Thứ Tư, 14 tháng 9, 2016

RU ĐỜI ĐÃ MẤT (Đăng lại)

RU ĐỜI ĐÃ MẤT

                                    Nhớ Trịnh Công Sơn


"Cát bụi" nằm nghe"Lời mẹ ru"
Thả hồn "Nhìn những mùa thu đi"
"Ru đời đã mất" thời "Ở trọ"
"Giọt lệ thiên thu" đọng "Ướt mi"

"Hai mươi mùa nắng lạ" "Ru em"
"Hoa vàng mấy độ" ở "Vườn xưa"
"Người về bỗng nhớ" ôi "Tình nhớ"
"Ru tình" nhờ "Cỏ xót xa đưa"

"Diễm xưa", "Biển nhớ" "Sóng về đâu"
"Để gió cuốn đi" "Tuổi đá buồn"
"Gọi tên bốn mùa", "Bốn mùa thay lá"
Và "Em đi bỏ lại con đường"

Ôi! "Quỳnh hương", "Đóa hoa vô thường"
Nghe "Đời gọi em biết bao lần"
Những "Đêm thấy ta là thác đổ"
Hát "Ru em từng ngón xuân nồng"

"Em còn nhớ hay em đã quên"
"Tình xa" "Còn tuổi nào cho em"
"Tuổi đời mênh mông", trời "Hạ trắng"
"Rừng xanh xanh mãi" "Nắng thủy tinh"

"Từng ngày qua" "Một cõi đi về"
"Phôi pha" rồi, "Còn ai với ai"
"Bồng bống ơi" "Ru đời đi nhé"
"Thương một người" "Như cánh vạc bay"

"Xin tạ ơn", "Xin trả nợ người"
"Vết lăn trầm" "Ru ta ngậm ngùi"
"Rừng xưa đã khép" "Bên đời hiu quạnh"
"Có một dòng sông đã qua đời"

"Xa dấu mặt trời" "Này em có nhớ"
"Lặng lẽ nơi này" "Rơi lệ ru người"
"Cho đời chút ơn", "Nối vòng tay lớn"
"Đời cho ta thế", "Em hãy ngủ đi"!

"Phúc âm buồn" như tiếng thở dài
"Ngẫu nhiên" "Như một lời chia tay"
"Như chim ưu phiền" "Bay đi thầm lặng"
"Cúi xuống thật gần" "Xin mặt trời ngủ yên"
"Xin mặt trời ngủ yên"
"Xin mặt trời ngủ yên"
"Xin...mặt...trời...
                             ngủ...yên..."!

Trần Hạnh Thu
                                                                                                

CÂY SI

(Kính tặng hương hồn Trịnh Công Sơn)



Rung dây đàn làm khánh  
Nghiêng bình rượu làm ly              
Vun tình say thành núi
Kết cho đời cây si!                         

U buồn như tháp cổ                          
Rêu phong phủ xanh rì  
Tỏa hồn vào mưa gió
Hoang vu nhớ xuân thì  

Cuồn cuộn thân thác đổ
Trút cành lá xum xuê
Tưới rễ lên sỏi đá
Ôm hôn cõi đi về!



                                         Trần Hạnh Thu----------------------------------------------------------------------
(ĐC sưu tầm trên NET)

Trịnh Công Sơn

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Trịnh Công Sơn
Trinhcongson.jpg
Trịnh Công Sơn, hình chụp in trong sách Trịnh Công Sơn, Một người thơ ca, Một cõi đi về
Thông tin nghệ sĩ
Sinh 28 tháng 2, 1939
Thống Nhất, Buôn Ma Thuột, Đắk Lắk
Nguyên quán Thừa Thiên - Huế
Mất 1 tháng 4, 2001 (62 tuổi)
Thành phố Hồ Chí Minh
Nghề nghiệp Nhạc sĩ
Thể loại Tình khúc 1954-1975
Nhạc Trịnh
Nhạc cụ Ghi-ta
Năm hoạt động 1958-2001
Ca khúc tiêu biểu
  • "Diễm xưa"
  • "Biển nhớ"
  • "Tuổi đá buồn"
  • "Một cõi đi về"
  • "Mỗi ngày tôi chọn một niềm vui"
Ca sĩ trình bày thành công Khánh Ly, Hồng Nhung, Trịnh Vĩnh Trinh
Trịnh Công Sơn (28 tháng 2 năm 19391 tháng 4 năm 2001) được coi là một trong những nhạc sĩ lớn nhất của âm nhạc đại chúng, Tân nhạc Việt Nam với nhiều tác phẩm rất phổ biến. Hiện nay chưa có thống kê chính xác về số tác phẩm để lại của ông (ước đoán con số không dưới 600 ca khúc)  Tuy nhiên số ca khúc của ông được biết đến rộng rãi là 236 ca khúc (cả lời và nhạc). Nhiều ca khúc của ông có thông điệp phản-chiến trong thời kỳ Chiến tranh Việt Nam và phần lớn bị cả hai bên Việt Nam Dân chủ Cộng hòaViệt Nam Cộng hòa cấm đoán. Nhạc của Trịnh Công Sơn được nhiều ca sĩ thể hiện, nhưng thành công hơn cả là Khánh Ly. Ngoài ra, ông còn được xem là một nhà thơ, một họa sĩ không chuyên.

Tiểu sử

Thời niên thiếu

Ông quê ở làng Minh Hương, tổng Vĩnh Tri, huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên - Huế. Ông lớn lên tại Huế. Lúc nhỏ ông theo học các trường Lyceè Francais và Provindence ở Huế, sau vào Sài Gòn theo học triết học trường Tây Lycée Jean Jacques Rousseau Sài Gòn và tốt nghiệp tú tài tại đây.
Năm 1957, khi 18 tuổi, ông bị một tai nạn, khi đang tập judo với người em trai, ông bị thương nặng ở ngực, suýt chết và phải nằm liệt giường gần hai năm tại Huế. Thời gian nằm bệnh, ông đọc nhiều sách về triết học, văn học, tìm hiểu dân ca. Ông từng thổ lộ: "Khi rời khỏi giường bệnh, trong tôi đã có một niềm đam mê khác – âm nhạc. Nói như vậy hình như không chính xác, có thể những điều mơ ước, khát khao đó đã ẩn chứa từ trong phần sâu kín của tiềm thức bỗng được đánh thức, trỗi dậy".
Theo ông cho biết, ông sáng tác bài Sương đêm và Sao chiều vào năm 17 tuổi Nhưng tác phẩm được công bố đầu tiên của ông là Ướt mi, do nhà xuất bản An Phú in năm 1959  và qua giọng ca Thanh Thúy.
Năm 1961 vì muốn tránh thi hành nghĩa vụ quân sự (trốn lính) nên ông thi và theo học ngành Tâm lý giáo dục trẻ em tại trường Sư phạm Quy Nhơn. Sau khi tốt nghiệp ông dạy tại một trường tiểu học ở Bảo Lộc, Lâm Đồng.

Sự nghiệp

Tên tuổi của Trịnh Công Sơn được nhiều người biết đến hơn, từ khi ông cùng ca sĩ Khánh Ly hát tại Quán Văn, một quán cà phê đơn sơ dựng trên bãi đất cỏ sau Trường Đại học Văn khoa Sài Gòn do nhóm sinh viên mang tên Khai Hóa trong phong trào phục vụ thanh niên xã hội chủ trương, từ cuối năm 1966. Trong những năm sau đó, nhạc của ông được phổ biến và được nhiều ca sĩ trình diễn, đặc biệt là Khánh Ly. Ông kể: "Gặp gỡ ca sĩ Khánh Ly là một may mắn tình cờ, không phải riêng cho tôi mà còn cho cả Khánh Ly. Lúc gặp Khánh Ly đang hát ở Đà Lạt, lúc đó Khánh Ly chưa nổi tiếng nhưng tôi nghe qua giọng hát thấy phù hợp với những bài hát của mình đang viết và lúc đó tôi chưa tìm ra ca sĩ nào ngoài Khánh Ly. Tôi đã mời Khánh Ly hát và rõ ràng giọng hát của Khánh Ly rất hợp với những bài hát của mình. Từ lúc đó Khánh Ly chỉ hát nhạc của tôi mà không hát nhạc người khác nữa. Đó cũng là lý do cho phép mình tập trung viết cho giọng hát đó và từ đó Khánh Ly không thể tách rời những bài hát của tôi cũng như những bài hát của tôi không thể thiếu Khánh Ly",  còn Khánh Ly kể lại giai đoạn cơ cực đói khổ nhưng đầy hạnh phúc những năm 60 ấy: "Thực sự tôi rất mê hát. Không mê hát thì tôi không có đủ can đảm để đi hát với anh Sơn mười năm mà không có đồng xu, cắc bạc nào, phải chịu đói, chịu khổ, chịu nghèo, không cần biết đến ngày mai, không cần biết tới ai cả, mà chỉ cảm thấy mình thực là hạnh phúc, cảm thấy mình sống khi mình được hát những tình khúc của Trịnh Công Sơn".
Một số bài hát của Trịnh Công Sơn đã đến với công chúng Nhật Bản năm 1970 như "Diễm xưa" (do Khánh Ly biểu diễn bằng cả tiếng Nhậttiếng Việt), "Ca dao Mẹ", "Ngủ đi con". Riêng bài Ngủ đi con đã phát hành trên hai triệu đĩa nhựa.  Vì lời lẽ trong nhiều bài hát của ông có tính chất phản chiến, nhà cầm quyền Việt Nam Cộng hòa đã cấm lưu hành vài tác phẩm của ông.  Theo tác giả Ban Mai, trong cuốn "Trịnh Công Sơn - vết chân dã tràng" (đã bị UBND tỉnh Bình Định đình chỉ phát hành "được xác định có nội dung xuyên tạc sự thật lịch sử chiến tranh VN" , Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam cũng không tán thành cách nhìn phản chiến của ông về chiến tranh, vốn mang tính "chủ hòa, ủy mị", vì quan điểm của họ cho rằng đây là cuộc "chiến tranh chống xâm lược và thống nhất đất nước". Theo tác giả Ban Mai, trong cuốn "Trịnh Công Sơn - vết chân dã tràng", Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thì có những người gạt ông sang bên lề vì coi ông là "thiếu lập trường chính trị", có những người cực đoan đòi sau khi tiến về Sài Gòn sẽ "xử tử" ông.
Trước ngày 30 tháng 4 năm 1975, ông lên Đài phát thanh Sài Gòn hát bài "Nối vòng tay lớn", bài hát kêu gọi và nói về ước mơ hòa hợp dân tộc hai miền Nam Bắc mà ông viết từ năm 1968.  Cũng chính ông là người trưa ngày 30/4 đã đứng lên phát biểu trực tiếp trên đài phát thanh Sài Gòn sau lời tuyên bố đầu hàng của Tổng thống Dương Văn Minh:  "Hôm nay là ngày mơ ước của tất cả chúng ta... Ngày mà chúng ta giải phóng hoàn toàn đất nước Việt Nam này... Những điều mơ ước của các bạn bấy lâu là độc lập, tự do, và thống nhất thì hôm nay chúng ta đã đạt được tất cả kết quả đó... Hôm nay tôi yêu cầu các văn nghệ sĩ cách mạng miền Nam Việt Nam, các bạn trẻ và Chính phủ Cách mạng lâm thời xem những kẻ ra đi là những kẻ phản bội đất nước...Chính phủ Cách mạng lâm thời đến đây với thái độ hòa giải, tốt đẹp. Chúng ta không có lý do gì để sợ hãi mà ra đi cả. Đây là cơ hội duy nhất và đẹp đẽ nhất để đất nước Việt Nam được thống nhất và độc lập. Thống nhất và độc lập là những điều chúng ta mơ ước suốt mấy chục năm nay. Tôi xin tất cả các bạn, thân hữu và cũng như những người chưa quen của tôi xin ở lại và kết hợp chặt chẽ với Ủy ban Cách mạng lâm thời để góp tiếng nói xây dựng miền Nam Việt Nam này..."
Theo BBC, sau khi chiến tranh kết thúc, gia đình ông di tản sang Mỹ và ông đã phải sống 4 năm trong trại Học tập cải tạo. Nhưng cũng có những nguồn tin khác như theo tác giả Bùi Đức Lạc thì Trịnh Công Sơn chỉ đi làm kinh tế mới vài năm chứ không hề có cải tạo  hay là ông đi học tập 2 năm ở Cồn Tiên. Theo Nguyễn Đắc Xuân, thời gian đầu sau khi kết thúc chiến tranh năm 1975, “Đối với lãnh đạo thì không có vấn đề gì, nhưng có nhiều "anh em phong trào" ở Sài Gòn không thích quan điểm lập trường chung chung của Trịnh Công Sơn trước đây", ông trở về Huế và "thời gian đó một số phần tử quá khích theo phong trào "Vệ Binh Ðỏ" của Cộng Hòa Xã Hội Chủ nghĩa Việt Nam đã kích động sinh viên treo một tấm banderole to tướng mang dòng chữ xanh rờn: "Hạ bệ Phạm Duy - Hoàng Thi Thơ và Trịnh Công Sơn" trước trường Đại học Sư phạm Huế"  và "tiếp theo là cuộc tọa đàm luận tội "Trịnh Công Sơn có công hay có tội" tại Hội Văn nghệ Thừa Thiên - Huế. Hôm ấy có cả Trần Hoàn, Tô Nhuận Vỹ, Nguyễn Khoa Điềm, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Đắc Xuân, Trần Viết Ngạc và vài người nữa. Có người lên án, nhưng cũng có người bảo vệ. “Tội” của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn là ông đã làm nhạc phản chiến một cách chung chung, không phân biệt được chiến tranh xâm lược và chiến tranh giải phóng dân tộc trong bài “Gia tài của mẹ” với câu Hai mươi năm nội chiến từng ngày. Thậm chí ông còn làm nhạc ca ngợi địch trong bài “Cho một người nằm” xuống thương tiếc đại tá không quân Sài Gòn Lưu Kim Cương tử trận – người đã từng cưu mang ông. Nhiều người phát biểu biện hộ cho Trịnh Công Sơn: “Đúng là Trịnh Công Sơn đã làm nhiều bản nhạc phản chiến, anh được mệnh danh là người làm nhạc phản chiến số 1 thời ấy giống như Bob Dylan, Joan Baez ở bên Mỹ. Trịnh Công Sơn là một nhạc sĩ tự do, anh theo đuổi chủ nghĩa nhân bản chung chung khác chúng ta. Nhưng anh làm nhạc trong vùng tạm chiếm, người nghe nhạc phản chiến của anh là lính Cộng hòa. Rất nhiều lính của Thiệu đã bỏ ngũ vì nghe bản nhạc Người con gái da vàng của anh. Chẳng có người lính cách mạng nào bỏ ngũ vì nghe nhạc của Trịnh Công Sơn cả. Cũng như ngày xưa bên Trung Quốc, Trương Lương thổi sáo đâu phải để cho quân mình buông kiếm! Đâu phải tự dưng chính quyền Thiệu ra lệnh tịch thu những bài hát của Sơn”. Và chính xấp tài liệu đăng lệnh của cựu Tổng thống Thiệu cấm phổ biến nhạc Trịnh Công Sơn, lệnh cấm mang số 33 ngày 8.2.1969, đã có sức thuyết phục lớn đối với những người tham dự tọa đàm. Sau cuộc tọa đàm, Trịnh Công Sơn phải viết kiểm điểm. Hồi ấy, những bản kiểm điểm nói không đúng vấn đề thường bị viết lại. Trịnh Công Sơn chưa quen lối sinh hoạt này nên rất đau khổ và tuyệt vọng, chán chường..."  Trong thời hậu chiến này, cả nước rất khó khăn và như bao người Việt khác, Trịnh Công Sơn cũng được điều đi lao động sản xuất, khi thì trồng khoai lang, lúc cấy lúa trên những cánh đồng đầy bom đạn chưa tháo gỡ.
Một thời gian dài sau 1975, nhiều bài hát của ông bị cấm ở tại Việt Nam hay bị một số người kêu gọi tẩy chay ở hải ngoại. Tuy nhiên, Khánh Ly và nhiều ca sĩ vẫn tiếp tục hát và phát hành không ngưng nghỉ những băng đĩa với ca khúc của ông tại hải ngoại.
Những năm sau 1975, sau thời gian tập trung cải tạo, ông làm việc tại Hội Âm nhạc Thành phố Hồ Chí Minh, tạp chí Sóng nhạc. Từ đầu thập niên 1980, Trịnh Công Sơn bắt đầu sáng tác lại, lúc đầu một số sáng tác ông gởi qua cho Khánh Ly và chỉ phát hành tại hải ngoại. Khi bắt đầu được phép lưu hành nhạc trong nước, ông có viết một số bài có nội dung ca ngợi những chủ trương của chế độ mới như Thành phố mùa xuân, Ngọn lửa Maxcova, Em ở nông trường em ra biên giới, Huyền thoại Mẹ... Sau đó nhà nước Việt Nam đã nới lỏng quản lý văn nghệ, ông lại tiếp tục đóng góp nhiều bản tình ca có giá trị.
Ông cũng là một diễn viên điện ảnh nghiệp dư, năm 1971 ông thủ vai chính trong phim Đất khổ.  Phim hoàn tất năm 1974, nhưng chỉ được chiếu cho công chúng xem 2 lần rồi không được phép trình chiếu ở Miền Nam Việt Nam với lý do "có tính phản chiến" .  Sau năm 1975, bộ phim không được trình chiếu tại Việt Nam. Cuối cùng, một bản phim đã về tay nhà thơ Đỗ Trung Quân. Bộ phim được chọn là phim Việt Nam chính trong Liên hoan phim Á Mỹ năm 1996.
Cuối đời, ông bị bệnh gan, thậntiểu đường. Ông mất tại Thành phố Hồ Chí Minh vì bệnh tiểu đường lúc 12giờ45 ngày 1 tháng 4 năm 2001 (tức ngày 8 tháng 3 năm Tân Tỵ), hàng ngàn người đã đến viếng tang và "có thể nói, chưa có nhạc sĩ nào mất đi lại được công chúng thương tiếc như Trịnh Công Sơn". Ông được an táng tại Nghĩa trang chùa Quảng Bình (phường Bình Chiểu - quận Thủ Đức. Từ đó hàng năm giới hâm mộ đều lấy ngày này làm ngày tưởng niệm.

Sự nghiệp sáng tác

Toàn bộ âm nhạc của anh đẹp như một bức họa trừu tượng hơn là tả thực. Cả nhạc lẫn lời, cả xác lẫn hồn thơ, nghe lãng đãng, mơ hồ, khó phân định cho đúng nghĩa.
Phạm Duy, nói về nhạc Trịnh Công Sơn
Trịnh Công Sơn viết dễ như lấy chữ từ trong túi ra.
Trịnh Công Sơn sáng tác được khoảng hơn 600 ca khúc,  những tác phẩm có ca từ độc đáo, mang hơi hướng suy niệm. Theo Trung tâm Bảo vệ tác quyền âm nhạc Việt Nam Chi nhánh phía Nam, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn vẫn là tác giả được trả tác quyền nhiều nhất với hơn 820 triệu đồng trong năm 2015 và luôn trong top 5 nhạc sĩ có tiền trả tác quyền cao nhất . Tuy nhiên, còn một đánh giá khá phổ biến cho rằng phần nhạc của Trịnh Công Sơn quá đơn điệu. Đánh giá này trùng khớp với lời lý giải của ông về sự sáng tác của mình: "Tôi chỉ là 1 tên hát rong đi qua miền đất này để hát lên những linh cảm của mình về những giấc mơ đời hư ảo..."  Hai mảng đề tài lớn nhất trong âm nhạc Trịnh Công Sơn là tình yêu và thân phận con người.

Nhạc tình

Tình yêu là đề tài lớn và ảnh hưởng nhất trong các tác phẩm của Trịnh Công Sơn. Những bản tình ca chiếm đa số trong danh mục nhạc phẩm. Khả năng viết nhạc tình của Trịnh Công Sơn tưởng chừng không biết mai một theo năm tháng, theo thời đại: từ 1958 với "Ướt mi" đã nổi tiếng cho đến thập niên 1990 ông vẫn có những tình ca được nhiều người ưa thích: "Như một lời chia tay", "Xin trả nợ người"...
Nhạc tình của ông đa số là nhạc buồn, thường nói lên tâm trạng buồn bã, cô đơn như trong "Sương đêm", "Ướt mi", những ca khúc nhạc tình vẫn mênh mang nỗi buồn kiếp người như "Diễm xưa", "Biển nhớ", "Tình xa", "Tình sầu", "Tình nhớ", "Em còn nhớ hay em đã quên", "Hoa vàng mấy độ", "Cỏ xót xa đưa", "Gọi tên bốn mùa", "Mưa hồng"...
Những bài hát này thường mang giai điệu nhẹ nhàng, dễ hát, thường được viết với tiết tấu chậm, thích hợp với điệu Slow, Blues hay Boston. Phần lời được đánh giá cao nhờ đậm chất thơ, nhiều chiêm nghiệm nhờ những biên pháp ẩn dụ, hoán dụ... đôi khi pha lẫn hơi hướng siêu thực, trừu tượng.
Nhạc tình của Trịnh Công Sơn rất phổ biến tại Việt Nam và hải ngoại. Tuy rằng không được giới chuyên môn đánh giá cao về phần âm nhạc, nhưng với giai điệu gần gũi và ca từ có màu trừu tượng, ý nghĩa sâu lắng, nhạc của ông dễ dàng đi vào lòng công chúng.

Nhạc về thân phận con người

Trịnh Công Sơn từng nói từ khi còn trẻ ông đã luôn ám ảnh bởi cái chết nên âm nhạc của ông mang trong đó một sự mất mát của những số phận con người. Ông cũng ảnh hưởng bởi Phật giáo của phương Đông và chủ nghĩa siêu thực của phương Tây, nhạc Trịnh Công Sơn thấm đượm màu sắc hiện sinh, buồn bã của các tác giả văn học phương Tây thập niên 60 như Jean Paul Sartre, Albert Camus,... Tiêu biểu là các ca khúc "Cát bụi", "Đêm thấy ta là thác đổ", "Chiếc lá thu phai", "Một cõi đi về", "Phôi pha",.... Bên cạnh đó, có những bài tuy là nhạc buồn nhưng có gợi nên tư tưởng thiền như "Một cõi đi về", "Giọt nước cành sen".

Nhạc phản chiến

Khi tên tuổi định hình bằng nhạc tình, thì vai trò xã hội của Trịnh Công Sơn lại gắn liền với một loại nhạc mang tính chất chống lại chiến tranh, kêu gọi hòa bình mà người ta thường gọi là nhạc phản chiến, hay còn gọi là Ca khúc da vàng theo tên các tập nhạc của ông phát hành cuối thập niên 60. Những "ca khúc da vàng" thường nói lên thân phận của những người dân một nước nhỏ (nhược tiểu) bị lôi kéo vào chiến tranh và nằm trong vòng toan tính, giành giật ảnh hưởng của những nước lớn (thường là khác màu da).
Theo Bửu Chỉ, Trịnh Công Sơn bắt đầu sáng tác dạng nhạc này vào khoảng năm 19651966. Năm 1966, ông cho ra đời tập Ca khúc Trịnh Công Sơn, trong đó có manh nha một xu hướng chính trị yếm thế. Đến năm 1967, nhạc Trịnh Công Sơn lên đến đỉnh cao của sự phản chiến bằng tập Ca khúc da vàng. Năm sau, ông cho ra tiếp tập Kinh Việt Nam. Từ năm 1970 tới 1972 ông tự ấn hành được hai tập nhạc phản chiến là Ta phải thấy mặt trờiPhụ khúc da vàng. Trong các băng nhạc Hát cho Quê hương Việt Nam của Khánh Ly, những ca khúc phản chiến được bố trí khéo léo đan xen với các ca khúc trữ tình. Những tập ca khúc vừa kể đều được phát hành hợp pháp tại miền Nam trước 1975. Chính vì thế các ca khúc phản chiến của ông được phổ biến khá rộng rãi, có ảnh hưởng lớn đến công chúng nhất là giới trí thức, học sinh - sinh viên miền Nam.
Nhạc phản chiến của Trịnh Công Sơn phần lớn viết bằng điệu Blues, cộng với lời ca đậm chất hiện thực, rất đơn sơ, trần trụi (khác hẳn với dòng nhạc tình), trở nên những bài hát gây xúc động mạnh mẽ. Những bản nhạc này được ông cùng Khánh Ly đem đi hát ở nhiều nơi tại miền Nam, được nhiều người nhất là giới sinh viên nhiệt tình ủng hộ. Đây cũng là loại nhạc làm cho danh tiếng của Trịnh Công Sơn lan ra thế giới: nhờ nhạc phản chiến ông được một Đĩa Vàng (giải thưởng âm nhạc) tại Nhật và có tên trong tự điển bách khoa Encyclopédie de tous les pays du monde của Pháp
Nhạc phản chiến Trịnh Công Sơn hay Phạm Duy và các nhạc sĩ khác được cho là có vai trò trong giai đoạn cuối của chiến tranh Việt Nam, bên cạnh phong trào Hát cho dân tôi nghe của Tôn Thất Lập. Cũng vì loại nhạc không rõ nghiêng về phe nào này mà ông đã bị tẩy chay nhiều lần từ cả hai phe đối địch. Nhưng về phía Trịnh Công Sơn, không thể phủ nhận rằng ông đã trở thành một tên tuổi đặc biệt nhờ vào dòng nhạc này.
Cho đến nay, sau hơn 30 năm hòa bình, rất nhiều bài hát "da vàng" của ông chưa được phép lưu hành chính thức tại Việt Nam hiện nay dù đã từng rất phổ biến (và được Khánh Ly phát hành băng nhạc) tại miền Nam trong thời chiến tranh Việt Nam (như bài "Gia tài của mẹ", "Cho một người vừa nằm xuống", "Đi tìm quê hương", "Chính chúng ta phải nói hòa bình", "Chưa mất niềm tin", "Chờ nhìn quê hương sáng chói", "Hát trên những xác người",  "Ta đi dựng cờ",  "Ta quyết phải sống" )

Nhạc khác

Ngoài các bản nhạc tình và nhạc phản chiến, Trịnh Công Sơn còn để lại những tác phẩm viết về quê hương như "Chiều trên quê hương tôi", những tác phẩm thể hiện quan điểm chính trị rõ hơn như "Huế - Sài Gòn - Hà Nội", "Việt Nam ơi hãy vùng lên" (1970), "Nối vòng tay lớn", "Chưa mất niềm tin" (1972)... trong đó có những bài rời được sáng tác ngay trong những cuộc xuống đường biểu tình cùng thanh niên, sinh viên, học sinh.
Từ đầu thập niên 1980, khi bắt đầu được phép lưu hành nhạc trong nước, ông có viết một số bài nhạc cách mạng như "Em ở nông trường em ra biên giới", "Huyền thoại Mẹ", "Ánh sáng Mạc Tư Khoa",  "Ra chợ ngày thống nhất"
Ông cũng viết nhạc cho trẻ em (trong tập nhạc Cho Con, xuất bản năm 1991 ) như "Em là hoa hồng nhỏ", "Mẹ đi vắng", "Em đến cùng mùa xuân", "Tiếng ve gọi hè", "Tuổi đời mênh mông", "Mùa hè đến", "Tết suối hồng", "Khăn quàng thắp sáng bình minh", "Như hòn bi xanh", "Đời sống không già vì có chúng em".
Hiện nay, bản quyền các tác phẩm của ông thuộc quyền thừa kế và sở hữu bởi Trịnh Vĩnh Trinh (em gái ông, sống tại Việt Nam) và Trịnh Xuân Tịnh (anh trai ông, sống tại Mỹ), mỗi người giữ một nửa quyền sở hữu với các tác phẩm của Trịnh Công Sơn 

Thơ & vẽ

Ông làm thơ ít trong những lúc ngẫu hứng, hiện nay còn để lại một số bài thơ tự sáng tác,  và các bản dịch phỏng như trong tập Hán tự hài cú của Ngô Văn Tao, hay các bài thơ vui, thơ chơi.
Bên cạnh âm nhạc, Trịnh Công Sơn để lại khá nhiều tác phẩm hội họa, bút tích. Các tác phẩm hội họa của ông đã được triển lãm tại Nhà Hữu Nghị Tiệp Khắc - Việt Nam, từ 14.01.1989 đến 24.01.1989 cùng với 2 họa sĩ Đinh CườngĐỗ Quang Em, triển lãm tại nhà khách Ritz, và Trang viên Con Nai Vàng, Thủ Đức, từ 15.12.1990 đến 20.01.1991 cùng với 2 họa sĩ Trịnh CungĐỗ Quang Em.
Một số trong đó hiện còn được lưu giữ và trưng bày tại Hội Ngộ Quán.

Phát ngôn, bút tích

Bên cạnh âm nhạc, ông còn để lại khá nhiều phát ngôn về quan điểm chính trị cũng như những dòng văn suy niệm về thân phận, cuộc sống.

Vinh dự

  • Năm 1972, ông đoạt giải thưởng Đĩa Vàng (phát hành trên 2 triệu đĩa) ở Nhật Bản với bài "Ngủ đi con" (trong Ca khúc da vàng) qua tiếng hát của ca sĩ Khánh Ly. Năm 1979, hãng đĩa Nippon Columbia mời Khánh Ly thu băng lần thứ hai các nhạc phẩm của ông, cũng vào năm này ca khúc "Ngủ đi con" trở thành 1 hit ở Nhật Bản.
  • Giải thưởng cho Bài hát hay nhất trong phim "Tội lỗi cuối cùng"
  • Giải Nhất của cuộc thi "Những bài hát hay nhất sau 10 năm chiến tranh" với bài "Em ở nông trường, em ra biên giới"
  • Giải Nhất cuộc thi "Hai mươi năm sau" với bài "Hai mươi mùa nắng lạ".
  • Năm 1997 ông đoạt giải thưởng lớn của Hội Nhạc Sĩ cho một chuỗi bài hát: "Xin trả nợ người", "Sóng về đâu", "Em đi bỏ lại con đường"
  • Năm 2004, Giải thưởng Âm nhạc hòa bình thế giới được trao cho ông vì "lý tưởng hòa bình mà ông đã đấu tranh không mệt mỏi cho nhân loại".
  • Trịnh Công Sơn có tên trong tự điển bách khoa Pháp Les Million.
  • Trong cuộc họp chiều 17 tháng 3 năm 2011, Hội đồng nhân dân tỉnh Thừa Thiên - Huế đã chính thức thông qua việc đặt tên của cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn cho con đường dài 600 mét, rộng 11 mét lát nhựa mới mở ven sông Hương thuộc phường Phú Cát, thành phố Huế.

Đời tư

Suốt đời, Trịnh Công Sơn yêu nhiều nhưng không chính thức kết hôn với ai, và cũng chưa chính thức công nhận là có con.
Trịnh Công Sơn không có vợ, nhưng ông có những mối tình đẹp và lãng mạn với những phụ nữ ở Việt Nam mà ở cả ngoại quốc. Theo lời của người em gái Hoàng Diệu, lý do lớn nhất ông không kết hôn là: "Anh Sơn luôn ngại làm phiền người sẽ ở cùng phòng với mình, bởi anh cực kỳ ít ăn và ít ngủ và có giờ giấc làm việc chẳng giống ai. Anh thường xuyên thức dậy giữa khuya khi nghĩ ra được ý nào đó và ngồi viết lại hoặc vẽ đến sáng. Bởi vậy mà khi lần đầu tiên có ý định cưới vợ - một Việt kiều Pháp (sáu tháng ở Pháp, sáu tháng ở Việt Nam), anh đã có những dự định rất rõ ràng: Anh và chị sẽ có hai căn phòng nằm cạnh nhau chứ không phải lúc nào cũng ở chung phòng để có thể giữ được sự riêng tư cần thiết." Và rồi, vì nhiều lý do, mối duyên ấy không thành.
Mối tình đầu, thực chất chỉ là 1 tình bạn đẹp của ông là với ca sĩ Khánh Ly,  rồi sau đó với một cô gái Nhật Bản làm luận án tiến sĩ về âm nhạc Trịnh Công Sơn. Hai người cũng đã tiến xa đến một kế hoạch đám cưới nhưng rồi cũng không thành vì anh Sơn không chấp nhận một vài nguyên tắc của gia đình người Nhật đưa ra khi anh về làm rể. Và Dao Ánh (người trong mộng của ông từ năm 1964 đến năm 1967 ); em ruột của bà Ngô Vũ Bích Diễm. Đây chính là "bóng hồng" trong nhạc phẩm "Diễm xưa". Trước khi yêu Dao Ánh, Trịnh Công Sơn từng dành tình cảm với cô chị gái Bích Diễm nhưng tình cảm ấy không thành.
Mối tình thứ tư của ông là với ca sĩ Hồng Nhung, và mối tình thứ năm của ông là với VA..., khi ông mất VA là một trong số các người thân ở bên cạnh ông 
Sau 1975, đã có hai lần ông định lập gia đình. Lần đầu vào năm 1983, với một thiếu phụ tên là C.N.N., sinh năm 1944. Từ quận 18, Paris, bà C.N.N 
Những năm cuối cùng của cuộc đời, niềm say mê lớn nhất, Trịnh Công Sơn gần như dành hết cho ca sĩ Hồng Nhung mà theo ông là "Một người quá gần gũi không biết phải gọi là ai!"... Với Hồng Nhung, tâm hồn Trịnh gần như trẻ lại, khiến bước chân ông trở nên bối rối, ngập ngừng với buổi hẹn ban đầu.
Một người khác cũng từ Hà Nội kể lại tình cảm của cô dành cho Trịnh Công Sơn và của Trịnh dành cho cô lần đầu gặp mặt: "Lần đầu tiên đứng trước nhau, cả tôi và anh Sơn đều run. Tôi run vì quá trẻ và Sơn run vì anh quá... già!"
Hoàng Anh, một người được cho là người yêu của Trịnh Công Sơn nói về tình yêu đối với ông: "Hiện tôi vẫn để ảnh tưởng nhớ Trịnh Công Sơn trong phòng ngủ, nhưng chồng tôi không bao giờ thắc mắc, mà luôn tôn trọng thế giới riêng của tôi"'.
Tình yêu của Trịnh Công Sơn dành cho nhiều phụ nữ trẻ, đẹp và nổi tiếng, họ yêu ông say đắm, khi ông mất có người còn xin gia đình cho được để tang ông, nhưng ông không sống khăng khít với một phụ nữ nào. Tài năng của ông luôn liên tục thăng hoa, ngoài âm nhạc ông còn đóng phim, hội họa. Nhưng ông nhìn nhận cuộc đời và dành tình cảm cho đời một cách rất giản đơn với không hề tham vọng, ông nói một cách thản nhiên về cuộc đời: Cái chết chẳng qua cũng chỉ là một sự đùa cợt sau cùng của cuộc sống.

Ca sĩ thể hiện

Tên tuổi gắn nhiều nhất với những bài hát nhạc Trịnh Công Sơn là Khánh Ly. Khánh Ly, ban đầu là một ca sĩ ít tên tuổi tại Đà Lạt, bén duyên với nhạc Trịnh trong một dịp tình cờ, để rồi từ đó về sau đã thể hiện hầu hết những ca khúc của Trịnh Công Sơn, để rồi được cho là người thành công nhất.
Nhưng Khánh Ly không phải người đầu tiên hát nhạc Trịnh, trước đó Trịnh Công Sơn đã mời những tên tuổi lẫy lừng bấy giờ là Thanh Thúy, Hà Thanh, Lệ Thu và cả danh ca Thái Thanh giới thiệu những sáng tác đầu tay của mình ra công chúng, tuy vậy cuối cùng ông lại chọn Khánh Ly, người cũng đã vụt lên thành ngôi sao sáng sau khi thể hiện những bản tình ca buồn bã thâm trầm và dòng nhạc phản chiến mạnh mẽ của Trịnh Công Sơn bằng chất giọng khàn đục lạ lùng.
Ngoài Khánh Ly, nhiều ca sĩ hát nhạc Trịnh Công Sơn cũng được đánh giá cao như Lệ Thu, Thái Thanh , Ngọc Lan, Lan Ngọc. Giọng nam thì có Tuấn Ngọc, và sau này là Quang Dũng. Tuấn Ngọc tuy không chuyên về nhạc Trịnh nhưng được Trịnh Công Sơn đánh giá cao khi hát nhạc của ông . Cuối cùng phải kể đến giọng hát của nhà thơ/nhạc sĩ Nguyễn Đình Toàn khi ông thực hiện album 11 Ca Khúc Trịnh Công Sơn vào năm 1988. Nguyễn Đình Toàn hát nhạc Trịnh bằng giọng nhẹ nhàng, tâm sự và ngón đàn guitar acoustic thổn thức rất được giới mộ điệu ưa thích.
Việt Nam giai đoạn sau 1975 cũng có những người hát nhạc Trịnh Công Sơn thành công như Trịnh Vĩnh Trinh (Em gái nhạc sĩ), Cẩm Vân và đặc biệt phải kể đến Hồng Nhung hát nhạc Trịnh theo phong cách hoàn toàn mới và cũng được khán giả đón nhận.
Cũng nên kể đến những ca sĩ muốn thử nghiệm nhạc Trịnh Công Sơn bằng phong cách "mới" và "lạ", để rồi bị khán giả phản đối nặng nề, tiêu biểu là Thanh Lam, Mỹ Tâm, Đàm Vĩnh Hưng.
Bản thân nhạc sĩ Trịnh Công Sơn cũng tự mình thể hiện và thu âm một số ca khúc và được khán thính giả yêu thích.

Nhận xét


Đóng góp cho điện ảnh

  1. Cánh đồng hoang  1979 của đạo diễn Nguyễn Hồng Sến, kịch bản Nguyễn Quang Sáng
  1. Ngoại ô (1987) (cùng nhạc sĩ Phạm Trọng Cầu)
  • Nhạc và bài hát được sử dụng trong phim
  1. Tội lỗi cuối cùng, phim chiếu năm 1980 của đạo diễn Trần Phương, nghệ sĩ Phương Thanh đóng vai Hiền cá sấu: bài "Đời gọi em biết bao lần"
  2. Cho cả ngày mai, phim năm 1981 của đạo diễn Long Vân: bài "Em là bông hồng nhỏ"
  3. Bãi biển đời người, phim 1983 của đạo diễn Hải Ninh: bài "Quê hương"
  4. Thị xã trong tầm tay, phim 1983 của đạo diễn Đặng Nhật Minh
  5. Cho đến bao giờ, phim 1985 của đạo diễn Huy Thành
  6. Cầu Rạch Chiếc, phim 1986 của đạo diễn Hoàng Lê
  7. Cô gái trên sông, phim năm 1987 của đạo diễn Đặng Nhật Minh
  8. Mùa hè chiều thẳng đứng, phim năm 2000 của đạo diễn Trần Anh Hùng: "Cuối cùng cho một tình yêu", "Nắng thủy tinh", "Rừng xưa đã khép"
  9. Áo lụa Hà Đông năm 2006 của hàng phim Phước Sang, đạo diễn Lưu Huỳnh: "Bài ca dành cho những xác người"
  10. Công chúa teen và ngũ hổ tướng năm 2010 của đạo diễn Lê Lộc (bài "Để gió cuốn đi")
  11. Em là bà nội của anh, phim năm 2015 bài "Còn tuổi nào cho em"
  • Phim về Trịnh Công Sơn:
  1. Trịnh Công Sơn - sống và yêu của đạo diễn Lê Dân (Lê Hữu Phước)
  2. Em còn nhớ hay em đã quên: đạo diễn Nguyễn Hữu PhầnPhi Tiến Sơn, với sự tham gia của cố diễn viên Lê Công Tuấn Anh vai Quang Sơn (Trịnh Công Sơn thời trẻ), Hoàng Hồng Nhị vai Huyền My (hình ảnh ca sĩ Khánh Ly), Nguyễn Huỳnh vai chồng Huyền My (hình ảnh Nguyễn Hoàng Đoan, chồng ca sĩ Khánh Ly) và Trương Ngọc Ánh vai Diễm.

Trịnh Công Sơn từng "mê mẩn" và khước từ Á hậu này!

Thứ Ba, ngày 13/09/2016 16:26 PM (GMT+7)
Trong số những bóng hồng từng để lại dấu ấn với cuộc đời nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, Á hậu Trần Vân Anh là người đẹp duy nhất đoạt ngôi vị cao trong một cuộc thi nhan sắc.
"Mê mẩn" từ cái nhìn đầu tiên
Ở cuộc thi Hoa hậu Việt Nam năm 1990, người đẹp Trần Vân Anh đến từ TP HCM từng gây "choáng ngợp" với chiều cao 1m70. Bấy giờ, người đăng quang ngôi vị Hoa hậu là cô gái Hà Nội Nguyễn Diệu Hoa chỉ cao 1m58 và Á hậu 2 Trần Thu Hằng cao 1m60. Không những vậy, Trần Vân Anh còn sở hữu số đo hình thể đáng mơ ước: 90 - 60 - 90cm được đánh giá đạt chuẩn quốc tế.
Sinh năm 1970, làm nghề tiếp hàng không, Trần Vân Anh còn được biết đến như một gương mặt người mẫu sáng giá thuộc top đầu thời bấy giờ. Chính người đẹp này đã trở thành chủ đề gây tranh cãi nhất tại cuộc thi Hoa hậu Việt Nam năm 1990.
Giám khảo - diễn viên Lê Vân từng bất đồng với các thành viên ban giám khảo khi cho rằng Vân Anh xứng đáng hơn Diệu Hoa. Cùng quan điểm ấy, họa sĩ Ca Lê Thắng, đạo diễn điện ảnh Việt Linh cũng cho rằng nhan sắc của Trần Vân Anh phù hợp để đăng quang.
Vốn thẳng thắn, cá tính diễn viên Lê Vân đã không ngần ngại bày tỏ quan điểm ấy trước báo giới và công chúng. Tuy nhiên, sự ngưỡng mộ của số đông vẫn nghiêng về Hoa hậu Diệu Hoa bởi vẻ đẹp thuần Việt, "đại chúng" cộng thêm vốn tri thức cao, thông thạo nhiều ngoại ngữ thay vì chấp nhận vẻ đẹp "quá khủng", "chỉ Tây mới mê" của Á hậu Vân Anh.
Trịnh Công Sơn từng "mê mẩn" và khước từ Á hậu này! - 1
Á hậu Trần Vân Anh
Trước tình huống cả hai ứng viên sáng giá đều có điểm số những đêm thi trước xấp xỉ nhau, cuộc họp cuối cùng hội đồng chung khảo cuộc thi đã quyết định cùng chờ đợi phần thi ứng xử, ai điểm cao hơn sẽ là Hoa hậu. Rốt cuộc, người đẹp Diệu Hoa đã có phần trả lời ứng xử rất trôi chảy, thông minh, được cả hội trường vỗ tay không ngớt rồi trở thảnh chủ nhân vương miện.
Nhưng sự thật không phải chỉ diễn viên Lê Vân, các họa sĩ, đạo diễn hay... Tây bị lôi cuốn bởi vẻ đẹp khác lạ, quá đỗi nổi trội của Trần Vân Anh mà nhạc sĩ Trịnh Công Sơn cũng bị "sét đánh" ngay lần đầu gặp gỡ cô tại cuộc thi Hoa hậu.
Theo lời các thành viên trong Ban tổ chức cuộc thi kể lại, nhạc sĩ tài hoa này đã "mê mẩn" Vân Anh ngay từ cái nhìn đầu tiên kèm theo lời trầm trồ: "Đẹp quá!". Bởi vậy, công chúng không có gì bất ngờ khi sau cuộc thi một thời gian ngắn thấy rộ lên lời đồn về mối quan hệ gắn bó của nhạc sĩ họ Trịnh với nữ tiếp viên hàng không.
Vì đâu đám cưới bất thành?
Trong danh sách những "nàng thơ" của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, Á hậu Trần Vân Anh được cho là bóng hồng gợi cảm hứng cho nỗi buồn trong những ca từ đầy day dứt, tiếc nuối: "Có đường xa và nắng chiều quạnh quẽ/ Có hồn ai đang nhè nhẹ sầu đêm...".
Nhiều giai thoại truyền miệng cho rằng, sau thời gian đắm đuối trong tiếng sét ái tình, nhạc sĩ họ Trịnh đã định cưới Á hậu Trần Vân Anh - cô gái kém mình 30 tuổi - nhưng khi hôn lễ đã chuẩn bị gần xong, ông lại khước từ hạnh phúc vào phút cuối. Tuy nhiên, cho đến nay, giai thoại này vẫn tồn tại quá nhiều "dị bản".
Bên cạnh nguồn tin cho rằng tất cả nguyên do xuất phát từ chuyện nhạc sĩ Trịnh Công Sơn "nghệ sĩ" quá thì cũng có những giai thoại đặt hoài nghi vào Á hậu Trần Vân Anh. Rằng cô gái đẹp này đã "lái" cái kết lẽ ra đáng mơ ước, lẽ ra hạnh phúc sang hướng khác bởi một sự cố khiến vị hôn phu tương lai rơi vào tuyệt vọng. Phải hai năm sau đó nhạc sĩ Trịnh Công Sơn mới nguôi ngoai khi gặp "cô Bống" Hồng Nhung.
Trịnh Công Sơn từng "mê mẩn" và khước từ Á hậu này! - 2
Thông tin về Á hậu Trần Vân Anh vẫn còn là bí ẩn
Những ai quyết đi tìm lời giải thích cho cuộc tình có kết cục ngỡ ngàng giữa nhạc sĩ Trịnh Công Sơn và người đẹp Trần Vân Anh hẳn sẽ bất lực bởi đến bạn bè thân thiết của cố nhạc sĩ còn không biết đâu là nguồn cơn, manh mối. Chỉ biết rằng, trong cuộc đời người nghệ sĩ tài hoa này, ngoài một mối tình trước đó với người phụ nữ bí ẩn có cái tên luôn được viết tắt thì Á hậu Trần Vân Anh là trường hợp duy nhất nhen nhóm trong ông ý định tìm bến đỗ bằng hạnh phúc gia đình.
Trong bút tích của cố nhạc sĩ, ông từng mở lòng tâm sự về chuyện "yêu nhiều mà không hề yêu riêng một ai" bằng niềm cả nghĩ, trống trải và vu vơ: "Có một điều gần như không thay đổi là mùa xuân nào cũng từng ấy khuôn mặt bạn bè vây quanh, chỉ có khuôn mặt tình yêu là không như cũ".
Nhiều người vẫn không ngừng thắc mắc rằng hầu hết những "nàng thơ" của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đều... không đẹp như cách số đông định nghĩa. Từ nàng Diễm, Dao Ánh, Hồng Nhung của những năm 90 hay một bóng hình thoảng qua là cô gái xứ Quảng Mạc Lê Đan Thanh... tất cả đều hao gầy, mong manh, u uẩn. Nếu để nhắc tên bóng hồng nào đó mà tất cả mọi người đều thấy đẹp, ngay cả khi so sánh với chuẩn mực hiện tại, không ai khác chính là Á hậu Trần Vân Anh.
Có thể là định mệnh bởi sau giai thoại bí ẩn gắn với tên tuổi của cố nhạc sĩ họ Trịnh, Á hậu Trần Vân Anh dường như mất hút. Chẳng biết phía sau giai thoại, trong những ca từ của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn có góc nào cho người đẹp ấy hay không và liệu cuộc sống của cô sau này có được như câu hát nổi tiếng "Em hồn nhiên rồi em sẽ bình minh" ông để lại cho đời.
Nhưng những cuộc tình dang dở ấy, bao bóng hồng thoảng qua... đã để lại dư âm trong lòng công chúng nhiều thế hệ với bao cung bậc thăng trầm của cảm xúc để rồi có những khoảnh khắc, chỉ cần một giai điệu ngân lên, rất có thể ai đó sẽ nhớ về khuôn mặt hay một dáng hình kí ức.
Theo T.Phương (Báo Gia đình & Xã hội)
 

Trịnh Công Sơn và đám cưới không thành với cô gái Nhật

Cuộc tình của Trịnh Công Sơn với người con gái Nhật Michiko Yoshii là mối tình đẹp nhưng kết cục buồn, vấn vương như những bản tình ca bất hủ của cố nhạc sĩ tài hoa.

Ngày 1/4/2001, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn - một trong những nhạc sĩ lớn nhất của nền âm nhạc đương đại Việt Nam - rời cõi tạm về với vĩnh hằng. 15 năm qua, những ca khúc của ông vẫn vang vọng khắp nơi, vẫn là dòng suối tinh thần tắm tưới tâm hồn bao thế hệ người Việt yêu nhạc Trịnh.
Trong gia tài âm nhạc, Trịnh Công Sơn đã để lại những khúc tình ca bất hủ. Những bản nhạc tình ấy có lúc trong trẻo, hồn nhiên, tinh khôi như đóa quỳnh mãi ngát hương trong vườn yêu, cũng nhiều lúc chỉ là nỗi buồn thương, mất mát, dở dang, "từng người tình bỏ ta đi như những dòng sông nhỏ". Trong cuộc tình riêng đời mình, cố nhạc sĩ đã đôi lần ngấp nghé trước ngưỡng cửa hôn nhân nhưng mãi mãi không bao giờ bước qua. Có những bóng hồng, những người đi qua cuộc đời Trịnh Công Sơn và họ đọng lại trong những ca khúc, bài thơ, bức họa của ông như những nỗi buồn thuần khiết.
trinh-cong-son-va-dam-cuoi-khong-thanh-voi-co-gai-nhat
Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Ảnh tư liệu.
Michiko Yoshii - người con gái Nhật thông minh, tài năng và trong sáng là một câu chuyện tình buồn, thuần khiết như vậy của Trịnh Công Sơn. Vượt qua những rào cản về biên giới, ngôn ngữ, văn hóa, nàng đã đến với cuộc đời ông như một người tình tri kỷ. Những tưởng mối quan hệ ấy sẽ là một lương duyên, nhưng rốt cuộc vẫn không thành, để chỉ mãi là mối tình đẹp nhẹ nhàng.
Vào khoảng năm cuối thập niên 80 của thế kỷ 20, Michiko Yoshii - lúc này là sinh viên đại học tại Paris (Pháp) - đã bén duyên với Việt Nam vì yêu văn hóa, ngôn ngữ và con người của đất nước này. Một trong những tình yêu lớn nhất ở cô gái Nhật thời ấy là tình cảm sâu nặng dành cho nhạc Trịnh Công Sơn. Michiko yêu nhạc Trịnh đến nỗi, lúc đó, dù đã có bằng cao học về văn hóa Nhật Bản, cô vẫn tiếp tục theo đuổi đề tài cao học nghiên cứu về âm nhạc phản chiến của Trịnh Công Sơn.
Để gần được hơn với nhạc Trịnh, Michiko không chỉ nhiều lần từ Pháp điện thoại về Việt Nam trò chuyện với Trịnh Công Sơn, cô còn đến Việt Nam để gặp gỡ trực tiếp người nhạc sĩ mình ngưỡng mộ. Luận án cao học và âm nhạc là cầu nối cho cuộc tình nhẹ nhàng của họ.
Dù không nhớ chính xác khoảng thời điểm nào cuộc tình ấy ngày càng trở nên sâu đậm, các thành viên trong gia đình cố nhạc sĩ đến nay vẫn còn nhớ như in cảm giác cả nhà náo nức khi biết tin hai người chuẩn bị làm đám cưới.
Ba người em gái của Trịnh Công Sơn lúc này đang ở Canada gồm ca sĩ Trịnh Vĩnh Trinh, chị Diệu và chị Tâm háo hức đi sắm đồ cưới cho anh trai. Họ chọn bộ vest thật đẹp cho anh, xấp vải tốt gửi về Việt Nam cho mẹ may áo dài. Còn ở nhà, người mẹ yêu quý của Trịnh Công Sơn rất vui. Bà tất bật sắm sửa, chuẩn bị lễ nghi cưới theo phong tục Việt Nam. Nhẫn cưới cũng được chuẩn bị chu đáo chỉ chờ ngày để tân lang và tân nương trao nhau.
Lúc đó, Michiko cho biết do ba mẹ của cô đã rất già không thể sang Việt Nam nên muốn nhờ ông bà đại sứ người Nhật tại Việt Nam thay thế cha mẹ, đại diện nhà gái trong ngày hai bên gặp gỡ nhau. Theo phong tục cưới của người Nhật, ông bà đại sứ phải ngồi để Trịnh Công Sơn và Michiko quỳ gối xuống lạy tạ. Trịnh Công Sơn không đồng ý điều này với lý do người mẹ sinh ra ông nhưng cả đời ông còn chưa quỳ xuống lạy bao giờ thì không lẽ nào ông lại quỳ gối trước ông bà đại sứ Nhật.
"Tôi cũng không rõ là mọi chuyện kết thúc như thế nào, vì lúc đó tôi đang ở Canada. Nhưng khi nghe tin nhà báo sang đám cưới bị hủy, mọi người đều buồn lắm. Cũng có thể còn nhiều lý do nào đó, nhưng bản tính anh Sơn và cả chị Michiko đều kín đáo, sâu sắc và tế nhị nên chuyện cũng ít được nói ra. Qua sự cảm nhận và góc nhìn của tôi, tôi nghĩ anh Sơn lúc đó rất xúc động với việc một cô gái nước ngoài lại am hiểu và yêu nhạc anh đến thế. Anh rất ấn tượng khi Michiko thuộc hàng trăm ca khúc của mình. Tôi nhớ khoảng năm 1992, tôi và anh Sơn cùng anh Nguyễn Quang Sáng được mời sang Pháp và có dự một chương trình. Đó là lần tôi được thấy Michiko - một người con gái Nhật mảnh mai, duyên dáng. Chị ôm đàn guitar và hát rất nhiều bài nhạc Trịnh một cách say sưa, đầy tình cảm khiến cho mọi người xúc động", ca sĩ Trịnh Vĩnh Trinh kể.
Cuộc tình ngoài đời của cả hai dở dang trước ngưỡng cửa hôn nhân nhưng âm nhạc mãi luôn là sợi dây gắn kết hai tâm hồn đồng điệu. Tháng 7/1991, tại Paris, Michiko Yoshii đã bảo vệ thành công luận án cao học về ảnh hưởng nhạc phản chiến của Trịnh Công Sơn trong xã hội Việt Nam thời chiến tranh. Luận án này được giám khảo của Đại học Paris VII xếp loại tối ưu. Và người con gái Nhật mảnh dẻ ấy vẫn luôn để lại ấn tượng với mọi người với hình ảnh cây đàn guitar hát những tình khúc của Trịnh Công Sơn với đôi mắt phảng phất nét buồn.
Sau ngày Trịnh Công Sơn mất, Michiko Yoshii vẫn thường về thắp hương cho ông. Còn với một người tài hoa, bản tính thâm trầm, kín đáo như Trịnh Công Sơn, ông gửi nỗi niềm của mình vào tác phẩm. Trịnh Công Sơn có sáng tác bài hát  tặng riêng cho Michiko. Nhạc phẩm này chưa từng bao giờ được công bố, hiện vẫn nằm ở tủ kính riêng của gia đình trong số những ca khúc, thơ sáng tác tiếng Pháp và tiếng Việt chưa công bố của cố nhạc sĩ.
trinh-cong-son-va-dam-cuoi-khong-thanh-voi-co-gai-nhat-1
Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn bên em gái út Trịnh Vĩnh Trinh.
Ngày 31/3, giữa phút tất bật chuẩn bị 15 năm ngày giỗ Trịnh Công Sơn, Trịnh Vĩnh Trinh dành phút lắng đọng nhớ về anh trai cả yêu kính.
Một trong những ký ức các chị em gái trong gia đình thường nhắc về Trịnh Công Sơn là tiếng cốc cốc nhẹ của ông trước cửa phòng các em lúc giữa khuya. Trịnh Công Sơn dáng người ốm yếu mảnh khảnh vì thế tiếng bước chân, tiếng cốc cửa của ông cũng rất nhẹ nhàng. Mỗi lần ông lên tiếng hỏi "Các em ngủ chưa", các cô em gái - dù lúc này đều buồn ngủ, vì thương anh vẫn tíu tít "Dạ chưa, lúc nãy vừa ngồi nói chuyện, mới tắt đèn định ngủ thôi ạ". Những lúc như thế, ông sẽ nhỏ nhẹ mời người em gái nào đó của mình xuống dưới nhà làm mẫu cho ông vẽ chân dung. Và những buổi khuya, dưới ánh đèn, chỉ có tiếng cọ sột soạt trên mặt vải, dáng người gầy gò của ông in trên giá vẽ.
"Tất cả anh em tôi đều sợ và xót xa lắm khi thấy anh mình bị cô đơn. Không biết làm gì để cho anh vui. Thường buổi trưa, bạn bè đến với anh khá đông, khi đó thì đỡ hơn. Nhưng khoảng đêm, nhất là lúc 2-3h sáng, lúc mà mọi người đang say giấc nhất, tôi đoán, có lẽ cũng là khoảng thời gian sự cô đơn xâm chiếm anh nhất. Có lần 3h sáng, anh vẫn điện thoại cho nhà văn Nguyễn Quang Sáng. Một lúc sau, anh Sáng đã đi xe máy sang nhà để cùng trò chuyện với anh. Anh Sơn là người rất tế nhị, anh không bao giờ làm phiền người khác và chỉ gọi đến bạn bè thân những khi anh cần họ nhất", Trịnh Vĩnh Trinh kể.
Thoại Hà

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét