Thứ Tư, 15 tháng 7, 2020

TT&HĐ I - 10/h

                                                                          Giác quan thứ 6

PHẦN I:     CÓ MỘT CÁI GÌ ĐÓ

“Tại sao có một cái gì đó chứ không phải là không có gì?”

CHƯƠNG X:  TRẦM TƯ MẶC TƯỞNG


"Dòng tư duy tiếp tục chảy; nhưng phần lớn các mảnh của nó rơi xuống vực thẳm không đáy của sự lãng quên. Với một số mảnh, không ký ức nào vượt qua được khoảng khắc chúng trôi qua. Với một số mảnh khác, chúng giới hạn trong một vài khoảng khắc, một vài giờ, hoặc một vài ngày. Lại có những mảnh để lại vết tích không thể xóa đi, và chúng có thể được nhớ lại chừng nào cuộc sống còn tiếp diễn." 
William James

"Có trí óc tốt vẫn chưa đủ, quan trọng là 
biết sử dụng nó." 
Rene Descartes

-Tự do, theo quan điểm siêu hình học của tôi, là quyền lực tự quyết trong một thực thể có tư duy. Nó đưa đến suy nghĩ, lựa chọn và sức mạnh.
-Hãy để trí óc con người tự do. Nó phải được tự do. Nó sẽ được tự do. Sự mê tín và giáo điều không thể giam cầm được nó.
John Adams
Người ta không lười biếng chỉ vì người ta chăm chú. Có lao động vô hình và lao động hữu hình. Suy tưởng là cần cù, nghỉ ngợi là thực hiện. Khoanh tay vẫn là làm việc và siết chặt tay vẫn là hành động. Đôi mắt ngước lên Thiên đường là sáng tạo.
Victor Hugo

Tư tưởng luôn luôn là sự khái quát, và sự khái quát là một thuộc tính của tư duy. Khái quát nghĩa là tư duy.
Hegel

Toán học thuần túy, theo cách của riêng nó, là thi ca của tư duy logic.
Albert Einstein 
Khi con người từ bỏ quyền tư duy, cái bóng cuối cùng của tự do biến mất khỏi chân trời.
Thomas Paine 
Không chịu suy xét là người mù quáng, không thể suy xét là người ngu xuẩn và không dám suy xét là người nô lệ.

Lord Byron 
Chẳng có gì tồi tệ hơn những hành động không có sự sáng suốt.

Thomas Carlyle 
Nhà tư tưởng mới chỉ là người không biết về những gì mà những nhà tư tưởng cũ đã suy ngẫm.
Frank Moore Colby

Lời nói đúng là những thứ không chắc chắn, chúng thường nghe hay ho lắm nhưng lại mang ý nghĩa đối lập với những gì người ta nghĩ.
Agatha Christie 

 



(Tiếp theo)


                                   ***

Để động vật có được hệ thống cảm giác trực giác thống nhất với năm giác quan hoạt động tương đối độc lập trong mối quan hệ hỗ trợ lẫn nhau như thế, thì đương nhiên bằng quá trình tiến hóa-thích nghi, chúng cũng phải có hệ thống thần kinh (gọi là) bậc cao để "đảm đương và hoàn thành nhiệm vụ", với cơ quan trung ương là một bộ não ít nhiều phải biết hồi ức (để phân định, lọc lựa, đo lường, đánh giá tín hiệu nhằm định hướng phản ứng, chọn cách hành động, "ra lệnh" thực thi), nghĩa là một bộ não ít nhiều biết tư duy trừu tượng. Cần nói thêm cho rõ, năm giác quan của động vật chỉ đóng vai trò là năm cơ quan có cấu tạo sinh học đặc thù để (coi như) có khả năng chuyên giác (tiếp nhận, xử lý) một trong năm loại (tập hợp) tín hiệu kể trên rồi truyền ("ám hiệu", "tin tức") về cho cơ quan trung ương (tức bộ não) cảm nhận, chứ bản thân chúng không thể cảm được.
Dù là một bộ não chỉ mới biết trừu tượng ở mức độ sơ khai nhất thì cảm giác của nó đã khác về chất so với cảm giác trực giác của cây cối rồi, vì tính trực giác trong cảm giác của nó không còn "thuần túy" (nên cũng "mù mịt"!) nữa, mà trong đó đã có tính gián giác, hay có thể nói: có "mầm mống" của gián giác, và vì thế, cảm giác của bộ não đó dù vẫn là cảm giác trực giác, nhưng đã được "nâng cấp" thành tinh tế hơn, "đậm nét" hơn. Như vậy, ở động vật, nhờ có được năm giác quan và đồng thời với sự hiện diện của tính gián giác (dù là ở mức độ còn manh mún, nhạt nhòa) trong cảm giác trực giác mà sự cảm nhận của nó về hiện thực xung quanh nó đã trở nên sâu rộng, tỏ tường, rạch ròi đến mức độ chỉ thua cảm giác trực giác của con người... có nhận thức (vì con người chưa biết nhận thức chỉ là động vật đội lốt người, và động vật biết nhận thức là con người trong thân xác động vật hoang dã!).

Rốt cuộc, khi chưa có khái niệm, tức là khi chưa biết nói, cũng có nghĩa là khi chưa biết nhận thức, chưa qua nhận thức, con người trực giác cũng tương tự như động vật trực giác, hay nói đúng hơn "một chút", không khá hơn con tinh tinh trực giác là mấy. Nhưng khi đã biết nhận thức và đã qua nhận thức thì trực giác ở con người đã "thấm đẫm" gián giác, là thứ cảm giác trực giác đã được "chắp thêm" đôi cánh nhận thức, và vì thế mà vượt trội hơn hẳn trực giác ở loài động vật về các mặt tổng quát hóa, tinh tế hóa, thấu tỏ hóa...Một đứa bé chưa nghe ai nói và cũng chưa đến tuổi biết nói, khi nhìn thấy một đóa hoa, chỉ có thể cảm được "có cái gì đó không biết là cái gì". Nhưng nếu không phải đứa bé mà là một chàng trai thấy đóa hoa đó, thì ngay lập tức, như một bản năng, chàng ta "biết tỏng" đó là đóa hoa, và hơn nữa, nếu thấy đóa hoa đó đẹp và lại là người có tâm hồn mơ mộng, thì có thể chàng ta còn mở lời thảng thốt: "Ôi, tuyệt trần! Tươi thắm như một nàng trinh nữ hồn nhiên đang độ xuân thì!"...

Vào thời Ấn Độ cổ đại, các nhà duy vật-thực dụng Charvaka, vì chưa biết đến điều đó (mà làm sao biết được khi đến hôm nay chúng ta mới là người đầu tiên nêu ra !?), nghĩa là cứ tưởng rằng trực giác "của họ" vẫn là trực giác "trần trụi" khách quan chưa có sự "xen vào" của ý thức, cho nên họ mới quan niệm rằng những gì họ trực giác được (một cách chính xác rồi!) thì đều là sự thực khách quan, và chân lý là kết quả được "rút ra" trực tiếp từ chúng. Họ đâu biết rằng trực giác của họ không còn là "thứ" trực giác "thuần túy" của cây cối hay trực giác "câm nín" của động vật nữa, cũng đâu biết rằng những sự thực "không thể chối cãi" mà họ trực giác-chứng thực được, đều có sự "mách bảo và xúi dục ngầm" của nhận thức và suy lý qua "con đường ngầm" cảm giác gián giác (từ kinh nghiệm đã tích lũy, từ tri thức đã hun đúc, và...chưa chắc đã đúng hay hoàn toàn đúng!). 
Theo chúng ta quan niệm, có thể khẳng định rằng, khi người Charvaka trực giác, thì...đúng là họ trực giác, nhưng là "thứ" trực giác đã qua nhận thức, trên nền tảng khái niệm-suy lý, cho nên khi họ nói "đúc kết" trực tiếp chân lý từ đó, thì chân lý đó thực chất vẫn là kết quả của suy lý và vì thế, chưa chắc đã là chân lý đích thực, chỉ có điều họ đã vô tình (giống như Kỳ Na Giáo vô tình) không hề hay biết mà thôi!

Ngày nay, nhờ có trang thiết bị cực kỳ hiện đại do chính bản thân mình sáng tạo ra hỗ trợ, loài người đã tự nâng năng lực trực giác của mình lên tầm cực kỳ sâu rộng, có lẽ đến tít "chân trời Vũ Trụ" (chứ không phải "biên Vũ Trụ") ở tầng vĩ mô và có lẽ cũng đến tận "cực tiểu Vũ Trụ" (hạt Higgis, chứ chưa phải "điểm mốc cuối cùng") ở tầng vi mô. Dù có thế thì bản chất trực giác đã qua nhận thức và nhận thức bằng khái niệm và thông qua khái niệm-suy lý của con người vẫn không hề thay đổi. 
Xét về phương diện tìm hiểu thực tại khách quan thì nhận thức bắt đầu từ trực giác, đồng thời nhờ nhận thức mà trực giác chuyển hóa thành (tạm gọi là) "trực -gián giác" (hay "trực giác đã qua nhận thức"), làm cho trình độ cảm giác dần được tăng cường cả bề rộng lẫn bề sâu. Như vậy, có thể nói, trực giác chưa qua nhận thức là trực giác mù quáng, nhưng nó sẽ được khai sáng khi nhận thức xuất hiện và "mở mang" nó, để rồi sự khai sáng ấy kích thích trở lại nhận thức một cách tương hợp làm hình thành nên những tri thức mới... 
Và cứ thế theo thời gian, với trực giác-nhận thức ngày càng tỏ tường-uyên áo, sẽ đến một thời khắc tâm trí loài người bừng lên sáng láng, từ đó loài người không những "đại ngộ" được đến tận "chân tơ kẽ tóc" bản chất chính xác của Tự Nhiên Tồn Tại, mà còn mô tả một cách toàn diện và hoàn toàn rõ ràng chân dung đích thực của Nó bằng những tập hợp các dấu hiệu thông tin (những tín hiệu, ám hiệu, ký hiệu...), theo cách thức qui ước xác định có tính mặc định, mà bản thân loài người, qua quá trình học hỏi và bắt chước tự nhiên khách quan, đã chủ quan sáng tạo ra được trong khả năng cảm giác trực-gián giác của mình.

Vậy thì rõ ràng, cái chân dung về Tự Nhiên Tồn Tại ấy không hề là "dung nhan đích thực", tuyệt đối khách quan của Tự Nhiên Tồn Tại, mà may lắm, chỉ có thể là "dung nhan mô phỏng đích đáng", tương đối khách quan đối với riêng loài người - "kẻ" sau khi đã cảm giác đến mức "đại ngộ" Nó và đồng thời phù hợp với sự "đại ngộ" đó, cũng sáng tạo ra chân dung Nó theo cách "nhào nặn" chủ quan, riêng có của tư duy trừu tượng con người, cũng như theo khả năng có thể của tư duy trừu tượng con người mà thiên nhiên đã ban cho vừa phóng khoáng vừa hạn định.

Chúng ta biết qui kết nêu trên khó mà được các "đại gia thông thái" thừa nhận vì nó...chưa qua thực chứng khoa học nào! Nhưng chúng ta cứ đặt trọn niềm tin vào đó bởi nghĩ rằng, thực chứng khoa học chẳng là... cái đinh gì (!) khi lịch sử nhận thức của loài người đã như một thực chứng hùng hồn rồi!. Vả lại, thực chứng chắc gì đã đủ độ tin cậy khi nó bị "tiêm nhiễm" những hiểu biết (có thể đã lỗi thời, lạc hậu) của quá khứ và vẫn phải chịu sự đánh giá của cảm giác chủ quan? Một cảm giác (hay nhận thức) được cho là "rút ra" trực tiếp từ thực nghiệm-thí nghiệm, thì thực chất vẫn là kết quả thông qua suy lý và do đó vẫn "có quyền" phạm sai lầm. Lịch sử vật lý (cả vật lý cổ điển lẫn vật lý hiện đại) còn lưu lại vô số kể những kết luận sai lầm suy ra từ thực nghiệm cũng như nhiều trường hợp ngộ nhận "chết người" bởi những kết luận ấy, và đã trở thành những bài học "đắt giá" về sự nhận thức! Câu nói: "Thực tiễn là tiêu chuẩn xác nhận chân lý" - của C. Mác, là câu nói đúng ở tầm...tương đối thôi (!), và cũng chỉ đúng ở một vài góc độ cảm giác nhất định mà thôi, vì còn tùy thuộc vào trình độ nhận thức về cả thực tiễn lẫn chân lý nên không có ý nghĩa xác minh phổ biến. Ai hiểu câu nói đó một cách máy móc, người đó sẽ phạm sai lầm trong nhận định. Tại sao? Trả lời cho "kín kẽ mọi nhẽ" thì khó chứ trả lời "lấy được" thì không đến nỗi khó lắm! 
Chắc như bắp: loài người thoát thai từ động vật. Nếu qui ước loài người là loài động vật biết nhận thức, cũng có nghĩa là biết nói, và chỉ thế thôi, thì tiền thân trực tiếp của loài người là một loài nào đó (người vượn?) đóng vai trò trung gian giữa động vật và người. Như vậy, có thể hình dung rằng, khả năng trừu tượng trong cảm giác của loài trung gian đã ở mức cao hơn tương đối rõ rệt so với của động vật, nghĩa là sự tồn tại của thứ gọi là "ý niệm câm nín" ở loài này đã trở thành hiển nhiên, và rất có thể, trong hiện thực, điều đó thể hiện ra dưới dạng như một tập hợp các động tác cơ thể cùng với sự "hú hét" đã được định hình hóa và được sử dụng một cách quen thuộc có tính thường xuyên mà chúng ta tạm gọi là "ngôn ngữ hình thể". Nói rõ hơn, "ngôn ngữ hình thể" là bao gồm những động tác, cử chỉ, sự tạo dáng của các bộ phận cơ thể (đầu, tứ chi, thân...) được định hình tự nhiên và được lưu nhớ có tính chủ đích trong đời sống của loài trung gian như là những "biểu tượng ý niệm", và được loài trung gian ứng dụng (có khi kèm theo cả "hú hét") nhằm truyền đạt "ý niệm câm nín" cho nhau. 
Thực chất của quá trình tiến hóa thích nghi là đảm bảo và tăng cường khả năng sinh tồn ở mọi giống loài sinh vật bằng cách cải biến cấu tạo thực thể "ngoại sinh học" cũng như phương thức vận động "nội sinh học" trên cơ sở kế thừa những định dạng, định thức sinh học đặc thù đã được tạo lập (trước đó) ở mỗi giống loài và tùy thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh, tình hình chuyển hóa môi trường sinh thái có tính đặc thù mà chúng sống trong đó. Điều đó giải thích vì sao loài hổ báo chỉ có thể tiến hóa- thích nghi theo hướng hoàn thiện kỹ năng, kỹ xảo săn bắt mồi bằng cách có được cơ bắp dẻo dai và đủ mạnh để chạy nhanh, có móng vuốt sắc để vồ chụp được con mồi, mà không thể tiến hóa-thích nghi theo hướng được trang bị tư duy trừu tượng. Đó cũng chính là nguyên nhân sâu xa làm xuất hiện loài tiền thân của loài người, không có sức mạnh, tốc độ di chuyển, sự sắc bén vượt trội của gân cốt, nanh vuốt nhưng bù vào, lại có một cảm giác vượt trội về khả năng gián giác để rồi từ đó tiến hóa thành loài biết nhận thức-loài người thực sự. 
Nếu cho rằng thiên nhiên, trong khả năng hạn định (tất nhiên) của nó, "ban cho" các giống loài động vật nói chung năm giác quan và bộ não để cho chúng có đủ năng lực cảm giác phục vụ cho hoạt động sinh tồn của chúng, thì việc thiên nhiên tạo điều kiện tăng cường tối đa năng lực gián giác trong cảm giác của loài người cũng không ngoài "mục đích" ấy. Nghĩa là một cách hoàn toàn tự nhiên, thiên nhiên không cần thiết và cũng không thể trực tiếp "trang bị" đến vô hạn độ khả năng cảm giác cho động vật cũng như cho con người, mà chỉ cần và cũng chỉ có thể thỏa mãn (với một mức độ hạn định) sự đòi hỏi tăng cường năng lực cảm giác (cũng bị khống chế đến một mức độ hạn định) của chúng, cốt sao cho đủ đáp ứng và đồng thời được "phân phối" có tính ưu tiên một cách phù hợp cho mỗi giác quan trong số năm giác quan nhằm đảm bảo hoạt động sinh tồn ở mỗi giống loài. Chính vì thế mà, xét riêng ở loài người, thiên nhiên chỉ có thể trực tiếp "giúp" con người có được cảm giác tương đối đặc thù (theo "tập quán" sống, phù hợp với lối sống của nó) và hạn định về hiện thực khách quan trong thiên nhiên, của thiên nhiên (chứ không phải trong toàn Vũ Trụ, của cả Vũ Trụ!!!). 
Thực ra, theo chúng ta quan niệm thì chỉ có thực tại tuyệt đối khách quan chứ không thể có hiện thực tuyệt đối khách quan, bởi vì sự "hiện ra" của thực tại khách quan bao giờ cũng phiến diện, méo mó, nghĩa là khi nói đến (khách thể) hiện thực thì cũng phải nói đến (chủ thể) giác hay cảm giác, và do bị "lũng đoạn" bởi sự hạn định tự nhiên cũng như tính đặc thù vốn có của giác hay cảm giác mà hiện thực đó đã "đượm màu chủ quan" mất rồi! Cho nên thuật ngữ "hiện thực khách quan" chỉ mang ý nghĩa tương đối thôi, và hiểu rằng nói đến hiện thực khách quan thì phải là hiện thực khách quan của chủ thể giác hay cảm giác nào đó và đồng thời trong một mức độ qui ước nhất định, chứ không thể "nói khơi khơi"!.

Tuy nhiên, dù không trực tiếp thì vì đã mở ra hướng đường cho loài người đến với tư duy sáng tạo và nhận thức để từ đó "tự thân" không ngừng học hỏi thiên nhiên, không ngừng sáng tạo ra các phương tiện hỗ trợ ngày một tinh nhạy nhằm nâng cao năng lực và trình độ cảm giác của mình lên tầm cảm giác hiện thực khách quan ngày một sâu rộng trong Vũ Trụ, của Vũ Trụ, cho nên cũng có thể nói thiên nhiên đã gián tiếp "tưởng thưởng" cho loài người một cảm giác thực sự siêu việt, để trên cơ sở đó không những có khả năng nhận thức triệt để thiên nhiên mà còn có khả năng nhận thức triệt để toàn bộ Tự Nhiên Tồn Tại.

Vậy thì rốt cuộc nên tin hay không tin vào sự kiểm nghiệm chân lý của thực tiễn? Nhưng nếu không tin vào thực tiễn, nhờ thực chứng để xác minh sự thật thì tin vào cái gì và nhờ cái gì đây khi suy lý cũng không đảm bảo chắc chắn được? Vì "rắc rối" ở chỗ là không có cảm giác thì không có nhận thức, cũng như nhận thức phải trên cơ sở cảm giác, và muốn nhận thức đúng trước hết phải có cảm giác đúng, nhưng không bao giờ có cảm giác tuyệt đối đúng. Muốn có cảm giác tuyệt đối đúng, không những lại phải cần đến tri thức (sự hiểu biết đã được quá khứ tích lũy) đúng, mà còn phải loại bỏ được sự lũng đoạn của tính chủ quan con người. Mà cảm giác và nhận thức ở người là những thứ đã bị khống chế bởi khả năng hạn định sinh học! Cho nên có lẽ phải vừa tin vừa không tin vào sự "mách bảo" của thực tiễn - thực chứng, nghĩa là tin trong cảnh giác, đồng thời "trước mắt" phải nhờ đến cả hai, thực chứng lẫn suy lý, để truy xét, tầm soát cái gọi là chân lý một cách lặp đi lặp lại cho đến khi đạt được sự đồng thuận cao nhất, và "sau đó" tiếp tục tin trên tinh thần sẵn sàng...không tin nữa và nỗ lực... nhận thức lại. Chứ còn có cách nào hay hơn nữa đâu!?... Ái chà chà!...
Có lẽ, để tiếp cận chân lý khách quan, dùng logic của triết học duy vật biện chứng vẫn chưa đủ!

(Còn tiếp)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét