Dân trí Trong những ngày người dân cả nước mừng kỷ niệm
125 năm ngày sinh của Bác, tại Khu di tích Nguyễn Sinh Sắc (TP. Cao
Lãnh) hàng ngày có hàng trăm người dân từ khắp nơi đến kính viếng, bày
tỏ lòng biết ơn khi Cụ Sắc đã sinh cho đất nước một vị lãnh tụ vĩ đại.
Tấm lòng người xưa…
Cụ Phó Bảng Nguyễn Sinh Sắc - thân sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh - sau khi từ quan đã về Cao Lãnh (Đồng
Tháp ngày nay) vào năm 1917. Khi Cụ Sắc đặt chân đến Cao Lãnh, được ông Trần Bá
Lê – một thương gia sẵn lòng cất cho cụ một căn nhà
ngay trong khu vườn của mình. Trong thời gian ở đây, cụ Sắc dạy học và
kê thuốc chữa bệnh cho người dân trong vùng. Tại căn nhà này, các nhà nho yêu
nước thời đó như Võ Hoành, cụ Lê Chánh Đáng, cụ Nguyễn Quang Diêu… thường xuyên
họp bàn việc nước với cụ Sắc.
Theo tài liệu ghi lại, ông Trần
Bá Lê là người tạo điều kiện và giúp cụ Sắc rất nhiều khi cụ Sắc ở Cao Lãnh.
Ông Lê từng bỏ tiền đóng ghe tàu đi HongKong, Thái Lan kinh doanh, dành tiền
đóng góp cho phong trào yêu nước thời đó.
Ở Cao Lãnh được 2 năm, cụ
Sắc rời đi các tỉnh khác
hoạt động. Đến năm 1927, tức 10 năm sau, Cụ trở lại Cao Lãnh lần thứ 2
và quyết định gắn bó với mảnh đất này đến cuối đời. Cũng thời điểm
này, lãnh đạo tổ chức Thanh niên Cách mạng Đồng Chí Hội đã bố trí Cụ Sắc
đến ở
nhà ông Lê Văn Giáo – tại làng Hòa An (nay là xã Hòa An, TP. Cao Lãnh).
Sinh thời ông Văn Giáo làm nghề
chèo ghe mướn, góa vợ, một mình nuôi con nên cuộc sống cũng khó khăn nhưng vì
cảm phục đức độ cụ Phó Bảng, gia đình ông Giáo vẫn sẵn lòng cho cụ Sắc vào nhà
ở. Từ ngày cụ Sắc về ở, nhà ông Giáo trở thành nơi hội tụ những nhà nho yêu
nước lúc bây giờ. Những lúc như vậy, ông Giáo thường ra ngoài sân đan thúng nhằm canh chừng tai mắt của bọn giặc Pháp dòm ngó.
Trong thời gian ở đây, hàng ngày
Cụ Sắc đi bộ ra tiệm thuốc Hằng An Đường ở chợ Cao Lãnh để xem mạch, kê toa trị
bệnh cho bà con ở địa phương đồng thời tuyên truyền chủ nghĩa yêu
nước cho nhân dân. Cụ Sắc ở nhà ông Giáo chỉ được 2 năm, do bệnh già, sức yếu
nên Cụ Sắc đã qua đời vào rạng sáng ngày 27/10 năm 1929, hưởng thọ 67 tuổi. Khi
Cụ Sắc mất, gia đình ông Giáo cũng như bà con Hòa An vô cùng thương tiếc.
Cảm phục trước tấm lòng
yêu nước,
thương dân của Cụ Sắc, người dân địa phương lúc bấy giờ đa phần “nghèo
rớt mồng tơi” vẫn chung tay lo an táng cụ như cho chính người thân của
mình tại miếu Trời Sanh (cạnh chùa Hòa Long hiện nay).
Anh Lê Thanh Sơn, con
trai bà
Trần Thị Ngọc Điệp (bà Điệp là cháu dâu của ông Năm Giáo) kể: “Khi có
những
đoàn khách, nhà báo đến hỏi thăm về Cụ Phó Bảng Nguyễn Sinh Sắc khi sống
ở đây,
tôi nghe mẹ tôi kể lại rằng: Sau khi cụ Phó Bảng mất, con gái cụ là cô
Thanh đã vào đây, ở lại gia đình ông cố tôi mấy ngày, tổ chức bữa cơm
thân mật mời bà con đến cảm ơn vì đã chăm sóc chu toàn cho cụ Phó Bảng”.
… truyền đến con cháu ngày nay
Sau ngày đất nước hoàn toàn giải
phóng (30/4/1975) mặc dù còn nhiều việc bề bộn khẩn cấp, nhưng để đáp ứng yêu
cầu về tình cảm của người dân đối với Cụ Phó Bảng Nguyễn Sinh Sắc và Chủ tịch
Hồ Chí Minh, Tỉnh ủy Sa Đéc (nay là Đồng Tháp) quyết định xây dựng Khu mộ Cụ
Phó Bảng, ông Nguyễn Thành Mậu – Phó Chủ tịch Ủy ban Mặt trận dân tộc Giải
phóng Tỉnh làm Trưởng Ban xây dựng; kiến trúc sư Đinh Khắc Giao người Nam Đàn
phụ trách việc thiết kế. Ngày 22/8/1975, ông Nguyễn Thế Hữu – Bí thư tỉnh ủy Sa
Đéc chủ trì lễ khởi công xây dựng khu mộ Cụ Nguyễn Sinh Sắc.
Trong suốt 17 tháng thi công, lúc
nào cũng có từ 200 – 700 người dân ở các xã Hòa An, Tịnh Thới, Tân Thuận Đông,
Mỹ Trà… các thầy cô giáo, học sinh, sinh viên, bộ đội… đến góp công xây dựng
khu mộ. Đặc biệt, còn có những cụ già đã 60, 70 tuổi vẫn đến xin góp công sức
xây dựng khu mộ Cụ Phó Bảng Nguyễn Sinh Sắc.
Trong Khu di tích, Ban quản lý di tích dành hẳn một gian nhà trưng bày về cuộc đời, đặc biệt là thời gian Cụ ở Cao Lãnh.
Sau gần 2 năm thi công đến ngày
13/02/1977, Khu mộ Cụ Phó Bảng Nguyễn Sinh Sắc được khánh
thành. Trong ngày trọng đại này, đồng chí cố Phó Chủ tịch nước Nguyễn Hữu Thọ
cùng đại diện Đảng chính quyền, nhân dân Thủ đô Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Hải
Phòng, Nghệ Tĩnh và các tỉnh Đồng bằng sông Cửu long cùng đến tham dự.
Ngày nay sau nhiều lần tôn tạo, khu phần mộ Cụ Nguyễn Sinh Sắc đã trở
thành một quần thể di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia, tọa lạc tại số
123/1, đường Phạm Hữu Lầu, thuộc phường 4, TP. Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp. Trên khuôn viên rộng 10ha; nhiều công trình vừa mang tính dân tộc,
vừa mang tính hiện đại đã được xây dựng.
Nhân ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhiều người dân ở khắp các tỉnh thành đến kính viếng mộ Cụ Phó Bảng Nguyễn Sinh Sắc
Trao đổi với PV Dân trí, bà
Đặng Thị Mai Yên – Phó Giám đốc Khu di tích Nguyễn Sinh Sắc chia sẻ: “Khu di
tích Cụ Phó Bảng Nguyễn Sinh Sắc được khang trang như ngày hôm nay là được sự
quan tâm của các đồng chí lãnh đạo Đảng từ Trung ương đến địa phương. Sự quan
tâm đặc biệt này, một mặt bày tỏ tấm lòng của Đảng và Nhà nước đối với Cụ Phó
Bảng, mặt khác cũng đáp ứng đúng nguyện vọng lòng kính trọng của nhân dân Đồng
Tháp nói riêng và nhân dân cả nước nói chung đối với cụ Nguyễn Sinh Sắc. Ngày
nay, nhân dân Đồng Tháp vẫn tiếp nối truyền thống yêu nước, tiếp tục bày tỏ
lòng kính yêu đối với Cụ Phó Bảng và Bác Hồ qua những đóng góp thiết thực. Đối
với những gia đình có mối quan hệ mật thiết với cụ Phó Bảng, bà con sẵn sàng
tặng lại các hiện vật, tư liệu liên quan đến cụ Sắc… Đặc biệt trong thời gian
tôn tạo Khu di tích, nhiều cá nhân, đơn vị, gia đình hiến tặng nhiều cây kiểng quý.
Những ngày lễ lớn, lượng học sinh, sinh viên đến viếng mộ Cụ Phó Bảng rất đông.
Cũng theo bà Mai Yên cho biết, nhân dịp kỷ niệm 125 năm ngày sinh Chủ
tịch Hồ Chí Minh, từ ngày 16 – 19/5, Khu di tích mở cửa từ 7 giờ sáng đến 22
giờ đêm phục vụ khách tham quan và viếng mộ cụ Phó Bảng Nguyễn Sinh Sắc. Ngoài
ra, hàng ngày tại Khu di tích còn có các hoạt động vui chơi giải trí như: đấu
võ thuật, tổ chức khu ẩm thực tại Làng Hòa An xưa (phục dựng trong khu di
tích), chương trình biểu diễn văn nghệ chào mừng sinh nhật Bác... Theo ghi nhận
của Ban quản lý di tích, từ ngày 16/5 đến nay, lượng khách đến viếng mộ Cụ Phó
Bảng Nguyễn Sinh Sắc tăng khoảng 30%, trong đó có nhiều đoàn khách từ Hà Nội,
Hà Tĩnh, Nghệ An, TP. Hồ Chí Minh nhưng chiếm đa số là người dân địa phương và
học sinh, sinh viên đang theo học tại Đồng Tháp đến viếng mộ Cụ Phó Bảng.
Nguyễn Hành
Tóm tắt tiểu sử sự nghiệp của Cụ phó bảng Nguyễn Sinh Sắc
Đăng lúc:
19:35:24 15/03/2016
Nguyễn
Sinh Sắc sinh năm Nhâm Tuất (1862) tại làng Kim Liên, huyện Nam Đàn tỉnh
Nghệ An. Cha là Nguyễn Sinh Nhậm, mẹ là Hà Thị Hy. Lên ba tuổi mồ côi
cha, bốn tuổi mẹ qua đời, phải về ở với người anh cùng cha khác mẹ là
Nguyễn Sinh Trợ.
Năm 16 tuổi, cậu được nhà nho
Hoàng Xuân Đường ở làng Hoàng Trù (làng Chùa) nhận về nuôi dạy, với bản
tính hiếu học, thông minh nên cậu trở thành học trò giỏi có tiếng trong
vùng. Đến năm 22 tuổi (1883), cậu được nhà nho Hoàng Xuân Đường gả cô
con gái lớn là Hoàng Thị Loan. Lần lượt hạ sinh bốn người con: Nguyễn
Thị Thanh, Nguyễn Sinh Khiêm, Nguyễn Sinh Cung (Hồ Chí Minh) và Nguyễn
Sinh Xin (mất lúc nhỏ).
Năm Giáp Ngọ (1894), Cụ đỗ Cử
nhân, năm Tân Sửu (1901), cụ đỗ Phó bảng và năm 1906 nhậm chức “ Thừa
Biện Bộ Lễ” và sau đó là Tri phủ lĩnh nhiệm Tri huyện Bình Khê (Bình
Định).
Trong thời gian làm quan Cụ
tìm gặp và kết thâm giao với các nhà nho yêu nước như: Phan Bội Châu,
Phan Châu Trinh, Vương Thúc Quý, Trương Gia Mô….Cụ luôn đứng về phía dân
nghèo, trừng trị bọn cường hào ác bá. Vì vậy, từ vụ án một tên cường
hào bị Cụ bắt giam, sau đó thả về không lâu thì chết. Cụ Sắc bị Triều
đình giáng cấp dưới hình thức “cải bổ kinh chức” (tức là đổi về làm quan
tại kinh đô)
Từ quan, Cụ đi vào các tỉnh
phía Nam. Nam bộ là vùng đất mới phóng khoáng “Trọng nghĩa khinh tài”
nên Cụ đi rất nhiều nơi, tiếp xúc với nhiều thành phần ở những nơi Cụ
đến: Bình Thuận, Sài Gòn, Thủ Dầu Một, Tiền Giang, Bến Tre, An Giang,
Đồng Tháp…và sang tận Campuchia để truyền bá tư tưởng yêu nước thương
dân.
Năm 1917 và nhiều năm sau, Cụ
thường lui tới hoạt động ở làng Hòa An, Cao Lãnh tiếp tục truyền bá chủ
nghĩa yêu nước trong nhân dân. Cụ mất vào ngày 27 tháng 10 năm Kỷ Tỵ
nhằm ngày 27 tháng 11 năm 1929 dương lịch, hưởng thọ 67 tuổi tại làng
Hòa An, Cao Lãnh, Đồng Tháp.
Cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc là
nhà khoa bảng vào đầu thế kỷ XX lúc mà xã hội Việt Nam đang trăn trở
chuyển mình tìm phương hướng giải phóng dân tộc khỏi ách áp bức của chủ
nghĩa thực dân, thì Cụ là “một nhà nho yêu nước theo kiểu riêng, chống
Pháp không công khai mà lặng lẽ” như lời nhận định của thực dân Pháp.
Nhân cách và những phẩm chất
cao quí đó có ảnh hưởng trực tiếp đến các con của Cụ, đặc biệt là Nguyễn
Sinh Cung. Trong sự nghiệp hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã sử dụng nhiều danh xưng từ Nguyễn Sinh Cung đến Nguyễn Tất Thành rồi
Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh, tư tưởng yêu nước thương dân của Cụ đã
được nâng lên đỉnh cao trở thành tư tưởng tiến bộ của chủ nghĩa yêu nước
đấu tranh giải phóng dân tộc các nước thuộc địa bị áp bức trên toàn thế
giới.
Dấu tích cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc trong ngôi chùa cổ
22:05 17/11/2015
Cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, thân sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh
kính yêu từng đi đến nhiều nơi để tổ chức hoạt động cứu nước. Những hoạt
động yêu nước của cụ đã bị mật thám của thực dân Pháp theo dõi gắt gao.
Trong những tài liệu mật của mật thám Pháp ghi lại những chuyến theo
dõi ấy, chúng xếp cụ và những hành động của cụ là "nguy hiểm".
Điều kỳ lạ là dấu tích của những tài liệu đó đang được lưu giữ trong
một ngôi chùa cổ ở tỉnh Bình Dương. Ngôi chùa này cũng là nơi cụ Phó
bảng Nguyễn Sinh Sắc từng tới hoạt động, gây dựng phong trào yêu nước.
Đó là chùa Hội Khánh ở thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương. Đây là
ngôi chùa cổ hơn 300 năm tuổi. Hòa thượng Thích Huệ Thông, trụ trì chùa
Hội Khánh, cho biết: Chùa này do Đại Ngạn thiền sư xây dựng năm 1741.
Chùa Hội Khánh có kiến trúc kiểu Nam Bộ trùng thềm trùng lươn - tức là
nối sát nhau liên tục. Cấu trúc chùa gồm: tiền điện, chính điện, hậu tổ,
giảng đường, đông lan, tây lan. Cổng chùa được đắp những hình nổi làm
bằng sành sứ màu, sau này chùa còn được xây thêm tháp đựng kinh sách.
Tháp khá cao và nhìn như một Tàng kinh các theo kiến trúc chùa cổ như
kiểu Thiếu Lâm tự.
Trong khuôn viên của chùa Hội Khánh có tượng Phật nằm và các đệ tử
quỳ bên cạnh. Tượng làm bằng đá trắng cẩm thạch rất đẹp. Trong khuôn
viên chùa còn có một nhóm tượng mô tả lại cảnh Thái tử Tất Đạt Đa thành
Phật. Chùa Hội Khánh được Bộ Văn hóa - Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể
thao và Du lịch) xếp hạng Di tích Lịch sử văn hóa năm 1993.
Đặc biệt, do cảnh quan nơi đây rất đẹp, nhiều đoàn phim đã chọn chùa
cho những cảnh quay liên quan đến Phật giáo. Hiện ở sân chùa còn nhiều
ghế đá do các nghệ sĩ từ TP HCM dâng tặng, để mọi người đến vãn cảnh
chùa có chỗ nghỉ ngơi, trò chuyện. Tăng - Chúng một lòng cứu nước
Theo những tư liệu - di tích lịch sử tại Bảo tàng tỉnh Bình Dương và
nghiên cứu của Hòa thượng Thích Huệ Thông, khoảng cuối năm 1923, do bị
mật thám Pháp theo dõi, cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc từ Thủ Đức, Sài Gòn
cũ, nay là quận Thủ Đức, TP HCM đi đến nhà của Gaston và Lê Đức ở tỉnh
Thủ Dầu Một - nay là thành phố Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương.
Ngai thờ cụ Nguyễn Sinh Sắc và Bác Hồ trong chùa Hội Khánh.
Sau đó cụ Nguyễn Sinh Sắc đến chùa Hội Khánh để gặp người đồng chí
của mình là Phan Đình Viện tức cụ Tú Cúc. Cụ Phan Đình Viện quê Hà Tĩnh,
tham gia phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục nên bị Pháp truy lùng, phải
trốn vào Nam và ở chùa Hội Khánh từ năm 1922.
Cụ Nguyễn Sinh Sắc hội ngộ với cụ Tú Cúc và Hòa thượng Từ Văn, vị trụ
trì thứ 6 chùa Hội Khánh, một nhà sư uyên thâm Phật học và có tinh thần
yêu nước.
Cùng chung lý tưởng bảo vệ quê hương Tổ quốc, họ đã cùng nhau khởi
xướng nhiều hoạt động cứu nước tại chùa Hội Khánh này. Từ cuộc gặp gỡ
đó, họ đã quy tụ được những nhà yêu nước tại địa phương như: ông Khôi,
ông Nhẫn, thầy Ký Cội, Giáo Thọ Qưới, thầy Từ Tâm v.v...
Ngoài chùa Hội Khánh, trước đây theo bước chân lưu lạc của mình, cụ
Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc từng xây dựng những tổ chức yêu nước cứu quốc ở
các nơi mà cụ từng sinh sống, như: ở chợ Gạo, Vĩnh Kim, Sớm Dầu (Tiền
Giang), chùa Hòa Khánh, chùa Giồng Thành và nhiều nơi khác.
Do ảnh hưởng uy tín của Hòa thượng Từ Văn khá lớn ở trong vùng nên họ
quyết định thành lập Hội Danh dự yêu nước tại chùa Hội Khánh. Mục đích
Hội là thông qua các buổi thuyết giảng giáo lý chấn hưng Phật giáo, các
lớp dạy chữ Nho, dạy bốc thuốc… để truyền bá tư tưởng yêu nước.
Trong thời gian ở tại chùa Hội Khánh, cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc còn
đi đến các vùng lân cận như Tân Khánh, Tương Bình Hiệp để truyền bá
Hội Danh dự yêu nước, đàm đạo về Y thuật, Phật học… Những hoạt động yêu
nước, tấm lòng nhân hậu, thương người của cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc đã
để lại những ấn tượng tốt đẹp trong lòng người dân nơi đây.
Chùa Hội Khánh.
Để hoạt động truyền bá tư tưởng yêu nước được hiệu quả và che mắt mật
thám Pháp, cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc đã mượn những buổi thuyết pháp
về đạo Phật để nói về lòng yêu nước và khuấy động phong trào cứu nước.
Cụ cũng là người nghiên cứu về Phật giáo rất kỹ.
Thời gian hoạt động của Hội Danh dự yêu nước không bao lâu thì bị
thực dân Pháp phát hiện. Cụ Phó bảng phải rời chùa Hội Khánh về khu vực
miền Tây tiếp tục hoạt động. Nơi cụ đến ở đầu tiên là khu vực tỉnh Tiền
Giang, sau chuyển xuống làng Hòa An, sống tại chùa Hòa Long, tỉnh Sa Đéc
(nay thuộc thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp). Tại đây, cụ Phó bảng
lại thành lập, khởi xướng phong trào yêu nước trong dân chúng và bị mật
thám Pháp theo dõi đến cuối đời… Tại chùa Hội Khánh và khu di tích lăng
mộ cụ ở thành phố Cao Lãnh còn để lại những công văn mật của Sở Mật thám
Pháp ra lệnh theo dõi cụ. Ngày 26-10 năm Kỷ Tỵ (tức ngày 26/11/1929) cụ
Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc mất tại chùa Hòa Long, thọ 67 tuổi. Những di vật lịch sử
Hiện nay, ở chùa Hội Khánh còn lưu giữ nhiều di vật liên quan tới
quãng đời hoạt động của cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc. Trong điện thờ cụ
Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc và Bác Hồ còn giữ đôi câu đối do cụ viết. Nội
dung đôi câu đối như sau:
"Đại đạo quảng khai, thố giác khêu đàm để nguyệt/ Thiền môn giáo dưỡng, quy mao, thằn thụ đầu phong"
Nghĩa là: “Mở rộng đạo lớn như sừng thỏ, như mò trăng đáy nước/ Nuôi dưỡng mái chùa như lông rùa, như cột gió đầu cây”.
Ngoài ra, cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc còn để lại cuốn sổ coi địa lý
và chiếc la bàn, hiện được trưng bày ở Bảo tàng tỉnh Bình Dương. Trong
chùa Hội Khánh còn bức tranh vẽ Hòa thượng Từ Văn cùng đàm đạo với cụ
Phó bảng và vị phụ tá cho hòa thượng. Bên cạnh đó còn tấm bảng ghi câu
văn, chụp hình ảnh liên quan đến cuộc đời cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc
như: bản đồ vẽ sơ đồ những nơi cụ từng ghé thăm và hoạt động cứu nước,
hình ảnh cuốn sách coi địa lý, hình ảnh la bàn.
Trên tấm bảng có ghi câu nói nổi tiếng của cụ: "Quan trường nô lệ
trung chi nô lệ hựu nô lệ". Nghĩa là: “Quan trường là nô lệ trong đám nô
lệ lại càng nô lệ hơn”.
Tấm bảng còn chụp lại bản nhân dạng của cụ Phó bảng lúc ấy, hình ảnh
các tài liệu của mật thám Pháp yêu cầu theo dõi cụ. Những tài liệu này
được viết bằng tiếng Pháp, được dịch sang tiếng Việt. Từ những công văn
yêu cầu theo dõi đó cho thấy thái độ của chính quyền Pháp thời đó đối
với nhân vật Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc như thế nào. Thực dân Pháp đánh
giá những hoạt động của cụ là "nguy hiểm, cần phải theo dõi".
Ngoài ra, những tài liệu đó còn cung cấp thêm cho chúng ta nhiều
thông tin về cuộc đời và hoạt động yêu nước của cụ. Chẳng hạn tài liệu
hồ sơ A37801I do Phủ Toàn quyền Đông Dương - Phủ Mật thám Trung ương ký
ngày 21, tháng giêng, năm 1920, ghi: "Họ và tên: Nguyễn Sanh Huy, biệt
danh còn gọi là Nguyễn Xuân Sắc, Nguyễn Sinh Huy, Nguyễn Phan Diêu. Nòi
giống (quốc tịch): Người An Nam ở Bắc Trung kỳ. Tuổi: sinh năm 1862.
Nghề nghiệp hay chức vụ: (bỏ trống). Chức tước hay cấp tước: Phó bảng,
cựu tri huyện ở Trung Kỳ bị cách chức…".
Công văn mật số 280s do Cảnh sát Đông Dương Nam Kỳ, Sở Mật thám, do
Chánh mật thám (không đọc được tên) ký tại Sài Gòn, ngày 28, tháng
giêng, năm 1928, ghi lại: "Trong tháng 11 vừa rồi. Nguyễn Sanh Huy tức
Nguyễn Xuân Sắc cùng con gái tên là Nguyễn Thị Thanh đi theo đã qua đêm
tại nhà tên Vũ Hoành ở Sa Đéc. Sau đó ông đến chùa Hòa Long, chùa này
còn có tên là "Miểu trời sanh" ở làng Hòa An. Sau khi trú tại chùa này
một tháng, ông ta đến nhà Hương chủ Sành làng Hòa An và ở lại nhà nầy
khoảng 15 hôm. Sau đó ông ta đi Sài Gòn và có thể từ nơi này đi ra Bắc
Kỳ…".
Công văn trên gửi cho Thống đốc Nam Kỳ, Chánh Sở Cảnh sát và Tổng Mật
vụ Hà Nội, quan cai trị: chủ tỉnh Sa Đéc (nay là tỉnh Đồng Tháp - NV),
Chánh Sở Mật thám Trung Kỳ Huế, Ủy viên đặc nhiệm khu 1 Sài Gòn. Nguồn
cung cấp công văn là Chỉ huy trưởng Đội cơ động Vĩnh Long.
Cuối công văn trên, viên Chánh mật thám yêu cầu: "Tôi yêu cầu ông ủy
viên đặc nhiệm khu ủy trưởng khu 1 điều tra xem Nguyễn Sanh Huy đã trở
về Sài Gòn chưa và ông ta có thực hiện ra Bắc Kỳ không?".
Bấy nhiêu di vật, không đủ nói hết về cuộc đời và sự cống hiến thầm
lặng mà lớn lao của cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc. Nhưng trong một ngôi
chùa cổ tĩnh mịch, tôi đã chứng nghiệm được lòng yêu nước của những bậc
tiền nhân đáng kính. Để từ đó, chúng tôi hiểu rằng: Lòng yêu nước của
người Việt nơi nào và thời nào cũng có. Và đó là sức mạnh to lớn, trường
tồn của dân tộc này. Phạm Huy Văn
Chuyện ở sân sau: Về ông nội và người cha của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Chuyện ở sân sau: Về ông nội và người cha của Chủ tịch Hồ Chí Minh
23.8.2007
Trường Lam
Năm
1993, trong tập Trong cõi [1] xuất bản tại Hoa Kì, Giáo sư Trần Quốc
Vượng (1934-2005), một trong những sử gia nổi tiếng nhất tại Việt Nam,
đã công bố ghi chép của mình từ "Lời truyền miệng dân gian về nỗi bất
hạnh của một số nhà trí thức Nho gia!", trong đó phần liên quan đến
dòng dõi của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gây nhiều dư luận. Theo đó, tiểu sử
của Chủ tịch Hồ Chí Minh có thêm một phần không được nhắc đến trong sử
sách chính thống: Thân sinh ra Chủ tịch Hồ Chí Minh vốn là con đẻ
nhưng không được thừa nhận của ông cử Hồ Sĩ Tạo, thuộc dòng họ Hồ ở
Quỳnh Lưu, Nam Đàn, Nghệ An. Hồ Chủ tịch, nổi tiếng với tên gọi Nguyễn
Ái Quốc trong thời kì hoạt động tại nước ngoài, tên khai sinh là Nguyễn
Sinh Cung [2] , tự là Nguyễn Tất Thành, song từ năm 1945 cho đến khi
qua đời năm 1969 lại được người Việt Nam và toàn thế giới biết đến với
tên là Hồ Chí Minh.
Mới đây, một nhà thơ xứ Nghệ đã nhiệt tình
dẫn một cộng tác viên talawas từ Vinh về vùng sơn cước, đến xóm Nghĩa
Thái, xã Nam Nghĩa, huyện Nam Đàn để tìm gặp ông Hồ Sĩ Sênh (bút hiệu
Trường Lam, hội viên Hội Văn nghệ Nghệ An), một người cháu mà theo gia
phả họ Hồ, gọi cụ Hồ bằng bác. Khi nghe khách bày tỏ nguyện vọng, ông
đến tủ sách, lục đưa cho khách xem bản phô-tô bài bút ký viết tay của
ông, nhan đề “Chuyện ở sân sau”, kể về sự thật cuộc đời của ông Hồ Sĩ
Tạo, ông Nguyễn Sinh Sắc và hậu duệ. Bài ký này được viết ở Trại viết
văn của Hội Văn nghệ Nghệ An đầu năm 2007. Ông Trường Lam cho biết,
trong buổi tổng kết trại viết, người ta đã đánh giá rất tốt bài ký này,
đã đọc bài ký cho các trại viên nghe. Nhưng là chuyện “huý kỵ”, nên
không có báo nào trong nước dám in. Ông Trường Lam đã đồng ý cho chúng
tôi công bố nguyên văn bài ký trên talawas. Chúng tôi chân thành cảm ơn
ông Trường Lam và hân hạnh giới thiệu cùng độc giả.
Talawas
Mọi
điều tưởng như đã vĩnh viễn chìm vào bóng đêm của quá khứ mông lung,
huyền ảo, có hồn ma bóng quỷ, có những hình nhân vật vờ, thấp thoáng,
bỗng rơi vào quên lãng, lặng im…
Người ta thở dài, tiếc những sự
thật, hoặc giả là những lời đồn đại không thể xác minh, sẽ mãi mãi chôn
vùi… Đột nhiên, một ngọn đèn le lói thắp lên, xua đi bao điều huyễn
hoặc, mơ hồ.
Đầu tháng Bảy nhuận (Bính Tuất), quê tôi trời bỗng ào
ạt tuôn mưa. Những tưởng mùa thu này rồi vẫn vời vợi cao xanh, nắng
đẹp cứ dịu dàng trôi, ai ngờ lại có tuần mưa gió sụt sùi! Giữa ngày mưa
như vậy, tôi nhận được tin: Có một vị sư đạo cao đức trọng từ miền Nam
ra, đã tìm đến và thắp hương viếng mộ cụ Cố chúng tôi, một Giải nguyên
xứ Nghệ. Cụ là người đầu tiên giành được thứ hạng này ở tổng Võ Liệt
(Thanh Chương). Thật là may, ngôi mộ mới được xây lại cách đây chưa
lâu. Ông bác của chúng tôi, nguyên Giám đốc Học viện An ninh Khu vực
II, sau khi nghỉ hưu đã tìm về lo lắng, sửa sang. (Bác là Hồ Nhã
Chương, khi làng quê không tồn tại [3] đã đổi tên là Hồ Thanh Chương,
cháu nội cụ Hồ Sĩ Tạo, bắt đầu từ bà thứ tư ở Quảng Trạch, Quảng Bình,
hiện trú tại 257A, đường Nguyễn Trãi, phường Cư Trinh, TP Hồ Chí Minh).
Vị
sư đó là Thượng toạ Thích Chân Quang, sư trụ trì chùa Phật Quang, tỉnh
Bà Rịa-Vũng Tàu. Ông xưng danh là Hồ Chí Việt, chắt nội của cụ Giải
nguyên, một đứa con lạc loài, nay tìm về với tổ tông. Đội mưa gió, theo
sau xe Thượng toạ là bảy xe chở Phật tử, trong đó có hai xe ca… Chuyện
đó thật không ngờ!
Mãi sau ít lâu tôi mới được biết Thượng toạ
cũng đã về thăm nhà bia tưởng niệm Đức nguyên tổ Hồ Hưng Dật tại Quỳnh
Lâm, thăm nhà thơ họ Hồ tại Quỳnh Đôi (Quỳnh Lưu). Ghi vào sổ vàng lưu
niệm của dòng họ, Thượng toạ đã nói rõ mình là: “đứa con lạc loài” nay
mới tìm về với gia tộc… Ngoài ra Thượng toạ còn thắp hương viếng mộ cụ
Hà Thị Hy và bà Hoàng Thị Loan…
Những điều đột ngột diễn ra khiến
tôi không khỏi suy nghĩ về những mối quan hệ huyết thống, dòng tộc đang
bền bỉ, âm thầm bén rễ sâu trong tiềm thức con người. Và những kỷ niêm
tuổi ấu thơ đã xa lắc xa lơ, đang chìm dần vào bóng tối bỗng nhiên
chậm chạp hiện về, hệt như những cuốn phim quay chậm, có quãng mơ hồ,
quãng lại hiện rõ như in.
*
Làng Lai Nhã quê tôi nay đã
không còn tên trên bản đồ hành chính. Nó bị xoá sổ từ năm 1978 khi
người ta tiến hành cuộc cách mệnh “thay trời đổi đất, xếp đặt lại giang
sơn”. Ngót ba mươi năm trôi qua bóng dáng làng xưa đâu có dấu ấn gì
với thế hệ con cháu bây giờ! Nhưng đối với chúng tôi, những ông già cổ
hủ, đêm nó vẫn hiện về trong mơ. Và riêng tôi: một làng Lai Nhã cổ
truyền tươi xanh, vẫn nguyên lành bóng dáng êm đềm, hiện hữu đời đời…
Từ
nửa cuối Hậu Lê, một nhánh họ Hồ Quỳnh Lưu lập làng ở vùng Cương Gián
(Nghi Xuân) cảm thấy thiên nhiên quá khốc liệt, đe doạ cuộc sống, phải
bỏ đất tìm nơi khác định cư. Một gia đình họ Hồ như vậy theo ông Đậu
Quận Công đến vùng Lòi Nhã, xã Thất Thôn dựng nhà sửa cửa, khai phá đất
đai, lập thành một trong bảy thôn của Đậu Quận Công (vùng đất ngày
trước đã có người thiểu số sinh sống. Bà nội tôi gọi họ là người Mường.
Những địa danh còn lại như Bến Mường, Động Mường… nói lên điều đó. Khi
người Kinh tiến vào, họ lập tức rút lui đi.)
Thế hệ sau, họ có
con cháu là cụ Hồ Yên Định, làm quan đến hàm tứ phẩm (không qua thi cử)
mới đổi thôn thành Lai Nhã, xã Thất Thôn thành Thái Nhã. Con cháu li
tổ phải lấy chữ Nhã đệm vào để luôn nhắc nhớ tới quê hương. Khi vua
Quang Trung ra Bắc diệt quân Thanh, họ có cụ Hồ Hữu Tiềm đầu quân giết
giặc và hi sinh tại Thăng Long (mùng 5 tháng Giêng âm lịch là ngày
giỗ). Nhà thờ họ Hồ được cất lên thời đó. Khi giác móng và lấy hướng,
ông thầy địa lý người Tàu phán rằng: “Thuỷ đáo từ đường. Hồ gia vi
vương”. Ông ta bảo đây là thế đất “Phượng Hoàng ẩm thuỷ”. Thời bấy giờ
sông Rộ còn ngoằn nghèo chảy bên phía núi xa, cách nhà thờ chừng non cây
số. Biết khi nào nước sông chảy đến cho chim Phượng Hoàng uống?
Trước
Cách mạng tháng Tám, họ Hồ Lai Nhã cũng mới chỉ vài chục gia đình
nhưng đã có bốn cử nhân và khá nhiều tú tài. Có người khá nổi tiếng như
cụ Giải nguyên Hồ Sĩ Tạo.
Làng Lai Nhã với con sông Rộ chảy vòng
ôm lấy những vườn cây quả mướt xanh như một nét chấm phá thật thơ mộng
và dịu dàng. Tôi có ông chú, con cô của bố tôi, làm chủ nhiệm Khoa Sinh
vật, kiêm Bí thư Đảng uỷ Trường Cao đẳng Sư phạm Hà Nội (chú là Phạm
Đức Dục, quê xã Thanh Long, Thanh Chương, cháu ngoại cụ Cử Hồ Sĩ Hạp,
gọi Thị lang Phạm Hoàn là bác). Chú bị bệnh tâm thần phân liệt, vợ con
nhốt vào một xó… Vậy mà khi tôi tới thăm, ông vẫn còn ước ao được về
làng Lai Nhã để đi câu cá. Ông kể chuyện cụ Phủ Tạo và ông ngoại là cử
nhân Hồ Sĩ Hạp, nhưng lẫn lộn lung tung… (Về làng Lai Nhã, nguyên Thứ
trưởng Bộ Giáo dục Nguyễn Hữu Dụng, cháu ngoại cụ Cử Hồ Sĩ Huấn cũng có
ấn tượng rất đẹp.)
Làng tôi có những khu vườn um tùm, rập rạp
với vòng ngoài chen đặc song mây, tre nứa và cây cọ cùng những cái tên
đặc trưng như: Vườn Cụ Phủ, Cụ Huyện, Cụ Cử, ông Tú, ông đồ… đầy cây ăn
quả và bốn mừa líu ríu tiếng chim. Cụ Tạo về hưu đã trồng bốn cây đa
ngoài cổng đoài của làng. Có hai cây sau này thành tam quan nhờ một rễ
phụ căng ngang, nom rất kỳ thú. Đây là nơi ông Tạo mắc võng nằm vào
những trưa hè.
Sau này tôi mới biết, nhờ những khu vườn này mà các
bậc cha chú có tiền trọ học thành tài, bởi ruộng đất ở đây rất xấu,
chưa nắng đã khô, chưa mưa đã lụt, có thu hoạch được là bao!
Ôi,
những khu vườn trong mơ và làng xưa cũng chỉ còn lại trong mơ, nơi đã
bay bỗng tuổi thơ tôi, nơi chúng tôi tha hồ quậy phá: trèo bắt tổ chim,
tìm hái những chùm quả chín và cắp sách tới trường…
Khoảng mấy
năm đầu thập kỷ 40 của thế kỷ trước, nước sông Rộ vòng về, xói lở một
góc vườn nhà thờ và nhà thờ họ Hồ Lai Nhã thấp thoáng soi bóng xuống
mặt nước sông trong. Chim Phượng Hoàng ơi! Hãy uống nước đi…
*
Cụ
Hồ Sĩ Tạo tự Tiểu Khê, sinh năm 1834 (Tổng tập Văn học Việt Nam tập 19
nói cụ Tạo sinh năm 1831. Cụ Cao Xuân Dục, học trò ông Tạo, trong sách
Nghệ An khoa bảng nói ông Tạo sinh năm 1841. Chúng tôi theo người già
trong họ nói ông Tạo thọ 73 tuổi và bà Hồ Thị Từ, con út ông Tạo nói bà
ra đời lúc cha đã 70 tuổi, lên 3 thì cha mất…, mà suy ra), mất năm
1907, là người tài hoa nổi tiếng cả vùng. Theo gia phả nói thì cụ thuộc
phe chủ chiến, chủ trương đánh Pháp tới cùng, nên bị vua Tự Đức đánh
hỏng (?).
Trong cuộc đời làm quan, dạy học, giao du với bạn bè
khắp vùng, ông Tạo đã có quan hệ gắn bó với năm người phụ nữ. Theo các
cụ trong họ (trong đó có cụ Hồ Sĩ Huề) từng kể với cháu con thì:
Người
phụ nữ thứ nhất chính là người vợ cả của cụ được gia đình cưới cho
ngày còn trẻ. Bà người họ Phan ở xã Xuân Trường (Thanh Chương) và đã
cho ông Tạo hai người con trai trưởng thành.
Người phụ nữ thứ hai là bà Hà Thị Hy, còn gọi là cô Đèn, quê ở làng Sài, Nam Đàn. Ông Tạo nổi
tiếng
khẩu khí, đam mê hát phường vải, ứng đối nhanh và giỏi. Bà Hy là người
hát hay, giọng tốt và rất đỗi xinh đẹp. Tài tử gặp giai nhân cũng ví
như cá gặp nước, rồng gặp mây. Khi họ quen biết nhau, tuy ông Tạo ít
tuổi hơn nhưng đã có vợ và đang dạy học trong nhà họ Hà. Vì quá tài hoa
nên mãi năm cô Đèn ba mươi vẫn chưa có đám nào lọt vào mắt xanh… Trai
làng không với tới nên họ phong toả, hình thành thế bao vây, không cho
con trai nơi khác đến. (Theo bác Hồ Thanh Chương, ông Tạo yêu cô Đèn
trước khi có vợ. Bà Hy có thai, ông Tạo về xin cha mẹ được cưới, nhưng
gia đình không đồng ý vì đã dạm hỏi đám khác. Cụ Hà Văn Cẩn đành ngậm
ngùi gả bà Hy cho ông Nhậm, một ông già lụ khụ.)
Vậy là cái gì
phải tới đã tới. Cô Đèn mang thai và ông Nguyễn Sinh Nhậm mồ côi vợ,
cheo cô về làm mọn. Năm 1863, bà Hy sinh con trai. Cậu con ông Hồ Sĩ
Tạo mang họ Nguyễn Sinh được ông Nhậm đặt tên là Sắc. Nguyễn Sinh Sắc
lên 3 tuổi thì ông Nhậm chết. Bà Hy vốn bị người nhà họ Nguyễn Sinh coi
là dân “xướng ca vô loài”, nên họ buộc hai mẹ con phải ra sống trong
một căn lều ngoài đồng khoai, cạnh làng. Chỉ hơn một năm sau, bà Hy
cũng bỏ cậu Sắc mà ra đi. Bà chết trong khổ cực âm thầm và trong sự hắt
hủi của gia đình nhà chồng! Con trai làng Sài hối hận, thương người
con gái mệnh bạc, đã kéo sang làng Sen làm lễ chôn cất. Chính ông Tạo
là người đọc điếu văn.
Cậu Sắc đành phải về dựa vào anh cả để
khỏi chết đói. Và dần dà, lên thêm một tí cũng được anh cả cho một buổi
chăn trâu, một cuổi cắp sách tới trường. Việc cậu Sắc được đi học cũng
nhờ phần lớn ở thầy Tú Vương. Thầy xin anh Thuyết cho Sắc đến lớp mà
không phải chịu khoản phí nào. Thầy Vương đã xem tướng tay, xem chữ
viết và tấm tắc khen là con nhà nòi: “Nòi xướng ca và nòi nhả ngọc phun
châu cô Đèn thầy Tạo… Con hãy cố lên, tài hoa lắm, thầy sẽ giúp…”
Rồi
một hôm ông họ Hoàng bên làng Chùa sang làng Sen thăm thầy Tú Vương.
Học trò được ra chơi. Đôi bạn trò chuyện với nhau rất lâu. Ngoài chuyện
thơ phú, văn chương, thi cử… còn có chuyện cậu bé Sắc. Họ bàn với nhau
những gì không rõ. Chỉ biết rằng ít lâu sau, ông Tú Hoàng Đường đến
nhà Nguyễn Sinh Thuyết xin được nhận chăm nuôi cậu bé Sắc. Vợ chồng
Thuyết mừng rơn. Thuyết còn chút tình người, song vợ Thyết từ lâu hậm
hực, căm ghét, sợ phải chia gia tài, phải nuôi tốn kém… nên đã đồng ý
liền, coi như trút được hết gánh nặng tội nợ… Ông Hoàng Đường vội mang
cậu bé Sắc về ngay.
Ngày xưa, người hiểu biết cũng thường quan tâm
tới nòi giống. Ngày nay lại nói tới nguồn gien và tin theo thuyết di
truyền. Nguồn gien quý thường được nuôi dưỡng, giữ gìn. Thấy lúa tốt
phải hỏi giống gì, thấy con tốt phải xem cha mẹ chúng…
Từ ngày
ông Tú Hoàng Đường mang Sắc về, ông trở thành cha nuôi và là thầy giáo
của cậu bé. Năm Sắc mười tám tuổi, cậu được ông Đường gả con gái đầu
lòng của mình là bà Hoàng Thị Loan, mươì ba tuổi, cho. Ba năm sau bà
Loan sinh cô Thanh, bốn năm tiếp sinh cậu Khơm (Khiêm) và vài năm sau
nữa lại sinh cậu Côông (Công)…
Người phụ nữ thứ ba (của ông Hồ Sĩ
Tạo) là bà vợ kế ở quê nhà. Khi bà cả qua đời, gia đình không người
chăm lo, ông Tạo đã cưới người vợ thứ. Bà sinh hạ cho ông một con trai
rất thông minh, học giỏi, nhưng chỉ đi thi hộ người khác lấy tiền cờ
bạc rượu chè, không màng tới tiến thân.
Người phụ nữ thứ tư là cô
gái quê ở Quảng Trạch, Quảng Bình. Ông nói dối là ông không còn vợ để
được cưới bà. Bà con nhà gia thế, nên về sau, khi chuyện vở lỡ, gia
đình đã kiện quan về chuyện này. Bà sinh hạ được hai người con trai.
Thời gian sau đó, ông Tạo cáo quan về nhà dạy học.
Người phụ nữ
thứ năm là một cô gái nghèo ở thôn Nam Lĩnh, cùng xã, nơi ông Tạo dạy
học những ngày cuối đời. Hàng ngày cô vẫn thường đi bán chổi đong gạo.
Khi có một con gái với ông Tạo, người ta gọi là cô Chổi. Lúc này ông
Tạo đã bảy mươi tuổi. Ba năm sau, ông Tạo qua đời. Nhà cũng chẳng có
gì, con trai cờ bạc, rượu chè phá phách hết, ông chỉ để lại cho con gái
một chiếc áo bông cũ, đắp lấy hơi cha!
Người con gái út này của
ông Tạo là bà Hồ Thị Từ (tên khai sanh là Thuyến). Hoà bình lần thứ
nhất, bà vẫn sống khoẻ mạnh. Bà lấy chồng họ Tôn. Ông là bác ruột của
giáo sư Tôn Tích Thạch. Và vì không có con trai nên đã coi Thạch là
con, cho tới 1955, Thạch qua Liên Xô du học. Hơn 7 năm sau trở về thì
ông bà đã qua đời. Ông Tôn Quang Phiệt cũng họ này.
Tôi còn nhớ
như in mỗi lần bà về quê là đi khắp bà con xóm làng, ăn trầu luôn miệng
và nói cười ha hả, rất vui. Bà kể biết bao nhiêu là chuyện, trong đó
có chuyện cái huyệt mộ ông Tạo được cải táng. Ông Tạo bị cảm bệnh tại
thôn Nam Lĩnh trong xã, con cháu đưa về nhà thì ông qua đời. Ông chết
trong lặng lẽ, giữa ngày thời tiết không thuận nên chỉ có xóm giềng
biết với nhau. Chỉ khi cải táng (1911) học trò mới làm lễ lớn. Cái
huyệt mộ cải táng là do ông Tạo chọn cho mình ngày còn dạy học ở quê
vợ, xã Xuân Trường.
Theo bà Từ: Mộ được táng dưới một khối đá
ngầm, phải đào hố sâu bên cạnh, khoét ngang rồi đun tiểu sành đựng hài
cốt vào, nén đất lại, trên dựng một mộ chí đơn sơ. Bà bảo đó là cái hàm
dưới của Miệng Rồng (Chuyện này, khi xây dựng đường điện siêu cao thứ
nhất, bác Hồ Nhã Đỉnh, ở Viện Năng lượng, về vùng Nam Đàn giám sát, bác
cháu gặp nhau, trò chuyện, bác còn nhắc lại cho nghe lần nữa). Nay bia
mộ ông Tạo chỉ là một mảnh đá nhỏ. Phía trên bị đập vỡ chỉ còn lại một
chữ thiếu nét và một chữ “Nhã”. Đọc bên phải: “Mậu Thìn Giải nguyên”
(ông Hồ Sĩ Tạo đậu Giải nguyên triều Nguyễn, Huế, khoa Mậu Thìn (1868),
cùng khoa thi này Hoàng Cao Khải đậu cuối bảng. Theo cụ Hồ Sĩ Huề kể:
Có lần ông Tạo ra Hà Nội. Hoàng Cao Khải đã tự tay bưng nước đến để ông
Tạo rửa mặt mũi, tay chân. Có lẽ ngoài việc trong vọng, đây còn nhằm
mực đích mua chuộc sĩ phu…). Dọc bên trái bia mộ: “Tri phủ Quảng
Trạch”. Chính giữa phía dưới: “Hồ Tiểu Khê chi mộ”. Việc cải táng hoàn
toàn do học trò ông Tạo tuân theo di huấn của thấy mà làm, rất long
trọng, có nhiều vị khoa bảng của hai huyện Thanh Chương, Nam Đàn tới dự
(nhưng chắc chắn là không có ông Nguyễn Sinh Sắc. Bởi ông đã vào Kinh
nhậm chức theo lệnh vua).
Năm người đàn bà gắn bó với một người
đàn ông, chuyện thật khó tin. Chắc ông Tạo tài hoa lắm và cũng đa tình
lắm mới cuốn hút được như vậy.
Sách vở ông Tạo để lại đã bị đốt
hết trong Cải cách Ruộng đất. Còn sót một tập thơ nhỏ ở nhà cụ Hồ Sĩ
Huề, phó giáo sư Ninh Viết Giao đã mượn, nay chắc còn chỗ ông ấy!
*
Cụ
Nguyễn Sinh Sắc đậu cử nhân khoa thi Hương năm Ngọ (1894) tại Trường
Nghệ, nhưng trượt khoa thi Hội tiếp theo. Để chuẩn bị cho Sắc vào tiếp
khoa thi năm Tuất (1898), ông Tạo suy nghĩ rất nhiều. Các con trong giá
thú ở quê chẳng đứa nào nối được chí cha. Thông minh thì cũng có đủ,
nhưng lười học, chỉ thích cờ bạc, rượu chè. Duy chỉ có đứa con ngoài
giá thú là Nguyễn Sinh Sắc lưu tâm tới việc học hành, không thể để nó
bỏ dở sự nghiệp và phụ lòng mong mỏi của bao người. Nghĩ tới đây, ông
sai người mài mực, lấy giấy bút viết thư. Ông nhớ tới ông Thượng thư họ
Hồ ở An Truyền đã nhận đồng tông với mình. Nhớ tới ông Cao Xuân Dục,
một học trò, đang là quan to của triều đình. Đằng nào cũng phải nhờ họ
giúp. Xưa nay mình đã nhờ vả họ gì đâu!
Vậy là nhờ có bức thư ấy,
mà các vị đại thần họ Hồ, họ Cao ra tay giúp đơc để ông Sắc được vào
học Trường Quốc Tử Giám. Đó là việc rất dễ nhận biết: Trường Giám là
trường của Hoàng gia, quý tộc, con dân làm sao mà vào nổi?
Ông
Sắc vào Trường Quốc Tử Giám mang cả gia đình đi theo, chỉ trừ cô Thanh ở
nhà với bà ngoại, làm phận sự thay cho bố mẹ. Vào Huế, ông đổi tên là
Nguyễn Sinh Huy. được sự giúp đỡ cả vật chất lẫn tinh thần của các vị
đại thần quen biết ông Tạo, cùng các quan khác người Nghệ Tĩnh. Bà Loan
dệt vải nuôi con. Ở chốn Kinh thành, cuộc sống có dễ dàng gì đâu!
Khoa
thi Mậu Tuất, ông Sắc lại rớt. Bà Loan sinh thêm cậu Xin. Và vì quá
kham khổ, lao động quá sức, bà lâm bệnh và qua đời cuối năm Canh Tý
(1900). Chỉ ít lâu sau, cậu Xin cũng quy tiên theo mẹ. Ba cha con ông
Sắc lại dắt díu nhau về Nghệ.
Khoa thi năm Tân Sửu (1901) ông Sắc
trúng Phó bảng nhưng không ra làm quan mà xin ở nhà nuôi mẹ già yếu.
Thời kỳ này ông lên dạy học ở Thanh Chương. Ông nghĩ mình trước hết
phải trọn đạo hiếu với cha mẹ. Nếu không, sao đáng làm người. Giai đoạn
đầu ông Sắc dạy học ở nhà thờ họ Lê ở Nguyệt Bổng (nhà thờ này nay vẫn
còn ở chân cầu Rộ), sau chuyển sang nhà ông Hàn Kháng, họ Phan ở Võ
Liệt - là một họ khoa cử, có người nổi tiếng như tiến sĩ Phan Sĩ Thực -
Ngôi nhà này đã bị tịch thu chia cho nông dân trong Cải cách Ruộng
đất). Chỗ ở này cách nhà ông Tạo có con sông Rộ nhỏ thó, xắn quần là có
thể lội qua. Như các cụ trong dòng họ kể lại thì ông Sắc đã dẫn cậu
Công qua chơi với ý định nhận cha, nhưng việc đó chưa kịp làm thì năm
1904 bà đồ An qua đời. Đầu năm 1905, ông Sắc được triệu vào kinh nhậm
chức Thừa biện Bộ Lễ do cụ Phan Chu Trinh giao lại. (Việc chưa nhận cha
còn có thể do quy ước khắt khe của dòng họ – Ví như cụ Hồ Sĩ Tôn, 2
lần đậu đầu khoa: “Thiên hạ sĩ vọng vã”, “Thiên hạ cống sĩ”, là bố ông
nghè Hồ Sĩ Tân. Thời trẻ dạy học ở Hưng Nguyên, có một con trai với cô
con dâu nhà họ Bùi. Về sau anh này cùng con mình đều đậu tiến sĩ. Hai
cha con về Quỳnh Đôi nhận họ, nhưng vì quy định đó mà không thành. Hai
cha con đành đứng ngoài cổng nhà thờ họ, vái lạy rồi quay về. Nên đến
nay con cháu vẫn mang họ Bùi…)
Cuộc đời làm quan và phiêu bạt của
ông Sắc tính từ đây. Năm 1907, ông Sắc được bổ Tri huyện Bình Khê và
chỉ bốn năm sau đã vướng vào trọng tội…
… Bữa đó, ông Sắc đang
ngồi tự lự, mượn chén rượu giải sầu, lòng tràn nỗi niềm thương cảm đối
với vợ con. Ông tuy làm quan nhưng nhà vẫn nghèo khổ, mái tranh, vách
đất, chẳng chút tài sản nào dư dả để nuôi con… Bỗng có lính bẩm báo:
“Thưa quan, mấy gã chống thuế hôm qua lại đến.”
Ông lập tức truyền cả bọn vào và giữa lúc ngà ngà say, ông bảo:
“Bọn
bây phải biết rằng, chỉ có vua mới miễn được thuế. Còn ta chỉ có đồng
lương ít ỏi phải bù cho số thuế thiếu kia. Ta đã cho người dò la kỹ
rồi: Nhà tụi bây còn giàu hơn cả quan đây. Làm ruộng thì phải đóng
thuế, chống lại là cớ làm sao?”
Cả đám lập tức nhao nhao nói hỗn, chửi bới, chỉ trích quan tham nhũng, ông Sắc nổi cáu, truyền:
“Lôi ra ngoài đánh bọn chúng cho ta.”
Bọn
lính lôi cả đám ra ngoài đánh đập thỏa sức. Bất đồ một người trong bọn
trúng chỗ hiểm, lăn ra chết… Lệnh ông ban quên không hạn chế mấy roi,
nên bọn lính đã quá tay. Triều đình triệu ông về Kinh chịu tội. Vua
phê: “Trảm!”. May nhờ có các ông Thượng thư họ Hồ, họ Cao và Đào Tấn
cùng rập đầu xin vua tha chết. Cả ba ông đều tâu vua: “Nguyễn Sinh Huy
làm quan thanh liêm, xử án công minh, bốc thuốc chữa bệnh người rất tận
tâm… Việc xảy ra chỉ là do sơ suất và bọn lính đã quá tay…”
Vua
cũng biết Nguyễn Sinh Huy là quan thanh liêm, không hề có tư túi gì, nên
sau một lúc suy nghĩ đành giảm xuống “Trảm giam hậu!” (giam chờ chém
sau) và phạt đánh 100 roi. May nhờ có Thượng thư Bộ binh Đào Tấn lo lót
cho bọn lính nên được nhẹ đòn và ông Huy thoát chết. “Tam thập lục kế,
tẩu vi thượng sách”. Nhân buổi lộn xộn chưa quyết, nhờ có người ngầm
giúp, ông Huy chuồn thẳng! Các cụ già quê tôi, người thì bảo ông cải
trang làm phu xe theo đoàn khách thương chở hàng vô Nam, kẻ lại bảo ông
xuống một thuyền buôn dông thẳng vào Gia Định. Mỗi người một phách,
nhưng cũng chẳng sao. Điều cơ bản là ông Huy đã thoát khỏi cái lưỡi dao
thái thịt người đang lơ lửng trên đầu và có thể hạ xuống bất ký lúc
nào…
*
Cậu Công gặp lại cha ở một địa điểm kín ở Gia
Định, trong một buổi, trước khi cậu xuống tàu đi xa. Dặn dò con xong
ông Huy lặn sâu vào giữa vùng Đồng Tháp Mười, chẳng để lại dấu vết nào
với người đời, rằng mình đã từng là một Phó bảng thứ thiệt, là ông
Huyện Bình Khê…
Ngày ấy Đồng Tháp Mười còn rậm rì năn lác, đường
bộ chưa có là bao. Giao thông chủ yếu là nhờ vào những chiếc xuồng tam
bản tự tạo của đồng bào sống ở miệt sình lầy. Ông Nguyễn Sinh Huy lặn
lội đến vùng Cao Lãnh ngày nay thì dừng lại, ở nhờ một ngôi chùa. Nơi
đây ông giấu biệt tông tích của mình, tự xưng là Cụ Vương, hành nghề
bốc thuốc chữa bệnh.
Nhà Phật vốn chủ trương “cứu nhân độ thế”,
các sư cũng luôn làm nhiệm vụ bốc thuốc chữa bệnh cho dân. Bấy giờ làm
gì có bệnh viện hay hiệu thuốc ở những vùng sâu, xa như thế. Thấy Cụ
Vương giỏi y thuật, lại sống độc thân nên các sư rất mừng, lưu cụ ở
luôn tại chùa để giúp đỡ bao nông dân nghèo khó đang hàng ngày vất vả
kiếm sống và cũng vất vả chống lại tật bệnh, ốm đau. Phong trào chống
thuế ở miền Trung đang nổi lên rần rần, nên nhà vua cũng làm ngơ luôn
cái án của ông Tri huyện Bình Khê. Vậy là ông Nguyễn Sinh Huy được
triều đình “bỏ quên”.
Chẳng bao lâu, cái tiếng của vị thầy thuốc
giỏi, lại nhân từ, sẵn sàng chữa bệnh không công cho người nghèo, theo
những chiếc xuồng nhỏ, len lỏi trên sông nước, trên kênh rạch lan
truyền đi khắp vùng. Người ở xa chở con bệnh tới để chữa trị hoặc mua
thuốc mang về. Người gần mời cụ ngồi xuồng tới nhà bắt mạch điều trị.
Nhà nghèo cụ miễn luôn mọi khoản. Đức độ của cụ hoà vào nước Đồng Tháp
Mười, thấm sâu vào đất đai, tạo nên vựa lúa bạt ngàn hôm nay…
Có
lần chữa trị dài dài, cứu được mấy mạng người trong một gia đình, giúp
họ thoát khỏi dịch bệnh, ông già Mai Nhuận trả ơn bằng cách gả cô con
gái út của mình cho ông Vương.
“Không dám…”, Ông Vương cười. Chữa
bệnh cứu người là công việc hàng ngày, tôi đã nguyện theo đuổi suốt
đời, đâu dám mong có ân huệ đền đáp. Cô nhà đây còn nhỏ tuổi hơn cả con
trai út của tôi. Nhận lời cụ chẳng hoá ra tôi là thằng khốn nạn hay
sao?
“Chúng tôi không quan tâm tới việc thiên hạ dư luận, chỉ cần
cụ nhận lời và nuôi cháu là nhất định gia đình sẽ có ngày mở mày mở
mặt. Nó đến với cụ cũng đã sung sướng cho bản thân nó. Công việc nấu
nướng, chợ búa… giúp cụ chuẩn bị thuốc men, so với việc đồng áng khác
nhau một trời một vực, việc gì nó chẳng làm được. Cụ đừng lo…”
Năm ấy, ông Sắc đã ngoại lục tuần. Cô gái họ Mai mới ngoài hai mươi, nhỏ hơn cậu Công.
Ít
lâu sau cuộc tình duyên muộn mằn ấy, cậu Vương Chí Nghĩa chào đời
(1927). Ông Vương Chí Nghĩa là bố của Vương Chí Hùng và Vương Chí Việt
cùng năm người con gái khác. Theo Thượng toạ Thích Chân Quang, khai sinh
lấy họ Vương, nhưng trong tiềm thức, trong gia phả là họ Hồ. Cụ Vương
dặn như vậy. Lấy họ Vương là để che mắt kẻ thù. Việc rời Đồng Tháp lên
Tây Nguyên cũng là vậy. Phải tránh sự khủng bố, truy bắt, bảo vệ mình
và mở ra con đường kiếm sống lâu dài. Thượng toạ Thích Chân Quang sinh ở
Tây Nguyên tháng 12.1959. Tốt nghiệp đại học Khoa tiếng Anh, xuất gia
năm 1980 cùng
chị gái là Hồ Thị Minh Nguyệt, hơn ông hai tuổi.
(Ngày
làm lễ Nhập hồn Tượng cho vua Hồ Quý Ly và nữ sĩ Hồ Xuân Hương tại nhà
thờ họ Hồ Quỳnh Đôi, Thượng toạ Thích Chân Quang cười nói với tôi: “Em
viết việc tìm họ của anh đơn giản và dễ dàng quá! Thật ra là bọn anh
phải dằn vặt, đau khổ, đi xác minh cẩn thận, có thu âm, ghi hình đầy
đủ, người ta mới công nhận. Những người trông coi Khu di tích cụ Nguyễn
Sinh Sắc ở Đồng Tháp cứ một mực bảo ông Sắc không có vợ lẽ ở đây! Anh
sẽ ghi lại cụ thể chuyện này gửi em sau. Báo để em biết, anh đã đến
thăm chú Hồ Thanh Chương, tình cảm của chú cháu là vô cùng nồng ấm.”
Thượng toạ đã đối chiếu gia phả và gọi tôi là em, mặc dù tôi nhiều tuổi
hơn.)
[1]Trăm Hoa xuất bản, California 1993, 288 trang (các chú thích trong bài đều của talawas)
[2]Các cách ghi âm khác: Nguyễn Sinh Côông, Nguyễn Sinh Côn, Nguyễn Sinh Công
[3]Do dời làng lên núi để làm kinh tế
PHÓ BẢNG NGUYỄN SINH SẮC CÓ PHẢI LÀ CON RƠI CỦA CỬ NHÂN HỒ SĨ TẠO?
.
. PHÓ BẢNG NGUYỄN SINH SẮC CÓ PHẢI LÀ CON RƠI CỦA CỬ NHÂN HỒ SĨ TẠO?
CHUYỆN THÂN PHỤ CỦA NHÂN VẬT LỊCH SỬ HỒ CHÍ MINH (CỤ NGUYỄN SINH SẮC)
CÓ PHẢI LÀ CON RƠI CỦA ÔNG HỒ SĨ TẠO HAY KHÔNG, KHÔNG QUAN TRỌNG ĐỐI
VỚI LỊCH SỬ NƯỚC TA, NHƯNG LẠI TẠO RA NHỮNG BÀN LUẬN CỦA HẬU THẾ RẤT KÌ
LẠ, THẬM CHÍ BIA ĐÁ CỦA HỌ HỒ LÀNG QUỲNH ĐÔI LẠI KHẮC TÊN TUỔI HỒ CHÍ
MINH VÀO DANH SÁCH HẬU DUỆ. ĐÓ CHỈ LÀ CHUYỆN SUY DIỄN, THẾ MÀ CŨNG TRỞ
THÀNH CHÍNH DANH KIỂU ẤY, THÌ THẬT LÀ ĐÁNG NGỜ…
TÔI XIN MẠN PHÉP ĐĂNG LẠI HAI TƯ LIỆU DƯỚI ĐÂY VÀ CÓ NHÂN XÉT CỦA RIÊNG CÁ NHÂN TÔI VỀ HAI TƯ LIỆU ĐÓ Ở PHẦN CUỐI (PHẦN 3).
Đây là bìa cuốn tiểu thuyết “Búp sen xanh”, ấn bản 1984 (tái bản), tôi mua vào năm đó — T.X.A.
1
Tư liệu 1:
NHÂN VẬT HỒ SĨ TẠO TRONG 5 TRÍCH ĐOẠN TỪ “BÚP SEN XANH”,
TIỂU THUYẾT VỀ NHÂN VẬT LỊCH SỬ, CỦA SƠN TÙNG (*) 1) “Hà Thị Hy là con gái một nghệ nhân nổi tiếng về ngón đàn đáy, đàn
bầu. Nhà giàu có, thuộc loại nhiều ruộng nhất của làng Sài. Ông ham học
chữ “thánh hiền”, nhưng không màng chuyện thi cử. Trong nhà luôn luôn
nuôi thầy dạy học. Năm ông đã hai thứ tóc còn nuôi cử nhân Hồ Sĩ Tạo dạy
cho các con cháu và ông học thêm. Ông còn nhóm lên trong nhà mình một
“phường hát ả đào”. “Phường hát ả đào” của ông chỉ để làm vui trong gia
đình, trong họ hàng và những bà con có đám cưới, đám ăn mừng thượng
thọ”. 2) “Khi ông Nguyễn Sinh Nhậm từ làng Sen đánh liều sang xin ăn hỏi cô
Đèn, trai làng Sài họp lại bàn luận… Họ xót xa cho cô Đèn: Một người
con gái tài hoa, nhan sắc nhất làng mà phải chịu cái “án treo” quá lứa,
lỡ duyên, nay phải đi làm vợ kế của một người làng khác! Chúng ta không
nên ngăn cản nữa. Đọ gươm khi còn trên yên, đừng chém theo lúc người đã
ngã ngựa! Trai làng Sài đã dựng một cổng chào ở đầu làng trên con đường đi sang
làng Sen. Họ còn nhờ cử nhân Hồ Sĩ Tạo làm cho một bài văn chúc. Lúc
đám rước dâu tới cổng chào, trai làng Sài bận quần trắng, áo dài, đội
khăn, đứng thành hai hàng. Một người có giọng bình văn hay bước ra đọc
bài chúc. Họ nhà trai đã đáp lễ mười quan tiền đồng, một vò rượu tăm và
một cái thủ lợn. Cô Hy về làm bạn với ông Nguyễn Sinh Nhậm được ít lâu thì năm Quý Hợi
(1863) sinh con trai. Ông Nhậm đặt tên cho con là Nguyễn Sinh Sắc. Cuộc
sống của gia đình rất êm ấm. Nhưng niềm hạnh phúc của mẹ con cô Đèn đã
tắt phụt như ngọn đèn trước gió: Nguyễn Sinh Sắc mới lên ba thì ông
Nguyễn Sinh Nhậm chết. Trước lúc trút hơi thở cuối cùng, ông Nhậm gọi cả
hai người con trai, người con dâu đến bên giường và căn dặn vợ chồng
Nguyễn Sinh Thuyết: “Cha phải hai lần xây dựng bạn trăm năm mà cũng chỉ
được có hai mụn con trai. Cha những mong có đôi ba lần sinh nữa cho đông
anh đông em, cũng như rừng nhiều cây bão tố không xô ngã được. Không
ngờ cha phải sớm từ giã các con. Tội nhất là em Sắc của các con còn quá
bé bỏng. Mẹ kế của các con thì tuổi trẻ chưa qua! Cho nên vợ chồng con
phải thay cha giúp mẹ kế của các con nuôi em Sắc nó nên người, mà điều
hệ trọng là làm sao cho bé Sắc có năm ba chữ thánh hiền. Điều mong muốn
cuối cùng của cha là : Dầu cha đã khuất, các con phải kính trọng người
mẹ kế của các con như lúc cha đang tại đường. (Ý nói như lúc còn
sống)”.” 3) “Anh cử Sắc phân trần: – Quốc vận lạc vong nan hiệu lý (Chú thích: Việc nước đang suy thì
khó mà xoay xở). Cho nên, tôi đã tính việc học thêm ở Quốc tử giám để
rồi lại thi Hội khoa Mậu Tuất (1898). – Nhưng – anh cử Quý hỏi – loại học trò nghèo như cánh mình làm sao vô nổi cái trường của “hoàng gia, quý tộc ấy”? – Tôi đã được ông Hồ Sĩ Tạo gửi gắm cho quan thượng Cao nhận là người
thân thích. Trường Quốc tử giám đã nhận tôi vào và coi như một “ấm
sinh” vậy” 4) “Người con gái đầu, cô Nguyễn Thị Thanh của quan phó bảng Sắc đã
tới tuổi mười tám, ông giao cả việc nhà và chăm sóc bà ngoại cho cô. Ông
đưa hai con trai đi thăm bạn bè và viếng cảnh đẹp trong tỉnh. Những nơi
hợp cảnh hợp người, ông thường ở lại lâu, vừa dạy học vừa thù tạc với
bạn, ngoạn cảnh núi sông, đền đài. Chuyến đi xa nhà đầu tiên, quan phó bảng Sắc dẫn hai con ra Diễn Châu
thăm một người bạn ở làng Vạn Phần (Võ Tất Đắc) mới từ quan trở về dạy
học, và ông đến làng Quỳnh Đôi để tạ ơn ông Hồ Sĩ Tạo, người đã giúp đỡ
ông vào học trường Quốc tử giám”. NHƯ VẬY CÓ ĐỦ DỮ LIỆU ĐỂ KẾT LUẬN… KHÔNG? Xem thêm trích đoạn 6: 6) “Một buổi chiều sau tết Nguyên đán. Mưa xuân lâm thâm. Gió se se
lạnh. Nguyễn Sinh Sắc đội nón mê, khoác tơi lá nằm tùm hum trên lưng
trâu ở cánh đồng Dăm Quan. Con trâu mải miết gặm cỏ. Sắc mê say học bài.
Sợ bụi mưa thấm vào trang sách, Sắc nghiêng nghiêng mái nón che phía
gió thổi. Con trâu đang gặm cỏ bỗng nghênh đầu lên nhìn về phía có người lạ đi
tới. Nhưng Sắc mải dán mắt vào trang sách không biết có người đang đứng
bên con trâu để ý việc học bài của mình. – Cháu chăm chỉ quá? Hiếu học là một đức tính đáng quý. Sắc giật mình hơi bối rối ngước nhìn : Một ông trông hiền từ, dáng vẻ
một thầy đồ, tay che ô, đầu đội khăn nhiễu khoác áo dài kép, chân đi
guốc to bàn cuốn mỏ, quai mây hình đuôi én. Sắc nhảy từ lưng trâu xuống
đất, đứng lễ phép bên ông. – Cháu là con nhà ai? – Thưa ông cháu là con ông Nhậm ạ. – À ra… cháu là con trai ông Nhậm, con cô Đèn! Thảo nào. Cháu sớm có
chí học. Cháu giữ bền được cái chí học thì ắt sẽ làm nên đó. Ông nhìn tập vở trong tay Sắc, hỏi: – Cháu đã học đến sách gì? – Thưa ông, cháu đang học sách “Sơ học vấn tân” ạ”. ________________________________ (*) Tác giả : Sơn Tùng
tiểu thuyết
Nhà Xuất bản Kim Đồng, xuất bản lần thứ nhất, 1981
Bản vi tính trên theo ấn bản của Nhà Xuất bản Văn học, 2007
Khổ 13.5 x 20.5. Số trang: 331
Nguồn: e-thuvien.com/forums/showthread.php?t=15062 2
Tư liệu 2:
LỜI TRUYỀN MIỆNG DÂN GIAN VỀ MỘT VÀI SỐ PHẬN BI KỊCH…
Trần Quốc Vượng
“Lời truyền miệng dân gian về nỗi bất hạnh của một số nhà trí thức Nho gia” “… câu chuyện tôi sắp kể dưới đây thì chưa từng ai viết. Chỉ
là lời truyền miệng dân gian …phạm vi lan truyền và số người biết câu
chuyện này phải nói là hạn hẹp. Vì người ta SỢ.…”
… Đến đây tôi sẽ khép (lại) bài kể lể đã khá dài dòng của mình bằng
câu chuyện một người tuy có tên tuổi nhưng không lấy gì làm nổi tiếng
lắm, hay đúng hơn cả là đã trở nên có tên tuổi nhờ gắn bó máu thịt với
một người có tên tuổi (nhưng từ đầu đến cuối câu chuyện của tôi đều nói
về các nhà Nho, các vị thái học sinh, tiến sĩ, bảng nhãn hay là phó bảng
cả). Đó là câu chuyện về cụ thân sinh ra Chủ tịch Hồ Chí Minh, cụ phó bảng Nguyễn Sinh Sắc hay Nguyễn Sinh Huy. Phó bảng là một học vị dưới tiến sĩ, chĩ mới xuất hiện ở Việt Nam từ đời vua Minh Mạng nhà Nguyễn (1830-31). Trong một lá đơn bằng tiếng Pháp gởi Bộ Thuộc địa Pháp, Nguyễn Tất
Thành (sau là Hồ Chí Minh) đã khéo dịch tên học vị của phụ thân mình là
sous docteur [1] như ngày nay ta gọi là phó tiến sĩ. Quê hương cụ, là làng Kim Liên, tên Nôm là làng Sen huyện Nam Đàn
tỉnh Nghệ An. Nhưng đậu phó bảng rồi cụ đã làm Thừa biện Bộ Lễ ở Huế rồi
Tri huyện Bình Khê (Bình Định). Rồi bỏ quan (hay bị mất chức quan), cụ
phiêu dạt về Sài Gòn, ngồi bắt mạch kê đơn ở tiệm thuốc bắc Hoa kiều, để
có chút cơm rượu… Lại phiêu lãng nữa, tới miền Tây Nam bộ, và cuối cùng
mất ở Cao Lãnh (Sa Đéc, nay thuộc tỉnh Đồng Tháp). Mộ cụ phó bảng được
xây lại cuối năm 1954 sau sự kiện Genève tạm thời chia đôi đất nước Việt
Nam. Người ta làm như thế vì cụ Hồ. Cũng như mộ bà Hoàng Thị Loan vợ cụ
phó bảng và là thân mẫu Hồ Chí Minh mới được dời xây lại vài năm nay ở
Nam Đàn, Nghệ An. Người ta làm thế cũng vì cụ Hồ. Hai ngôi mộ này, cũng
như bản thân Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh giữa lòng Ba Đình, Hà Nội, đều
hiện hữu ngoài ý thức của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ông Hồ vốn được xem là
người giản dị, khiêm nhường… Cũng đã có dăm cuốn sách nói về gia thế cụ Hồ Chí Minh, nhưng câu chuyện tôi sắp kể dưới đây thì chưa từng ai viết. Chỉ là lời truyền miệng dân gian, ở Kim Liên, Nam Đàn, ở một số người
gốc Nghệ hiện sống tại Hà Nội và nhiều nơi khác trên mảnh đất Việt Nam.
Nếu trong Folklore, có hiện tượng mà các nhà nghiên cứu gọi là lan
truyền thì từ lâu câu chuyện này cũng đã lan truyền từ làng Kim Liên ra
khắp huyện Nam Đàn rồi khắp tỉnh Nghệ Anh rồi rộng ra hơn nữa … Nhưng
phạm vi lan truyền và số người biết câu chuyện này phải nói là hạn hẹp.
Vì người ta SỢ. Sợ động chạm đến cụ Hồ. Một cái sợ vô nghĩa nhưng người ta cứ gán cho
nó cái ý nghĩa chính trị giả tạo. Vì như bà Trịnh Khắc Niệm viết trong
cuốn truyện bằng tiếng Anh Life and Death in Shanghai, [2] đã được dịch
ra tiếng Việt: Ở xã hội xã hội chủ nghĩa, cuộc đời của các lãnh tụ cộng
sản được coi là “bí mật quốc gia”. Nhưng đây không phải là chuyện cụ Hồ, tuy cũng có dính dáng đến cụ
Hồ. Mà vì đây là chuyện cụ thân sinh ra cụ Hồ, cụ Nguyễn Sinh Huy, mà
cũng là chuyện truyền miệng thôi, nghĩa là thuộc phạm trù giai thoại,
Folklore, chứ không thuộc phạm trù lịch sử, như tôi đã nói từ đầu bài
này. Người dân Kim Liên đồn rằng Nguyễn Sinh Huy không phải là thuộc dòng
máu mủ của dòng họ Nguyễn Sinh làng này. Mà là con của một người khác:
ông đồ nho, cử nhân Hồ Sĩ Tạo. Cử nhân Hồ Sĩ Tạo thuộc dòng họ Hồ nổi tiếng ở làng Quỳnh Đôi, huyện
Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An (đây là quê gốc của Hồ Quý Ly, nhân vật lịch sử
cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ XV, đây cũng là quê gốc của anh em Tây Sơn
thế kỷ XVIII, vốn họ Hồ ở xứ Nghệ, đây cũng là quê hương Hoàng Văn
Hoan, người đồng chí thân cận một thời của cụ Hồ Chí Minh, được cụ Hồ
giao phụ trách công tác đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam và chính
phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa thời kháng chiến chống Pháp và là Đại sứ
Việt Nam đầu tiên ở Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, hiện sống lưu vong ở
Trung Hoa, có viết một tài liệu về lịch sử làng Quỳnh Đôi, quê ông. Bà
vợ nhà văn lớn Đặng Thai Mai, người một thời làm Bộ trưởng Giáo dục
trong chính phủ của cụ Hồ 45-46 rồi làm Viện trưởng Viện trưởng Viện Văn
học, là Hồ Thị Loan, cũng thuộc dòng họ Hồ này ở làng Quỳnh Đôi).
Khoảng đầu những năm 60 của thế kỷ trước (thế kỷ XIX) cử nhân Hồ Sĩ Tạo
có thời gian ngồi dạy học ở một nhà họ Hà, người làng Sài, cùng một xã
Chung Cự, tổng Lâm Thịnh, huyện Nam Đàn, với làng Sen (Kim Liên). Đó là
một nhà nghệ nhân dân gian, trong nhà có “phường hát ả đào”. Nhà họ Hà có cô con gái tên là Hà Thị Hy, tài hoa, nhan sắc, đàn
ngọt, hát hay, múa khéo, đặc biệt là múa đèn (đội đèn trên đầu, để đèn
trên hai cánh tay, vừa hát vừa múa mà dầu trong đĩa không sánh ra ngoài)
nên người làng thường gọi là cô Đèn. Người ta thường bảo: má hồng thì
mệnh bạc. Như Đặng Trần Côn viết mở đầu khúc ngâm chinh phụ: “Hồng nhan đa truân” (Gái má hồng nhiều nỗi truân chuyên). Hay như Nguyễn Du than thở giùm người đẹp tài hoa trong truyện Kiều: “Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau”, “Rằng hồng nhan tự thuở xưa, Cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu”). Vả ở thời ấy, dưới chế độ quân chủ nho giáo, lấy tứ dân (Sĩ, Nông,
Công, Thương) làm gốc, người ta vẫn xem thường nghề ca xướng và con nhà
ca xướng (“xướng ca vô loài”). Cô Đèn, Hà Thị Hy tài hoa nhan sắc là thế mà rồi ba mươi tuổi vẫn
chưa lấy được chồng. Mà trong nhà thì lại luôn có bậc văn nhân: ông cử
Hồ Sĩ Tạo. “Lửa gần rơm lâu ngày cũng bén” là lẽ thường theo tâm lý dân
gian, huống chi là giữa văn nhân – tài tử – giai nhân. “Trai tài gái
sắc” mà! Và cô Hà Thị Hy bỗng dưng “không chồng mà chửa”. Mà ông cử Tạo
thì đã có vợ, có con rồi! Lệ làng ngày trước phạt vạ rất nặng nề, sỉ
nhục hạng gái “chửa hoang”, hạng “gian phu dâm phụ”. Để tránh nỗi nhục
cho con gái mình và cho cả ông cử Tạo đang làm “thầy đồ” được hết sức
kính trọng trong nhà mình, họ Hà phải bù đầu suy tính… Lúc bấy giờ ở làng Sen cùng xã có ông Nguyễn Sinh Nhậm, dân cày, tuổi
cao mà góa vợ (bà vợ trước đã có một con trai là Nguyễn Sinh Thuyết, và
người con trai này cũng đã có vợ). Nhà họ Hà bèn cho gọi ông Nguyễn Sinh Nhậm đến điều đình, “cho
không” cô Hy làm vợ kế ông này, như một người con gái xướng ca, quá lứa,
lỡ thì, lấy ông già góa vợ, mong ém nhém việc cô gái đã “to bụng”. Công việc rồi cũng xong. Cô Hy ôm bụng về nhà chồng, có cưới có cheo
cẩn thận. Việc phạt vạ của làng không thể xảy ra. Nhưng cô gái tài hoa
nhan sắc thì bao đêm khóc thầm vì bẽ bàng, hờn duyên tủi phận. Và ông
lão nông dốt nát tuy được không cô gái đẹp nhưng cũng buồn vì đâu có đẹp
đôi, lại cắn răng chịu đựng cái tiếng ăn “của thừa”, “người ăn ốc (ông
cử Tạo), kẻ đổ vỏ (cụ lão nông Nhậm)”. “Miệng tiếng thế gian xì xầm”,
ai mà bịt miệng nổi dân làng. Mà trước hết là lời “nói ra, nói vào”,
lời chì chiết của nàng dâu vợ anh Thuyết, vốn nổi tiếng ngoa ngoắt, lắm
điều. Ông Nhậm đành cho con trai và vợ anh ta ra ở riêng, và mình ở
riêng với bà vợ kế. Chỉ ít tháng sau, bà vợ kế này đã sinh nở một mụn con trai, được ông
đặt tên là Nguyễn Sinh Sắc, lấy họ ông mặc dù ông biết rõ hơn ai hết đó
không phải là con ông, con nhà họ Nguyễn Sinh này. Nàng dâu ông càng
“tiếng bấc, tiếng chì” hơn trước, vì ngoài việc bố chồng “rước của tội,
của nợ”, “lấy đĩ làm vợ” thì nay còn nỗi lo”: Người con trai này – được
ông nhận làm con, lớn lên sẽ được quyền chia xẻ cái gia tài vốn cũng
chẳng nhiều nhặn gì của một gia đình nông phu thôn dã. Việc ấy xảy ra
vào năm Quý Hợi, đời vua Tự Đức thứ 16 (1863). Vì trọng tuổi, lại vì lo phiền, vài năm sau cụ Nhậm qua đời và cũng
chỉ ít lâu sau đó, bà Hy cũng mất. Nguyễn Sinh Sắc trở thành đứa trẻ mồ
côi. Lên bốn, về ở với người anh gọi là “cùng cha khác mẹ” mà thật ra là
“khác cả cha lẫn mẹ”, cùng với bà chị dâu ngoa ngoắt, khó tính, lúc nào
cũng chỉ muốn tống cổ cái thằng “em hờ” của chồng này đi cho “rảnh nợ”. Không cần nói, ta cũng hiểu Nguyễn Sinh Sắc khổ tâm về tinh thần, khổ
cực về vật chất như thế nào trong cái cảnh nhà Nguyễn Sinh như vậy. Ta
cảm thấy vô cùng thương xót một đứa trẻ mồ côi sớm chịu cảnh ngang trái
của cuộc đời. Bên ngoại thì ông bà đều đã mất, họ Hà chẳng còn ai chịu
cưu mang đứa trẻ có số kiếp hẩm hiu này. May có ông tú đồ nho Hoàng Xuân Đường, người làng Chùa (Hoàng Trù)
gần đó, xót thương đứa trẻ, dù sao cũng là hòn máu rơi của một nhà nho
khác, lại có vẻ sáng dạ, nên đã đón về làm con nuôi, cho ăn học. Và đến
khi Nguyễn Sinh Sắc 18 tuổi, ông bà đồ họ Hoàng lại gả cho cô con gái
đầu lòng, Hoàng Thị Loan, mới 13 tuổi đầu, cho làm vợ, lại làm cho căn
nhà tranh ba gian ở ngay làng Chùa, để vợ chồng Nguyễn Sinh Sắc ăn ở
riêng. Ta dễ hiểu vì sao Nguyễn Sinh Sắc gắn bó với họ hàng làng quê bên vợ,
làng Chùa, hơn là với làng Sơn “quê nội”, quê cha “hờ”. Con cái ông, từ
người con gái đầu Nguyễn Thị Thanh, qua người con trai đầu Nguyễn Sinh
Khiêm (tục gọi là ông cả Đạt) đến người con trai thứ Nguyễn Sinh Côn
(hay Nguyễn Tất Thành, sau này là Nguyễn Ái Quốc rồi Hồ Chí Minh) đều
được sinh ra và bước đầu lớn lên ở làng Chùa bên quê mẹ hay là quê
ngoại. Khi cụ Tú Hoàng (Hoàng Xuân Đường) mất, vợ chồng con cái Nguyễn
Sinh Sắc lại về ăn ở chung với bà đồ Hoàng. Các cháu đều quấn quít quanh
bà ngoại. Qua giỗ đầu cụ Tú Hoàng, Nguyễn Sinh Sắc đi thi Hương khoa Giáp Ngọ
và đậu cử nhân (1894). Ông được nhận ruộng “học điền”, ruộng công của
làng Chùa chia cho những người có học (nhằm khuyến khích việc học) để
học thêm – chứ không phải nhận ruộng học của làng Sen. Khoa thi Hội Ất
Mùi (1895), ông thi trượt. Nhờ sự vận động gửi gấm của ông Hồ Sĩ Tạo, người cha thực của Nguyễn
Sinh Sắc, với các quan lại đồng liêu quen biết ở triều đình Huế, Nguyễn
Sinh Sắc được coi như ấm sinh, để được nhận vào học Quốc Tử Giám ở kinh
đô. (Ai cũng biết: để được nhận vào học Quốc Tử Giám và làm giám sinh
phải là con cháu của những gia đình có thế lực, gọi là “danh gia tử đệ”.
Nếu không có sự can thiệp của ông Hồ Sĩ Tạo là bậc khoa bảng cao quan
thì làm sao Nguyễn Sinh Sắc được nhận? Thế là dù sao Hồ Sĩ Tạo vẫn còn
có một “cử chỉ đẹp” với đứa con mà mình không dám nhận). Nguyễn Sinh
Sắc, đổi tên là Nguyễn Sinh Huy, đem vợ và hai con trai vào Huế và đi
học Quốc Tử Giám. Khoa thi Hội Mậu Tuất (1898), ông lại trượt. Ngày 22 tháng Chạp năm Canh Tý (10-2-1901) bà Hoàng Thị Loan ốm mất ở
kinh đô Huế, sau khi sinh đứa con trai út (đứa con trai này ít ngày sau
cũng chết). Nguyễn Sinh Côn (Nguyễn Tất Thành – Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí
Minh ngày sau) trở thành con trai út. Nguyễn Sinh Huy đem hai con trai về làng Chùa gửi mẹ vợ nuôi nấng
chăm sóc giùm rồi trở vào Kinh thi Hội. Khoa Tân Sửu (1901) này, ông đậu
phó bảng và được “vinh quy bái tổ” về làng. Theo thể thức triều đình,
lễ vinh quy này phải diễn ra ở quê nội, dù là quê nội danh nghĩa, tức là
làng Sen – Kim Liên. Hội đồng hương lý và dân xã đã dựng nhà tranh năm
gian (chứ không phải nhà ngói) trên một khoảnh đất vườn làng Sen, để đón
quan phó bảng tân khoa Nguyễn Sinh Huy về làng. Thế là buộc lòng ông phải về “quê nội”. Ông cũng đón hai con trai về ở
cùng ông. Lần đầu tiên Nguyễn Sinh Côn (Hồ Chí Minh ngày sau) về ở quê
nội nhưng thân ông, lòng ông vẫn hướng về quê ngoại là cái gì “đích
thực” và gắn bó với tuổi thơ ông. Ông phó bảng có đến thăm cụ Hồ Sĩ
Tạo. Nhưng gia đình ông phó bảng cùng hai con trai cũng không ở lâu tại
Kim Liên. Chưa đầy ba năm! Sau khi mẹ vợ mất, ông vào kinh đô nhận chức
quan (1904) ở Bộ Lễ, đem theo hai con trai vô Huế học. Năm 1907, ông bị
đổi đi Tri huyện Bình Khê … Rồi sau khi bỏ quan (hay mất quan), khoảng
1910, ông phiêu bạt vô Sài Gòn rồi Lục tỉnh Nam Kỳ. Không bao giờ ông về
làng Sen trở lại nữa… Ở làng Sen sau này, chỉ có bà Thanh và ông Cả Đạt (Khiêm), cả hai đều không lập gia đình riêng. Người ta bảo lúc sau, khi cụ Hồ Sĩ Tạo đã qua đời, năm nào bà Thanh
cũng qua Quỳnh Đôi góp giỗ cụ Hồ Sĩ Tạo. Thế nghĩa là cái “bí mật” về
cội nguồn của cụ phó bảng Huy, trong số các con cụ, ít nhất có bà con
gái đầu biết. Người ta bảo: ông Cả Đạt cũng biết, tuy không bao giờ ông
sang Quỳnh Đôi nhận họ. Còn Nguyễn Sinh Côn – Nguyễn Tất Thành – có biết không? Từ khoảng 11
đến 14 tuổi, ông ở làng Sen, có nhẽ nào không ai nói cho ông biết? Hay
là trước đó nữa, khi ông ở làng Chùa quê ngoại gần gặn làng Sen! Hay là
sau đó nữa chả lẽ không khi nào cụ phó bảng Huy hay bà Thanh hay ông Cả
Đạt lại không kể với ông về “bí mật” của gốc tích thân phụ mình? Không có chứng cớ gì về việc ông Nguyễn Tất Thành – Nguyễn Ái Quốc –
biết hay không biết chuyện này… Sau này, khi hoạt động cách mạng, ông
còn mang nhiều tên khác nữa. Nhưng đến đầu thập kỷ 40 của thế kỷ này,
thì người ta thấy ông mang tên Hồ Chí Minh. Sau Cách mạng tháng Tám 1945, khi tên tuổi Hồ Chí Minh trở thành công
khai thì cũng bắt đầu từ đó dân gian Việt Nam, từ trí thức đến người
dân quê, lại âm thầm bàn tán: vì sao Nguyễn Ái Quốc lại đổi tên là Hồ
Chí Minh? Và tên này cụ giữ mãi cho tới khi “về với Các Mác, Lê-nin” năm 1969. Cuộc đời thực của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh – còn quá nhiều dấu
hỏi chứ phải đâu riêng gì một cái tên! Và biết làm sao được khi cụ Hồ,
tôi nói lại một lần nữa theo cảm thức của người Ấn Độ, đã trở thành
“huyền thoại”. Huyền thoại Hồ Chí Minh được hình thành trong vô thức
dân gian mà Carl Gustav Jung gọi là vô thức tập thể. Nhưng nó cũng có
phần được hình thành một cách hữu thức, bởi một số cán bộ gần gụi cụ
Hồ. Nghĩa là một phần cuộc đời cụ Hồ đã được huyền thoại hóa. Ngay sau Cách mạng tháng Tám, người ta còn in cả cuốn sách (mỏng
thôi) về sấm Trạng Trình có những câu vận vào cụ Hồ và sự nghiệp Cách
mạng tháng Tám. Và sấm Trạng Trình vẫn được vận vào cụ Hồ còn lâu về
sau nữa, ở miền Nam Việt Nam và hiện nay ở một số người Việt lưu vong,
dù là với hậu ý không ưa gì cụ Hồ… Nhưng đó lại không phải là chủ đề
của bài viết này. Trở lại với cái tên Hồ Chí Minh, lời truyền miệng dân gian bảo rằng:
Nguyễn Ái Quốc sau cùng đã lấy lại họ Hồ vì cụ biết ông nội đích thực
của mình là cụ Hồ Sĩ Tạo, chứ không phải cụ Nguyễn Sinh Nhậm. Và dân làng Sen cũng bảo: Thì cứ xem, lần đầu tiên về thăm quê hương,
sau cách mạng, sau mấy chục năm xa quê (15-6-1957), từ thị xã Vinh,
tỉnh lỵ Nghệ An, cụ Hồ đã về làng Chùa trước, rồi sau mới sang làng Sen
“quê nội”! [3] Riêng tôi nghĩ, thì cũng phải thôi. Vì như ở trên ta đã thấy, cả một
thời thơ ấu của cụ Hồ là gắn bó với quê ngoại làng Chùa, nơi cụ sinh ra
và bước đầu lớn lên. Chứ đâu phải làng Sen, là nơi cụ chỉ ở có vài năm,
lại là khi đã bắt đầu khôn lớn? Tôi không muốn có bất cứ kết luận “khoa học” gì về bài viết này. Vì
nó không phải là một luận văn khoa học. Đây chỉ là việc ghi lại một số
lời truyền miệng dân gian về nỗi bất hạnh hay là cái khổ tâm, hay là cái
“mặc cảm” của một số nhà trí thức Nho gia từ đầu thế kỷ XIV (Trương Hán
Siêu, Chu Văn An) đến đầu thế kỷ XX (Nguyễn Sinh Huy) đối với làng quê.
[4] Còn viết lách, thì bao giờ chẳng là chuyện: “Thư bất tận ngôn, ngôn bất tận ý”. (Viết không [bao giờ] hết lời nói, Lời nói không [bao giờ] hết ý!) Tháng 1.1991Trần Quốc Vượng (trích: Trong cõi. Nxb Trăm Hoa, California, 1993, tr. 252-259) [1]Xem phụ bản bức thư này công bố trong: G. Boudarel, La Bureaucratie au Vietnam, par L’ Harmattan, 1983
[2]Cheng Nien: Life and Death in Shanghai, Globe Crafton Books, 1986 –
(Trịnh Niệm: Sống và chết ở Thượng Hải, Nxb Văn nghệ, TP Hồ Chí Minh,
1989)
[3]Xem “Le Nghe Tinh, province natale de Ho Chi Minh”, Études Vietnamiennes, Hanoi, No 59, 1979
[4]Về những cách nhìn khác, chính thống hơn, lịch sử hơn, xin xem: “Les
lettres devant l’histoire”, Études Vietnamiennes, Hanoi, 1979. Riêng về
Trương Hán Siêu, Chu Văn An, Nguyễn Trãi, xin xem: O. W. Wolters, “Two
Essays on Đại Việt in the Fourteenth Century”, The Lạc Việt, No 9, 1979;
“A Stranger in His Own Land: Nguyễn Trãi’s Sins”; “Vietnamese Poems,
Written during the Ming Occupation”, The Vietnam Forum, No 8, 1986 Thông Luận, 19/05/2006http://www.thongluan.co/vn/modules.php… https://www.facebook.com/photo.php?fbid=1671435649797046&set… 3
NHẬN XÉT CỦA RIÊNG CÁ NHÂN TRẦN XUÂN AN: 1) Nhận xét về hai tư liệu trên: 1a) Tiểu thuyết là thể loại có tính hư cấu. Tiểu thuyết về nhân vật
lịch sử nếu đúng nghĩa thì phải tôn trọng tuyệt đối thông tin cơ bản,
mặc dù vẫn chấp nhận hư cấu những tình tiết không quan trọng. Đây là
tiểu thuyết về nhân vật lịch sử số một, người khai sinh ra chế độ hiện
hành, nên đã được cấp cao nhất của chế độ đọc duyệt. Chúng ta có thể lọc
ra những thông tin cơ bản nhất mà chúng ta có thể nhận thấy là tác giả
không thể hư cấu. 1b) GS. Trần Quốc Vượng viết bài này ở Mỹ, và xuất bản thành sách
cũng ở Mỹ. Ông đã viết rõ: “Tôi không muốn có bất cứ kết luận “khoa học”
gì về bài viết này. Vì nó không phải là một luận văn khoa học. Đây chỉ
là việc ghi lại một số lời truyền miệng dân gian…”. Như vậy, cả hai tư liệu trên đều chưa phải là tư liệu chuẩn cứ. Tuy
vậy, nếu theo “tư liệu Sơn Tùng”, thì ông Hồ Sĩ Tạo chỉ là gia sư và có
ân nghĩa thông thường với thân phụ của bà Hà Thị Hy cũng như với bà Hà
Thị Hy, nên về sau có giúp đỡ ông Nguyễn Sinh Sắc theo lẽ xử sự giữa
những người có mối quan hệ quen biết lâu năm với ông ngoại và mẹ đẻ của
ông Sắc, và ông Sắc cũng biết ơn ông Hồ Sĩ Tạo về sự giúp đỡ đó mà thôi.
Ông Sắc vẫn là con đẻ của ông Nguyễn Sinh Nhậm. Còn bài viết của GS.
Trần Quốc Vượng khiến người đọc nghĩ là ông Hồ Sĩ Tạo mới là người tạo
ra đứa con rơi Nguyễn Sinh Sắc! Tuy nhiên, GS. Trần Quốc Vượng khẳng
định đó không phải là luận văn khoa học, mà chỉ là “ghi lại một số lời
truyền miệng dân gian…”, nghĩa là không có cơ sở khoa học nào cả. GS.
Vượng chỉ đi điền dã để ghi chép, chứ không phải làm công tác điều tra
khoa học với các phương tiện khoa học kĩ thuật thực nghiệm hiện đại. 2) Thông thường, những vụ con rơi này được giải quyết như thế nào? Và trong trường hợp cụ thể về Cụ Nguyễn Sinh Sắc? 2a) Thứ nhất, NHỮNG NGƯỜI TRONG CUỘC NÓI RÕ VÀ NHÌN NHẬN CON RƠI.
Những người trong cuộc ở trường hợp này là bà Hà Thị Hy, ông Hồ Sĩ Tạo
và ông Nguyễn Sinh Nhậm. Trường hợp cụ thể này, có cả ông Nhậm, vì bà Hy
có bầu trước, “ôm bụng bầu” về làm vợ ông Nhậm (*), nên ông Nhậm biết
rõ; biết rõ nhưng chấp nhận. Khi ông Nhậm chết, không lâu sau đó bà Hy
cũng chết, sao ông Tạo ngại gì mà không nói rõ sự thật với ông Sắc rằng
ông Sắc chính là con ruột ông Tạo? Cách chắc chắn hơn, ông Tạo để lại
một bức thư với thủ bút để làm bằng với điều kiện, bức thư ấy có người
làm chứng trước sự hiện diện của bà Hy. Bà Hy có điểm chỉ (lăn tay). Như
vậy thì đạt yêu cầu nhất. Và rồi, ông Sắc sẽ nói lại, đồng thời đưa bức
thư ấy cho đàn con của mình. Nếu thế, 3 người con đã biết rõ. Đằng này,
ông Nguyễn Sinh Khiêm, bà Nguyễn Thị Thanh và ông Hồ Chí Minh (Nguyễn
Sinh Cung) không nói gì về chuyện đó cả, nên hẳn là họ không biết! 2b) Thứ hai, NGƯỜI NGOÀI CUỘC NHẬN THẤY CHA RUỘT VÀ ĐỨA CON RƠI GIỐNG
NHAU. Ông Sắc còn ảnh chân dung, nhưng liệu ông Tạo có ảnh chân dung
không? Có thể đối chiếu xem thử họ có giống nhau không, mặc dù sự thật
chưa chắc cha con thật đều giống nhau? Thế thì cơ sở ở đâu để kết luận! Nói tóm lại, những người trong cuộc không nói gì cả về chuyện ông Sắc
là con rơi, cũng không có bằng chứng cụ thể khả tín (đáng tin cậy), thì
đành chịu, ngoại trừ biện pháp thứ ba, cũng là biện pháp cuối cùng: 2c) Thứ ba, XÁC MINH BẰNG PHƯƠNG TIỆN KHOA HỌC THỰC NGHIỆM. XÉT NGHIỆM ADN, LẤY MẪU TỪ HÀI CỐT, DI THỂ. 3) Tạm kết luận: Một khi không có cơ sở chứng cớ nào
có giá trị, thì vấn nạn phải được xem như là vấn nạn giả, phải xem như
không có vấn nạn ấy, nghĩa là ông Sắc vẫn là con đẻ ông Nhậm và bà Hy.
Nếu thấy cần thiết, thì có thể tiến hành xét nghiệm ADN, lấy mẫu từ di
cốt, di thể các đối tượng liên quan (ông Tạo, ông Nhậm, ông Sắc, bà
Hy…). Nhưng nếu không thể xét nghiệm được, vì xương cốt đã phân huỷ, thì
vấn nạn cũng xem như là vấn nạn giả mà thôi, chứ không thể lấy tin đồn,
lời truyền miệng dân gian làm sự thật được. Việc ghi tên tuổi cố chủ
tich Hồ Chí Minh vào danh sách hậu duệ của họ Hồ làng Quỳnh Đôi, khắc
vào bia đá, là hoàn toàn vô lí, vô căn cứ. T.X.A.
24 & 25-02-2016 (HB16) ______________________________________ (*) Chi tiết này cũng bị suy diễn: bà Hy có bầu trước, “ôm bụng bầu” về làm vợ ông Nhậm! (xem lại bài của GS. Trần Quốc Vượng) .
.
TRÍCH NGUYÊN VĂN:
GS. ĐẶNG XUÂN KỲ (TỔNG CHỦ BIÊN), “HỒ CHÍ MINH – BIÊN NIÊN TIỂU SỬ”,
TẬP 1 (1890 – 1929),
(Xuất bản lần thứ hai, có sửa chữa bổ sung),
NHÀ XUẤT BẢN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA,
HÀ NỘI – 2005
http:// hochiminh. Vn /news /pages / news.aspx? CateID=14 &ItemID=193
“Năm 1890, tháng 5, ngày 19
Ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Chủ tịch Hồ Chí Minh, thời niên thiếu tên là Nguyễn Sinh Cung, ra đời
tại quê mẹ là làng Hoàng Trù (thường gọi là làng Trùa), xã Chung Cự ,
tổng Lâm Thịnh, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An (nay thuộc xã Kim Liên,
huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An).
[…]
Thân phụ của Người là Nguyễn Sinh Sắc, sinh năm 1862
(2) quê ở làng Kim Liên (thường gọi là làng Sen) cùng thuộc xã Chung
Cự, cách Hoàng Trù 2km (nay thuộc xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ
An). Ông Sắc vốn xuất thân từ gia đình nông dân, mồ côi cha mẹ sớm, từ nhỏ đã chịu khó làm lụng và ham học. Vì vậy ông được cụ Hoàng Đường ở làng Hoàng Trù xin họ Nguyễn Sinh đem về nuôi.
Ông vừa lao động vừa tiếp tục học tập. Khi trưởng thành, ông thành hôn
với người con gái đầu của cụ. Cho đến năm 1890, ông Sắc chưa thi cử và
đỗ đạt gì.
Thân mẫu của Người là Hoàng Thị Loan, sinh năm 1868. Bà là một phụ nữ
cần mẫn, đảm đang, đôn hậu, sống bằng nghề làm ruộng và dệt vải, hết
lòng thương yêu và chăm lo cho chồng con ăn học.
Lúc này ông Sắc, bà Loan đã có ba người con.
Nguyễn Sinh Cung là con thứ ba trong gia đình.
Chị của Người là Nguyễn Thị Thanh, còn có tên là Nguyễn Thị Bạch Liên, sinh năm 1884 .
Anh của Người là Nguyễn Sinh Khiêm, còn có tên là Nguyễn Tất Đạt, sinh năm 1888 .
Gia đình Nguyễn Sinh Cung sống trong một căn nhà nhỏ ba gian lợp tranh, trên đất vườn của ông bà ngoại tại làng Hoàng Trù.
[…]
Bà ngoại là Nguyễn Thị Kép, cũng là con một gia đình có truyền thống Nho học, làm ruộng để nuôi gia đình”.
+++ Ghi chú tài liệu tham khảo về đoạn này:
– Gia phả họ Nguyễn Sinh ở làng Kim Liên. Tài liệu lưu tại Khu di tích Kim Liên – Nghệ An.
– Trần Dân Tiên: “Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch” , Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1975, tr.10.
– Biên bản “Hội thảo về thời niên thiếu của Bác Hồ” tại Nghệ An năm 1970. Tài liệu lưu tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.
– Bài viết “Xã Nam Liên và làng Kim Liên, quê hương của Hồ Chủ tịch” . Tạp chí Nghiên cứu lịch sử , số tháng 5-1965, tr.7 – 8.
+++ Chú thích số 2: Qua nhiều nguồn hồi ký cho biết: ông Nguyễn Sinh Sắc lên 3 tuổi (tuổi âm lịch) thì bố là Nguyễn Sinh Vượng (*) mất (7-1864). Từ đó chúng tôi cho rằng ông Sắc sinh năm 1862.
——————
+++ Chú thích ngoài sách: (*) Nguyễn Sinh Nhậm, nhưng có lẽ vì vua Tự Đức tên Nhậm (Hồng Nhậm), nên đổi thành Nguyễn Sinh Vượng.
Trong “Hồ Chí Minh – biên niên tiểu sử”, không
thấy họ tên của bà nội là Hà Thị Hy, và hoàn toàn không nhắc đến cử nhân
Hồ Sĩ Tạo. Đó là lí do tôi (T.X.A.) không sử dụng tư liệu này trong vấn
nạn: ai là thân phụ của Cụ Nguyễn Sinh Sắc, mặc dù biết rằng đây là tư
liệu chính thức nhất.
(chú thích ngoài sách của T.X.A.).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét