mới đây một số hình ảnh được cho là cây tre (nhưng thực chất là cây nứa
- PV) ra quả đã được đăng tải trên facebook Linh Nguyen cùng lời chia
sẻ: “Tre nhà mình có trái nè, nghe nói trăm năm tre mới ra trái một lần
mà khi có trái là hạn hán đói kém xảy ra”.
Ngay sau đó, các hình ảnh này đã được lan truyền nhanh chóng trên
mạng xã hội cùng với nhiều lời bình cho rằng đây là sự việc "rất lạ
lùng", "đầy bất ngờ".
"Trước giờ mới nhìn thấy có hoa tre chứ chưa nhìn thấy quả như thế này bao giờ, thật là quá lạ lùng", thành viên Tran Ha viết.
Cùng với đó, thành viên Hoa Mai cũng cho hay, đây không phải là cây
tre mà là cây nứa nhưng đã nhìn thấy hoa tre, hoa trúc, nứa nhưng quả
thì đây là lần đầu tiên mới được thấy.
"Lạ quá thôi, nhưng đây là cây nứa chứ không phải cây tre vì mình ở
miền núi nên mình biết rõ cây này", thành viên Hoa Mai bày tỏ.
Ảnh: FB Linh Nguyen.
Nhiều thành viên cũng tỏ ra hoang mang, trước thông tin của người đưa
những hình ảnh này lên khi cho rằng, có thể có hạn hán, đói kém xảy ra
khi cây này ra quả.
Trước thông tin này, trao đổi với chúng tôi, GS Nguyễn Lân Dũng cho
rằng, tre hay nứa đều là cây thực vật và việc ra hoa, quả là chuyện bình
thường không có gì đặc biệt.
GS Lân Dũng cũng bác bỏ việc cho rằng, tre hay nứa ra quả có thể liên quan đến hạn hán, đói kém.
Còn PGS.TS Nguyễn Văn Sinh, Phó trưởng phòng sinh thái thực vật, Viện
sinh thái và tài nguyên môi trường cũng cho rằng, tre hay nứa ra hoa,
quả là điều bình thường.
Tuy nhiên, không giống với các cây thực vật khác, tre hay nứa thường
có chu kỳ ra quả rất lâu nhưng không đến trăm năm và thường trong một
quần thể hẹp.
"Trước đây, chúng tôi cũng đã gặp trường hợp tre, nứa ra quả nhưng
chu kỳ ra quả rất lâu và thường việc ra quả chỉ diễn ra trong một quần
thể hẹp, đồng thời, nó báo hiệu cho những cây này đã già, sắp chết", PGS
Sinh nói.
Cũng theo PGS.TS Sinh, ông chưa bao giờ nghe đến việc có sự liên quan giữa tre, nứa ra quả với hạn hán, đói kém có thể xảy ra.
"Đó là những thông tin không chính xác, chỉ là truyền miệng nên mọi
người không nên tin vào đó. Còn tôi khẳng định, việc ra hoa, quả của
tre, nứa dù không nhiều nhưng là bình thường", PGS Sinh khẳng định.
theo Trí Thức Trẻ
Phải chăng đây là cây tre Thánh Gióng trong truyền thuyết?
Cây tre khổng lồ của Thánh Gióng sẽ không còn chỉ có trong truyền
thuyết nữa bởi giờ đây, người ta đã phát hiện ra một khóm cây họ tre
khổng lồ ở Thái Lan. Với kích thước lớn vượt trội, nó được xem là cây
tre lớn nhất Thái Lan cũng như trên thế giới hiện nay.
Phải chăng đây là khóm tre Thánh Gióng trong truyền thuyết?
Tại
đồn điền trồng tre của mình tại quận Tha Wang Pha, tỉnh Nan, phía Bắc
Thái Lan, anh Naga Sen, 37 tuổi cho biết, khóm tre khổng lồ đang khiến
cả thế giới xôn xao là một trong những cây tre được lai tạo giống của
nông dân tỉnh Nan hiện nay. Nó có đường kính thân vào khoảng 35cm nhưng
khi cả khóm chụm lại vào nhau thì vòng tay 10 người ôm cũng không xuể.
Với
kinh nghiệm 8 năm lai tạo giống tre, anh Naga cho biết, trồng tre khổng
lồ không khó như mọi người vẫn tưởng tượng. Chỉ cần cung cấp đủ nước,
cây sẽ phát triển ngày một lớn.
Trồng tre khổng lồ hiện nay đang
là một ngành nghề phát triển mạnh tại tỉnh Nan. Nhờ cung cấp sản phẩm từ
tre, doanh thu của mỗi doanh nghiệp đã tăng trưởng lên tới 90% mỗi năm.
Được biết, mỗi kilogram măng, tre được bán với giá 50 baht (tương đương
32 nghìn đồng).
Đường kính mỗi thân cây tre có thể lên tới 35cm.
Người dân tỉnh Nan đang ngày một giàu lên nhờ nghề trồng tre khổng lồ.
Mỗi kilogram tre có giá 50 baht.
Trồng tre khổng lồ đang là một ngành nghề phát triển ở Thái Lan.
(Nguồn: Thông tấn xã Thái Lan)
Kiểu rừng kín lá rộng thường xanh nhiệt đới
Đây là kiểu rừng có diện tích lớn, phân bố rộng khắp đất nước, nằm
trong vành đai nhiệt đới gió mùa, thường phân bố ở độ cao dưới 700 m ở
miền Bắc và dưới 1000 m ở miền Nam. Nhiệt độ trung bình năm 20-250C, lượng mưa hàng năm 1200 – 1300 mm, mùa khô và mùa mưa phân biệt rõ, mùa khô kéo dài khoảng 3 tháng.
Rừng có cấu trúc 3 - 5 tầng (Tầng vượt tán, tầng tán chính, tầng dưới
tán, tầng cây bụi, tầng cỏ và quyết). Thực vật rừng ở đây gồm phần lớn
là các loài cây nhiệt đới, không có chồi ngủ qua đông, một số loài trên
thân mang hoa quả, một số loài gốc có bạnh vè cao. Các loài cây điển
hình như Gội, Sấu, Re, Cà lồ, Vàng anh, Sến mật, Lim xanh, Mỡ, một số
loài trong họ dầu như Sao đen, Chò chỉ, Táu, họ Trám như Trám trắng,
Trám đen,…
Kiểu rừng kín lá rộng nửa rụng lá nhiệt đới
Kiểu rừng này có cùng đai độ cao và nhiệt độ vói kiểu rừng trên, nhưng
xuất hiện 1-3 tháng khô hạn trong năm với lượng mưa chỉ đạt 25-50
mm/tháng. Ở thời điểm này độ ẩm trung bình thấp. Một số khu vực thuộc
các tỉnh như Bắc Giang, Hà Giang, Tuyên Quang, Yên Bái, Thanh Hoá, Nghệ
An, Đắk Lắk gặp kiểu rừng này.
Thể hiện rõ nhất là sự rụng lá của 25-75% cá thể cây rừng, các loài ưu
hợp thuộc họ Dầu, họ Bàng, họ Tử vi, họ Dâu tằm, họ Xoan, họ bồ hòn, họ
Đậu, họ Trôm. điển hình như: Dầu song nàng, Dầu con quay, Gõ đỏ, Săng
lẻ, Chò nhai, Chiêu liêu, Trương vân, Lát khét, Lim xẹt, Xoay, Giáng
hương, Lòng mang, Trôm, Sau sau,…
Kiểu rừng kín lá rộng rụng lá nhiệt đới
Kiểu rừng này hình thành trong điều kiện giống như kiểu rừng kín lá
rộng nửa rụng lá, nhưng độ ẩm thấp hơn lượng mưa có thể xuống tới 1200
mm, mùa khô kéo dài 4-6 tháng, trong đó có 1-2 tháng chỉ đạt < 25 mm,
có 1 tháng không có mưa. Có thể gặp kiểu rừng này ở Sơn La, Nghệ An, Hà
Tĩnh, Đắk Lắk, Đồng Nai, Nam bộ.
Kiểu rừng này thường có 2 tầng, tầng cây cao chủ yếu là các loài rụng
lá, chiếm tới 75% số loài. Các loài điển hình trong họ Dầu, họ Thung, họ
Tử vi, họ Đậu như: Dầu trai, Dầu con quay, Săng lẻ, Dáng hương, Cà te,
Gõ đỏ, Trắc, Xoay, Thung, Gạo, Ban, Dẻ tằm, Dẻ răng cưa, Sau sau.
Kiểu rừng thưa cây lá rộng nhiệt đới (rừng khộp)
Kiểu rừng này hình thành trong vùng khí hậu khô nóng, thường xảy ra lửa
rừng, lượng mưa trung bình hàng năm 600-800 mm, nhiệt độ trung bình
20-250C, mùa khô kéo dài 5-6 tháng, đất có tầng kết von gây úng về mùa mưa, thiếu nước nghiêm trọng vào mùa khô.
Rừng khộp có mật độ thấp, tán thưa, nhiều tầng, kích cỡ, tổ thành đơn
giản, chủ yếu là cây họ Dầu như Dầu trà beng, Dầu đồng, Dầu trai, ngoài
ra còn gặp một số loài cây khác như Cẩm liên, Cà chiếc, Chiêu liêu, Kơ
nia, Thành ngạnh, Găng, Le.
Kiểu rừng kín thường xanh ẩm á nhiệt đới
Kiểu rừng này phân bố ở độ cao trên 700 m ở miền Bắc, trên 1000 m ở
miền Nam, lượng mưa trung bình năm 1200-2500 mm, nhiệt độ trung bình năm
15-200C, tháng lạnh nhất dưới 150C, độ ẩm trên
85%. Có thể gặp kiểu rừng này ở các tỉnh như Lào Cai, Lai Châu, Bắc Kạn,
Hà Giang, Sơn La, Hoà Bình, Thừa Thiên Huế, Kon Tum, Đắk Lắk.
Rừng thường có 2 tầng cây gỗ và tầng cỏ quyết. Các loài cây ưu thế
thuộc khu hệ bản địa Bắc Việt Nam – Nam Trung Hoa, trên thân và cành có
nhiều rêu và địa y phụ sinh.
Đặc trưng của loại rừng này là nhiều loài cây có chồi ngủ, thuộc họ Re,
họ Chè, họ Ngọc lan, họ Sau sau, họ Nhân sâm, họ Đỗ quyên và nhiều loài
địa lan quý.
Kiểu rừng ngập mặn
Đây thực chất là một kiểu phụ thuộc kiểu rừng kín lá rộng thường xanh
hình thành trên điều kiện đặc biệt: đất phù sa mặn, bùn lầy, ngập nước
biển theo thuỷ triều lên xuống. Phân bố dọc theo các tỉnh ven biển Việt
Nam, điển hình như Quảng Ninh, Thái Bình, Nam Định, Kiên Giang, Đồng
Tháp, Cà Mau,…
Rừng thường có một tầng, đôi khi tầng dưới có cỏ quyết. Các loài cây có
hệ rễ rất phát triển thành rễ chống, rễ cà kheo, rễ đầu gối, lá cây
mọng nước, chịu hạn, chịu nóng, chịu nước biển, hạt nảy mầm trên cây
trước khi quả rụng.
Các loài điển hình thuộc họ Đước, họ Bần, họ Cói, họ Ô rô,… như Đước
bộp, Đước xanh, Vẹt dù, Bần chua, Bần trắng, Mấm, Dà vôi, Cóc, Dừa nước,
Cói,… Vùng đất chua phèn đã nâng cao thường gặp loài Tràm.
Kiểu rừng núi đá vôi
Kiểu rừng này bao gồm các kiểu phụ thuộc kiểu rừng kín thường xanh và
nửa rụng lá phân bố ở đai nhiệt đới và á nhiệt đới trong điều kiện đặc
biệt là đất đá vôi. Với diện tích khoảng 800.000 ha phân bố ở các tỉnh
như Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Kạn, Hà Giang, Tuyên Quang, Sơn La, Hoà
Bình, Ninh Bình, Quần đảo Cát Bà, Hạ Long,…
Địa hình dốc, vách đá tai mèo, tầng đất mỏng nên các loài cây sinh
trưởng chậm, rễ nổi và ôm lấy các tảng đá ăn sâu vào các khe nứt. Các loài điển hình như Nghiến, Trai lý, Ô rô, Mạy tèo, Chò nhai, Lòng mang, Kim giao, Sâng, Đinh, Sấu, Chò chỉ, Hoàng đàn.
Kiểu rừng lá kim
Kiểu rừng này có 2 kiểu phụ là rừng thưa lá kim hơi khô nhiệt đới và
rừng thưa lá kim hơi khô á nhiệt đới. Với diện tích khoảng 200.000 ha
phân bố tập trung ở Tây Nguyên và một số tỉnh phía Bắc. Đất rừng ở đây
thường có tầng nông, khô, chua và xấu. Rừng có kết cấu 2 tầng rõ, tầng
trên chủ yếu là các loài thông, tầng dưới có một số loài cây họ dẻ. Các
loài thường gặp: Thông Nhựa, Thông Ba lá, Thông Mã vĩ.
Rừng tre nứa
Là kiểu rừng có cấu trúc hình thái độc đáo dễ nhận biết từ xa, là kiểu
phụ thứ sinh hình thành trên đất rừng tự nhiên sau khai thác hoặc nương
rẫy. Rừng tre nứa ở Việt Nam phân bố rộng từ độ cao gần ngang mực nước
biển tới 2000 m. Việt Nam có khoảng 1,5 triệu ha rừng tre nứa tập trung ở
các vùng: Đông Bắc, Tây Bắc, Bắc Trung bộ, Nam Trung bộ, Tây Nguyên.
Với gần 200 loài tập trung trong nhóm tre mọc cụm như Tre gai, Luồng,
Bương, Mai, Hóp, Lồ ô, Le, Mạnh tông,... và nhóm mọc tản chủ yếu ở vùng
núi phía Bắc như Vầu đắng, Vầu ngọt, Trúc sào, Trúc cần câu, Sặt,...
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét