Thứ Bảy, 25 tháng 7, 2020

TT&HĐ I - 11/c


                                               Hồ Chí Minh-Chân dung một con người.

PHẦN I:     CÓ MỘT CÁI GÌ ĐÓ

“Tại sao có một cái gì đó chứ không phải là không có gì?”

CHƯƠNG XI: GIẤC MỘNG NGÀN ĐỜI

                
                  "Linh hồn của con người vẫn cần lý tưởng hơn                           thực tế
                   Chúng ta tồn tại nhờ thực tế; nhưng chúng ta  sống
                   vì  lý tưởng."
                   Victor Hugo

                   "Tôi đã thấy đủ những người chết vì một lý tưởng.
                   Tôi không tin vào chủ nghĩa anh hùng; tôi biết nó 
                dễ dàng và tôi đã học được rằng nó có thể đẫm máu.                     Điều tôi mong muốn là sống và chết cho điều tôi 
                    yêu"    
                   Albert Camus

"Cái quí nhất của con người ta là đời sống. Đời người chỉ sống có một lần, phải sống sao cho khỏi xót xa ân hận vì những năm tháng đã sống hoài sống phí, cho khỏi hổ thẹn vì dĩ vãng ti tiện và hèn đớn của mình, để đến khi nhắm mắt xuôi tay, ta có thể nói rằng: tất cả đời ta, tất cả sức ta, ta đã hiến dâng cho sự nghiệp cao đẹp nhất trên đời-sự nghiệp đấu tranh giải phóng loài người"                                                                                                                                               N. A. Ôxtơrốpxki

"Lý tưởng là ngọn đèn sáng chỉ đường. Không có lý tưởng thì không có phương hướng xác định; không có phương hướng thì không có cuộc sống".
Lev Tolstoy (Nga)
"Con người có vật chất mới có thể sinh tồn, có lý tưởng mới nói đến cuộc sống. Bạn muốn hiểu sự khác nhau giữa sinh tồn và sống? Động vật thì sinh tồn, con người thì sống".
Hugo (Pháp)
"Tuổi trẻ không có lý tưởng giống như buổi sáng không có mặt trời".
Belinsky (Nga)
"Mỗi người phải kiên trì đường đi mình đã mở ra, không bị quyền uy dọa ngã, không bị quan điểm đương thời khống chế, cũng không bị thời thượng cám dỗ".
Goethe (Đức)





(Tiếp theo)



                                  ***

   Xét riêng trường hợp Việt Nam. Năm 1858, thực dân Pháp nã pháo vào Đà Nẵng, mở màn cuộc chiến tranh xâm lược nước ta. Ngay từ đầu, triều đình Huế, đứng đầu là ông vua nhát cáy, tham sống sợ chết Tự Đức, đã không có lòng quyết chiến, và càng về sau càng tỏ ra khiếp hãi, bạc nhược trước đội quân xâm lược không đông nhưng tinh nhuệ hơn và có hỏa lực áp đảo. Trong khi đó, trái lại, tinh thần chống xâm lăng của quần chúng ngày một dâng cao, làm xuất hiện phong trào tự phát vũ trang, đứng lên bảo vệ tổ quốc mà đứng đầu là những sĩ phu, nhà nho yêu nước. Dù tự phát và có tính manh mún thì phong trào ấy (lúc đầu nổ ra ở Nam Kỳ-Lục tỉnh, sau là Bắc Kỳ và Trung Kỳ) không những làm cho thực dân Pháp gặp rất nhiều khốn đốn với những tổn thất không nhỏ, mà còn không chỉ một hoặc hai lần đưa cuộc xâm lược của chúng vào tình trạng tiến thoái lưỡng nan, thậm chí là có khả năng bị thất bại hoàn toàn. 
Chính cái tư tưởng cầu hòa, chủ bại đầy bạc nhược của triều đình Huế đã làm cho những cơ hội hiếm hoi ấy trôi qua, không trở thành hiện thực được. Đó là một tội rất lớn đối với dân tộc Việt (gồm dân tộc Kinh và mọi dân tộc khác sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam). Nếu xét về trách nhiệm cá nhân thì kẻ gây ra tội ác đó, không ai khác là đích danh Tự Đức - một ông vua giỏi văn chương, thơ phú nhưng bản chất là nhẫn tâm, yếu hèn, đạo đức giả, trong thời trị vì trước khi Pháp xâm lược đã từng bị thần dân của mình nguyền rủa, chẳng hạn: "Bao giờ Tự Đức chết đi / Thiên hạ bình thì mới dễ làm ăn". Vì quá khiếp nhược trước thực dân Pháp, lại coi nhân dân không ra gì và chỉ mong toàn mạng mà Tự Đức đã không hề đếm xỉa đến vận mệnh dân tộc, trở nên phản động, bán dần đất nước, không những tích cực cản trở, ngăn chặn, mà còn đồng thời trực tiếp làm tay sai cho Pháp trong việc đàn áp phong trào đấu tranh vũ trang chống xâm lược của dân tộc Việt. Vì thế mà triều đình Huế nói chung và Tự Đức nói riêng cũng phải chịu trách nhiệm là nguyên nhân sâu xa gây nên hàng loạt cái chết uất ức (nhưng tiết liệt) của nhiều quan lại, sĩ phu yêu nước đương thời đó như: Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu, Võ Duy Ninh, Phan Thanh Giản, Thủ khoa Huân, Nguyễn Trung Trực...Có đủ bằng chứng lịch sử để nói rằng, triều đình Huế thời Tự Đức là triều đình "dở hơi" và phản động nhất trong lịch sử Việt Nam, và Tự Đức là ông vua "sợ dân hơn sợ giặc", mức độ đê hèn may ra chỉ "thua" sự ươn hèn của Lê Chiêu Thống, kẻ mang danh vua nhưng chưa từng được làm vua có thực quyền, thực lực và được cai quản cả một đất nước như Tự Đức. Hơn nữa, nếu tiền bối Gia Long là kẻ mở ra "công cuộc" rước voi về dày mả tổ thì hậu duệ Tự Đức là kẻ đã hoàn thành "suất sắc" cái  "công cuộc" ấy!

Tự Đức
嗣德

Hoàng đế Đại Nam (chi tiết...)
Vua Tu Duc.jpg
Chân dung thông dụng của vua Tự Đức
Early Nguyen Dynasty Flag.svg Hoàng đế thứ tư của Nhà Nguyễn
Trị vì 18471883

      Về danh nghĩa, có thể coi ngày ký hiệp ước Patơnốt (6-6-1884) là ngày thực dân Pháp hoàn thành cuộc xâm lược toàn cõi Việt Nam, nhưng trong thực tế phải coi ngày Hoàng Hoa Thám bị sát hại (10-2-1913) mới là ngày thực dân Pháp dập tắt được hoàn toàn phong trào đấu tranh vũ trang thời kỳ đầu của dân tộc ta chống sự xâm lược của chúng. Hiệp ước Patơnốt đã giúp Pháp nhanh chóng hoàn chỉnh, củng cố vững vàng bộ máy thống trị dưới danh nghĩa bảo hộ, tồn tại "bên cạnh" triều đình Huế, một nhà nước "hữu danh vô thực" mà thực chất là làm tay sai đắc lực cho chúng. (Ở đây, cần nhấn mạnh rằng, dù đã bán nước thì không phải vì thế mà triều đình Huế vẫn tồn tại được. Nó được tiếp tục tồn tại là nhờ dã tâm "cáo già" của thực dân Pháp cho phép!). Tình hình đó và ít nhiều có cả sự góp phần của cái ý thức hệ nho giáo còn hằn sâu trong tâm trí người Việt, đã làm suy giảm hẳn khả năng qui tụ lực lượng, tổ chức vũ trang khởi nghĩa với khẩu hiệu chống xâm lược một cách đơn thuần như thời kỳ đầu. Đây là một trong số ít những nguyên nhân chủ yếu làm cho xã hội Việt Nam lắng dịu hẳn xuống kể từ sau phong trào đấu tranh Cần Vương (có thể cho là vào năm 1895 với sự thất bại của cuộc khởi nghĩa An Khê do Phan Đình Phùng lãnh đạo) đến ít ra là hết thời kỳ "Khai thác thuộc địa lần thứ nhất" của thực dân Pháp (đến năm 1918). Nghĩa là nói chung, không còn hình thức đấu tranh vũ trang nữa mà chỉ còn hình thức đấu tranh chính trị dưới dạng "ngấm ngầm", mà cũng rất manh mún, gói gọn ở một số ít chí sĩ yêu nước và hoạt động tuyên truyền chủ yếu trong giới trí thức, học sinh.
 
Phan Bội Châu
PhanBoiChau.jpg
Tên: Phan Bội Châu
Hán-Nôm: 潘佩珠
Ngày sinh: 26 tháng 12 năm 1867
Ngày mất: 29 tháng 10, 1940 (72 tuổi)

        Phong trào tự phát khởi nghĩa đấu tranh vũ trang, đối đầu trực diện với thực dân Pháp trong thời kỳ đầu, có động lực thuần túy từ lòng yêu nước nồng nàn, được hun đúc thành truyền thống qua hàng ngàn năm chống quân xâm lược phương bắc của dân tộc ta. Mục tiêu duy nhất của phong trào đó đơn thuần là chống thực dân Pháp xâm lược. Sau năm 1895, do tình hình xã hội Việt Nam đã thay đổi nên mục tiêu đấu tranh chống xâm lược đơn thuần không còn phù hợp nữa, làm cho cuộc đấu tranh yêu nước thời kỳ đó cũng lâm vào trạng thái hoang mang, mất phương hướng chủ đạo. Lịch sử đã cho thấy rằng buổi đầu cuộc đấu tranh chính trị chống ách đô hộ của thực dân Pháp với sự tiếp tay và "ăn theo" của triều đình Huế thối nát, cũng đồng thời là cuộc tự đấu tranh tư tưởng để xác định đường lối khả dĩ nhất cho hành động. Cuộc đấu tranh tư tưởng đó làm xuất hiện nhiều trào lưu cách mạng, nhưng bị "rào cản" của nhận thức đương đại mà chung qui lại, không ảo tưởng (Phan Bội Châu), cải lương (Phan Chu Trinh) thì cũng phiêu lưu manh động (Nguyễn Thái Học), và đều đi đến bế tắc. Biểu hiện chung nhất của phong trào đấu tranh chính trị thời kỳ này là tản mạn, không lôi kéo được đông đảo quần chúng cần lao tham gia. Có như thế là vì một mặt, không có trào lưu cách mạng nào có được một cơ sở lý luận đủ sức thuyết phục, mặt khác là trong đời sống xã hội chưa xuất hiện hoặc nếu xuất hiện thì chưa rõ rệt  một tình thế có lợi cho cách mạng phát triển.
 
Phan Châu Trinh
Phan Chau Trinh.jpg
Sinh Phan Châu Trinh
phủ Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam
Mất Sài Gòn, Đông Dương thuộc Pháp
Nơi an nghỉ Sài Gòn

         Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, Pháp tuy là nước thắng trận nhưng do bị tàn phá nặng nề nên đời sống kinh tế-xã hội cũng trở nên tiêu điều. Để khắc phục hậu quả chiến tranh, chính phủ Pháp chủ trương tăng cường khai thác không thương tiếc các nước thuộc địa. Ở Việt Nam, chủ trương đó được hiện thực hóa bằng cuộc "Khai thác thuộc địa lần thứ hai". Qui mô và sự tàn bạo của cuộc bóc lột này làm cho tầng lớp làm công ăn lương (công nhân) tăng lên nhanh chóng về số lượng đồng thời làm cho họ cũng nhanh chóng lâm vào cuộc sống rất cơ cực. Đây là khâu trọng yếu làm xuất hiện tình thế cách mạng mà chính thực dân Pháp với bản chất ăn cướp trắng trợn đã tự gây ra. Tuy nhiên, tình thế cách mạnh chỉ có thể kích thích phong trào cách mạng vốn đang tản mạn về đường lối và lúng túng về lý luận lên mức độ hoạt động nào đó sôi nổi hơn, thậm chí là quyết liệt hơn (để dễ dẫn đến đổ vỡ đau thương hơn?!), chứ không thể đột nhiên làm cho phong trào ấy biến thành một cuộc cánh mạng đấu tranh giải phóng duy nhất, có cơ sở lý luận vững chắc, có tiêu chí và mục đích nhất quán, rõ ràng, cụ thể, thuyết phục và lôi cuốn được đại bộ phận quần chúng cần lao vì cũng thỏa mãn được niềm mong ước của họ.

 
Nguyễn Thái Học (chữ Hán: 阮太學; 1902 – 1930)
 là một nhà cách mạng Việt Nam chủ trương dùng vũ
 lực lật đổ chính quyền thực dân Pháp, giành độc lập 
cho Việt Nam. Ông là một trong số những người sáng
 lập Việt Nam Quốc dân đảng và lãnh đạo cuộc khởi 
nghĩa Yên Bái năm 1930. Cuộc khởi nghĩa thất bại,
 ông bị thực dân Pháp bắt và chém đầu ngày 17 tháng 6
 năm 1930 tại Yên Bái.
 
          Ngày nay, dù vẫn còn là vấn đề bí ẩn đối với khoa học, thì hiện tượng tâm linh đã được thừa nhận rộng rãi. (Từ đó mà nảy sinh luận điểm: một triết thuyết về thực tại khách quan, muốn xác đáng thì không được hàm chứa mâu thuẫn nội tại và đồng thời phải thực sự biện chứng, nhưng muốn thực sự biện chứng thì trước hết không được chối bỏ hiện tượng tâm linh (chứ không phải mê tín dị đoan) mà phải coi đó là biểu hiện một phương thức vận động của tự nhiên. Triết học Mác chưa thỏa mãn được yêu cầu đó!). Xét ở góc độ con người sinh học thì sự xuất hiện Hồ Chí Minh là một ngẫu nhiên, nhưng xét ở góc độ tâm linh thì sự xuất hiện đó là một linh ứng. Có thể nói tinh thần Hồ Chí Minh là kết quả được hun đúc nên từ tinh hoa khí thiêng sông núi Việt, từ nguyện vọng được sống độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc hết mực thiết tha, nung nấu thường trực trong tâm hồn dân tộc Việt, từ nỗi uất ức còn đọng lại thành khối và thấu đến trời xanh của những anh hùng, nghĩa sĩ đã bất khuất chọn cái chết chứ không đầu hàng trong thời kỳ đầu chống thực dân Pháp xâm lược. Đã là con người thì không thể là thần thánh, nhưng có thể là sự ủy thác của thần thánh và ở mức độ nào đó nhận được sự mách bảo của thần thánh qua con đường linh cảm linh tri. Vì thế mà cuộc đời Hồ Chí Minh là một chuỗi những quyết định và hành động phi thường chỉ có thể có ở những bậc vĩ nhân. Ngay ở tuổi thiếu thời, dù kính trọng lớp cha anh là Phan Bội Châu, thì Hồ Chí Minh vẫn không theo tư tưởng cách mạng của Phan Bội Châu. Bước vào tuổi thanh niên, Hồ Chí Minh đã tự thân quyết định ra đi tìm đường cứu nước với hai bàn tay trắng. Rồi lúc ở Pháp tiếp xúc với bậc yêu nước lão thành Phan Chu Trinh, dù vẫn kính trọng tiền bối nhưng cũng không theo tư tưởng cách mạng của tiền bối mà lại hướng về cách mạng vô sản. Chỉ riêng từng đó thôi, vào thời buổi ấy, có thanh niên hay nói chung là người Việt yêu nước nào có đủ bản lĩnh và sáng suốt làm được như Hồ Chí Minh? Không ai cả! Hồ Chí Minh chính là người được sinh ra để gánh trên vai trọng trách đưa đất nước và dân tộc Việt thoát khỏi vòng đô hộ và nô dịch của ngoại bang và bè lũ ngụy quyền tay sai. Ông đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ vô cùng khó khăn mà tổ quốc Việt Nam giao phó và do đó ông cũng hiển nhiên trở thành vị anh hùng dân tộc trong thời đại mình.
         Phong trào cách mạng Việt Nam đang trong "cơn bĩ cực" về tư tưởng và đường lối thì được cuộc khởi nghĩa thắng lợi của cách mạng vô sản Nga (cách mạng Tháng mười Nga, năm 1917) cùng với học thuyết Mác-Lê soi rọi tới. Những năm đầu thập niên hai mươi của thế kỷ XX là khoảng thời gian rộ lên một cách tích cực sự chuyển biến về tư tưởng và đường lối đấu tranh yêu nước, giành độc lập dân tộc trong hàng ngũ các chí sĩ, những trí thức cấp tiến của phong trào cách mạng Việt Nam. Cuộc chuyển biến có tính nhất quán ở chỗ xác định kẻ thù chính (không thể thỏa hiệp) của dân tộc là thực dân Pháp, do đó mục tiêu trọng yếu và trực tiếp của cách mạng là trước sau gì cũng phải đối đầu trực diện, kiên quyết đánh đuổi chúng đi. Lịch sử cho thấy quá trình chuyển biến tư tưởng ấy có xu hướng qui dần đến lựa chọn học thuyết xã hội Mác-Lê và cách mạng vô sản. Phan Bội Châu vào những năm tháng cuối đời (khoảng thời gian bị quản thúc ở Huế) đã hết lời ca ngợi chủ nghĩa xã hội. Phạm Tuấn Tài là người cùng Nguyễn Thái Học sáng lập Việt Nam quốc dân Đảng, tổ chức chính trị tiêu biểu cho xu hướng cách mạng dân chủ tư sản. Sau khi Việt Nam quốc dân Đảng tan rã, trước lúc mất vì bệnh, Phạm Tấn Tài đúc kết: "...Chủ nghĩa quốc gia hiện đã trái mùa, cả đến chủ nghĩa xã hội dân chủ (tư sản-NV) hay chủ nghĩa tam dân cũng chỉ là những cách mệnh cải lương không công hiệu. Nói rõ hơn, chỉ có chủ nghĩa Mác-Lênin mới có thể đánh đổ được chủ nghĩa đế quốc mà giải phóng cho các dân tộc yếu hơn, chỉ có chủ nghĩa Mác-Lênin mới phá tan được xã hội giai cấp mà dẫn nhân loại tới thế giới đại đồng". Theo Lê Duẩn ("Một vài đặc điểm của cách mạng Việt Nam", NXB Sự Thật, Hà Nội, năm 1967) thì: "Từ năm 1930, trên dải đất Việt Nam, phong trào chống đế quốc giành độc lập, giải phóng dân tộc, chỉ là những phong trào do giai cấp công nhân lãnh đạo". Như vậy, tương tự như phong trào cách mạng Nga, sự hướng tới thực hiện cách mạng vô sản dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản đối với phong trào cách mạng Việt Nam chính là lựa chọn có tính tự nhiên của thời cuộc, cũng tức là có hàm chứa tính tất yếu.
         Không đếm xỉa nhưng cũng chấp luôn cả đám mang lòng thù hận cộng sản điên cuồng đến mức hoàn toàn mù lòa và bệnh hoạn, mở miệng ra, không chửi bới thô lỗ cũng trơ tráo đặt điều vu khống trắng trợn, chắc rằng không một ai có thể trưng ra bằng chứng đích đáng và đủ lý lẽ phản biện để phủ nhận được vai trò tiên phong và quyết định của Đảng cộng sản Việt Nam trong việc lãnh đạo, dẫn dắt dân tộc ta giành lại độc lập, chủ quyền đất nước, đập tan ý đồ nô dịch nước ta lần thứ hai của thực dân Pháp bằng thắng lợi sau chín năm kháng chiến trường kỳ, đuổi đế quốc Mỹ ra khỏi bờ cõi, đánh đổ ngụy quyền tay sai, thống nhất nước nhà sau ngót hai mươi năm kháng chiến thần thánh và đại thắng. Trong lịch sử nhân loại thời hiện đại chỉ duy nhất có dân tộc Việt Nam, trong suốt cuộc đấu tranh gan góc và bền bỉ nhằm giành lại quyền sống cơ bản và chính đáng của mình trước thực dân, đế quốc, luôn được nhân dân thế giới, trong đó có cả nhân dân Mỹ không những đồng tình ủng hộ mà còn cảm phục và hết lời ngợi ca. Đó chính là niềm tự hào dân tộc của mọi con dân Việt Nam! Và trong niềm tự hào ấy, tất nhiên phải hiện lên rõ nét hình ảnh sống động của Đảng cộng sản Việt Nam quang vinh cùng với những con người tiêu biểu cho tinh thần bất khuất, quả cảm vô song, cho trí tuệ minh triết của dân tộc trong thời đại mới, như: Hồ Chí Minh, Trần Phú, Hoàng Văn Thụ, Nguyễn Thị Minh Khai, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Chí Thanh, Lê Duẩn, Võ Văn Kiệt...Như đã nói, con người không phải là thần thánh và dù là thần thánh thì khi hành động đôi khi cũng vẫn phạm sai lầm cá nhân, thậm chí là sai lầm lớn. Song, không phải vì thế mà chê bai có ý đồ mạt sát, bôi nhọ tài năng và đức độ những con người tiêu biểu đã đi vào lịch sử ấy-những con người là cha anh của thế hệ hôm nay, nhất là phủ nhận công lao thực sự to lớn của họ đối với đất nước, dân tộc. "Người quân tử (trong khi hành hiệp) đôi khi phạm phải điều bất nhân, nhưng chưa từng thấy kẻ tiểu nhân làm được điều nhân nghĩa". Đó là lời của Khổng Tử và ngẫm nghĩ thấy...cũng chí lý! Nếu đặt các vị có trình độ giáo sư, tiến sĩ hiện nay đang lớn tiếng chê khinh sự "ít học" của những con người tiêu biểu nêu trên, vào thời cuộc ấy và ở ngay những vị trí của họ, chắc gì các vị đã lập được một "góc nhỏ" công trạng cho đất nước như họ và phạm sai lầm ít hơn họ?

                                             ***

  Hiện nay đã hình thành một bộ phận phản biện xã hội đối với đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Bộ phận này tập hợp không ít những nhà trí thức lớn tuổi, có học hàm học vị chuyên môn cao, có tiếng tăm, nên cũng lôi kéo được một số ít người trong giới trí thức trẻ. Phản biện không xấu, phản biện đến mức gay gắt cũng không xấu, thậm chí lại cần thiết, miễn thực tâm muốn xây dựng, bất vụ lợi, biết lắng nghe và tiếp thu lại ý kiến từ phản biện của phản biện, cũng như biết tự phản biện. Thực tế thời gian qua cho thấy có nhiều những ý kiến phản biện xã hội rất chí lý, rất sâu sắc và cũng rất kịp thời (còn chính phủ có nhìn nhận ra điều đó không lại là chuyện khác!). Nhưng dần dà, nhất là trong thời gian gần đây, có thể là do quá bức xúc trước những hiện tượng lợi dụng pháp luật, quyền lực để trục lợi, làm điều trái ngang, thất đức trong xã hội, cũng có thể là do nhà nước thực sự lúng túng, kém năng lực trong việc triệt phá tham nhũng, tiêu trừ nạn hoạnh họe bắt chẹt người dân để "ăn tiền" một cách vô sỉ, nhẫn tâm của nhiều kẻ hành nghề y, nhà giáo, của các nhân viên công lực, tồn tại "nhan nhản" hầu như "bô bô, việc gì mà xấu hổ" ở các cơ quan công quyền tầng địa phương từ tỉnh đến phường xã, nhất là nạn dựa vào luật để "mãi lộ" của lực lượng cảnh sát giao thông trên mọi tuyến quốc lộ, phổ biến đến mức "ai cũng biết"..., lại suy diễn sa đà ra thành chuyện chính trị trong khi trình độ nhận thức triết học còn hạn chế, thiếu tính biện chứng lịch sử, dựa trên những luận cứ mơ hồ, hàm chứa lầm lạc, cho nên bộ phận trí thức phản biện đã đưa ra không ít những nhận định, chỉ trích có phần "quá lố" kiểu "vơ đũa cả nắm", "chụp mũ", "đổ vấy" toàn bộ trách nhiệm cho cái thiết chế cộng sản với Đảng độc quyền lãnh đạo của nhà nước Việt Nam, từ đó nêu ra luận điểm trước mắt phải loại bỏ sự độc quyền lãnh đạo của Đảng rồi tiếp đến là xây dựng một chế độ đa nguyên đa đảng có thiết chế nhà nước kiểu dân chủ hay cộng hòa nào đó coppy (tất nhiên rồi!) từ phương tây. Theo ý chí đó thì cũng coi như mặc nhiên "trở cờ", gia nhập đám nuôi lòng hận thù thâm căn cố đế đến tận xương tủy, đến ngu muội cái khái niệm "cộng sản" mà giờ đây chỉ còn như một thuật ngữ thuần túy hình thức, một nhãn mác "đã gần" mất hết nội dung, thậm chí mù quáng đóng luôn cái vai trò "đội quân tiên phong" trên mặt trận lý luận của đám ấy, vì ít ra, ở mức độ nhất định, đã cùng chung một mục đích với đám ấy, và hơn nữa (vô hình dung) là đồng lòng với đám ấy: kết tội Đảng cộng sản Việt Nam và qua đó, đồng thời cũng hòng bôi xóa  niềm tự hào của dân tộc Việt Nam mà nhân dân thế giới đã thừa nhận. Làm như thế đã có thể gọi là phản động, vong ân bội nghĩa được chưa? Bây giờ mà hỏi bất cứ con dân Việt Nam nào chỉ cần biết sơ bộ về lịch sử nước nhà rằng có khinh ghét những hạng người như Trấn Di Ái, Trần Ích Tắc, Lê Chiêu Thống, Tự Đức, ...không(?), thì có lẽ trăm người như một đều trả lời khẳng định. Ấy vậy mà vẫn có những nhà trí thức yêu nước trong số đó đang trên bước đường theo vết xe đổ mà không hay biết, thế mới lạ kỳ! 
    Phải thừa nhận rằng, thực sự tồn tại trong một thời gian dài cho đến tận hiện nay, hiện tượng lạm dụng chức quyền, lợi dụng chủ trương, chính sách, qui định (phần nhiều là đúng nếu công tâm thực thi) của chính phủ để "tham quan lại nhũng", "móc ngoặc tư lợi" đã ở mức độ là vấn nạn của xã hội Việt Nam. Chính vấn nạn này đã trực tiếp vừa làm cho "dân nghèo nước yếu ", vừa bao che, dung túng, hơn nữa là làm nảy sinh thêm những vụ việc, những hoạch định (nhất là trong những lĩnh vực liên quan đến xây dựng cơ bản, đến đất đai) "núp bóng" dưới danh nghĩa phục vụ lợi ích cộng đồng nhưng thực chất chỉ nhằm "bày ra" với mưu đồ đục khoét, thâu tóm, kiếm lợi để tư hữu một cách bất chính, cho nên cũng phơi bày ra nhiều tàn nhẫn, bất công đối với dân chúng, và thêm nữa, nguy hiểm hơn, đóng vai trò "đầu têu", "khuyến khích", làm tăng tốc độ tích tụ tư bản, tăng tốc độ giãn cách giàu nghèo, đồng thời cũng làm tăng tốc độ băng hoại về đạo đức đang lan rộng trong xã hội.
         Vấn nạn đó có ai biết không? Có! Dù có thể nhiều người chưa thấy hết được nguồn gốc sâu xa phát sinh ra nó cũng như tầm tác hại (ngấm ngầm nhưng) ghê gớm của nó trong không gian và thời gian, thì  người dân Việt Nam nào cũng biết. Vậy thì tại sao quần chúng cần lao, đối tượng đầu tiên và cũng là cuối cùng bị xâm hại quyền lợi bởi vấn nạn đó vẫn tỏ ra im lặng, nhẫn nhịn? Phải chăng là vì họ còn thiếu một đội ngũ tiên phong lãnh đạo? Hoàn toàn không phải! Đảng cộng sản và nhà nước Việt Nam đã thấy, đã rất trăn trở, đã công khai nói ra vấn nạn đó và không hề thờ ơ, vẫn đang nỗ lực suy tư lý luận đồng thời với việc đề ra những biện pháp (được cho là khả dĩ) tiêu trừ vấn nạn đó, làm trong sạch bộ máy nhà nước từ trung ương đến địa phương (dù hiệu quả cho đến nay vẫn chưa được như ý muốn!). Không phải chỉ có một động thái đó, nhưng với một động thái đó thôi cũng chứng tỏ được nhiều điều làm cho quần chúng nhân dân nói chung vẫn yên tâm làm ăn, vẫn yên lòng chờ đợi. Thực tế hiện nay cho thấy bộ phận trí thức phản biện theo hướng cực đoan, duy ý chí, tưởng giải quyết vấn nạn nêu trên bằng cách thay đổi thể chế nhà nước hiện hành là chí lý, đã ra sức tuyên truyền, hô hào, lôi kéo đến "rã bọt mép" mà đại chúng hầu như chẳng ai chịu theo, vẫn "hồn nhiên" sống với những hồ hởi, lo toan "sát sườn" của họ, với những vui buồn thường nhật của đời người. Vài trí thức hãnh tiến thái quá trong bộ phận phản biện quá khích, thấy vậy bức bối đổ thừa dân chúng Việt Nam là "ngu lâu dốt bền", là "thùng rác". Phán thế chẳng khác nào chửi dân tộc, dòng giống tổ tiên, ông cha mình. Thật hỗn xược! Nhưng thôi, không nên chấp nê làm gì vì chỉ là chuyện nhỏ. Đây mới là chuyện lớn đầy đau buồn: chỉ vì nhận thức triết học về xã hội còn hạn chế (đây là "lỗi" của thời đại chứ không phải của riêng ai!!!), lại thêm nỗi bức xúc đến độ mất bình tĩnh bởi sự tác động của những hiện tượng tiêu cực, bất nhẫn xảy ra không ít trong xã hội, nên cũng có cái nhìn lệch lạc dần về chính trị mà bộ phận phản biện quá khích, từ những ý kiến đưa ra lúc đầu có tính xây dựng tích cực, hữu ích và cũng đích đáng trong chừng mực, tiến dần đến những ý kiến bài bác, đả phá đầy ác ý toàn bộ chế độ mà ngộ nhận, đinh ninh như thế là đúng, là vì dân. Sự thái quá đó, rất "bất cập", vừa làm giảm tác dụng tích cực của phản biện, vừa làm xã hội phần nào rối loạn thêm. Nhưng dù sao, nói cho cùng thì hầu hết những nhân sĩ, trí thức thuộc bộ phận ấy, nhất là những bậc lớn tuổi, cũng xuất phát từ lòng yêu nước thương dân, thành tâm mong sao cho dân giàu nước mạnh. Xét về mặt nhân cách cá nhân thì các vị nhân sĩ trí thức lớn tuổi ấy cũng là những con người khả kính, đức độ, có lối sống lành mạnh và thực sự là những tài năng đất nước trong chuyên môn của họ. Vô cùng tiếc khi họ tự làm suy giảm thanh danh của mình trước hậu bối, đến nỗi bị bộ phận phản biện của phản biện gọi là "rận chủ, chấy thức". Dù sao thì cũng không nên gọi toàn bộ họ như thế, vì gọi như thế là "đánh đồng", "phủ nhận sạch trơn", thiếu mã thượng và cũng chính là một biểu hiện của sự quá khích, ít nhiều làm sứt mẻ tinh thần tôn sư trọng đạo, làm yếu đi khả năng hòa giải hòa hợp dân tộc. Bài học lớn rút ra từ sự ứng xử sai lầm của Đảng cộng sản Việt nam trong quá khứ vẫn còn đây: trong tình thế "nước sôi lửa bỏng" việc kiên quyết trấn áp lực lượng phản cách mạng nhằm giữ vững chính quyền, củng cố sức mạnh bạo lực để tiếp tục công cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc là đương nhiên và cũng tối cần thiết, nhưng do nhận thức thiếu tự chủ, cực đoan, duy ý chí, siêu hình về chuyên chính vô sản, về vấn đề giai cấp cũng như về phân biệt bạn-thù, ta-địch mà phần nào đã (vô tình) xa rời truyền thống nhân hậu, vị tha của dân tộc, vì vậy, trong hành động đã tỏ ra có phần quá quắt, bất nhẫn, gây ra không ít oan sai, uất ức và qua đó không nhiều thì ít gây ảnh hưởng trái chiều đối với tinh thần, chủ trương hết sức đúng đắn và sáng suốt được lãnh tụ Hồ Chí Minh nêu ra cũng như đã thực hiện ngay từ buổi đầu giành chính quyền, đó là trấn áp đi liền với vấn an trên nền tảng hòa giải hòa hợp, đại đoàn kết dân tộc, nghĩa là lấy giáo dục, khuyên răn, thuyết phục trên tinh thần đồng cảm làm biện pháp chủ yếu, trừng trị chỉ là biện pháp bất đắc dĩ cuối cùng. 
Hiện nay trên mạng Internet đã hình thành tương đối rõ nét sự đấu tranh nội bộ (vì cùng chung một mục đích duy nhất và tối hậu là tìm cách chấn hưng đời sống kinh tế-xã hội, làm cho dân giàu (chứ không phải quan giàu!) nước mạnh(chứ không phải nhóm lợi ích mạnh!)) giữa hai lực lượng biện hộ xã hội và phản biện xã hội, dưới dạng "khẩu chiến", "bút chiến", nghĩa là đã có tính căng thẳng. Nói chung, như thế cũng tốt, thậm chí là rất tốt cho Đảng và Nhà nước, vì từ đó đã và đang xuất hiện những đánh giá tình hình, những góp ý xây dựng có tính lý luận cao, rất sâu sắc, rất thiết thực (không phải chỉ do những bậc trí giả có tiếng tăm mà cả do những "thất phu hữu trách", những "con dân tha hương" đề xuất). Tuy nhiên, dù có căng thẳng và gay gắt đến mấy thì mọi người, những ai tham gia "cuộc chơi" đó nên "thấm thía" và "thấm thía" hơn nữa lời nhắn nhủ chí lý chí tình của tổ tiên ông bà: "Bầu ơi thương lấy bí cùng/ Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn", "Nhiễu điều phủ lấy giá gương/ Người trong một nước phải thương nhau cùng"...      
         Nhắc lại, "Đấu tranh sinh tồn" là qui luật tự nhiên cơ bản của thế giới sinh vật, trong đó gồm cả xã hội loài người. Đóng vai trò như một hệ quả rút ra từ qui luật này nhưng chỉ thể hiện rõ rệt trong đời sống xã hội loài người nên cũng mang màu sắc đặc thù coi như chỉ ở loài người mới có, đó là nguyên tắc có tính phổ biến: ở đâu có bất công, bóc lột, áp bức, ở đó có bất bình, phản kháng, đấu tranh. Quần chúng nhân dân là nền tảng của một xã hội, là căn bản của một đất nước. Đó là lực lượng to lớn, tiềm ẩn sức mạnh vô địch, nhưng lành tính, ít bị biến động, khích động trước ảnh hưởng của các hiện tượng, sự cố thông thường xảy ra trong xã hội (tương tự như đại dương với những biến cố cục bộ xảy ra trong lòng nó). Lịch sử nhân loại cho phép nhận định rằng dù ở thời nào và ở nước nào cũng vậy, yêu cầu tối hậu duy nhất mà cũng giản dị  của quần chúng nhân dân là được sống trong no đủ nhờ yên ổn làm ăn. Vì thế mà nói chung, dân chúng không mấy quan tâm đến chính trị. Đối với họ, sống dưới thể chế nhà nước nào cũng được, miễn cái yêu cầu sát sườn có tính sống còn ấy được đáp ứng, đảm bảo. Khi cái yêu cầu sát sườn có tính sống còn và đồng thời cũng chính là quyền sống cơ bản ấy đã không được thỏa mãn mà còn bị ngăn trở, bị xâm phạm ngày một nặng nề (nghĩa là bị áp bức bóc lột ngày một thậm tệ), uy hiếp rõ rệt đến khả năng sống còn thì cái khối nền tảng, đại dương quần chúng ấy mới ầm ì dậy sóng, mới phản ứng theo trình tự từ ôn hòa (khiếu kiện, nhờ pháp luật giải quyết) đến quyết liệt (chống người thi hành công vụ, chống chính quyền), từ tự phát lẻ tẻ đến tự giác rộng khắp. Đó là quá trình vạn bất đắc dĩ phải tự thân đứng lên hành động của người dân "thấp cổ bé họng" nhằm bảo vệ quyền sống cơ bản, phúc lợi được hưởng từ thành quả lao động chính đáng của mình (nên cũng chứa đựng ở mức độ nhất định tính "có lý"), thế thôi chứ hành động tự thân đó chẳng hề có một mục đích chính trị nào (như nhiều người lầm tưởng hoặc cố ý gán ghép, thổi phồng). Sự hình thành và phát triển cái quá trình bất mãn, đi đòi được đảm bảo quyền sống cơ bản đó đồng thời cũng là quá trình tự phát xuất hiện những con người, những bộ phận thuộc tầng lớp nhân sĩ trí thức có trình độ lý luận nhất định, trên tinh thần yêu thương đồng loại, đứng về phía những người dân "bị xử ép" công khai phản biện, trưng ra những yêu sách (dù có thể hợp lý hay chưa hợp lý, dù thậm chí là sai lầm) nhằm giải quyết bất công, làm hình thành một lực lượng phản biện với nhà nước. Đối với một nhà nước không những không giải quyết rốt ráo và hợp tình cuộc đi đòi quyền sống cơ bản đó theo hướng ưu tiên vì dân, mà còn bảo thủ, thực thi pháp luật thiếu uyển chuyển, thiếu nhân đạo (nên nhớ: luật pháp bao giờ cũng siêu hình và luôn bị kẻ xấu lợi dụng tính siêu hình ấy, và ở đời, mấy ai được như Bao Công???), tệ hơn nữa, lại chọn cách sử dụng bạo lực, lấy "phạt vạ", cưỡng chế, trấn áp làm phương thức giải quyết chủ yếu và thường xuyên, thì sớm muộn gì nó cũng sẽ làm hình thành nên một đội ngũ tập trung những con người ưu tú của quần chúng gồm phần lớn là nhân sĩ trí thức tình nguyện xả thân, dần  đồng thuận về tư tưởng, thống nhất về mục đích hành động, đóng vai trò tiên phong làm cách mạng, dẫn dắt quần chúng lên đường tranh đấu với nó (đảng cộng sản đã từng thoát thai ra như thế!). Lúc đó cũng chính là lúc phong trào đấu tranh đòi quyền sống cơ bản có tính thuần túy dân sự bắt đầu chuyển biến lên  thành cuộc đấu tranh chính trị, đòi "cải tổ" và ở mức cao hơn là đòi "giải tán" nhà nước cũ, xây dựng nhà nước mới "biết điều" hơn (hơn nữa,ở mức đòi hỏi cao nhất của ý chí về chính trị thì nhà nước mới cũng có thể được thành lập theo một thiết chế mới, dù chưa chắc hoàn hảo hơn, hay hơn thiết chế cũ!). Hoạt cảnh phổ biến dễ nảy sinh ra từ mối quan hệ giữa thống trị và bị trị, đồng thời cũng là bài học chung nhất, cơ bản nhất đối với mọi nhà nước trong công cuộc "trị vì" sao cho quốc thái dân an, rút ra từ lịch sử nhân loại, có lẽ là như vậy. (Và nếu đúng như vậy thì phải quan niệm lại vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa cộng sản!)
        Nhận định một cách khách quan nhất thì nhà nước nào, theo thiết chế nào, dù "thích" hay không "thích", trực tiếp hay gián tiếp, tự giác hay không tự giác, mức độ nhiều hay ít, nếu muốn duy trì sự tồn tại của bản thân nó, thì trong hoạt động cai trị của nó phải "chừa đường sống" cho quần chúng cần lao. Nghĩa là một nhà nước dù có bạc bẽo đến mấy, ác độc đến mấy, tham tàn đến mấy thì cũng hàm chứa một cách tất yếu trong mục tiêu cai trị của nó tính "vì dân". Bởi vì quần chúng cần lao là nguồn gốc phát sinh ra nhà nước, là bệ đỡ cho nhà nước tồn tại và đồng thời là môi trường dung dưỡng nhà nước. (Một nhà nước, nếu muốn, có thể làm tiêu vong nhân dân của một nước khác nhưng dứt khoát không dám, mà cũng không thể trực tiếp ra tay làm tiêu vong nhân dân của nó!). Cho nên tiêu chí cơ bản, chính yếu và đích đáng để xét một nhà nước là tốt hay xấu, là thiện hay ác đối với nhân dân - lực lượng nền tảng cưu mang nó đồng thời cũng là đối tượng cai trị của nó - không phải là ở chỗ nó có hình thức thiết chế nào mà là tính vì dân của nó được thể hiện ra như thế nào, không phải là ở chỗ nó mang nhãn mác "tư bản" hay "cộng sản" có hoạt động vì dân hay không,  mà ở chỗ mức độ và hiệu quả hoạt động "vì dân" của nó đạt đến mức độ nào trong thực tế. Nói thêm, một nhà nước chủ trương vì dân nhưng trong thực tiễn hoạt động vì dân không hiệu quả thì vẫn chưa thể đánh giá là "nhà nước vì dân" được!
        Xã hội Xã Hội Chủ Nghĩa là hình mẫu xã hội được hình dung bởi các nhà lý luận mác-xít hàng đầu. Trong xã hội ấy, với sự điều hành của nhà nước cộng sản (hay còn gọi là nhà nước Xã Hội Chủ Nghĩa và hiển nhiên nhà nước này như tiêu chí ban đầu trên lý thuyết cách mạng của nó, chỉ có mục đích và hành động duy nhất, trực tiếp vì dân, cũng như toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân) sẽ không còn hiện tượng người áp bức bóc lột người và hơn nữa, ai cũng được "làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu", được sống hồn nhiên trong một cộng đồng đầy lòng nhân ái (các nhà mác-xít có phân biệt hai hình thức là xã hội xã hội chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa, nhưng thực ra, chúng chỉ khác nhau về trình độ sống chứ bản chất thì như nhau!). Hình mẫu đó không phải là kết quả của sự mộng mơ có tính viển vông vô lối và tùy tiện mà là kết quả suy tư logic của những bộ não tư duy triết học thuộc hàng kiệt xuất của nhân loại, nghĩa là hình mẫu đó được "bảo hộ" bởi một hệ thống lý luận vững chắc đến độ ngày nay khó có ai có thể trên phương diện lý thuyết và xét về mặt triết học, phản bác được một cách "gãy gọn", rành mạch và có hệ thống. Thế thì tại sao cái hình mẫu quả thực là tươi đẹp và "rất sát" với thực tiễn nói trên (sát sườn hơn Đạo Phật nhiều!) lại không trở thành hiện thực được sau ngót 50 năm ra sức xây đắp của Liên-xô, nước đầu đàn có tiềm lực kinh tế mạnh nhất trong phe xã hội chủ nghĩa? Rất nhiều nhà tư tưởng đã đề cập đến vấn đề này, đã đưa ra nhiều luận giải, đúng có, sai có, nhưng mới chỉ "bó hẹp" trong những phạm vi, mức độ, lĩnh vực nhất định và có lẽ cũng mới chỉ xem xét ở những tầng nấc chưa đủ sâu, còn thuộc phần (tạm gọi là) "bề nổi". Chúng ta cho rằng dứt khoát phải có một nguyên nhân, đóng vai trò là nguyên nhân của mọi  nguyên nhân, như kiểu "gót chân asin", dẫn đến việc trong thời đại ngày nay, như đã thấy, xã hội xã hội chủ nghĩa chỉ mới tồn tại dưới dạng hình mẫu lý tưởng chứ chưa thể triển khai thành hiện thực được (có lẽ phải đợi đến chí ít là ba thế kỷ nữa, tức là hiện thực chủ nghĩa xã hội chỉ có thể xuất hiện, trong trường hợp sớm nhất, đâu đó ở thế kỷ XXIV!).
       Nghiên cứu để thấu tỏ cái nguyên nhân cốt lõi ấy là cả một đề tài rộng lớn, tốn nhiều thời gian và cũng đòi hỏi nhiều công phu, vì phải bắt đầu lại ngay từ những khái niệm cơ bản nhất, những quan niệm nền tảng nhất, đóng vai trò là những viên gạch đầu tiên xây dựng nên hệ thống lý luận của chủ nghĩa cộng sản. Vì khả năng có giới hạn nên chúng ta cũng không có tham vọng thực hiện công việc đầy khó khăn đó mà xin nhường lại cho các nhà tư tưởng, các nhà triết học trẻ thế hệ sau! Tuy nhiên, người viết cũng mạo muội nêu ra đây vài ý kiến sơ lược nhằm (may ra) góp ích gọi là chút ít gì đó cho việc định hướng nghiên cứu, nhưng quan trọng hơn là trưng ra một phản biện xây dựng nữa, của một "thất phu hữu trách" nữa, cho Tổ Quốc yêu thương, cho Nhà nước Việt Nam hiện hành, một nhà nước, nói theo lời Nguyễn Trãi: "Tuấn kiệt như sao buổi sớm, nhân tài như lá mùa thu"!

(Còn tiếp)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét