Thứ Ba, 14 tháng 7, 2020

TT&HĐ I - 10/g

                                                                TIẾN HÓA CỦA TỰ NHIÊN

PHẦN I:     CÓ MỘT CÁI GÌ ĐÓ

“Tại sao có một cái gì đó chứ không phải là không có gì?”

CHƯƠNG X:  TRẦM TƯ MẶC TƯỞNG


"Dòng tư duy tiếp tục chảy; nhưng phần lớn các mảnh của nó rơi xuống vực thẳm không đáy của sự lãng quên. Với một số mảnh, không ký ức nào vượt qua được khoảng khắc chúng trôi qua. Với một số mảnh khác, chúng giới hạn trong một vài khoảng khắc, một vài giờ, hoặc một vài ngày. Lại có những mảnh để lại vết tích không thể xóa đi, và chúng có thể được nhớ lại chừng nào cuộc sống còn tiếp diễn." 
William James

"Có trí óc tốt vẫn chưa đủ, quan trọng là 
biết sử dụng nó." 
Rene Descartes

-Tự do, theo quan điểm siêu hình học của tôi, là quyền lực tự quyết trong một thực thể có tư duy. Nó đưa đến suy nghĩ, lựa chọn và sức mạnh.
-Hãy để trí óc con người tự do. Nó phải được tự do. Nó sẽ được tự do. Sự mê tín và giáo điều không thể giam cầm được nó.
John Adams
Người ta không lười biếng chỉ vì người ta chăm chú. Có lao động vô hình và lao động hữu hình. Suy tưởng là cần cù, nghỉ ngợi là thực hiện. Khoanh tay vẫn là làm việc và siết chặt tay vẫn là hành động. Đôi mắt ngước lên Thiên đường là sáng tạo.
Victor Hugo

Tư tưởng luôn luôn là sự khái quát, và sự khái quát là một thuộc tính của tư duy. Khái quát nghĩa là tư duy.
Hegel

Toán học thuần túy, theo cách của riêng nó, là thi ca của tư duy logic.
Albert Einstein 
Khi con người từ bỏ quyền tư duy, cái bóng cuối cùng của tự do biến mất khỏi chân trời.
Thomas Paine 
Không chịu suy xét là người mù quáng, không thể suy xét là người ngu xuẩn và không dám suy xét là người nô lệ.

Lord Byron 
Chẳng có gì tồi tệ hơn những hành động không có sự sáng suốt.

Thomas Carlyle 
Nhà tư tưởng mới chỉ là người không biết về những gì mà những nhà tư tưởng cũ đã suy ngẫm.
Frank Moore Colby

Lời nói đúng là những thứ không chắc chắn, chúng thường nghe hay ho lắm nhưng lại mang ý nghĩa đối lập với những gì người ta nghĩ.
Agatha Christie

 



(Tiếp theo)


                                    *** 
 Tồn Tại là duy nhất tuyệt đối vốn dĩ thế nên Tự Nhiên Tồn Tại được khẳng định tuyệt đối, cũng có nghĩa là ngoài Tự Nhiên Tồn Tại tuyệt đối, không còn gì nữa hết, nghĩa là không có Hư Vô. Vì còn Hư Vô nghĩa là còn thứ gì đó Tồn Tại! Suy ra từ đó mà thấy Tồn Tại tuyệt đối được bảo toàn. Tồn Tại được bảo toàn tuyệt đối nghĩa là tuyệt đối không thể được sinh ra thêm mà cũng tuyệt đối không thể bị mất bớt đi, và đó được coi là một hệ quả rút ra từ nguyên lý Tự Nhiên, trở thành nguyên lý cơ bản thứ ba (gọi là "nguyên lý bảo toàn Tồn Tại", bên cạnh nguyên lý tương tác và nguyên lý nhân-quả) của Vũ Trụ. Về mặt "biểu hiện", Tự Nhiên Tồn Tại chính là Vũ Trụ tổng hòa các tồn tại luôn biến đổi lẫn nhau từ dạng này sang dạng khác, từ thế này thành thế khác, là tổng thể các sự vật-hiện tượng vận động và chuyển hóa không ngừng, tuân theo nguyên lý Tự Nhiên, cũng có nghĩa tuân theo ba nguyên lý cơ bản là nguyên lý tương tác, nguyên lý nhân-quả và nguyên lý bảo toàn (xin lỗi C. Mác!). Như vậy, không thể khác, Vũ Trụ phải được thấy là một hệ thống cân bằng động tuyệt đối, vô tiền khoáng hậu và tuyệt cùng vĩ đại. (Thuyết Vũ Trụ sinh ra từ "Vụ nổ lớn" (Big Bang), bắt đầu từ một "điểm kỳ dị" và đang giãn nở lạm phát, "tối kỵ" lập luận này, vì nó sẽ phải "khăn gói ra đi" khỏi vật lý học nếu lập luận này là...chân lý! Còn nếu không? Chúng ta đúng là lũ...khùng! Nhưng...quen bị "chửi" thế nhiều rồi, nên bắt chước nhà thơ Phan Khôi, chúng ta tuyên bố: "Làm sao thì cũng chẳng làm sao/ mà dù có thế nào thì cũng chẳng làm chi/ làm chi thì cũng chẳng làm chi/ mà dù có chuyện gì thì cũng...chẳng làm sao"!!!).

Trái Đất là một thực thể trong tổng hòa các tồn tại của Vũ Trụ, nghĩa là cũng phải "nằm" trong mối tương tác và chuyển hóa có liên quan với nhau, phụ thuộc lẫn nhau giữa nó và các tồn tại xung quanh nó, hay có thể nói trong phạm vi qui ước tương đối, giữa nó và môi trường chứa nó (mà cụ thể là Thái Dương Hệ). Sự tồn tại tương đối ổn định và lâu dài theo thời gian cho phép chúng ta xác định rằng, Trái Đất cùng với bầu khí quyển của nó là một hệ cân bằng động tương đối, nghĩa là tương đối cân bằng trong tương tác, trao đổi năng lượng với "bên ngoài", dẫn đến cũng có vận động nội tại (tương tác, chuyển hóa năng lượng "bên trong") tương đối cân bằng, ổn định. Do đó, lại cũng chỉ là tương đối thôi (!), trong một phạm vi qui ước "phù hợp với tự nhiên" (nghĩa là có tính hợp lý, tính khách quan), ở tầng "nhận diện" vĩ mô nào đó tạm gọi là "tầng cảm giác sinh vật", có thể coi Trái Đất và bầu khí quyển của nó là một hệ tự nhiên tồn tại (Tự Nhiên Tồn Tại tương đối!) có tính độc lập-cô lập trong Vũ Trụ, và chúng ta gọi đó là "thiên nhiên" (của thế giới sinh vật). Vì là bộ phận, đồng thời cũng là một phần tương đối hoàn chỉnh, như một hoạt cảnh thu nhỏ của Tự Nhiên Tồn Tại, nên thiên nhiên cũng phải "mang" bản chất của Tồn Tại, cũng như phải vận động chuyển hóa tuân thủ nguyên lý Tự Nhiên hay ba nguyên lý cơ bản, dù có thể là dưới những dạng triển khai theo cách đặc thù. Nhờ như thế mà qui luật đấu tranh sinh tồn-qui luật đầu tiên và cơ bản nhất trong thế giới sinh vật-, được tạo lập nên, để rồi dưới sự tác động của nó mà xuất hiện sự vận động thích nghi sinh vật, và có thể nói vận động thích nghi sinh vật dẫn đến tiến hóa-thích nghi sinh vật là một quá trình bao trùm, liên tục và xuyên suốt trong không gian và thời gian (của thiên nhiên), từ cá thể đến toàn thể và ngược lại, từ toàn thể đến từng cá thể của thế giới sinh vật.

Tiến hóa-thích nghi làm tăng cường khả năng sinh tồn ở mọi giống loài sinh vật. Trong sự tăng cường ấy có sự tăng cường độ tinh nhậy của cảm giác. Nhưng do bị khống chế bởi tính hữu hạn của thiên nhiên (về mọi mặt) nên sự tăng cường khả năng sinh tồn bằng cách chuyển hóa, biến đổi hình thái vận động sinh học nội tại cũng như cấu tạo thể chất ngoại hình sinh vật (xét trên bình diện toàn thể các giống loài cũng như trên từng cá thể sinh vật trong môi trường sinh thái), cũng bị giới hạn, nghĩa là ở mức hạn định của sự tăng cường mà thiên nhiên "cho phép", nếu phải ưu tiên "theo thực tế đòi hỏi" tăng cường khả năng sinh tồn cho mặt này mặt kia trong quá trình hoạt động mưu sinh sinh vật thì chỉ còn cách "lấy bớt đi" khả năng sinh tồn ở những mặt khác. Điều đó cho thấy, chỉ có thể có sinh vật đạt thích nghi tối ưu tương đối chứ không thể có một sinh vật thích nghi hoàn hảo tuyệt đối trong thiên nhiên. 
Riêng đối với sự tăng cường cảm giác cũng vậy, không thể có một hệ cảm giác thực sự hoàn hảo ở bất kỳ cá thể sinh vật nào, vì "được cái này thì mất cái kia", "tăng cái kia thì giảm cái nọ"...Ngày nay, hệ thống cảm giác được cho là hoàn chỉnh nhất mà quá trình tiến hóa-thích nghi tạo ra được là hệ thống gồm cảm giác trực giác và cảm giác gián giác, trong đó cảm giác trực giác gồm năm loại là xúc giác (sờ), thị giác (nhìn), thính giác (nghe), khứu giác (ngửi), vị giác (nếm), còn cảm giác gián giác là cảm giác trực giác đã được "tinh thần hóa" (bởi tư duy trừu tượng). 
Hệ thống ấy ở con người được (chính loài người) đánh giá là tối ưu nhất. 
Có thể nêu ra hàng loại thí dụ giản đơn về cảm giác gián giác. Chẳng hạn trước một cảnh vật, cảm giác trực giác chỉ cho thấy mức độ động-tĩnh, sáng-tối, trong-đục, đơn sắc-sặc sỡ..., nhưng ở nhiều người còn thấy xấu-đẹp, yêu-ghét, buồn-vui..., thì đó là cảm giác gián giác-cảm giác trực giác đã bị "lũng đoạn" bởi tư duy trừu tượng, bởi hồi ức. Con chó thấy chủ về, vẫy đuôi, nhảy cơng cỡng, rú rít chạy bên chủ, thì hành vi đó ít nhiều gì cũng là sự thể hiện vui mừng "một cách vô tư", nghĩa là ít nhiều gì đó cũng là kết quả của cảm giác gián giác...

Lúc đầu, tương tự như trong thế giới vô sinh chỉ có giác, trong thế giới sinh vật cũng chỉ có duy nhất cảm giác trực - xúc giác. Cảm giác trực - xúc giác của một thực thể sinh vật được hình thành trực tiếp từ giác, là cảm nhờ giác trên cơ sở trực tiếp tiếp nhận (những) tác động đến từ môi trường, qua vùng tiếp xúc với môi trường của thực thể sở hữu cảm giác đó. Nói chung, những cá thể sinh vật chỉ có cảm giác trực - xúc giác đều được xếp vào hàng các giống loài có mức độ tiến hóa thấp. Quá trình tiến hóa - thích nghi đã làm xuất hiện những giống loài sinh vật sở hữu nhiều loại cảm giác. 
Để phần nào hiểu được tại sao lại có xu hướng đó, chúng ta có thể tạm chia sinh vật thành hai loại là sống định vị một chỗ và sống di chuyển thường xuyên. Tiêu biểu cho loại đầu là cây cối. Tại sao cây cối chỉ "cần" cảm giác trực-xúc giác mà không "cần" thêm loại hình cảm giác nào khác? Chức năng duy nhất và chung nhất của cảm giác trực giác là phục vụ sinh tồn. Do đó, khi yêu cầu về đảm bảo sinh tồn đòi hỏi đối với nó thì nó sẽ được tăng cường về (cái tạm gọi là) độ chi tiết hóa, hay độ tinh nhậy hóa, mà có khi là cả hai, tùy vào định hướng ưu tiên lựa chọn trong tình hình cụ thể. Đó chính là nguyên nhân sâu xa làm xuất hiện nhiều loại hình cảm giác trực giác ở một cá thể sinh vật. Đối với cây cối, chúng sống nhờ đất, nước, không khí và ánh sáng, toàn những thứ có sẵn, "hơi bị nhiều" nên coi như thường xuyên đầy đủ, chỉ cần "đứng vững ở đó" là sống rồi, do đó, ngoài cảm giác trực-xúc giác nhằm trao đổi chất và hấp thụ dinh dưỡng ra, chúng (đâu có lòng tham kỳ quặc như con người!) chẳng cần "tư hữu" thêm thứ cảm giác nào khác nữa cho... "rách việc".

Theo chúng ta hình dung, sự sống được thiên nhiên tạo ra trong lòng biển mà dạng ban đầu là một tiểu thể "vừa sống vừa không sống" vì chỉ có "giác" là chính, "cảm" (sự tham gia của hoạt động thần kinh) mới có tính mầm mống (đơn bào không nhân?). Khi vùng lòng biển đã "tạo điều kiện" cho "ra đời" một tiểu thể tiền sự sống thì nó cũng tất yếu cho "ra đời" nhiều tiểu thể tiền sự sống và làm hình thành nên một tập hợp, một quần thể tiền sự sống. 
Sự biến đổi thường xuyên trong ổn định tương đối có đôi khi xen vào những biến đổi đột xuất gây bất ổn của môi trường sinh thái biển, đã manh nha hiện tượng đấu tranh sinh tồn và tiến hóa-thích nghi của tiền sự sống, thể hiện ra là sự củng cố, chuyển hóa giác thành cảm giác thực sự, tạo ra sự chủ động làm tăng hiệu quả tiếp thu dinh dưỡng. Phải chăng chính quá trình làm xuất hiện sự chủ động định hướng làm tăng hiệu quả tiếp thu dinh dưỡng, trong điều kiện môi trường biến đổi thường xuyên lúc thuận lợi lúc bất lợi đã là nguyên nhân kích thích xuất hiện hình thức sinh sản đầu tiên của sinh vật-sự phân bào? (Lịch sử hình thành sự sống rất phức tạp, cho đến nay vẫn còn nhiều điều chưa rõ ràng và đang được tiếp tục nghiên cứu. 
Sự hình dung thô phác của chúng ta là từ một góc độ khác và không có tính chuyên môn. Tuy nhiên về mặt "đường lối", theo chúng ta, mượn kiểu nói của nhà văn hóa Vương Hồng Sển, là..."tạm xài được"!)... 
Tiếp tục hình dung, sự sống đơn điệu thời kỳ đầu trong biển cả, theo cuộc tiến hóa-thích nghi sẽ dần trở nên tương đối phong phú, đa dạng giống loài (không xương), mà trong đó có tiền thực vật (sinh thể lam) và những sinh vật lấy nó làm nguồn thức ăn. 
Đến một giai đoạn nào đó, trong điều kiện sinh thái biển trở nên đặc biệt thuận lợi, sẽ làm xuất hiện hiện tượng tăng trưởng lạm phát mang tính đột biến về số lượng cá thể sinh vật biển, mà trước tiên là sinh thể lam (tạm gọi là "rong rêu" cho tiện!), loài đồng thời cũng đóng vai trò như một xúc tác kích thích tăng trưởng lạm phát đối với ít ra là loài trực tiếp "xơi" nó. Tình hình đó làm cho sự "dạt lên bờ" của rong rêu trở nên phổ biến và thường xuyên. Lúc đầu, rong rêu mắc cạn luôn là chết, nhưng cũng có những rong rêu mắc cạn "suýt chết" thì được "cứu sống" nhờ sóng biển, triều dâng, mưa...đưa lại về biển. Dần dà, theo thời gian, sự tiến hóa-thích nghi sẽ làm cho một số rong rêu có thể sống "lưỡng cư" trên cạn dưới nước (tảo) rồi thành thực vật sống hẳn trên cạn (dương xỉ) và từ đó chuyển hóa thành đa giống loài thực vật mới, mở ra quá trình lan tỏa sinh cư ra hầu khắp Trái Đất (kể cả trong bầu khí quyển). 
Quá trình "lên bờ xuống ruộng" để có được lối sống định vị một chỗ thành những loài thực vật sống cạn của rong rêu sẽ tự nhiên kéo theo sự thích nghi sống trên cạn của sinh vật biển ăn rong rêu và đó chính là thủy tổ của những loài "vật ngọ nguậy" trên cạn và tiếp đó là động vật ăn thực vật. Sự tăng-giảm lạm phát về số lượng cá thể ở mỗi giống loài khi gặp môi trường sinh thái thuận lợi - bất lợi là qui luật có tính phổ quát trong thế giới sinh vật cho nên, trong vòng tác động của qui luật đấu tranh sinh tồn, có động vật ăn thực vật thì rồi cũng phải có động vật ăn thịt những động vật ấy, và cả ăn thịt lẫn nhau. 
Thủy tổ của động vật ăn thịt chắc chắn phải có nguồn gốc từ động vật ăn thực vật, phải bắt đầu từ một loài động vật ăn thực vật nào đó trong thời xa xưa tối cổ của lịch sử sự sống...Ở đây, chúng ta đang nói về sự tăng tiến cảm giác nên để dễ thấy vấn đề chúng ta "gói gọn" loại sinh vật có đời sống di chuyển thường xuyên (cũng tạm gọi là "du cư" cho gọn) là động vật có xương sống. 
Ngồi một chỗ, chẳng phải làm gì lại vẫn đủ "mâm cao cỗ đầy" mà an hưởng cuộc sống ngay từ lúc lọt lòng thì...còn gì bằng, và ai không muốn? Nhưng tính hữu hạn của thiên nhiên không cho phép tất cả sinh linh mà may ra (nếu không bị cướp ngôi hay đốn hạ giữa chừng!) chỉ có vua chúa và...cây cối được "hưởng ân huệ" đó! Vì vậy mới có loại sinh vật luôn phải "vật lộn" với cuộc sống đầy biến động, phải di động, lang thang thường xuyên để kiếm ăn trong tình trạng "khôn sống mống chết". 
Rõ ràng, đối với động vật, để có khả năng sinh tồn trong điều kiện như thế, chỉ có cảm giác trực-xúc giác đơn thuần thôi là không đủ. Vậy thì phải tăng cường cảm giác trực giác! Nhưng tăng cường bằng cách nào, như thế nào? Vì không thể tùy tiện "vượt ra ngoài khuôn khổ" sự vốn dĩ của Tự Nhiên nói chung hay sự mặc định của thiên nhiên nói riêng, cũng như phải tuân thủ những nguyên lý - qui luật về tồn tại - vận động, nên việc tăng cường cảm giác sinh vật chỉ có thể bằng cách "mở rộng và chuyên sâu" cảm giác trực - xúc giác.

Giác ở thực thể vô sinh thực chất là tiếp thu tín hiệu đến từ môi trường (từ đó mà thực thể vô sinh tự phát theo qui luật, chuyển biến nội tại sang trạng thái cân bằng động mới một cách tương phản (phản ứng lại môi trường), "nhằm" duy trì sự tồn tại của nó trong tình hình mới một khi nó vẫn còn (được coi) là nó!). Cảm giác trực giác ở sinh vật cũng tương tự như vậy, nhưng có điều hơn là "biết lựa chọn", chủ động chuyển biến một cách tương hợp (với môi trường) theo hướng có lợi cho sự sống. Vậy, tăng cường khả năng cảm giác trực giác cũng chính là tăng cường khả năng "nắm bắt" tín hiệu và xử lý tín hiệu đến từ môi trường. Xử lý tín hiệu trước hết là phân biệt được các tín hiệu khác nhau, cũng có nghĩa là phân loại tín hiệu. 
Chúng ta nhắc lại, mục đích của tăng cường cảm giác trước hết là đảm bảo khả năng sống còn và duy trì được sự sống còn ấy. Đối với động vật, sống trong điều kiện mà cuộc đấu tranh sinh tồn đã "phơi bày" rõ rệt về mức độ căng thẳng, gay gắt, nhiều khi lâm vào tình trạng quyết liệt "một mất một còn", đòi hỏi phải kích thích cường độ và nhịp điệu hoạt động cơ thể lên cao trào, sao cho nhanh hơn, mạnh hơn, bền hơn, uyển chuyển hơn, chính xác hơn, khéo léo hơn,..., nghĩa là (và đúng hơn là) sao cho đạt hiệu quả tối ưu trong công cuộc di cư, vận động tìm kiếm miếng ăn cũng như bảo toàn tính mạng trước "kẻ thù", thì để phục vụ cho yêu cầu ấy, cần thiết phải "nắm bắt" những loại tín hiệu nào để gọi là "đủ dùng" trong chừng mực "cho phép" của thiên nhiên? Trả lời ngay, khỏi cần "xoắn"(!), đó là ánh sáng (thuộc sóng điện từ lan truyền trong Vũ Trụ), âm thanh (thuộc sóng dọc lan truyền trong khí quyển), mùi (thuộc khuếch tán phân tử), vị (sự khác biệt "tự nhiên" về thành phần hóa học giữa các chất), áp lực-xung lực (thuộc tác động cơ học), nhiệt độ (thuộc dao động hỗn loạn cấp phân tử-nhiễu xạ). Và thiên nhiên, thông qua quá trình tiến hóa-thích nghi, đã "ban cho" động vật không những cảm giác được đủ các loại tín hiệu ấy (với những mức độ tinh nhậy khác nhau tùy thuộc vào yêu cầu cụ thể đối với đời sống của từng giống loài), mà còn trên cơ sở cảm giác trực-xúc giác, làm hình thành nên ở chúng những cơ quan "chuyên trách" cảm thụ từng loại tín hiệu ấy và thể hiện ra một cách đặc thù, đó là, thứ nhất, hệ "đầu mối" thần kinh xúc giác phân bố hầu khắp cơ thể động vật nhằm cảm nhận lực-áp lực tác động cơ học và cảm nhận nhiệt độ (xét cho cùng thì cũng là tác động cơ học!), thứ hai, "mắt" nhằm cảm nhận ánh sáng để "nhìn", thứ ba, "tai" nhằm cảm nhận âm thanh để "nghe", thứ tư, "mũi" (bên cạnh chức năng "thở", còn phải) nhằm cảm nhận mùi để "ngửi", thứ năm, "miệng" (bên cạnh chức năng "ăn", còn phải) nhằm cảm nhận vị để "nếm". (He, he... he! Động vật có xương sống, trong đó có "thằng người", trên cơ thể có năm giác quan và chỉ năm giác quan là vì thế! 
Thế sao người đời vẫn cho rằng còn có giác quan thứ sáu nữa? Ngộ nhận thôi, chứ...làm "đéo" gì có! (Văng tục kiểu đó thì sao mà thành trí thức, triết gia được, hả... chúng ta? "Đéo" thèm!!!). Năm "quan" là vừa đủ rồi, thêm "quan" nữa để "nuôi báo cô" đứa "ăn không ngồi rồi", lại còn nghĩ bậy làm bạ cho "rối tung" cơ thể lên, gây "náo loạn" thiên nhiên ấy à? Nhìn vào xã hội loài người thì biết, chỉ có con người là "ngu" thôi, chứ động vật nói chung và thiên nhiên đâu có "ngu"! Nói đúng ra, không có giác quan thứ sáu nhưng có thể có (vì lúc có lúc không!) cảm giác thứ sáu (còn gọi là "linh cảm") và nó "trú ngụ" trong "miền" còn bị lớp màn huyền bí che phủ của cảm giác gián giác. Chúng ta tràn trề hy vọng rằng rồi đây, sự huyền bí của hiện tượng linh cảm, cũng như của những hiện tượng dị thường đại loại như bịt mắt mà vẫn nhìn thấy cảnh vật, sẽ được khoa học phanh phui đến tận cùng chân tướng của chúng, mà trước hết, có thể giải thích sơ bộ (định tính) được trên cơ sở thừa nhận sự tồn tại của cảm giác gián giác và nguồn gốc xuất phát duy nhất của năm loại cảm giác trực giác là cảm giác trực-xúc giác).
Nói tóm lại, để phục vụ cho hoạt động sống, sinh vật phải có cảm giác trực-xúc giác, và đối với động vật hoang dã, nhất là đối với con người, phải có năm giác quan như trên mới được gọi là cần và đủ để cảm giác vị trí tương đối trong không gian và hoạt động sống trong thời gian! Trong năm loại cảm giác ấy, thì cảm giác xúc giác là cảm giác nền tảng có tính nguồn gốc đối với những loại cảm giác còn lại.

(Còn tiếp)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét