Chủ Nhật, 5 tháng 7, 2020

BÍ ẨN LỊCH SỬ 132

(ĐC sưu tầm trên NET)
 
TÌM RA HUNG THỦ ÁM SÁT THỦ TƯỚNG THỤY ĐIỂN OLOF PALME | VÒNG QUANH THẾ GIỚI | ANTG

Kẻ giấu mặt ám sát Thủ tướng Thụy Điển 34 năm trước

Mặc dù là Thủ tướng Thụy Điển, Olof Palme muốn một cuộc sống bình thường nhất có thể và thường ra ngoài mà không có vệ sĩ, đêm định mệnh 28/2/1986 cũng vậy.


Olof Palme, sinh năm 1927 tại Stockholm, nhậm chức Thủ tướng Thụy Điển năm 1982. Tối 28/2/1986, sau khi xem một bộ phim hài tại rạp chiếu phim Grand ở trung tâm thủ đô, ông và vợ đi bộ về phía ga tàu điện ngầm để về nhà.
Palme trước đó đã quyết định cho các vệ sĩ về nghỉ. Vào 23h21, một kẻ xuất hiện từ phía sau và nổ súng vào vợ chồng ông.
Olof Palme tại Stockholm năm 1984. Ảnh: AP.
Olof Palme tại Stockholm năm 1984. Ảnh: AP.
Palme bị trúng đạn ở gáy, trong khi viên đạn thứ hai sượt qua Lisbeth, khiến bà bị thương. Sát thủ tháo chạy khỏi hiện trường trước khi một nhóm người đi bộ chạy đến giúp đỡ Thủ tướng Palme. Ông được đưa đi cấp cứu nhưng qua đời tại bệnh viện rạng sáng 1/3/1986.
Hơn 25 nhân chứng đã cung cấp lời khai cho cảnh sát. Hung thủ là một người đàn ông khoảng 30-50 tuổi, cao khoảng 1m80-1m85, mặc áo khoác tối màu. Tuy nhiên, không ai nhìn rõ diện mạo y.
Một loạt giả thuyết được đưa ra. Được nhiều người coi là chính trị gia có ảnh hưởng và gây tranh cãi nhất trong lịch sử Thụy Điển hiện đại, Olof Palme có nhiều kẻ thù, cả trong và ngoài nước.
Một ngày sau vụ ám sát, cảnh sát nhận được thông tin tố cáo hung thủ có thể là Victor Gunnarsson, 33 tuổi, cựu thành viên đảng Công nhân châu Âu (EAP), nhóm cáo buộc Palme thông đồng với cả cơ quan tình báo Liên Xô KGB và cơ quan tình báo Mỹ CIA.
Với sự căm ghét mà Gunnarsson dành cho Palme, có vẻ hợp lý khi nhận định anh ta là hung thủ. Dấu vết thu được trên áo khoác của Gunnarsson cho thấy anh ta mới bắn súng nhưng không thể chứng minh nó là hung khí. Một tuần sau, anh ta được thả nhưng vẫn bị theo dõi chặt chẽ. Ngày 16/5/1987, cuộc điều tra về Gunnarsson khép lại. 7 năm sau, thi thể Gunnarsson được phát hiện ở khu rừng bên ngoài Salisbury, Bắc Carolina, Mỹ với với hai phát đạn bắn vào đầu.
Một tuần sau vụ ám sát Palme, cảnh sát tập trung điều tra Đảng Công nhân người Kurd (PKK), tổ chức vũ trang chống lại chính quyền Thổ Nhĩ Kỳ. Năm 1984 và 1985, một số cựu thành viên PKK bị sát hại ở Thụy Điển, khiến Palme xác định họ là tổ chức khủng bố.
Sáng 20/1/1987, cảnh sát Thụy Điển bắt 20 người Kurd để thẩm vấn dù không có bằng chứng, nhưng họ không thu được manh mối nào. Tất cả nghi phạm là thành viên PKK sau đó đều được thả.
Năm 1998, PKK cho rằng Thổ Nhĩ Kỳ cố gắng bôi nhọ PKK bằng cách vu cho họ ám sát Palme. Tháng 4/2001, một nhóm cảnh sát Thụy Điển đến gặp lãnh đạo PKK Abdullah Öcalan trong nhà tù Thổ Nhĩ Kỳ để tìm hiểu về cáo buộc một nhóm người Kurd do vợ cũ của Öcalan cầm đầu đã sát hại Palme. Chuyến thăm này không thu về kết quả.
  Christer Pettersson. Ảnh: Cảnh sát Thụy Điển.



Christer Pettersson. Ảnh: Cảnh sát Thụy Điển.
Đầu năm 1987, cảnh sát nhận được tố cáo rằng Christer Pettersson, người từng bị thẩm vấn ngay từ đầu cuộc điều tra, có khuôn mặt giống bản phác thảo chân dung nghi phạm cảnh sát đã công bố. Pettersson là một kẻ nghiện ma túy, nghiện rượu và từng ngồi tù vì ngộ sát.
Pettersson bị thẩm vấn vào tháng 12/1988 và cảnh sát đã thực hiện biện pháp nhận dạng nghi phạm là chụp ảnh Pettersson đứng cùng một số người có chiều cao, vóc người, nước da tương tự. Lisbeth được cho xem ảnh này và xác định Pettersson là kẻ giết người. Mùa hè năm 1989, Pettersson bị buộc tội.
Nhưng nửa năm sau, Pettersson được tha bổng và được bồi thường 50.000 USD vì bị buộc tội sai do cảnh sát đã không làm việc khách quan. Trước khi cảnh sát cho Lisbeth nhận dạng hung thủ, bà được thông báo rằng nghi phạm là người nghiện rượu. So với những người đàn ông khác, rõ ràng Pettersson phù hợp với mô tả này.
Trái ngược với các nhân chứng khác, Lisbeth nói rằng kẻ giết người đã ngoái đầu lại nhìn và bà đã thấy mặt của hung thủ. Tuy nhiên, bà từ chối cho phép cảnh sát ghi âm lời khai và cũng không tham gia tái dựng hiện trường án mạng. Vài năm sau vụ ám sát, Lisbeth đưa ra một số mô tả mâu thuẫn về khuôn mặt của kẻ giết người. Bà cũng không cho phép các thám tử ghi chép, nghĩa là họ phải ghi nhớ và kể lại những mô tả của bà cho các họa sĩ phác họa chân dung.
Pettersson một lần nữa được xác định là nghi phạm chính vào tháng 1/1997. Cảnh sát và các công tố viên lại đưa ra cáo buộc vào năm 1998 nhưng bị tòa án tối cao bác bỏ. Một bộ phim tài liệu phát sóng trên đài truyền hình SVT năm 2006 cho rằng Pettersson thực sự là kẻ giết Thủ tướng Palme, vì anh ta đã nhận nhầm Palme với kẻ buôn ma túy Sigge Cedergren, người anh ta nợ tiền. Pettersson chết vào năm 2004.
Một thuyết âm mưu khác là cảnh sát dính líu tới vụ ám sát và họ đã cố tình để cuộc điều tra đi sai hướng. Có nhiều sĩ quan trong lực lượng cảnh sát Thụy Điển có quan điểm cực hữu từng công khai bày tỏ sự căm ghét với Palme. Có tin đồn rằng một số cảnh sát đã mở champagne ăn mừng sau vụ ám sát. Năm 2010, các tài liệu từ cuộc điều tra chính thức được giải mật, tiết lộ rằng một số sĩ quan cánh hữu tuyên bố họ biết ai là kẻ ám sát. Tuy nhiên, không có cuộc điều tra quy mô nào nhằm về phía cảnh sát được tiến hành.
Mật vụ Thụy Điển cũng bị nghi ngờ vì Palme không có vệ sĩ đi theo. John-Erik Hahne, vệ sĩ lâu năm của Palme, tháp tùng Thủ tướng vào ban ngày nhưng không có mặt vào buổi tối. Theo Hahne, Palme đã yêu cầu được ở một mình vào cuối tuần để ông dành thời gian viết bài phát biểu. Thủ tướng nói với Hahne rằng ông sẽ gọi cho anh nếu cần.
Năm 2012, một trong những người con trai của Palme chỉ trích Mật vụ, nói rằng khi bà Lisbeth tìm vệ sĩ vào tối hôm đó, bà không thể liên lạc được với bất kỳ ai. Tuy nhiên, cảnh sát bác bỏ thông tin này, cho rằng Lisbeth đã nhớ nhầm. Hahne khẳng định chuyện đó không xảy ra.
Chỉ một tuần trước vụ ám sát, Olof Palme có bài phát biểu trước quốc hội Thụy Điển để lên án chế độ phân biệt chủng tộc Apartheid ở Nam Phi. Điều này làm dấy lên nghi ngờ Nam Phi đứng sau vụ ám sát.
Tháng 9/1996, cựu cảnh sát Nam Phi Eugene de Kock nói với Tòa án Tối cao Nam Phi rằng Palme bị bắn chết vì "phản đối mạnh mẽ chế độ Apartheid". De Kock cáo buộc người sát hại Palme là Craig Williamson, một đồng nghiệp cũ của mình trong lực lượng cảnh sát, đồng thời một điệp viên. Các nhà điều tra Thụy Điển đã đến Nam Phi nhưng không thể tìm ra bằng chứng chứng minh cáo buộc của de Kock.
Năm 1986, Ấn Độ mua lô pháo trị giá 8,6 tỷ SEK (hơn 900 triệu USD) từ nhà sản xuất vũ khí Thụy Điển Bofors - đơn đặt hàng vũ khí lớn nhất trong lịch sử Thụy Điển. Vài giờ trước khi bị ám sát, Palme đã gặp Đại sứ Iraq tại Thụy Điển Mohammed Saeed al-Sahhaf. Một số người suy đoán rằng trong cuộc họp này, Palme đã được thông báo rằng một khoản hối lộ 320 triệu SEK đã được gửi vào tài khoản ngân hàng của một người trung gian ở Thụy Sĩ để "bôi trơn" thỏa thuận vũ khí.
Trong cuốn sách xuất bản năm 2005, nhà sử học Jan Bondeson nêu giả thuyết Palme bị ám sát vì có người muốn ngăn ông chặn thỏa thuận. Thương vụ cuối cùng được thông qua vào ngày tổ chức tang lễ của Palme.
Stig Engström. Ảnh: Expressen.
Stig Engström. Ảnh: Expressen.
Năm 2018, tạp chí Thụy Điển Filter đăng loạt bài của nhà báo Thomas Petterson, xác định hung thủ có thể là Stig Engström, thành viên đảng cực hữu Moderates, làm việc cho công ty bảo hiểm Skandia cách hiện trường vài mét. Petterson nêu giả thuyết Engström căm ghét Palme và các chính sách của ông nên đã nổ súng khi tình cờ bắt gặp Palme trên đường chứ không lên kế hoạch trước. Engström từng bị cảnh sát cân nhắc đưa vào danh sách nghi phạm nhưng sau đó được loại bỏ. Ông ta đã tự tử vào năm 2000.
34 năm sau, vụ ám sát Olof Palme vẫn chưa có lời giải. Văn phòng Công tố Thụy Điển sẽ quyết định thúc đẩy hoặc khép lại cuộc điều tra vào ngày 10/6. Giới chuyên gia và báo giới Thụy Điển gần đây cho rằng kịch bản có khả năng nhất là khép lại cuộc điều tra, bởi những người bị cho là nghi phạm đều đã chết.
Anna Sundstrom, tổng thư ký Trung tâm Quốc tế Olof Palme, không kỳ vọng sẽ có thông tin đột phá nào được đưa ra. "Tôi không trông đợi điều gì. Nhưng dù thế nào, việc khép lại điều tra cũng quan trọng. Bạn cần khép lại vụ án mặc dù không tìm ra lời giải", bà nói.
Phương Vũ (Theo Jacobin/BBC)

Mối thù khiến đại ca Hội Tam Hoàng ở Hong Kong bị ám sát 10 năm trước

Lee Tai-lung bị chém chết vào năm 2009 vì từng ẩu đả và gây vết sẹo lớn với một thành viên cấp cao của băng đảng đối thủ trong Hội Tam Hoàng. 


Lee Tai-lung (áo trắng), thành viên cấp cao của bang Tân Nghĩa An thuộc hội Tam Hoàng. Ảnh: on.cc.
Lee Tai-lung (áo trắng), thành viên cấp cao của bang Tân Nghĩa An thuộc Hội Tam Hoàng. Ảnh: on.cc.
Rạng sáng 4/8/2009, Lee Tai-lung, 41 tuổi, bước ra khỏi chiếc xe sang bên ngoài khách sạn Shangri-La ở Kowloon, Hong Kong, trên môi ngậm điếu xì gà hút dở. Một chiếc xe 7 chỗ lao tới, hất tung ông ta lên không. Ba người đàn ông đội mũ, bịt mặt nhảy ra khỏi xe, cầm dao rựa chém liên tiếp vào người Lee.
Một chiếc xe chở 4 kẻ đồng lõa đến kiểm tra hiện trường. Sau khi chắc chắn nạn nhân không thể qua khỏi, những kẻ tấn công lên hai chiếc xe rời đi. 30 phút sau, cảnh sát phát hiện hai chiếc xe này bị đốt cháy ở Lam Tsuen, Tai Po nhằm phi tang bằng chứng.
Hai giờ sau vụ tấn công, Lee Tai-lung chết tại bệnh viện Queen Elizabeth. Lee là trùm chi nhánh của bang Tân Nghĩa An thuộc Hội Tam Hoàng ở Tsim Sha Tsui, khu vực "ăn chơi" nổi tiếng Hong Kong với nhiều hộp đêm, phòng tắm hơi và quán bar.
Hội Tam Hoàng được hình thành từ phong trào "phản Thanh phục Minh" vào thế kỷ 17 ở Trung Quốc, theo kiểu một tổ chức liên kết bí mật giữa một số gia tộc chịu ơn nghĩa của nhau và bảo vệ lợi ích cho nhau.
Đến đầu thế kỷ 20, Tam Hoàng trở thành một tổ chức tội phạm có tổ chức với các hoạt động buôn lậu vũ khí, tống tiền, mại dâm, bắt cóc, tổ chức vượt biên bất hợp pháp, làm hàng giả, cho vay nặng lãi, cờ bạc. Ngoài địa bàn hoạt động chủ yếu tại Hong Kong, Macau, Đài Loan, Hội Tam Hoàng còn có "chân rết" ở một số nơi khác như Trung Quốc đại lục, các phố Tàu ở châu Âu, Bắc Mỹ, Nam Phi, Australia và New Zealand.
Trong các băng phái con của Hội Tam Hoàng, có 4 băng đảng lớn nhất được gọi là "Tứ đại hắc bang", gồm Tân Nghĩa An, 14K, Hòa Hợp Đào và Hòa Thắng Hòa. Trong đó, Tân Nghĩa An là bang lớn nhất với 55.000 thành viên trên toàn thế giới. 
Hai chiếc xe những kẻ gây án sử dụng bị đốt ở Lam Tsuen ngày 4/8/2009. Ảnh: Apple Daily.
Sau vụ tấn công, khoảng 40 đàn em của Lee đã đến bên ngoài khách sạn, hô to "lão đại, trở về đi" để bày tỏ lòng tiếc thương với ông ta. Khi đám tang của Lee được cử hành, khoảng 1.000 người đến viếng, trong đó có nhiều thành viên xã hội đen. Cảnh sát Hong Kong triển khai các biện pháp an ninh như thiết lập chướng ngại vật để kiểm soát khu vực, kiểm tra danh tính người đến viếng và ghi hình đám tang.
Ba năm sau vụ giết người, giới chức Hong Kong tìm ra kẻ chủ mưu là Leung Kwok-chung, một thành viên của bang Hòa Thắng Hòa có biệt danh là "Chung xăm trổ".
Mối hận thù của Leung bắt nguồn từ cuộc ẩu đả tại một quán bar ở đại lộ Prat. Man Pui-ying, thân tín của Lee, ngày 23/7/2006 to tiếng với một nữ tiếp viên ở quán bar này sau khi cô từ chối uống rượu thi với ông ta, khiến Leung - kẻ bảo kê của quán - dẫn tay chân đến can thiệp.
Lo sợ khi phải đối mặt với nhiều thành viên từ băng nhóm đối thủ, Man gọi điện xin Lee "tiếp viện". Lee đưa 20 đàn em đến để uy hiếp và đập một chai rượu whisky lên đầu Leung. Đòn tấn công để lại cho Leung một vết sẹo chạy dài từ phía bên phải mặt xuống dưới cổ.
"Ông ta cảm thấy nhục nhã và vết sẹo luôn nhắc ông ta về mối thù", công tố viên Charlotte Draycott nói. "Những kẻ như thế này không bao giờ quên một vết thương hay một lần mất thể diện".
Sau khi biết mình đã làm bị thương một thành viên cấp cao của bang Hòa Thắng Hòa, Lee đã cố gắng che giấu tung tích. Tuy nhiên, Leung phát hiện ra hành tung của Lee vào tháng 7/2009 và lên kế hoạch thực hiện vụ giết người để trả thù.
4 kẻ đồng lõa với Leung đã bị kết án tù chung thân vào năm 2011. Tuy nhiên, Leung và hai tên khác vẫn đang lẩn trốn. Giới chức treo thưởng mức tiền cao kỷ lục là 600.000 đô la Hong Kong (76.000 USD) cho người cung cấp thông tin về tung tích ba tên này nhưng vẫn chưa bắt được họ.
Phương Vũ (Theo SCMP/China Daily)

Những thanh kiếm kì bí nhất lịch sử nhân loại

Võ Thuật Thứ Tư, 10/06/2020 19:26:47 +07:00

Theo truyền thuyết và lịch sử để lại có những thanh kiếm nhuốm màu sắc kỳ bí, rùng rợn.



1. Thanh gươm trong đá

Những thanh kiếm kì bí nhất lịch sử nhân loại - 1


Trong khi truyền thuyết Arthur được cho là một sản phẩm của văn hóa dân gian và huyền thoại thì xuất hiện một số câu chuyện cho rằng, thanh gươm trong đá là có thật. Theo đó, người ta nhận định nó là thanh kiếm của hiệp sĩ Tuscan có tên Saint Galgano. Galgano sống ở thế kỷ XII. Hiệp sĩ này tin rằng có thể chặt tảng đá bằng thanh gươm sắc bén của mình một cách dễ dàng tựa như cắt bơ nên đã làm điều kỳ lạ ấy. Tuy nhiên, ông đã không thể rút thanh kiếm ra khỏi tảng đá.
Truyền thuyết về Arthur và Thanh gươm trong đá cũng đã được chuyển thể thành phim.
2. Thanh kiếm Kusanagi

Những thanh kiếm kì bí nhất lịch sử nhân loại - 2


Theo thần thoại Nhật Bản, cách đây từ rất lâu, có một con rắn tám đầu luôn tìm cách quấy nhiễu nhân gian. Thấy chuyện bất bình, vị thần Susanoo-no-Mikoto đã quyết tiêu diệt con mãng xà này. Vị thần dùng ba thùng rượu để dụ dỗ ác xà, nhân lúc nó say rồi lấy mạng nó bằng cách cắt đuôi.
Tuy nhiên trong đó có một cái đuôi không thể nào cắt được, thần bèn dùng kiếm khoét một lỗ hổng nhỏ thì mới phát hiện thấy bên trong cái đuôi này có một thanh bảo kiếm. Thần Susanoo đã đặt tên cho thanh bảo kiếm ấy là Kusanagi.
Kusanagi được coi là biểu trưng của hoàng gia (Imperial Regalia) Nhật Bản và là một trong những biểu tượng nữ thần mặt trời. Hoàng gia Nhật Bản sử dụng nó làm biểu tượng của quyền lực thiêng liêng và dùng để cai trị thần dân. Thanh kiếm này được cho là đang “ngự” trong ngôi đền Atsuta thuộc tỉnh Nagano, nhưng sự hiện hữu của nó không được công bố với công chúng trong suốt nhiều thế kỷ qua.
3. Thanh kiếm huyền bí Durandal

Những thanh kiếm kì bí nhất lịch sử nhân loại - 3


Trong hàng trăm năm, thanh kiếm huyền bí Durandal bị gắn vào trong các vách đá phía trên nhà thờ nhỏ Notre Dame ở Rocamadour, Pháp. Các tu sĩ cho hay nó là bảo kiếm của hiệp sĩ Roland. Roland được cho là cháu trai của Hoàng đế La Mã nổi tiếng Charlemagne. Roland cũng là người vĩ đại nhất trong số 12 bá tước, và là chiến binh giỏi nhất trong triều đình.
Theo truyền thuyết, Roland đã ném thanh kiếm của mình vào vách đá để nó không rơi vào tay kẻ thù. Nỗ lực phá hủy kiếm Durandal của Roland đã tạo nên một khe hở (La Breche de Roland) rộng 40m và cao 100m ở Pyrenees. Kể từ thế kỷ XII, nhà thờ nhỏ Notre Dame đã trở thành một điểm trong cuộc hành hương thiêng liêng của các tín đồ. Năm 2011, giới chức trách đã di chuyển thanh kiếm khỏi vách đá và bảo quản, trưng bày nó ở Bảo tàng Cluny, Paris.
4. Thanh kiếm bị nguyền rủa Muramasas

Những thanh kiếm kì bí nhất lịch sử nhân loại - 4


Theo truyền thuyết, đây là một thanh kiếm cổ của người Nhật Bản và có sức hủy diệt ghê gớm. Do đó, các vị thần đã đưa ra yêu cầu, rằng, người nào sử dụng thanh kiếm buộc phải để nó thấm máu người. Nếu thanh kiếm Muramasas không được thỏa mãn “cơn khát máu” thì người đó sẽ bị giết hoặc phải tự tử. Có rất nhiều câu chuyện về những người sử dụng thanh kiếm Muramasas trở nên điên dại hay bị giết chết. Do đó, người ta cho rằng nó là vũ khí bị nguyền rủa.
Kể từ đầu thế kỷ 16, Muramasa lưu lạc khắp nơi và trải qua nhiều đời chủ nhân, từng là bảo vật dưới triều Mạc phủ Tokugawa. Tuy nhiên, suốt nhiều năm sau đó, Muramasa khiến người ta sợ hãi bởi những chủ nhân của nó thường chịu chung số phận rất đoản mệnh.
Ở thế kỷ 16 và 17, triều đại phong kiến còn cấm các Samurai được sử dụng Muramasa. Dù vậy, sức hút của nó vẫn rất mạnh mẽ, đến nỗi danh tướng nổi tiếng Tokugawa còn dùng một thanh kiếm giả và lấy tên là Muramasa.
5. Thanh kiếm Honjo Masamune

Những thanh kiếm kì bí nhất lịch sử nhân loại - 5


Thanh kiếm Masamune được đặt tên theo người đã chế tác ra nó – Goro Nyudo Masamune – thợ rèn kiếm lừng danh nhất Nhật Bản, sống vào cuối thế kỉ 13 đầu thế kỉ 14, được mệnh danh là một “thiên tài”.
Theo truyền thuyết Nhật Bản, hai thanh kiếm Masamune và Muramasa đã có một so tài với nhau. Trong khi Muramasa có thể chặt đứt tất cả mọi thứ mà nó chạm vào và được xem là biểu tượng của tà ác thì thanh kiếm Masamune lại từ chối “xử lý” bất cứ thứ gì không xứng đáng, thậm chí là cả không khí. Masamune được coi là thanh kiếm quý có giá trị như bảo vật quốc gia, là biểu tượng của lòng vị tha nhưng người ta chưa bao giờ tìm thấy hay nhìn thấy nó “bằng xương bằng thịt”.
6. Thanh kiếm Joyeuse

Những thanh kiếm kì bí nhất lịch sử nhân loại - 6


Joyeuse là một trong những thanh kiếm huyền thoại, nổi tiếng trong lịch sử. Đây là thanh kiếm huyền thoại của vua Charlemagne. Nó được cho là có khả năng thay đổi màu sắc 30 lần/ngày và sáng như ánh mặt trời. Hoàng đế Charlemagne đã sử dụng thanh kiếm Joyeuse để chặt đầu chỉ huy của người Saracen là Corsuble. Người ta còn sử dụng tên của thanh kiếm này để đặt cho một thị trấn. Sau khi hoàng đế Charlemagne qua đời, thanh kiếm Joyeuse huyền thoại thường được sử dụng trong lễ đăng quang của các vị vua Pháp.
Vào đầu năm 1271, hai thanh kiếm có tên gọi Joyeuse đã xuất hiện trong nghi lễ đăng quang của các vị vua Pháp. Một trong hai thanh kiếm được cho là thuộc sở hữu của Tòa Thánh La Mã trong nhiều thế kỷ.
7. Thanh kiếm của Thánh Peter

Những thanh kiếm kì bí nhất lịch sử nhân loại - 7


Đã có nhiều truyền thuyết về thanh kiếm của Thánh Peter sử dụng để cắt tai của người hầu trong khu vườn Gethsemane. Joseph xứ Arimathea đã mang thanh kiếm đó cùng Chén Thánh đến Anh. Tuy nhiên, đến năm 968, Đức Giám Mục Jordan đã mang thanh kiếm này đến Ba Lan. Kể từ đó, nó ở lại Ba Lan và được chuyển đến Bảo tàng Archdiocese ở Poznan.
8. Thanh kiếm Wallace

Những thanh kiếm kì bí nhất lịch sử nhân loại - 8


Thanh kiếm của Wallace dài 1,68m, rộng 5,7cm (gần chuôi kiếm), nặng 2,7kg, trong đó lưỡi dao dài tới 1,32m. Truyền thuyết kể rằng hiệp sĩ William Wallace đã sử dụng da người làm vỏ kiếm, chuôi kiếm và dây đai dùng để đeo gươm. Wallace đã sử dụng da khô của chỉ huy Scotland phụ trách ngân khố Hugh de Cressingham sau khi đánh bại người này trong trận chiến cầu Stirling. Hiện thanh kiếm này được trưng bày tại Đài tưởng niệm quốc gia Wallace. Nó đã được sửa chữa nhiều lần, không còn nguyên vẹn như ban đầu.
9. Thanh kiếm Zulfiqar

Những thanh kiếm kì bí nhất lịch sử nhân loại - 9


Zulfiqar là một trong những thanh kiếm nổi tiếng nhất trong thế giới Hồi giáo. Nó thuộc sở hữu lãnh tụ Hồi giáo Hazrat Ali – em họ và con rể của nhà tiên tri Muhammad. Một số tài liệu cổ miêu tả nhà tiên tri Muhammad đã trao kiếm Zulfiqar cho Ali trong trận đánh Uhud vì ngưỡng mộ quyền lực và sức mạnh của Ali trên chiến trường. Thanh kiếm này trở thành một biểu tượng trong văn hóa Hồi giáo và được mọi người tôn kính, ngưỡng mộ.




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét