Chủ Nhật, 19 tháng 7, 2020

TT&HĐ I - 10/m


                                   
[Triết học Mác - Lênin] Khái quát về Ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật

PHẦN I:     CÓ MỘT CÁI GÌ ĐÓ

“Tại sao có một cái gì đó chứ không phải là không có gì?”

CHƯƠNG X:  TRẦM TƯ MẶC TƯỞNG


"Dòng tư duy tiếp tục chảy; nhưng phần lớn các mảnh của nó rơi xuống vực thẳm không đáy của sự lãng quên. Với một số mảnh, không ký ức nào vượt qua được khoảng khắc chúng trôi qua. Với một số mảnh khác, chúng giới hạn trong một vài khoảng khắc, một vài giờ, hoặc một vài ngày. Lại có những mảnh để lại vết tích không thể xóa đi, và chúng có thể được nhớ lại chừng nào cuộc sống còn tiếp diễn." 
William James

"Có trí óc tốt vẫn chưa đủ, quan trọng là 
biết sử dụng nó." 
Rene Descartes

-Tự do, theo quan điểm siêu hình học của tôi, là quyền lực tự quyết trong một thực thể có tư duy. Nó đưa đến suy nghĩ, lựa chọn và sức mạnh.
-Hãy để trí óc con người tự do. Nó phải được tự do. Nó sẽ được tự do. Sự mê tín và giáo điều không thể giam cầm được nó.
John Adams
Người ta không lười biếng chỉ vì người ta chăm chú. Có lao động vô hình và lao động hữu hình. Suy tưởng là cần cù, nghỉ ngợi là thực hiện. Khoanh tay vẫn là làm việc và siết chặt tay vẫn là hành động. Đôi mắt ngước lên Thiên đường là sáng tạo.
Victor Hugo

Tư tưởng luôn luôn là sự khái quát, và sự khái quát là một thuộc tính của tư duy. Khái quát nghĩa là tư duy.
Hegel

Toán học thuần túy, theo cách của riêng nó, là thi ca của tư duy logic.
Albert Einstein 
Khi con người từ bỏ quyền tư duy, cái bóng cuối cùng của tự do biến mất khỏi chân trời.
Thomas Paine 
Không chịu suy xét là người mù quáng, không thể suy xét là người ngu xuẩn và không dám suy xét là người nô lệ.

Lord Byron 
Chẳng có gì tồi tệ hơn những hành động không có sự sáng suốt.

Thomas Carlyle 
Nhà tư tưởng mới chỉ là người không biết về những gì mà những nhà tư tưởng cũ đã suy ngẫm.
Frank Moore Colby

Lời nói đúng là những thứ không chắc chắn, chúng thường nghe hay ho lắm nhưng lại mang ý nghĩa đối lập với những gì người ta nghĩ.
Agatha Christie 





(Tiếp theo)



Từ ví dụ trên có thể suy ra vài điều sau đây.
Thứ nhất, chỉ xét trong khoảng thời gian diễn tiến va chạm, nếu coi con thuyền thứ ba là Trái Đất và hai con thuyền kia là hai hành tinh, và dù người quan sát từ Trái Đất tưởng Trái Đất đứng yên hay biết Trái Đất đang chuyển động, thì kết quả đo đạc và tính toán nhằm xác định vị trí (biểu kiến) tại thời điểm nào đó của hai hành tinh so với Trái Đất là không đổi (!). Đó là lời giải thích sự tương đồng nhau về kết quả tính toán giữa hệ Ptôlêmy và hệ Côpécnic, cũng như vì sao thực tế những tính toán đó không thể chỉ ra được Trái Đất đứng yên hay chuyển động.
Thứ hai, trong hiện thực khách quan đích thực (lấy ngọn hải đăng làm chuẩn mốc), việc tính toán chuyển động của hai con thuyền va chạm sẽ cho ra kết quả: hai tốc độ tổng hợp (tính theo giá trị tuyệt đối) trước và sau va chạm của hai con thuyền đó có giá trị bằng nhau nhưng tương phản nhau (trong trường hợp này, vì va chạm trực diện nên "gọi là" đồng phương, ngược chiều), không những thế, còn có thể suy ra, đó cũng là kết quả rút ra được từ đo đạc và tính toán trong hiện thực khách quan "riêng" của bất kỳ đoàn thủy thủ nào có mặt tại hiện trường không có ngọn hải đăng (!). 
Việc từ mọi quan sát-tính toán về cùng một sự kiện đều dẫn tới kết quả tối hậu duy nhất đã "tiết lộ" ra rằng kết quả tối hậu đó phải có tính khách quan tuyệt đối, nghĩa là nó phải là sự thể hiện nào đó về bản chất của thực tại khách quan. Đúng vậy! Hoàn toàn có thể rút ra được từ kết quả tối hậu ở đây (ít ra là) ba trong số các định luật cơ bản về chuyển động cơ học mà nhà vật lý thiên tài I. Niutơn đã thiết lập được, đó là định luật quán tính, định luật tác dụng tương hỗ, định luật bảo toàn động lượng, và theo quan niệm của chúng ta thì ba định luật đó chính là những thể hiện dưới dạng đặc thù hay cũng có thể được coi là những hệ quả của ba nguyên lý tổng quát và tuyệt đối khách quan (nhắc lại: nguyên lý tương tác, nguyên lý nhân quả và nguyên lý bảo toàn) về (của) Tự Nhiên Tồn Tại.
Thứ ba, suy lý mở rộng, triết học Mác về tự nhiên phát biểu ba luận điểm gồm "sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập", "lượng đổi chất đổi và ngược lại", "phủ định của phủ định", và cho rằng đó là ba qui luật cơ bản, phổ quát nhất, đóng vai trò nền tảng của vận động vật chất. 
 Nếu đúng thế thì vì Vũ Trụ là tuyệt đối thống nhất,  duy nhất, và vận hành một cách không lựa chọn, nên ba qui luật ấy phải có mối quan hệ bản chất với nhau, hơn nữa, không trực tiếp thì cũng gián tiếp, chúng phải có tác dụng mang tính "khống chế nghiêm ngặt" đến mọi sự vật-hiện tượng, mọi quá trình vận động, nghĩa là "hình bóng" hay "dấu vết" của chúng phải xuất hiện khắp nơi. Cho nên dứt khoát không những chúng không thể vắng mặt mà còn phải ở vị trí hàng đầu trong vật lý học, và để thế giới tồn tại như một thể thống nhất, thì chúng phải có nguồn gốc xuất phát từ một nguyên lý duy nhất (theo triết học duy tồn thì đó là nguyên lý Tự Nhiên) đóng vai trò "đầu mối" trong việc làm kim chỉ nam cho nghiên cứu vật lý nói riêng và khoa học nói chung, dù có thể dưới dạng phát biểu này hay dạng phát biểu khác. Do đó, từ trường hợp ví dụ đang xét hay từ ba định luật cơ học đã nhắc tới ở trên, cũng phải suy ra được sự tồn tại ba quy luật cơ bản của Mác. 
Ai suy ra được? Chúng ta thì... không! Nghĩa là chúng ta không thừa nhận sự tồn tại khách quan ba qui luật tự nhiên của triết học Mác, hay nói đúng hơn, chỉ có thể coi chúng là ba hình thức biểu hiện tương đối nổi trội của Tồn Tại và vận động được thấy (cảm giác) trong hiện thực ở phạm vi nhất định. Nếu lập luận đó là hợp lý, thì phải đi đến nhận định rằng, dù quan niệm về tự nhiên-xã hội của triết học duy vật biện chứng có đúng đến đâu chăng nữa thì vì phần triết học về tự nhiên của nó đã có sự ngộ nhận nghiêm trọng và sự ngộ nhận này gây không ít hệ lụy đến phần triết học về xã hội của nó (nên nhớ: xã hội thực ra cũng là tự nhiên!), cho nên phải đặt nó, tức toàn bộ triết học duy vật biện chứng, vào tầm nghi vấn và nhận thức lại xem mức độ đúng-sai của nó tới đâu, với bước đầu tiên dĩ nhiên là phải rà soát lại rất nhiều khái niệm "triết học" mà nó nêu ra.
Thứ tư, cũng là suy lý mở rộng, trong thực tại khách quan nhưng "ngoài" hiện thực (!), vì không tồn tại sự hồi ức nên cũng không tồn tại thứ gọi là "thời gian" (để mà "có" "sự trôi thời gian" cũng như "quá khứ" hay "tương lai"), và do đó, biến cố va chạm của hai con thuyền phải được nhận thức (một cách đúng đắn) là sự thực tuyệt đối và duy nhất đối với chính nó về không-thời gian. Hiện thực là biểu hiện của thực tại cho nên sự va chạm đó trong hiện thực cũng chính là biến cố xảy ra thực sự trong thực tại khách quan ( dưới dạng tạm gọi là "sự tương tác giữa hai thực thể năng lượng"!) và vì thế, nếu không có sự "che khuất" (cả chủ quan lẫn khách quan) nào ngăn cản, và đồng thời nếu có thể loại trừ tất cả những sai lạc do chủ quan cảm giác và nhận thức (dù có nguyên nhân chủ quan hay khách quan) gây ra, thì trong mọi hiện thực đều phải thấy nó xảy ra theo cùng qui luật và tại cùng một thời điểm, sao cho kết quả cơ học của chúng, khi qui về hiện thực khách quan đích thực chung thì như nhau. Trong ví dụ trên, giả sử quan sát từ thuyền thứ ba thấy rằng hai thuyền kia tiến đến nhau với tổng giá trị tuyệt đối về tốc độ (tốc độ rút ngắn khoảng cách giữa hai con thuyền) lớn hơn tốc độ truyền sáng trong chân không (tốc độ cực đại trong Vũ Trụ). Trên cơ sở đó đoàn thủy thủ ở thuyền thứ ba, trong hiện thực khách quan riêng của họ, sẽ tính ra được một tổng giá trị tuyệt đối về động lượng của hai con thuyền, mà nếu đem so với kết quả xác định trong hiện thực khách quan đích thực (có mốc không-thời gian là ngọn hải đăng), thì như nhau. Trong khi đó, đoàn thủy thủ ở một trong hai con thuyền tham gia va chạm xác định tốc độ rút ngắn khoảng cách giữa hai con thuyền và tổng giá trị tuyệt đối về động lượng là bao nhiêu? Theo Anhxtanh, tốc độ đó chỉ có thể nhỏ hơn hoặc (xấp xỉ) bằng tốc độ truyền sáng. Vì thời điểm va chạm là sự thực khách quan mang tính bất biến trong mọi hiện thực (vì đã loại trừ sự nhiễu loạn thời gian của hiệu ứng xa-gần!), cho nên để tương đồng về thời gian với quan sát trong hiện thực của đoàn thủy thủ trên thuyền thứ ba, thì khoảng cách giữa hai con thuyền tham gia va chạm, trong hiện thực của đoàn thủy thủ ở một trong hai con thuyền này phải bị "co rút" ngắn lại một cách tương ứng theo "sự giảm" tốc độ. Mặt khác, trong hiện thực khách quan riêng của đoàn thủy thủ này, tổng khối lượng của hai con thuyền cũng phải được thấy khác đi sao cho giá trị động lượng "ở đó" khi qui về trong hiện thực khách quan đích thực chung thì phải bằng giá trị động lượng được xác định trong hiện thực khách quan riêng của đoàn thủy thủ trên thuyền thứ ba. Nhưng sự "co rút" và "biến đổi" làm sao lại tự nhiên xảy ra được khi khoảng cách và tổng khối lượng không hề chịu bất cứ tác động nào từ bên ngoài chúng? Chỉ có thể là do sự "lũng đoạn" của tính chủ quan trong hiện thực và do đó, sự "co rút" cũng như "biến đổi" nói trên cũng chỉ là hình thức (nhưng là thứ hình thức có tính khách quan tương đối nên "tự nhiên tồn tại" trong quá trình nhận thức, không thể loại trừ được!). Tương tự như thế, không thể tin được trong thực tại khách quan, tính bất biến và cực đại của tốc độ truyền sáng lại như một lực lượng tồn tại thực sự, tác động gây co-giãn không-thời gian được, cho nên phải suy ra rằng sự co-giãn không-thời gian ấy chỉ có thể "xảy ra" trong hiện thực và cũng chỉ là kết quả của cảm giác, mang tính "tất yếu hình thức". Vậy phải chăng cũng nên "nhốt" luôn thuyết tương đối hẹp của Anhxtanh vào vòng nghi vấn để nỗ lực nhận thức lại?... (Kính thưa Mác và Anhxtanh, thời tuổi trẻ, chúng tôi vì tin tưởng hầu như tuyệt đối vào nhận thức của quí vị bởi tuyên truyền và ngây thơ nên cũng kính phục quí vị. Giờ đây, khi đã về già, coi như đã trải qua một đời chiêm nghiệm và gặp không ít "trục trặc" khi tìm cách giải thích những hiện tượng xảy ra trong hiện thực, trên cơ sở quan niệm tự nhiên - xã hội - khoa học của quí vị, nên trong chúng tôi đã bắt đầu nảy sinh những hoài nghi. Dù niềm tin vào quí vị đã có những rạn nứt thì lòng kính phục của chúng tôi đối với quí vị vẫn nguyên vẹn như ngày nào! Trong thời đại của quí vị, phải là bậc thiên tài mới có được quan niệm về tự nhiên tổng hợp mang tầm cao vợi vượt thời đại như thế. Chúng tôi, xét về trí tuệ, chỉ là lũ nhà quê có tầm học vấn... nông choẹt, nhưng lại có thuận lợi là "kẻ hậu sinh" trong tình thế "cờ ngoài, bài trong", vừa được quí vị dạy dỗ vừa thấy được nhiều điều mà quí vị không thể thấy vì bị...hạn chế thời đại của quí vị che khuất! Sự đam mê tìm hiểu vì sao Vũ Trụ lại phải như thế này chứ không thể như thế khác, trong điều kiện khó khăn và thuận lợi đó đã dần hun đúc trong chúng tôi một nhận định rằng, đã là chân lý khách quan và phổ quát thì phải hiển hiện ở khắp nơi chứ không phải chỉ "trú ngụ" ở những nơi phức tạp và cao siêu trong triết - khoa mà đám "hạ tiện" chúng tôi không thể với tới được, và rằng chân lý là giản dị và phải giản dị mới là chân lý đích thực. Nhận định đó đã trở thành niềm tin sắt đá làm nhẹ bớt sự sợ hãi trong chúng tôi nên chúng tôi mới dám "tả xung hữu đột" và mạo muội nêu ra ý kiến "phản nghịch" (dù có thể sai bét nhè!) như vậy. Biết làm sao được?! Thành thật xin lỗi quí vị, và đồng thời cảm ơn Arixtốt bởi câu nói bất hủ: "Thầy đã quí, chân lý còn quí hơn" !!!...)

Đến đây, có lẽ chúng ta đã "thấm thía" cái quan niệm "nắm bắt" chân lý nhờ cảm giác trực giác thuần túy của Charvaka là như thế nào rồi. Nhưng đúng là chẳng cái dại nào giống cái dại nào, đúng là "tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa"! Vì quá tò mò mà chúng ta tạm rời xa hiện tại-cuộc "ăn chơi" ở thế kỷ XXI, để "phi" về hiện thực thời cổ đại "nhòm ngang ngó ngửa", "bươi móc lung tung" cho thỏa chí tang bồng, nào ngờ những bí ẩn trong "đống tro tàn triết học" phát lộ ra, tỏa sức nóng hầm hập làm chúng ta... phát sốt đến độ "lảm nhảm hãnh tiến" và "hùng hục cắm đầu" cứ như nhà triết - vật (triết học kiêm vật lý học!) thứ thiệt, nên "vô tình" đã tự dựng lên một chướng ngại khổng lồ không thể có chướng ngại nào khổng lồ hơn trước mũi mình, "mở ra" nguy cơ nhãn tiền chấm dứt cuộc hành trình đi tìm cái gì đó của riêng mình. Nói toạc móng heo ra, chúng ta đã tự tạo ra tình huống thách thức, đối đầu với "cột sống" tri thức đương đại của loài người! Thế có "chết tiệt" không cơ chứ!... Làm sao vượt qua đây nếu không muốn quay về? Một lũ nhà quê lang thang lếch thếch, hở cơ là lại say mèm rồi mà đòi qua "đỉnh olympia" (của Đài truyền hình Việt Nam!) sừng sững về sự bảo thủ đến... gàn rở, ngất ngưởng "mút mùa lệ thủy" về sự khinh mạn đến mức... ương ngạnh, bất chấp tất cả (!), bỏ ngoài tai mọi phê bình chân thành, thì thật là điều quái lạ của những điều quái lạ! Không, chúng ta không thể chinh phục theo cách "leo trèo" đó, vì làm gì có "Đỉnh Olimpia" mà chinh phục (?), và vì muốn thế phải cần đủ bốn "chi", trong khi chúng ta chỉ có mỗi một "chi" để "nhảy lò cò" theo kiểu kenguru thôi! Cũng không thể theo cách "liều mình như chẳng có", chỉ tổ "nực cười châu chấu đá voi", "lấy trứng chọi đá" vô ích, hay "điên" hơn, theo kiểu "Tráng sĩ ra đi đầu không mọc tóc/Gương Kinh Kha in dội trong lòng" để rồi uổng mạng lãng nhách như... Kinh Kha! Đối với những kẻ kém mọn về trí tuệ, có vấn đề về tâm thần và yếu bóng vía như chúng ta mà muốn chinh phục được khối thành trì triết - toán - lý "chắc cú" thực chứng và "hùng hồn" suy lý gợi liên tưởng đến gã phì đại "vai u thịt bắp"... Himalaya, thì cách chinh phục "siêu" nhất là... đừng chinh phục gì cả, mà hãy len lỏi tìm lối "cưỡi ngựa xem hoa" vòng qua nó, bỏ nó lại phía sau, "tỉnh bơ" tiếp tục "lang thang" lên phía trước, cầu may có ngày diện kiến... Đấng Tạo Hóa, để hỏi "cho da nhẽ" tử huyệt hay "gót chân asin" của "ló"!...

Nói nôm na, trong khi loài vật chỉ phải (và chỉ biết!) đấu tranh sinh tồn trong môi trường thiên nhiên đơn thuần, thì có thể coi loài người cùng lúc phải đấu tranh sinh tồn trong cả hai môi trường tự nhiên và xã hội, hay nói cách khác, con người phải tham gia cuộc đấu tranh sinh tồn tổng hợp trên hai "mặt trận" là môi trường thiên nhiên và môi trường xã hội. 
Thuở đầu tiên trong tiến trình hình thành và tồn tại xã hội, khi tính xã hội còn nhạt nhòa, khi mối quan hệ gắn kết, vận động phụ thuộc lẫn nhau giữa các thành phần, các bộ phận nhân sinh hợp thành nội tại xã hội còn hời hợt, "lỏng lẻo", hoặc ''chỉ có'' tác động thuận, thì sự đấu tranh sinh tồn của con người trong môi trường xã hội cũng thể hiện nhạt nhòa, thiếu hẳn tính cạnh tranh, và hoạt động mưu sinh chính yếu vẫn là đấu tranh sinh tồn trong môi trường thiên nhiên. Dần dần, khi môi trường xã hội đã bị ý thức con người khuấy đảo mạnh mẽ, tạo ra những khác biệt đặc thù thành môi trường tương đối độc lập so với môi trường tự nhiên, khi chiến tranh chém giết lẫn nhau xuất hiện, thì coi như đã làm hình thành nên "mặt trận thứ hai" trong công cuộc đấu tranh sinh tồn của loài người. Quá trình vận động đi lên có tính xoay vần tự nhiên với các trạng thái thịnh-suy (trong mối so sánh tương đối với nhau) kế tiếp nhau, vừa (có lúc) là kết quả vừa (có lúc) là nguyên nhân của sự tồn tại tiến trình tinh tế hóa, sâu sắc hóa cảm giác hơn nữa ở con người, làm xuất hiện và duy trì hầu như thường xuyên trạng thái cảm giác cao độ gọi là cảm giác gián giác, tạo nên một lĩnh vực hoạt động tinh thần gọi là tình cảm (như yêu-ghét, hạnh phúc-khổ đau, chê khinh-tôn vinh,... ), coi như chỉ ở loài người mới có, nhất là khi đã xuất hiện sự tiêu dùng phi thực phẩm như một nhu cầu không thể thiếu trong xã hội, cũng như sự sản xuất, trao đổi và mua bán hàng hóa đã trở thành những ''nơi chốn'' mưu sinh thực sự của con người, đã làm cho cuộc đấu tranh sinh tồn trong môi trường xã hội dần trở nên nổi trội, thể hiện lấn át trong toàn cảnh mưu sinh của con người, và ngày nay như chúng ta cảm thấy, đấu tranh sinh tồn trong môi trường xã hội đã như một phương thức phổ quát và cơ bản trong việc duy trì cuộc sống ở mỗi con người nói riêng và đối với cả loài người nói chung, dù rằng trong sâu thẳm của thực tế, đấu tranh sinh tồn giữa loài người với thiên nhiên vẫn "âm thầm'' đóng vai trò nền tảng, cốt lõi, giềng mối...

Cùng trong một hiện thực khách quan, cùng bất mãn đối với hiện thực khách quan ấy, nhưng do có "khuôn khổ" hoàn cảnh và điều kiện sống tương đối khác nhau, nên nảy sinh ra hai cảm giác-nhận thức tương đối khác nhau, từ đó mà cũng xuất hiện hai mơ ước cụ thể, hai phản ứng về ''kiếp trần'', về ''quyền sống cơ bản'' tương đối khác nhau, tương phản nhau trước thời cuộc, dẫn đến hai thái độ, hai chủ trương sống đều có tính cực đoan nhưng ngược nhau, tương phản nhau. Trong khi chủ nghĩa duy vật-thực dụng Charvaka chủ trương: mục đích duy nhất của cuộc sống là hướng tới lạc thú trần tục cho nên hãy tận hưởng mọi niềm vui sướng ''trước mắt'' một khi có cơ hội, thì Kỳ Na Giáo chủ trương: tham sống là mù quáng, sát sinh và hưởng lạc là tội lỗi, hạnh phúc thực sự là sự giải thoát khỏi mọi cám dỗ, mê lầm nơi cõi thế, và chỉ có thể đạt được sau khi chết. Qua đó mà thấy, nếu Charvaka "kêu gọi" con người quay về lối sống thuần túy vật chất, phồn thực hồn nhiên, đáp ứng bản tính sinh vật (vì miếng ăn) vốn có, do đó mà có vẻ dễ dãi tầm thường, tha hóa, ''vui đâu chầu đấy'', ích kỷ, thì Kỳ Na Giáo "kêu gọi" con người hướng tới lối sống thuần túy tinh thần, tiết thực khiên cưỡng, triệt tiêu bản tính sinh vật vốn có, do đó lại có vẻ khắc kỷ phi phàm, thánh hóa, vô cảm. Đến thời Ấn Độ cổ đại của những Charvaka hay Kỳ Na Giáo, tâm tư tình cảm trong đại chúng nhân quần nói chung đã tiềm ẩn những ý nghĩ hun đúc nên chuẩn mực khách quan lẫn chủ quan về đạo đức (sự ứng xử hữu tình, hay, đẹp!) trong quá trình mưu sinh giữa môi trường xã hội. Theo chuẩn mực đạo đức đó, con người ta sống đâu phải chỉ đơn giản là hưởng thụ vật chất một cách tầm thường, tha hóa, bất chấp, ''chỉ biết mình'' như con vật, mà phải còn có cái tình cao cả (tình người, nhân hậu!) đối với đồng loại nữa, nhưng đến mức phải hy sinh tất cả cuộc sống của riêng mình, trái ngược với chính đòi hỏi tự nhiên của sự sống một cách quá quắt, quá ư hà khắc thì cũng thật... vô cùng khó khăn. Nghĩa là hai chủ trương về lối sống đó đều ''vi phạm'' ước vọng và tình cảm hồn nhiên, trong sáng của kiếp đời con người bình dị. Vì thế, cả hai chủ trương đó về lối sống của con người đều đã tỏ ra có phần không phù hợp với yêu cầu của văn hóa đại chúng dân gian Ấn Độ ngay từ thời kỳ đó, đòi hỏi cần có một chủ trương sống trung dung, bình giản, hợp lý hợp tình hơn, như nhiên hơn, mà cũng thanh thoát hơn, cao khiết hơn... Đó chính là yếu tố quan trọng hợp thành nguyên nhân cơ bản của sự ra đời luân lý Phật Giáo. Phật Giáo (các tôn giáo khác cũng vậy!), muốn tồn tại lâu dài và ảnh huởng sâu rộng trong lòng quần chúng, thì phải "đời thường hóa" những luật lệ khắc kỷ của nó. Đó là nguyên tắc! Và đó chính là một trong những biểu hiện hùng hồn cho tính không phải là chân lý khách quan của tôn giáo!

Theo truyền thuyết thì Đức Phật Thích Ca... Ô hô, mà... thôi!... .Thông cảm nhé, anh em!... Con tàu vượt thời gian kia rồi!... Dù còn rất xa, dù hình thù con tàu vẫn khuất tất, thì ánh sáng ''hiện đại'' chói lói, phản chiếu từ thân con tàu trong buổi sáng thu cổ đại đang vào trưa, làm cho con tàu như đã lồ lộ trước ''thanh thiên bạch nhật''... Vào thời đoạn mịt mùng trong binh đao rối loạn này mà hớ hênh thế thì thật nguy hiểm quá!... Vì vậy và cũng vì sự sốt ruột bấy lâu bỗng dưng bùng phát không kìm lòng được, chúng ta vội chạy như ''ma đuổi'' về phía (chắc như bắp là!!!) con tàu đang đậu...
Sau này, cứ nghĩ đến khuôn mặt nhăn nhó cùng với điệu bộ hối thúc, múa may loạn xạ của ông trưởng tàu, chúng ta lại bật cười khùng khục!...


***
(Còn tiếp)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét