Đã từ rất lâu rồi các quốc gia bắt đầu
khảo sát Nam Cực. 100 năm trở lại đây, con người không ngừng thám hiểm
mảnh đất màu trắng này, và đã phát hiện ra nhiều điều kỳ thú. Vậy trong
con mắt của những người thám hiểm đầu tiên thì Nam Cực là mảnh đất như
thế nào?
Trong thời gian đội khảo sát từ New
Zealand tiến hành khảo sát Nam Cực, khi họ dựng lều, họ phát hiện ra một
chiếc hộp bằng thiếc đã bị đóng băng từ lâu, bên trong có rất nhiều bức
ảnh. Có vẻ chúng đã rất cũ, đội khảo sát cho rằng đây hẳn là những cổ
vật có lịch sử lâu đời, và họ đem giao cho các chuyên gia nghiên cứu.
Thì ra đây là những hình ảnh của con
người 100 năm trước đây khi đặt chân đến Nam Cực, bao gồm cả những bức
ảnh trong suốt quá trình thám hiểm. Đây cũng là một tài liệu quan trọng
minh chứng rằng từ xa xưa con người đã có khát vọng thám hiểm những miền
đất mới.
Những nhà thám hiểm khi đó chắc cũng không thể tưởng tượng được rằng, thế hệ trẻ ngày nay có thể tìm thấy dấu tích của họ.
Quả là thú vị phải không, bạn nghĩ gì về những bức ảnh này? Hãy chia sẻ qua phần bình luận!
Vũ trụ chứa đầy những điều bí ẩn
đang thách đố tri thức của nhân loại. Bộ sưu tập những câu chuyện “Khoa
học Huyền bí” của Thời báo Đại Kỷ Nguyên về những hiện tượng lạ thường
đã kích thích trí tưởng tượng và mở ra những khả năng chưa từng mơ tới.
Chúng có thật hay không? Điều đó tùy bạn quyết định!
Ngày nay, chúng ta thấy rất đỗi
bình thường với những đường chân trời thành phố về đêm, các ánh đèn phố,
và nguồn năng lượng thúc đẩy những tiện ích hiện đại của chúng ta.
Nhưng, phải chăng những người thông thái ở Ai Cập và Lưỡng Hà thời cổ
đại cũng sở hữu kiến thức về điện, không chỉ để thắp sáng mà còn có các
công nghệ vận hành bằng điện năng? Trong khuôn khổ của các bằng chứng
khảo cổ khai quật được, câu trả lời dường như đã được khẳng định.
Hình khắc nổi bên dưới Đền thờ thần
Hathor ở Dendera, Ai Cập là bằng chứng được nhắc đến nhiều nhất, cho
chúng ta thấy những người Ai Cập cổ đại đã từng sử dụng điện. Trên đó
miêu tả các hình người đang đứng xung quanh một vật thể giống bóng đèn
cỡ lớn.
Bóng đèn thời cổ đại?
Vật thể giống bóng đèn được chạm khắc trong một hầm mộ bên dưới Đền thờ Hathor ở Ai Cập. (Lasse Jensen/Wikimedia Commons)
Đui đèn được tượng trưng bằng một vật
trông giống như bông hoa sen với thân như dây cáp chạy dọc theo phần
dưới của “thiết bị”. Bên trong “bóng đèn” là một sợi dây như con rắn uốn
khúc ra bên ngoài “đui đèn” hình hoa sen. Theo những người ủng hộ giả
thuyết rằng hình vẽ này miêu tả ánh sáng đèn điện, như Erich Von Däniken
đã từng viết cuốn “Chariot of the Gods” (tạm dịch: Xe ngựa của Thần),
thì con rắn này biểu thị cho dây tóc bóng đèn.
Von Däniken đã tạo ra một mô hình bóng đèn này trong phòng thí nghiệm và nó đã hoạt động, phát ra ánh sáng tím kỳ dị.
Ông đã sử dụng cùng loại thông số về
kích thước, bao gồm hai chùm kim loại giống như cánh tay kéo dài đến đầu
to của bóng đèn, và một sợi dây kết nối những chùm đó với “đui đèn” ở
đầu bên kia.
Nhưng lấy đâu ra nguồn năng lượng để thắp sáng bóng đèn vào thời Ai Cập cổ đại?
Pin cổ đại?
Phải: Hình minh họa cục pin Bát-Đa từ ảnh cổ vật ở bảo tàng.
(Ironie/Wikimedia Commons) Nền: Bản đồ khu vực bao quanh thành phố Bát
Đa, I-rắc ngày nay. (Cmcderm1/iStock/Thinkstock)
Một món cổ vật được phát hiện ngoài Ai
Cập, bên ngoài thành phố Bát-đa ngày nay, cho thấy rằng hoạt động sản
xuất điện đã từng được tiến hành ở khu vực Trung Đông hàng nghìn năm về
trước. Cổ vật này được gọi là
Pin Bát-đa.
Pin Bát-đa khá là thô sơ so với các loại
pin của chúng ta ngày nay. Nó gồm một bình đất sét nung với nắp làm từ
nhựa đường. Một thanh sắt xuyên qua nắp bình được bao quanh bởi trụ
đồng. Người ta tin rằng chiếc bình này đã được đổ đầy một chất có tính
axit như dấm, giúp nó sản sinh ra một nguồn điện khoảng 1,1 vôn. Mô hình
phỏng chế của loại pin này cho thấy nó thật sự có thể hoạt động.
1,1 vôn có thể không nhiều lắm, nhưng
nếu buộc một vài pin loại này với nhau, thì điện áp sẽ gia tăng. Chiếc
pin này có niên đại từ 250 TCN đến 250 SCN. Hiện nay, người ta cho rằng
những cái pin này đã được sử dụng trong kỹ thuật mạ điện thời xưa (mạ
một lớp kim loại lên trên bề mặt một kim loại khác).
Những chiếc pin này không chỉ là nguồn năng lượng trên lý thuyết.
Một số người tuyên bố rằng một trong
những công trình biểu tượng nhất của Ai Cập trên thực tế lại bị hiểu lầm
nhiều nhất. Cụ thể, những người ủng hộ giả thuyết tồn tại điện ở Ai Cập
cổ đại nói rằng Đại Kim tự tháp Giza trên thực tế đã được sử dụng như
một nhà máy điện.
Nhà máy điện cổ đại?
(Shutterstock*; hiệu ứng thêm bởi Epoch Times)
Ý tưởng này đã được khởi xướng bởi tác
giả và nhà nghiên cứu Christopher Dunn trong quyển sách “The Giza Power
Plant” (tạm dịch: Nhà máy điện Giza) và “Lost Technologies of Ancient
Eqypt” (Những công nghệ bị lãng quên của Ai Cập cổ đại).
Dunn nói rằng King Chambers-tức “Căn
phòng của vua” nằm ngay trung tâm của Đại Kim tự tháp thực chất chính là
bộ máy phát điện trung tâm của siêu công trình này. Nó được xây dựng
chủ yếu bằng đá granit hồng, một chất liệu giàu hàm lượng thạch anh vi
tinh thể.
Trên thực tế, Đại kim tự tháp chủ yếu
làm từ đá granit, và đá granit được cấu thành từ rất nhiều tinh thể
thạch anh cỡ nhỏ, mà khi áp lực và/hoặc dao động năng lượng, thì sẽ sản
sinh ra điện năng. Trong giới khoa học điều này được biết đến là hiệu
ứng áp điện. Hiệu ứng này được ứng dụng trong rất nhiều công nghệ hiện
đại, như loa phóng thanh, máy biến năng, bộ chuyển đổi tín hiệu, và một
số ứng dụng trong ngành công nghiệp ô tô.
Theo Dunn và những người khác cũng ủng
hộ lý thuyết này, quan tài bằng đá granit trong Phòng Vua (cũng được
chạm khắc một cách tinh vi trên đá granit cứng màu hồng) cũng có thể là
phương tiện chuyến đổi các rung động tần số thấp được Trái Đất phát ra
thành nguồn năng lượng điện. Hơn nữa, Dunn nói, những xà chống đỡ trên
trần phòng Vua có vẻ như đều được điều chỉnh một cách chính xác, hay cắt
theo kích cỡ để cộng hưởng hoàn hảo với tần số này.
Chúng ta đã bị thất truyền bí
quyết chế tạo một số phát minh hữu ích nhất trong lịch sử loài người. Và
ngay cả với tất cả tài trí và các phát hiện của chúng ta, tổ tiên cách
đây hàng nghìn năm vẫn làm chúng ta kinh ngạc với tài trí và những phát
hiện của họ. Chúng ta đã tạo ra được một số phiên bản hiện đại của những phát minh này, nhưng cũng chỉ vừa mới gần đây.
1. Lửa Hy Lạp: Vũ khí hóa học bí ẩn
Ảnh từ bản thảo minh họa, Madrid Skylitze, cho thấy Lửa Hy Lạp
đang được sử dụng để chống lại đoàn quân nổi loạn Thomas the Slav. Đoạn
chữ bên trên chiếc thuyền bên trái viết, “Đội thuyền Hy Lạp phóng hỏa
thiêu đốt thuyền quân địch.”(Wikimedia Commons)
Từ thế kỷ 7 đến thế kỷ 12, quân đội của
đế quốc Byzantine (đế quốc Đông La Mã hay đế quốc Hy Lạp) thường bắn một
chất liệu bí ẩn vào tàu quân địch trong các trận thủy chiến. Loại chất
lỏng này được bắn ra từ các ống nước và đốt cháy trong nước, và chỉ có
thể dập tắt bằng hỗn hợp dấm, cát, và nước tiểu. Hiện chúng ta vẫn chưa
biết loại vũ khí hóa học, gọi là Lửa Hy Lạp này, được làm từ gì. Đế quốc
Byzantine canh giữ bí mật này cực kỳ cẩn thận, để đảm bảo rằng chỉ một
vài nhóm người được lựa chọn mới được phép biết đến, và vì vậy rốt cuộc
nó đã bị thất truyền.
2. Kính uốn dẻo: Một loại chất liệu vô cùng quý giá
Ba ghi chép cổ đại về một loại chất liệu gọi là vitrum flexile,
hay kính uốn dẻo, chưa đủ rõ ràng để có thể kết luận loại chất liệu này
thực sự tồn tại. Câu chuyện về phát minh này đã được kể lại lần đầu
tiên bởi Petronius (mất năm 63 SCN).
Ông đã viết về một người thợ làm kính,
người đã trình lên Hoàng đế Tiberius (trị vì từ 14–37 SCN) một chiếc
bình thủy tinh. Ông yêu cầu hoàng đế đưa nó lại cho ông, và đúng lúc đó,
người thợ làm kính này đã ném nó xuống sàn. Chiếc bình chỉ hơi sứt mẻ,
chứ không bị vỡ, và người thợ làm kính nhanh chóng gõ nó trở lại hình
dạng ban đầu. Lo sợ các loại kim loại quý (vàng, bạc) sẽ bị giảm giá
trị, Tiberius đã ra lệnh chém đầu người thợ để bí mật về chất liệu
vitrum flexile có thể bị chôn vùi cùng với cái chết của ông.
Bức tượng chân dung bằng đá cẩm thạch của Hoàng đế Tiberius, 37 SCN. ( Wikimedia Commons)
Trưởng lão Pliny (Gaius Plinius
Secundus) (mất 79 SCN) cũng đã kể lại câu chuyện này. Ông nói rằng, mặc
dù câu chuyện này được kể lại thường xuyên, nhưng nó không nhất định
đúng hoàn toàn.
Phiên bản được Dio Cassius kể lại khoảng
vài trăm năm sau đã biến người thợ làm kính thành một nhà ảo thuật.
Thực ra, khi chiếc bình bị ném xuống sàn, nó đã vỡ và người thợ làm kính
đã sửa lại chỉ bằng tay không.
Vào năm 2012, công ty sản xuất kính
Corning đã ra mắt loại “Kính cây liễu.” Với tính chất kháng nhiệt và mềm
dẻo vừa đủ để cuộn lại, loại kính này đã tỏ ra đặc biệt hữu dụng khi
chế tạo các tấm năng lượng mặt trời.
Nếu thợ làm kính người La Mã xấu số này
đã thật sự phát minh ra chất vitrum flexile, thì có vẻ như ông đã đi
trước thời đại cả nghìn năm.
3. Thuốc giải bách độc
Cái gọi là “thuốc giải toàn năng” cho
tất cả các loại thuốc độc được cho là đã được tạo ra bởi Vua Mithridates
VI của Pontu (trị vì từ 120–63 TCN) và đã được hoàn thiện bởi thầy
thuốc riêng của Hoàng đế Nero.
Công thức nguyên thủy đã bị thất truyền,
theo Adrienne Mayor, nhà nghiên cứu truyền thống dân gian kiêm sử gia
tại Đại học Standford, trong một bài viết năm 2008 với tựa đề “Lửa Hy Lạp, Mũi tên tẩm độc & Bom bọ cạp: Chiến tranh sinh học và hóa học trong thế giới cổ đại.”
Nhưng các sử gia thời cổ đại cũng bảo chúng ta rằng trong thành phần
của nó có chứa thuốc phiện, rắn hổ lục băm nhỏ, và một sự kết hợp các
lượng nhỏ chất độc và thuốc giải của chúng.
Chất liệu quý giá này được gọi là Mithridatium, đặt theo tên Vua Mithridates VI.
Mayor lưu ý rằng Serguei Popov, nhà
nghiên cứu vũ khí sinh học hàng đầu trong chương trình Biopreparat của
Liên Xô, người đã đào thoát đến Mỹ năm 1992, đã cố gắng tạo ra một liều
thuốc Mithridatium hiện đại.
4. Vũ khí tia nhiệt
Hình ảnh miêu tả nhà toán học Ác-si-mét châm lửa đốt những con
tàu của La Mã trước thành Syracuse với sự giúp đỡ của các tấm gương dạng
parabol. ( Wikimedia Commons)
Nhà toán học người Hy Lạp Ác-si-mét (mất
năm 212 TCN) đã phát triển một loại vũ khí tia nhiệt vượt quá kỹ năng
của chương trình “Mythbusters” trên kênh Discovery Channel vào năm 2004.
Mayor đã miêu tả loại vũ khí này là nhiều hàng lá chắn bằng đồng được
đánh bóng giúp phản chiếu các tia sáng mặt trời vào thuyền quân địch.”
Mặc dù chương trình “Mythbusters” đã
không thể tái lập lại loại vũ khí cổ đại này và tuyên bố rằng đây chỉ là
một truyền thuyết, nhưng các sinh viên Học viện Công nghệ Massachusetts
(MIT) đã thành công chỉ một năm sau đó, vào năm 2005. Họ đã đốt cháy
một con thuyền ở bến cảnh San Francisco nhờ sử dụng thứ vũ khí 2.200 năm
tuổi này.
Một loại vũ khí tia nhiệt đã được hé lộ
bởi Cơ quan Nghiên Cứu Cấp cao Quốc phòng (Defense Advanced Research
Projects Agency), sử dụng các tia vi sóng để thâm nhập vào “lớp da nạn
nhân, nung nóng nó lên nhiệt độ 54o C , tạo cho nạn nhân một loại cảm giác như bị đốt bằng lửa,” Mayor giải thích.
5. Bê tông La Mã
Các khối kiến trúc La Mã rộng lớn đã tồn
tại qua hàng nghìn năm qua là minh chứng cho những ưu điểm mà bê tông
La Mã so với bê tông hiện đại, vốn sẽ xuất hiện dấu hiệu xuống cấp sau
50 năm.
Trong những năm gần đây các nhà nghiên
cứu đã cố gắng hé mở bí ẩn về độ bền của khối bê tông cổ đại này. Thành
phần bí mật của nó là tro bụi núi lửa.
Một bài viết được xuất bản bởi Trung tâm
Thông tin của trường Đại học Californa ở Berkeley vào năm 2013 đã tuyên
bố rằng đây là lần đầu tiên các nhà nghiên cứu đã hiểu được cách hợp
chất canxi-nhôm-silicat-hydro cực kỳ bền vững này kết nối các chất liệụ
với nhau. Quá trình tạo thành loại bê tông này sẽ tạo ra lượng khí thải
CO2 thấp hơn so với quá trình tạo ra bê tông hiện đại. Tuy
nhiên, một số nhược điểm khi sử dụng là nó cần nhiều thời gian hơn để
khô, và mặc dù nó tồn tại được lâu hơn, nó vẫn yếu hơn so với bê tông
hiện đại.
6. Sắt Damascus
Vào thời trung cổ, các thanh kiếm được
làm từ một chất liệu gọi là sắt Damascus đã được sản xuất ở khu vực
Trung Đông từ một loại nguyên liệu thô, gọi là sắt Wootz từ Châu Á. Loại
sắt này cứng một cách đáng kinh ngạc. Nhưng chỉ đến thời Cách mạng Công
nghiệp thì loại sắt cứng như vậy mới có thể được tạo ra một lần nữa.
Bí mật để rèn ra loại sắt Damascus vùng
Trung Đông này chỉ được tái hiện lại nhờ các kính hiển vi điện tử trong
phòng thí nghiệm hiện đại. Loại sắt này được sử dụng lần đầu tiên vào
khoảng năm 300 TCN và có vẻ như các hiểu biết về loại sắt này đã biến
mất một cách kỳ lạ vào khoảng giữa thế kỷ 18.
Công nghệ nano đã được sử dụng trong quá
trình sản xuất sắt Damascus, vì các chất liệu được thêm vào trong quá
trình rèn sắt để kích phát các phản ứng hóa học ở mức lượng tử, theo
giải thích của chuyên gia khảo cổ K. Kris Hirst trên trang About.com.
Đây chính là một loại hình giả kim thuật.
Hirst đã trích dẫn một nghiên cứu của
Peter Paufler chỉ đạo tại trường Đại học Dresden (Đức) và xuất bản trên
tạp chí Nature (Tự nhiên) vào năm 2006. Paufler và đội ngũ của ông đã
đưa ra giả thuyết cho rằng các tính chất tự nhiên của nguồn nguyên liệu
từ Châu Á (sắt Wootz), khi được kết hợp với các chất liệu ở khu vực
Trung Đông, đã kích phát một loại phản ứng: “Chất sắt phát triển một cấu
trúc vi mô gọi là ‘carbide nanotubes,’ các ống các-bon cực kỳ cứng được
biểu hiện trên bề mặt và tạo ra độ cứng của lưỡi kiếm,” Hirst giải
thích.
Các chất liệu được thêm vào trong quá
trình sản xuất sắt Damascus bao gồm vỏ cây Cassia auriculata, nhựa cây
gòn (milkweed), vanadi, crom, mangan, coban, niken, và một số nguyên tố
hiếm gặp khác, và từ các dấu vết có thể suy ra nguồn gốc của chúng có lẽ
là đến từ các mỏ quặng Ấn Độ.
Hirst đã viết, “Điều đã xảy ra vào giữa
thế kỷ 18 là thành phần hóa học trong chất liệu thô đã thay đổi, tức là
số lượng vi tế của một hoặc một số các khoáng chất đã biến mất, có lẽ do
mạch quặng riêng biệt nào đó đã bị cạn kiệt.”
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét